Chiến dịch Đông Bắc Campuchia 1971 – Đòn giáng nặng nề thúc đẩy sự suy sụp của quân ngụy Sài Gòn.
Cùng với việc tập trung binh lực mở cuộc hành quân “Lam Sơn 719” đánh ra Đường 9 – Nam Lào, ngày 4-2-1971, Mỹ và ngụy Sài Gòn bắt đầu mở cuộc hành quân “Toàn Thắng 1-71” đánh vào vùng Đông Bắc Campuchia, nhằm bao vây tiêu diệt một bộ phận bộ đội chủ lực, cơ quan đầu não, phá hủy căn cứ, kho tàng và ngăn chặn từ xa các cuộc tiến công của ta vào miền Nam; yểm trợ cho Quân khu 1 Campuchia; tạo điều kiện thuận lợi bình định khu vực phía Đông Đường 1 và Đường 7; tìm kiếm một thắng lợi quân sự hòng trấn an bọn tay sai ở Phnôm Pênh.
Lực lượng địch tham gia cuộc hành quân gồm 3 sư đoàn bộ binh (3, 18 và 25), Lữ đoàn 3 Kỵ binh thiết giáp, Liên đoàn 3 Biệt động quân, lực lượng đặc nhiệm hải quân quân ngụy Sài Gòn, 12 tiểu đoàn pháo (216 khẩu từ 105mm đến 175mm), 5 thiết đoàn gồm hơn 400 xe tăng, xe thiết giáp. Ngoài ra, Mỹ còn huy động 5 tiểu đoàn bộ binh quân ngụy Lon Non và một lực lượng lớn không quân Mỹ chi viện.
Bộ đội ta hành quân tham gia chiến dịch năm 1971. Ảnh tư liệu |
Về ta, khi phát hiện địch mở cuộc hành quân quy mô lớn đánh ra vùng Đông Bắc Campuchia, Quân ủy và Bộ tư lệnh Miền quyết định tổ chức chiến dịch phản công nhằm đánh bại cuộc hành quân của chúng, tạo điều kiện thúc đẩy cách mạng miền Nam và cách mạng Campuchia tiếp tục phát triển lên một bước mới, bảo vệ kho tàng và tuyến hành lang vận chuyển chiến lược 559. Lực lượng ta tham gia chiến dịch có 3 sư đoàn bộ binh (5, 7 và 9), 2 trung đoàn pháo binh (75 và 96), 1 trung đoàn đặc công, 1 trung đoàn công binh, 3 đại đội độc lập (10, 20 và 30) của ba căn cứ. Chỉ huy chiến dịch ban đầu do Bộ tư lệnh Miền do đồng chí Trần Văn Trà làm Tư lệnh, trực tiếp chỉ huy chiến dịch; sau đợt 1 (ngày 4-3) thành lập Bộ Chỉ huy tiền phương của Miền để trực tiếp điều hành chiến dịch. Ngày 4-2-1971, chiến dịch mở màn và trải qua 3 đợt:
Đợt 1 (từ ngày 4-2 đến 4-3-1971), trên hướng chủ yếu, rạng sáng 4-2-1971, địch dùng Chiến đoàn 333 Biệt động quân từ Crêch – Can Dan – Chrum theo Đường 7 đánh chiếm Suông – Chúp, đồng thời dùng máy bay trực thăng đổ Tiểu đoàn 52 Biệt động xuống Nam sân bay Chúp, các đơn vị khác đánh chiếm Miết Noong, Phco, Đầm Be. Sư đoàn 9 của ta tổ chức lực lượng chặn đánh Chiến đoàn 333. Từ ngày 6 đến 7-2-1971, Trung đoàn 2 và 3 tập kích đánh thiệt hại Tiểu đoàn 38 Biệt động quân và Chi đội 3 thiết giáp địch ở Nam sân bay Chúp. Ngày 7-2-1971, Bộ Tư lệnh Chiến dịch quyết định tăng cường Trung đoàn 174 Sư đoàn 5 cho Sư đoàn 9, đồng thời yêu cầu các đơn vị chủ động tổ chức các trận đánh phủ đầu địch. Chiến đoàn 333 bị ta chặn đánh liên tục đã phải lui xuống Đường 7 và chuyển hướng tiến công sang tỉnh lộ 75. Trên các hướng khác, Chiến đoàn 9 của địch chiếm được sân bay Xnun, Chiến đoàn 225 chiếm được Công-pông Trạch, ta chặn đánh tiêu diệt một số sinh lực địch, bắn cháy 7 tàu chiến địch trên sông Mekong. Từ ngày 22-2-1971, địch sử dụng Chiến đoàn 3 Kỵ binh từ Đầm Be đánh chiếm Cầu Cháy, phối hợp với Chiến đoàn 5 đổ bộ đường không chiếm thị trấn Chlong, sau đó, Chiến đoàn 333 chuyển hướng tiến công sang tỉnh lộ 75 từ Đầm Be về Koursrôk để hỗ trợ Chiến đoàn 3 Kỵ binh.
Sau khi phân tích tình hình, Bộ tư lệnh Chiến dịch sử dụng 2 sư đoàn (7 và 9) phối hợp Trung đoàn 174 thực hành phản kích đánh vào sườn phía sau đội hình địch từ Oathơmay đến Cầu Cháy, chủ yếu là khu vực Tây Nam Đầm Be để chia cắt địch không cho chúng tiếp tế từ phía sau lên. Từ ngày 22 đến 24-2-1971, Sư đoàn 7 thực hành đánh chia cắt phía sau đội hình địch ở Nam Oathơmay, diệt nhiều sinh lực địch, các đơn vị khác đánh địch từ bắc Đầm Be đến Cầu Cháy, Chlong… Bị ta tiến công liên tục, từ ngày 3 đến ngày 5-3, địch buộc phải bỏ Đầm Be, Oathơmay rút về Koursrôk và từ Chúp về Khua – Pôna Rây để tổ chức giữ tuyến Đường 7. Ta kết thúc đợt 1 chiến dịch.
Đợt 2 (từ ngày 5-3 đến 16-4-1971), từ ngày 5-3, Bộ tư lệnh Chiến dịch tổ chức Bộ tư lệnh tiền phương (mật danh Đoàn 301) do đồng chí Trần Văn Trà làm Tư lệnh để trực tiếp chỉ huy các đơn vị đánh địch; điều chỉnh bố trí lại các sư đoàn ở khu vực Chúp, Mi Mốt, Xnun. Sau khi nắm tình hình địch, Bộ tư lệnh quyết tâm tập trung lực lượng đánh vận động bao vây tiến công tiêu diệt Chiến đoàn 3 Kỵ binh ở Tun Trea – Lung Miên; sử dụng Trung đoàn 141 Sư đoàn 7 làm nhiệm vụ ngăn chặn; Sư đoàn Bộ binh 9 đảm nhiệm tiến công hướng chủ yếu, Trung đoàn 174, Sư đoàn 5, Trung đoàn Pháo binh 28 tiến công hướng thứ yếu. Tối 27-3, các đơn vị bí mật chiếm lĩnh trận địa, hình thành thế bao vây khu vực Tun Trea – Lung Miên. Chiến đoàn 3 Kỵ binh tiến công Chúp bị ta chặn đánh quyết liệt phải rút lui qua khu vực cánh đồng trống Tun Trea – Lung Miên, Trung đoàn 141 tổ chức tiến công địch, nhưng do hiệp đồng không chặt chẽ, các mũi xuất kích chậm nên địch chạy thoát. Chiến đoàn 5 cũng bỏ chạy về Pôna Rây. Từ ngày 1 đến ngày 8-4, Trung đoàn 3, Sư đoàn 9 và Trung đoàn 174, Sư đoàn 5 chuyển sang bao vây tiến công quân Lon Non ở Cprút Xây, Rocathơm, Tômlêch, Miết Noong. Từ ngày 9 đến ngày 16-4, một số đơn vị ta tiếp tục vây đánh địch ở Pôna Rây – Cna, ngã ba Pra Theat, kết thúc đợt 2 chiến dịch.
Đợt 3 (từ 17-4 đến 31-5-1971), sau khi củng cố lại lực lượng, giữa tháng 5, địch triển khai 6 tiểu đoàn bộ binh, 1 thiết đoàn và 1 chi đoàn thiết giáp tiếp tục bám giữ tuyến Đường 7, đường và sông Tônglê Tốc. Sau khi nghiên cứu nhận định tình hình, Bộ tư lệnh Chiến dịch sử dụng Sư đoàn 5 và Sư đoàn 7 (thiếu), Trung đoàn Pháo 28 đánh địch trên hướng chủ yếu ở khu vực Xnun; Sư đoàn 9 (thiếu) tiến công khu vực sông Tônglê Tốc, các đơn vị còn lại đánh địch trên hướng Đường 7.
Trên hướng chủ yếu, các đơn vị triển khai vây ép các cụm quân địch ở Xnun. Do bị vây ép mạnh, lực lượng bị tiêu hao, ngày 30-5, Chiến đoàn 8 rút chạy theo Đường 13 về biên giới. Trung đoàn 174 và Trung đoàn 141 vận động tiến công đánh thiệt hại nặng Chiến đoàn 8 địch ở khu vực Xnun – Dốc Lu; Lữ đoàn 3 Kỵ binh thiết giáp lên ứng cứu cho Chiến đoàn 8 bị ta tiêu diệt 1 tiểu đoàn và một số xe, pháo. Trên hướng phối hợp, Sư đoàn 9 vây ép lực lượng quân đội Lon Non ở Côngpông Chàm, Prây Băng, Ampu, buộc địch phải điều 3 trung đoàn từ Tây sông Mekong sang giải vây. Trên hướng Đường 7, Trung đoàn Bộ binh 1 và Trung đoàn Bộ binh 209 thực hiện bao vây đánh nhiều trận nhỏ lẻ tiêu hao sinh lực, buộc địch phải bỏ Khna, ngã ba Pra Theat lui về Crêch.
Ngày 31-5-1971, chiến dịch kết thúc thắng lợi. Kết quả, ta tiêu diệt Chiến đoàn 8, một trung đoàn xe tăng, 6 chi đoàn thiết giáp, 2 chi đội xe tăng, 18 tiểu đoàn bộ binh và 1 tiểu đoàn pháo binh hỗn hợp, bắn rơi 238 máy bay, phá hủy 1.509 xe quân sự, 167 pháo; thu 34 xe quân sự, gần 2.000 súng các loại, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 20.000 quân địch.
Chiến dịch Đông Bắc Campuchia đã đánh bại cuộc hành quân “Toàn Thắng 1-71” của Mỹ và ngụy Sài Gòn, bảo vệ vững chắc khu căn cứ hậu phương trực tiếp của chiến trường miền Nam. Cùng với thắng lợi Đường 9 – Nam Lào, thắng lợi của chiến dịch Đông Bắc Campuchia đã thúc đẩy sự suy sụp của chính quyền và quân ngụy Sài Gòn, giáng một đòn nặng vào chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ, âm mưu dùng quân ngụy Sài Gòn thay quân Mỹ làm lực lượng nòng cốt trên chiến trường Nam Việt Nam và chiến trường Lào, Campuchia.
Thành công của chiến dịch đánh dấu sự trưởng thành của bộ đội chủ lực Miền trong tổ chức chỉ huy và thực hành chiến đấu hiệp đồng trong điều kiện địa bàn chiến dịch rộng, có nhiều đơn vị, binh chủng tham gia. Chiến dịch đã thể hiện nghệ thuật giành quyền chủ động tiến công địch ngay từ đầu, từ chủ động về chiến thuật sang chủ động về chiến dịch, từ phản công sang tiến công đánh bại hoàn toàn quân địch; vận dụng các hình thức chiến thuật chính xác, linh hoạt như tập kích, phục kích, vận động tiến công kết hợp chốt chặn, tiêu diệt đánh thiệt hại nặng từng chiến đoàn địch, bẻ gãy các cánh quân của địch trên hướng chủ yếu, cuối cùng chuyển sang bao vây tiến công tiêu diệt quân địch trên hướng thứ yếu để kết thúc chiến dịch.
Thiếu tá NGUYỄN VĂN TÙNG – Viện Lịch sử quân sự
Đọc bài gốc tại đây.