Hệ thống ngân hàng Mỹ sắp sụp đổ

Hệ thống ngân hàng Mỹ sắp sụp đổ. Nguy cơ sụp đổ của hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ cao hơn bao giờ hết kể từ cuộc Đại suy thoái.

Nguy cơ sụp đổ của hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ cao hơn bao giờ hết kể từ cuộc Đại suy thoái.

Nguy cơ sụp đổ của hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ cao hơn bao giờ hết kể từ cuộc Đại suy thoái.

Hệ thống ngân hàng Mỹ sắp sụp đổ.  Nguy cơ sụp đổ của hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ cao hơn bao giờ hết kể từ cuộc Đại suy thoái. Những lý do tại sao tình hình ở Mỹ lại tồi tệ đến vậy.

Tác giả Tuomas Malinen là Giám đốc điều hành và nhà kinh tế trưởng tại GnS Economics. Một công ty tư vấn kinh tế vĩ mô có trụ sở tại Helsinki, đồng thời là phó giáo sư kinh tế. Ông đã nghiên cứu tăng trưởng kinh tế và khủng hoảng kinh tế trong 10 năm. Trong bản tin của mình ( MTMalinen.Substack.com ), Malinen đề cập đến việc dự báo và cách chuẩn bị cho cuộc suy thoái và cuộc khủng hoảng đang đến gần.

1. Cơ quan chức năng làm loạn

Các ngân hàng hiện cũng đang bị ảnh hưởng bởi sự sụt giảm nghiêm trọng về giá trị trái phiếu chính phủ mà họ sử dụng làm tài sản thế chấp. Những điều này có thể dễ dàng dẫn đến tổn thất hàng loạt cho các ngân hàng, có thể với tốc độ, kích thước và chiều rộng chưa từng thấy trước đây.

Cơ quan quản lý toàn cầu của các ngân hàng thương mại là Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng (BCBS), hoạt động dưới sự quản lý của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế, hay BIS. BIS thường được gọi là “ngân hàng trung ương của các ngân hàng trung ương” vì nó cũng cung cấp hướng dẫn cho các ngân hàng trung ương.Sau cuộc Đại khủng hoảng tài chính, Ủy ban Basel đã ban hành bộ quy tắc thứ ba, hay bộ biện pháp được quốc tế thống nhất dành cho các ngân hàng được gọi là Basel III. 

Khái niệm mang tính đột phá nhất và cũng có tính hủy diệt nhất là việc tạo ra Tỷ lệ đảm bảo thanh khoản, hay LCR. Nó nhằm đảm bảo “các ngân hàng nắm giữ đủ tài sản lưu động để ngăn chặn các ngân hàng trung ương trở thành người cho vay đầu tiên”, theo tuyên bố của Nhóm Thống đốc và Giám sát Ngân hàng Trung ương (GHOS), một cơ quan giám sát của Ủy ban Basel về Ngân hàng. Giám sát: Các quy tắc thanh khoản của Ủy ban Basel đã đặt Kho bạc Mỹ vào danh mục tài sản có tính thanh khoản an toàn nhất, có nghĩa là chúng không bị ‘cắt tóc’ về giá trị khi các ngân hàng giữ chúng trong bảng cân đối kế toán của mình.

FED và LCR

Mặc dù Cục Dự trữ Liên bang vẫn chưa thực hiện đầy đủ các quy tắc LCR nhưng họ đã đưa ra thông báo trước về quy định này vào tháng 10 năm 2013 , với thời gian chuyển tiếp được đề xuất kéo dài từ ngày 1/1/2015 đến 1/1/2017. Mặc dù LCR chưa được thực hiện đầy đủ trong Tại Mỹ. Nhưng các ngân hàng biết rằng các quy tắc LCR cuối cùng sẽ được ban hành. 

Hơn nữa, khuôn khổ Basel II, được triển khai tại Hoa Kỳ vào năm 2008, đã đặt ra các trọng số rủi ro khác nhau đối với vốn ngân hàng, chẳng hạn như Kho bạc Mỹ có trọng số rủi ro thấp nhất. Những hướng dẫn này do Ủy ban Basel đặt ra và được Cục Dự trữ Liên bang thực thi, về cơ bản có nghĩa là Trái phiếu Kho bạc được ưu tiên sử dụng làm vốn ngân hàng, bên cạnh tiền mặt và dự trữ ngân hàng trung ương.

Vì vậy, vì tiền mặt và tiền xu cũng như dự trữ của ngân hàng trung ương đang ở tình trạng nguồn cung tương đối thiếu hụt và nằm trong sự kiểm soát hoàn toàn của ngân hàng trung ương, các ngân hàng Hoa Kỳ đã tích trữ Kho bạc. Ví dụ, đây là những gì SVB đã làm. Nghĩa là, họ mua trái phiếu Kho bạc Mỹ để đối trọng với rủi ro do dòng tiền gửi lớn đổ vào. Ban lãnh đạo SVB đã thực hiện một cách hiệu quả những gì chính quyền mong muốn và kết quả là ngân hàng đã thất bại.

Tiền gửi quá mức

Cơ sở tiền gửi của Mỹ đã thay đổi khá mạnh mẽ trong ba năm qua. Điều này đặc biệt áp dụng cho các khoản tiền gửi không kỳ hạn có thể rút dễ dàng, bao gồm các tài khoản có thể rút tiền mà không cần thông báo trước.

Lý do dẫn đến sự gia tăng chóng mặt về tiền gửi không kỳ hạn từ năm 2020 đến năm 2022 là gì? Sự kết hợp giữa các biện pháp khóa Corona, kiểm tra kích thích và kích thích tiền tệ lớn của Cục Dự trữ Liên bang. Khi nền kinh tế Mỹ bị đóng cửa nhiều lần trong năm 2020 và 2021, người dân có rất ít lựa chọn để sử dụng tiền của mình, tức là để tiêu dùng. Do đó, các tấm séc kích thích do chính phủ Mỹ phát hành hầu như không được sử dụng và tích lũy vào tài khoản của các hộ gia đình, trong khi các ngân hàng phát hành số tiền lớn cho các tập đoàn vay. 

FED in tiền vô tội vạ

Ngoài ra, Fed đã thực hiện hoạt động ‘ in tiền ‘ lớn nhất từ ​​trước đến nay vào mùa xuân năm 2020, khiến bảng cân đối kế toán của họ tăng từ khoảng 4 nghìn tỷ lên hơn 7 nghìn tỷ USD chỉ trong bốn tháng! Lượng tiền lưu thông ở Mỹ bùng nổ.

Con số thể hiện các cuộc suy thoái của Mỹ và tổng lượng tiền M2, bao gồm tiền tệ đang lưu hành, nhu cầu và các khoản tiền gửi có thể kiểm tra khác, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn mệnh giá nhỏ và số dư trong các quỹ thị trường tiền tệ bán lẻ tính bằng tỷ đô la Mỹ. (GnS Economics / St. Louis Fed / NBER)

Lượng tiền trong lưu thông tăng mạnh đã gây ra lạm phát khi nền kinh tế mở cửa. Điều này buộc Fed phải bắt đầu chu kỳ tăng lãi suất tích cực nhất từ ​​trước đến nay. Chỉ trong hơn một năm, Lãi suất Quỹ Liên bang đã tăng từ 0,08% lên hơn 5%. Đương nhiên, lợi tức của Kho bạc Mỹ cũng theo sau. Vấn đề đối với các ngân hàng là lợi suất và giá trái phiếu có mối quan hệ nghịch đảo. Lợi suất càng cao thì giá trái phiếu càng thấp và ngược lại. Đây là một phần tuyệt vời về toán học định giá trái phiếu.

Hậu quả của tăng lãi suất

Sự gia tăng cực nhanh chóng của lãi suất Kho bạc là một thảm họa đối với các ngân hàng. Lãi suất trái phiếu Kho bạc kỳ hạn 2 năm của Mỹ đã tăng lên 20 lần chỉ sau hai năm. Điều này có nghĩa là giá trị của trái phiếu cơ bản bị sụt giảm. Các ngân hàng mua lại Trái phiếu Kho bạc với lãi suất gần bằng 0 (với giá trái phiếu rất cao) phải chịu tổn thất nặng nề. Những khoản này được dán nhãn là “lỗ chưa thực hiện”. Bởi vì các ngân hàng coi Trái phiếu Kho bạc là tài sản nắm giữ đến ngày đáo hạn. 

Điều này có nghĩa là các ngân hàng giữ chúng đến ngày đáo hạn. Sau đó Kho bạc trả lại tiền gốc của trái phiếu và trả lãi. Vì vậy, chúng không phải là “lỗ thực sự”. Trừ khi ngân hàng buộc phải bán Trái phiếu kho bạc trước khi chúng đáo hạn. Đây chính xác là những gì đã xảy ra. Mỹ đã rơi vào tình trạng hoạt động ngân hàng ‘im lặng’ kể từ mùa hè năm 2022. Khi người gửi tiền bắt đầu rút tiền gửi và gửi chúng. Ví dụ: vào các quỹ thị trường tiền tệ bán lẻ mang lại lợi suất cao hơn ngân hàng. Vào tháng 3, điều này đã leo thang thành một thói quen. 

Bán tháo trái phiếu

Hoạt động gửi tiền đã đốt hết tiền mặt và tài sản dễ dàng thanh lý của nhiều ngân hàng. Buộc họ phải bán Kho bạc với mức lỗ đáng kể. Tin tức lan ra rằng SVB đã bị lỗ nặng từ việc bán hàng như vậy. Nó dẫn đến sự hoảng loạn xảy ra sau đó.

Người ta ước tính rằng vào cuối năm 2022. Các ngân hàng Mỹ đang gánh khoản lỗ chưa thực hiện trị giá gần 2 nghìn tỷ USD . Khoản lỗ khổng lồ chưa thực hiện là một lý do khiến làn sóng chạy đua trên SVB lan rộng. Nó buộc chính quyền Mỹ phải can thiệp mạnh mẽ.

3. Cơ quan chức năng hoảng loạn

Cuộc tháo chạy SVB bắt đầu vào thứ Sáu ngày 10/3/2023 và vào Chủ nhật 12/3/2023. Chính quyền Mỹ kết luận rằng có nguy cơ xảy ra một cuộc tháo chạy ngân hàng trên toàn quốc. Để ngăn chặn nó, họ đã nghĩ ra một chiến lược đặc biệt gồm ba bước.

Đầu tiên, một tuyên bố chung từ Bộ Tài chính, TCT Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang (FDIC) và Fed. Thông báo tất cả tiền gửi của người gửi của SPV và Ngân hàng Signature đều được đảm bảo. 

Thứ hai, Cục Dự trữ Liên bang đã cung cấp thanh khoản trị giá 300 tỷ USD vào hệ thống và thông báo rằng họ sẽ cung cấp “nguồn vốn bổ sung” cho tất cả các ngân hàng trong Chương trình cấp vốn có kỳ hạn ngân hàng, hay BTFP. 

Thứ ba, trong một động thái cực kỳ đặc biệt. Tổng thống Biden đã xuất hiện trên truyền hình quốc gia để đảm bảo rằng. Tiền gửi tại các ngân hàng Mỹ được an toàn. Sự kết hợp giữa những hành động nhanh chóng và đặc biệt về cơ bản đã xác nhận rằng. Mỹ đang đứng trước nguy cơ xảy ra một cuộc tháo chạy ngân hàng trên toàn quốc.

Thất bại của Credit Suisse

Ở châu Âu, các vấn đề ngân hàng nổi lên sau sự thất bại của Credit Suisse. Việc “sáp nhập” của Credit Suisse và một ngân hàng Thụy Sĩ khác, UBS, đã làm dịu đi mọi thứ. Nhưng thực chất là một đám cưới súng ngắn do chính quyền Thụy Sĩ chỉ đạo. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng lại tái diễn với sự phá sản của một ngân hàng khu vực khác của Mỹ, Ngân hàng First Republic. Số phận của nó cung cấp những manh mối quan trọng về nơi mà cuộc khủng hoảng sắp tới.

Thanh khoản và các khoản vay

BTFP đã trở thành một thứ gì đó giống như ‘kế hoạch bảo đảm tiền gửi’ với số lượng khoản vay 1 năm mà các ngân hàng Hoa Kỳ tìm kiếm từ Cục Dự trữ Liên bang đang tăng lên mỗi tuần, nhưng may mắn là lại giảm xuống . Chương trình dự kiến ​​kết thúc vào ngày 11/3/2024. Nhưng gần như chắc chắn nó sẽ được kéo dài đến tương lai không thể đoán trước.

Có giới hạn liên quan đến số tiền cho vay mà ngân hàng có thể nhận được thông qua BTFP. Các ngân hàng cần thế chấp tài sản thế chấp, tài sản có tính thanh khoản (trái phiếu Kho bạc, v.v.) để đổi lấy khoản vay, điều mà nhiều ngân hàng có số lượng hạn chế. Đặc biệt là các ngân hàng nhỏ hơn có xu hướng đi theo mô hình ngân hàng truyền thống. Trong đó dòng tiền gửi vào được cân bằng trong bảng cân đối kế toán của họ bằng cách phát hành các khoản vay.

Ví dụ của First Republic Bank

Ví dụ, Ngân hàng First Republic chỉ có thể mua lại 13 tỷ USD từ BTFP. Vì ngân hàng này chủ yếu nắm giữ các khoản vay dưới dạng tài sản. Trong khi SVB mua lại Kho bạc để cân bằng dòng tiền gửi vào. Than ôi, cả hai chiến lược đều dẫn đến sự thất bại của các ngân hàng. Điều này gửi đi một cảnh báo nghiêm trọng về tình trạng của hệ thống ngân hàng khu vực Mỹ. Về cơ bản, cả mô hình ngân hàng truyền thống (cho vay bằng tiền gửi) và mô hình được chính quyền thúc đẩy (mua lại Kho bạc) đều trở thành ‘bẫy tử thần’ đối với các ngân hàng.

Trong khi thanh khoản tổng thể trong hệ thống ngân hàng Mỹ tăng lên từ quý 1 đến quý 2. Độ phân tán (độ lệch chuẩn) của nó cũng tăng lên. Điều này có nghĩa là có nhiều ngân hàng Mỹ có bộ đệm thanh khoản nhỏ hơn. Do đó có nguy cơ phá sản vào cuối quý 2 cao hơn so với cuối quý 1. Việc so sánh lịch sử về tình hình hiện tại của các ngân hàng Mỹ cũng gửi đi lời cảnh báo về nguy cơ sụp đổ hoàn toàn của ngành ngân hàng.

Sự sụp đổ trong lịch sử

Năm 1984, Continental Illinois National Bank and Trust là ngân hàng thương mại lớn thứ bảy của Mỹ. Nó đã phá sản do các khoản nợ xấu mà ngân hàng này mua được từ Ngân hàng Penn Square. Kết quả là ngân hàng này bị mất 30% số tiền gửi. 

Dựa trên dữ liệu vào cuối quý 2. Gần 2800 ngân hàng (trong số 4642 ngân hàng nhận tiền gửi bán lẻ), có khả năng sụp đổ. Nếu họ phải đối mặt với đợt giảm tiền gửi tương tự đã lật đổ Continental Illinois. 

Cần lưu ý, hoạt động trên SVB là 87%, Silvergate 52% và Signature Bank 29% số tiền gửi của họ. Các ngân hàng khu vực nhỏ hiện đang nắm giữ phần lớn các khoản cho vay bất động sản. Gần 2000 tỷ USD. Ở các ngân hàng địa phương. Các khoản cho vay như vậy đã tăng 35% kể từ đầu năm 2020 và tăng tới 147%. So với khi chạm đáy vào tuần cuối cùng của năm 2011.

Ngày tận thế

Như chúng ta đã biết, nhiều thành phố của Hoa Kỳ đang trong tình trạng ‘Ngày tận thế bán lẻ’. Nó có thể trở nên tồi tệ hơn nhiều khi suy thoái xảy ra. Khả năng này là rất gần. Sự thất bại của FRB đã cho thấy, các ngân hàng không thể thanh lý các khoản vay này. Ngoại trừ những điều kiện rất hạn chế của cơ chế chiết khấu của Fed.

Và, vấn đề đang cấp bách. Ví dụ, danh mục cho vay của First Republic Bank bao gồm 80% các khoản cho vay bất động sản. Nó đã thua lỗ từ danh mục cho vay của mình. Nhưng chỉ có bộ đệm thanh khoản rất hạn chế để chống lại dòng tiền gửi ra ngoài. FRB đã thất bại. Hàng trăm ngân hàng Mỹ có tỷ trọng cho vay bất động sản trong danh mục cho vay của họ cao hơn những gì Đệ nhất Cộng hòa có. 

Hơn nữa, hàng nghìn ngân hàng Mỹ không thể đối phó với tình trạng tiền gửi mà Continental Illinois phải đối mặt. Các khoản lỗ cho vay tích lũy trong bảng cân đối kế toán của các ngân hàng có thể (có khả năng) gây ra một đợt tháo chạy ngân hàng nghiêm trọng hơn, khiến hàng loạt ngân hàng Mỹ phá sản. Chúng ta đang tiến tới sự sụp đổ hoàn toàn của hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ.

  minh91 lược dịch từ https://www.theepochtimes.com/article/the-coming-collapse-of-the-u-s-banking-system-5495376?utm_source=mixi

Lời biên tập

Bài viết quá dài và nhiều thuật ngữ tài chính phức tạp làm người đọc khó hiểu. Với tư cách người đăng bài thì mình hiểu như sau.

Năm 2020, do covid nhưng theo mình là thất bại trong cuộc chiến tranh thương mại với Trung Quốc. FED đã in tiền vô tội vạ. Trong 4 tháng, 7000 tỷ USD đã được cung ra thị trường. Để ngăn số tiền được in ra gây lạm phát. Chính phủ lấy lý do covid và cách ly kinh tể để số tiền đấy nằm trong các ngân hàng. Mỹ tính toán sau khi mở cửa kinh tế sẽ đẩy số tiền ra thanh toán quốc tế. Một cách xuất khẩu lạm phát thường làm của Mỹ.

Nhưng cuộc chiến tranh Ucraina xảy ra, Nga bị cắt khỏi hệ thống SWIFT. Hàng nghìn tỷ USD thanh toán quốc tế dựa trên số hàng hóa của Nga bị chặn lại. Nga đồng thời tăng cường quá trình phi Đô la hóa. Kế hoạch xuất khẩu lạm phát của Mỹ phá sản.

Để đối phó lạm phát, FED buộc phải tăng lãi suất để hút bớt tiền về. Các ngân hàng Mỹ gặp thảm họa do cơ cấu LCR coi trái phiếu kho bạc Mỹ như tiền. Bình thường, khi thiếu tiền mặt chi trả, các ngân hàng Mỹ chỉ việc bán trái phiếu kho bạc Mỹ. Số tiền thu được thường tương đương số tiền bỏ ra mua trái phiếu kho bạc.

Nhưng lần này, do FED tăng lãi suất, trái phiếu kho bạc Mỹ cũng tăng lãi suất. Chỉ trong thời gian ngắn, trái phiếu kho bạc Mỹ tăng lãi suất 10 lần. Điều này làm giảm giá các trái phiếu kho bạc Mỹ trong giai đoạn trước.

Do vậy, trước sức ép rút tiền ồ ạt khỏi ngân hàng. Các ngân hàng chỉ có 2 lựa chọn, bán lỗ trái phiếu lấy tiền chi trả hoặc mất khả năng thanh toán.

4.9 22 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
8 Góp ý
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
8
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x