Notifications
Clear all

Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn góp phần giải phóng Trung Quốc (1949).

3 Bài viết
1 Thành viên
8 Reactions
290 Lượt xem
quangsot
(@quangsot-2-2-2-2-2-2-2-2-2-2-2-2-2-2)
Lão niên
Cú nhóm giường bệnh
Được ưa thích
Khá giả rank 1
Tài sản: 177428.42
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 10197
Topic starter  
wpf-cross-image

Đánh thắng quân Tưởng Giới Thạch trong Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn, góp phần vào việc thành lập nước CHND Trung Hoa (1-10-1949), Quân tình nguyện Việt Nam đã nêu tấm gương trong sáng về tinh thần quốc tế vô sản cao cả, được nhân dân Trung Quốc quý mến.

Bộ Tư lệnh khu Thập Vạn Đại Sơn

Thập Vạn Đại Sơn là một dãy núi non trùng điệp hùng vĩ ngăn đôi hai tỉnh Quảng Tây và Quảng Đông của Trung Quốc. Đầu năm 1948, đồng chí Trang Điền được chỉ thị của đồng chí Chu Ân Lai sang Việt Bắc gặp các đồng chí lãnh đạo nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí trong Thường vụ Trung ương Đảng đã tiếp phái viên Trang Điền ở Lục Giã (Thái Nguyên).

Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể lại trong hồi ký "Chiến đấu trong vòng vây" về sự kiện này như sau: "Đồng chí Trang Điền thông báo tình hình chiến tranh giải phóng ở Trung Quốc. Quân Tưởng tăng cường càn quét những lực lượng vũ trang cách mạng ở Hoa Nam để củng cố hậu phương. Những đơn vị du kích của bạn đang gặp khó khăn và thiếu lương thực. Bác và chúng tôi bàn với phái viên của bạn về sự phối hợp chiến đấu, giúp đỡ lẫn nhau giữa hai quân đội cách mạng".

Sau đó, Bộ chỉ huy chiến dịch chung được thành lập như sau: Đồng chí Lê Quảng Ba (sau này là Trung tướng), làm Tư lệnh chiến dịch; đồng chí Trần Minh Giang, cán bộ của Quân giải phóng Trung Quốc, làm Chính trị ủy viên. Bộ chỉ huy chiến dịch lấy phiên hiệu là Bộ Tư lệnh khu Thập Vạn Đại Sơn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn Tư lệnh Lê Quảng Ba: "Cẩn thận, bí mật, đoàn kết, hữu nghị, thắng lợi".

Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn chia làm hai mặt trận. Mặt trận thứ nhất là Điền Quế do đồng chí Nam Long (sau này là Trung tướng) làm chỉ huy trưởng; đồng chí Hoàng Bình, cán bộ Quân giải phóng Trung Quốc làm chỉ huy phó; đồng chí Đỗ Trình (sau này là Trung tướng) làm chính trị viên.

Mặt trận thứ hai là Long Châu, do đồng chí Thanh Phong, Phó tư lệnh Liên khu 1, làm Tư lệnh; đồng chí Chu Huy Mân (sau này là Đại tướng), Trung đoàn trưởng Trung đoàn 74 và đồng chí Long Xuyên (sau này là Đại tá), Trung đoàn trưởng Trung đoàn 28 làm Phó tư lệnh.

Đầu tháng 6/1949, bộ đội ta xuất phát theo hai hướng: Một hướng từ Cao Bằng, Lạng Sơn vượt biên giới sang khu vực Long Châu; một hướng từ Lạng Sơn, Hải Ninh (nay là tỉnh Quảng Ninh) sang khu vực Khâm Châu, Phòng Thành.

Trước khi đoàn lên đường sang Thập Vạn Đại Sơn giúp bạn, tháng 5/1949 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn đồng chí Tư lệnh chiến dịch Lê Quảng Ba với dòng chữ tự tay Người viết: "Cẩn thận, bí mật, đoàn kết, hữu nghị, thắng lợi".

Mặt trận phía tây Thập Vạn Đại Sơn

Khu Long Châu là một trong 14 khu quân sự của Quốc dân đảng Trung Quốc tại tỉnh Quảng Tây do hai trung đoàn bảo an, một số đội cảnh vệ, tuần sát, dân đoàn ở các huyện đóng giữ. Ngoài ra còn có lực lượng của địa chủ có vũ trang ở các hương (xã) bổ sung.

"Trong cuộc chiến đấu này, cánh quân của chúng tôi đã có 18 cán bộ, chiến sĩ anh dũng hy sinh và mấy chục anh em bị thương vì nghĩa vụ quốc tế cao cả. Những người hy sinh được bạn và ta tổ chức an táng theo nghi lễ quân đội Trung Quốc, linh cữu được phủ lá cờ đỏ búa liềm có tiêu binh. Nơi an nghỉ của các chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam nằm bên bờ sông Tả Giang" - Đại tướng Chu Huy Mân.

Mặt hướng tây Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn tiến đánh Long Châu do Đại tá Thanh Phong làm Chỉ huy trưởng, Hoàng Long Xuyên làm Phó Tư lệnh, Chu Huy Mân làm Chính ủy.

Lực lượng quân tình nguyện Việt Nam tham gia phối hợp chiến đấu gồm có: Tiểu đoàn 73 thuộc Trung đoàn 74 (Liên khu 1), Tiểu đoàn 35 thuộc Bộ Tổng tư lệnh, Đại đội 506 sơn pháo 75 ly, một đại đội trợ chiến và bộ đội thông tin, quân y. Các lực lượng trên được tổ chức thành Chi đội 28.

Ngoài ra còn hai đại đội địa phương của huyện Thoát Lãng và Văn Uyên. Quân tình nguyện Việt Nam lấy danh nghĩa là Giải phóng quân khu Tả Giang, Tiểu đoàn 73 được gọi là Đoàn 25, Tiểu đoàn 35 được gọi là Đoàn 35. Lực lượng Giải phóng quân Trung Quốc có hai đại đội và một số đội vũ trang công tác.

Sau này, Đại tướng Chu Huy Mân kể lại trong Hồi ký: "Trước khi xuất kích vượt biên giới theo thỏa thuận với Quân khu Tả Giang - Long Châu, chúng tôi cấp cho mỗi cán bộ chiến sĩ một tấm quân hiệu bằng vải màu vàng in chữ Trung Quốc màu đỏ: "Trung Quốc nhân dân giải phóng quân - 35Đ" gài trên ngực áo. Tôi nói với anh em:

- Từ giờ phút này trở đi, chúng ta chiến đấu trên chiến trường Trung Quốc với danh nghĩa Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, các đồng chí phải làm đúng 10 lời thề và 12 điều răn của Bác Hồ.

Gặp Phó Tư lệnh Hoàng Long Xuyên

Thật may mắn cho chúng tôi khi được gặp Đại tá Hoàng Long Xuyên, Phó Tư lệnh mặt trận phía tây của Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn.

Đại tá Hoàng Long Xuyên (2019).

Người lính già đã 103 tuổi, song ông vẫn rất minh mẫn nhớ đến chiến dịch và những đồng đội cũ, đặc biệt ông nhớ đến Ngọc Trình, người đại đội trưởng đã hy sinh và nằm lại bên đất Trung Quốc.

Mũi chỉ huy của Phó Tư lệnh Hoàng Long Xuyên có hai đại đội độc lập của Văn Uyên và đại đội độc lập Thoát Lãng. Nhiệm vụ của cánh quân này là đánh sang Bằng Tường, Ninh Minh giáp huyện Thoát Lãng, Văn Uyên, tỉnh Lạng Sơn. So với toàn bộ Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn thì hướng này gặp khó khăn, phức tạp hơn, vì ở đây ta vừa phải chống Pháp đang đóng ở một số đồn biên giới, vừa phải chặn đám tàn quân Tưởng chạy sang phía đồn Pháp, vừa phải dẹp bọn thổ phỉ còn đang ẩn núp và phá rối ở địa phương.

"Vào trung tuần tháng 5 năm 1949, đồng chí Thanh Phong gặp tôi giao nhiệm vụ: "Có chỉ thị đặc biệt của anh Văn, mở một chiến dịch đặc biệt giúp bạn. Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc yêu cầu ta giúp bạn mở rộng một khu giải phóng và giao cho đồng chí Ké Lộc. Cơ sở ở đây ít lắm. Anh có trách nhiệm chỉ huy một mũi, lấy lực lượng của địa phương Lạng Sơn từ 2 đến 3 đại đội.Trách nhiệm của anh đánh từ mục Nam Quan xuống Bằng Tường, Thượng Thạch, Hạ Thạch, rồi đến Ninh Minh. Anh là Phó chỉ huy Mặt trận phía Tây Thập Vạn Đại Sơn trực tiếp chỉ huy mũi này. Anh sẽ gặp cánh quân của anh Chu Huy Mân ở huyện lỵ Ninh Minh. Anh Mân sẽ đánh từ Thủy Khẩu, rồi thọc xuống Hạ Đống, rồi gặp anh ở Ninh Minh" (Đại tá Hoàng Long Xuyên).

Đêm 12-5-1949, bộ đội của Lạng Sơn vượt biên giới tiến sang. Ngày 13-6-1949 đánh đồn Hạ Đống trên đất Long Châu, Trung Quốc.

Theo kế hoạch "vây điểm diệt viện", một đại đội của ta vây đồn Nam Quan. Đại đội thứ hai và trung đội hỏa lực phục kích trên đường từ Nam Quan đến Bằng Tường cách nhau 15km.

Đồn Nam Quan bị vây chặt gần một tuần. Không còn gì ăn, quân Tưởng buộc phải rút lui, nhưng bị ta chặn đánh, lại phải co vào đồn. Khoảng 8 giờ sáng hôm sau, hai đại đội quân Tưởng ở Bằng Tường đi cứu viện lọt vào trận địa ta tổ chức tại đoạn Pha Luông ven một dãy núi đá.

Phó Tư lệnh Hoàng Long Xuyên kể: "Trinh sát ta báo cáo về có hai đại đội của Tưởng ở Bằng Tường lên cứu. Khoảng 8 giờ sáng, trinh sát báo cáo về cho tôi ở chỉ huy sở đặt ở Hải Khẩu "Đội hình đã lọt vào trận địa phục kích". Tôi truyền lệnh cho anh em: "Cứ theo kế hoạch mà thi hành".

Khoảng 9 giờ sáng, nghe tiếng súng nổ rộ độ nửa giờ, rồi im ắng hẳn. Đại đội báo cáo về đã bắn chết tại trận 5 tên, bắt sống một tiểu đội, thu được 12 khẩu thất cửu. Quân Tưởng rút chạy tán loạn về Bằng Tường. Tôi ra lệnh: "Tiếp tục truy kích!".

Nhận được tin cánh quân của Tư lệnh Thanh Phong và Chính ủy Chu Huy Mân đã tiến vào huyện lỵ Ninh Minh, Phó Tư lệnh Hoàng Long Xuyên cho bộ đội tiến đến Ninh Minh và hội quân.

Đang chuẩn bị qua sông tiếp tục đánh quân Tưởng còn lại ở nửa huyện lỵ bên kia sông thì nhận được lệnh của đồng chí Đào Văn Trường - Chỉ huy trưởng Mặt trận đường số 4 "đem quân về nước, có nhiệm vụ mới".

Đánh phi thường ác liệt

Cuối tháng 9-1949, khi cơ quan lãnh đạo khu Thập Vạn Đại Sơn đã liên lạc được với Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc trên đường Nam hạ, Quân tình nguyện Việt Nam được lệnh rút về nước.

Việt Nam chỉ để lại một đại đội tiếp tục phối hợp làm nhiệm vụ xây dựng cơ sở và đánh địch ở vùng biên giới giữa hai tỉnh Quảng Đông và Hải Ninh (Việt Nam).

Để có được những chiến thắng vẻ vang ấy, hàng chục chiến sĩ Quân tình nguyện Việt Nam đã nằm lại trên đất Trung Quốc. Hàng chục chiến sĩ khác bị thương. Dù hy sinh mất mát, bộ đội Việt Nam đã làm tròn nghĩa vụ quốc tế, được nhân dân Trung Quốc yêu mến, hết lòng giúp đỡ.

Chiến đấu dũng cảm, kỷ luật nghiêm, Quân tình nguyện Việt Nam đi đến đâu cũng được khen ngợi: "Giải phóng quân Việt Nam, áo màu nâu, mũ mõm trâu, đánh phi thường ác liệt…". Mũ mõm trâu - một kiểu mũ đan được dùng phổ biến trong những năm kháng chiến chống Pháp.

Trong niềm vui xây dựng vùng đất mới giải phóng, Đại tướng Chu Huy Mân kể lại trong hồi ký: "Nhân dân Hạ Đống, Long Châu đốt pháo chào mừng quân giải phóng. Việt kiều ta ở đây mang bánh, hoa, gửi tặng cán bộ chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam, họ vui mừng khôn xiết".

Kiều Mai Sơn

Đọc bài gốc tại đây.


   
Nguoi Nam My, Vịt xanh, Salut and 1 people reacted
Trích dẫn
quangsot
(@quangsot-2-2-2-2-2-2-2-2-2-2-2-2-2-2)
Lão niên
Cú nhóm giường bệnh
Được ưa thích
Khá giả rank 1
Tài sản: 177428.42
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 10197
Topic starter  

Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn – Bản hùng ca nơi biên khu.

Ngày 1/10/1949, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến lên xây dựng CNXH. Trước đó gần một năm, Thủ tướng Chu Ân Lai đã cử đặc phái viên sang Việt Nam để đề nghị quân đội Việt Nam phối hợp chiến đấu, giúp đỡ Giải phóng quân nhân dân Trung Hoa đánh quân Tưởng để giải phóng khu Ung - Long - Khâm, nay là vùng biên khu hai tỉnh Quảng Tây và Vân Nam (Trung Quốc).

Vậy là từ tháng 4/1949, quân đội Việt Nam và quân đội Trung Quốc đã triển khai chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn, đánh hàng chục trận trên nhiều hướng để làm tan rã những cụm cứ điểm của tàn quân Tưởng Giới Thạch, được nhân dân ba tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam ca ngợi là "đánh phi thường ác liệt".

Kỳ 1: Những quân bạn quốc tế

Ngày 23/4/1949, được sự đề nghị của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã yêu cầu Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Quốc gia Việt Nam (từ năm 1950 chính thức đổi tên thành Quân đội Nhân dân Việt Nam) ra mệnh lệnh "phối hợp với Giải phóng quân Trung Quốc mở rộng khu giải phóng biên khu Việt Quế…

Kịp thời hành động giúp Giải phóng quân, xây dựng một vùng Ung-Long-Khâm, liền với biên giới Đông Bắc của ta, thông ra biển, tạo điều kiện khuếch trương lực lượng, đón Giải phóng quân Trung Quốc Nam Hạ (1)". Trong cuốn hồi ký "Chiến đấu trong vòng vây", Đại tướng Võ Nguyên Giáp dành nhiều trang cho chiến dịch được đặt tên là Thập Vạn Đại Sơn này!

Bác Hồ căn dặn đồng chí Lê Quảng Ba (bên phải) trước khi lên đường sang Thập Vạn Đại Sơn giúp bạn, với dòng chữ tự tay Người viết: "Cẩn thận, bí mật, đoàn kết, hữu nghị, thắng lợi", ghi tháng 5/1949. Ảnh: Tư liệu

Sử sách Trung Quốc cũng ghi lại công lao của bộ đội Việt Nam, trong đó cụ thể nhất là cuốn "Đệ tam đệ thất chi đội sử" viết về cuộc kháng chiến của Giải phóng quân Trung Quốc và bộ đội Việt Nam tại Việt Quế nhấn mạnh: "Quân bạn quốc tế, Trung đoàn 59, Trung đoàn Lạng Sơn, Tiểu đoàn Đặng Công Lệnh, Tiểu đoàn Trần Vinh, Đại đội Bình Liêu (Hải Ninh) thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam đã phát huy tinh thần chủ nghĩa quốc tế vô sản, phối hợp tác chiến với chi đội 3 lập công lớn, góp sức mạnh một cách vô tư, phát triển tình hữu nghị chiến đấu giữa quân đội và nhân dân hai nước Trung Quốc và Việt Nam. 

Công trạng sáng chói của họ, không sợ kẻ địch mạnh, không ngại khó khăn gian khổ, không tiếc xương máu sẽ mãi mãi được ghi trong sử sách đấu tranh cách mạng của nhân dân khu Thập Vạn Đại Sơn".

Ngay sau khi mệnh lệnh được phát ra, các đơn vị tập trung chỉnh huấn tư tưởng và ráo riết chuẩn bị lên đường. Đồng chí Lê Quảng Ba, Phó tư lệnh Liên khu 1 được chỉ định là Tư lệnh chiến dịch. Đồng chí Trần Minh Giang, cán bộ của bạn làm Chính trị ủy viên. 

Chiến dịch được triển khai trên hai mặt trận là Khâm Châu và Long Châu. Mặt trận Khâm Châu do đồng chí Nam Long làm Chỉ huy trưởng; đồng chí Hoàng Bình, cán bộ Quân giải phóng Trung Quốc làm Phó Chỉ huy trưởng; đồng chí Đỗ Trình làm chính trị viên. Mặt trận Long Châu do đồng chí Thanh Phong làm Chỉ huy trưởng; đồng chí Chu Huy Mân và đồng chí Hoàng Long Xuyên làm Phó Chỉ huy trưởng.

Khi quyết định giúp bạn mở chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn, Bộ Tổng Tư lệnh hết sức quan tâm đến hình ảnh của bộ đội Việt Nam. Chính vì thế, trong bản mệnh lệnh chiến dịch ngày 23/4/1949 cũng nhấn mạnh phương châm hoạt động: "Trong lúc hoạt động ở Trung Quốc cần đứng trên lập trường đoàn kết hai dân tộc, căn cứ vào lợi ích cách mạng dân chủ của hai nước mà giải quyết các vấn đề, tuyệt đối tránh "bản vị chủ nghĩa". 

Các đồng chí trong tổ quân dược Trung đoàn 59 tham gia Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn tại Trung Quốc năm 1949.  Ảnh: NVCC

Lấy danh nghĩa Giải phóng quân mà hoạt động để tiện giữ bí mật. Công tác chính trị cần nêu rõ nhiệm vụ đoàn kết phấn đấu giữa hai nước Trung Quốc mới và Việt Nam mới, giữa Giải phóng quân và quân ta; nêu vinh dự của người quân nhân Việt Nam và tinh thần quốc tế của người quân nhân Việt Nam; tôn trọng phong tục tập quán của nhân dân địa phương, nêu cao kỷ luật chính trị, chú trọng dân vận"..

Bộ đội ta ngày ấy viễn chinh chỉ mặc áo nâu, áo chàm và đội loại mũ đan được gọi là "mũ mõm trâu". Dù rất cố công nhưng tôi vẫn không thể tìm được một hiện vật nào như thế tại các bảo tàng. Chỉ nghe các cựu chiến binh từng tham gia chiến dịch kể rằng ngày đó chiếc mũ ấy được dùng phổ biến, phía vành mũ trước vểnh lên nên anh em đặt là mũ "mõm trâu".

Chính vì thế quân bạn và nhân dân bạn mới khen tặng "Giải phóng quân Việt Nam, áo màu nâu, mũ mõm trâu, đánh phi thường ác liệt…". Khi bộ đội Việt Nam về nước, bà con bịn rịn không nỡ rời, mang đồ ăn tới tiễn, làm đồ lưu niệm tới tặng. Trong điều kiện ngôn ngữ bất đồng, thời gian ở trên đất bạn ngắn ngủi, lại hành quân liên tục, để có được những tình cảm mến thương ấy là điều không hề đơn giản. 

Bước vào tuổi 103, Đại tá Hoàng Long Xuyên, nguyên Giám đốc Công an kiêm Chỉ huy trưởng Công an Vũ trang khu tự trị Việt Bắc đón chúng tôi tại nhà riêng ở thị trấn Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. 

Màu quân hàm xanh biên phòng tươi trên bộ quân phục cũ và đôi mắt người cựu chiến binh ánh lên niềm tự hào: "Vào trung tuần tháng 5/1949, đồng chí Thanh Phong gặp tôi giao nhiệm vụ: "Có chỉ thị đặc biệt của anh Văn, mở một chiến dịch đặc biệt giúp bạn.  Anh có trách nhiệm chỉ huy một mũi, lấy lực lượng của địa phương Lạng Sơn từ 2 đến 3 đại đội. Trách nhiệm của anh đánh từ mục Nam Quan xuống Bằng Tường, Thượng Thạch, Hạ Thạch, rồi đến Ninh Minh. Anh là Phó chỉ huy Mặt trận Long Châu và trực tiếp chỉ huy mũi này. Anh sẽ gặp cánh quân của anh Chu Huy Mân ở huyện lỵ Ninh Minh. Anh Mân sẽ đánh từ Thủy Khẩu, rồi thọc xuống Hạ Đống, rồi gặp anh ở Ninh Minh".

Tôi cũng may mắn được Trung tá Nguyễn Hòa, Phó Ban Văn hóa - Thể thao Báo Quân đội nhân dân giới thiệu gặp bác Phùng Thị Sâm, 92 tuổi, nguyên dược tá Trung đoàn 59 tham gia tổ quân dược tại mặt trận Điền Quế. Giọng bà sang sảng và đọc những bài thơ của mình và đồng đội viết về những ngày tháng làm nhiệm vụ quốc tế đầy cảm xúc.

Bộ đội Việt Nam làm công tác dân vận tại vùng mới giải phóng ở Bằng Tường. Ảnh: NVCC

Bà kể: "Tổ quân dược của tôi còn phải bốc thăm mới được đi nên tự hào lắm. Chúng tôi về hội quân tại Làng Bằng (Bắc Giang) để tham gia chỉnh huấn. Cán bộ, chiến sĩ được học tập về nhiệm vụ quốc tế, tìm hiểu phong tục tập quán và ngôn ngữ của nhân dân địa phương. Các đơn vị được bổ sung thêm trang bị vũ khí, các phương tiện thông tin, lương thực, thực phẩm, quân trang, quân dụng".

Bước vào chiến dịch, bộ đội Việt Nam chia thành hai hướng, vượt biên giới sang hội quân cùng bạn tại khu vực Long Châu (Quảng Tây) và khu vực Khâm Châu, Phòng Thành (Quảng Đông), Trung Quốc. Từ làng Bằng, cánh quân tham gia mặt trận Điền Quế vượt qua đường số 4 và các huyện lỵ của Lạng Sơn để đến biên giới.

Bác Thân Văn Nhã, 89 tuổi, nguyên chiến sĩ Tiểu đoàn 426, hiện sống tại thành phố Bắc Giang, nhớ lại: "Nắng mùa hè như nung lửa, bộ đội phải hành quân tắt rừng, vượt qua những mỏm núi cheo leo nhất để tránh tai mắt của địch. Đêm ngủ rừng, gặp mưa thì trú tạm dưới tán cây hoặc hốc núi thức chờ trời sáng. Tới những khu vực có đồn Pháp chiếm đóng, cả đoàn chuyển sang đi đêm, ngày trú tạm trong các cánh rừng để tránh bị giặc phát hiện".

Cứ âm thầm đi như thế cho tới khi đến chân núi Thập Vạn Đại Sơn. Một hành trình vượt núi đầy chông gai trên nghìn trùng núi non hiểm trở và khí hậu vô cùng khắc nghiệt. Hai đêm ba ngày gian khổ còn vẹn nguyên ký ức: hết mưa lại nắng, hết không khí lạnh lại đến gió khô thổi ra từ muôn hướng; quần áo khô rồi lại ướt, môi khô nẻ, mặt bạc gió sương; dứt trận sốt rừng lại phăm phăm tiến về phía trước...

Ngàn bước vượt vách đá dựng đứng, ngàn bước lần xuống khe sâu hun hút suốt 1 tháng hành quân, ngày 21/6, bộ đội Việt Nam đã tới được Pắc Lầu rồi tiến vào Phù Lủng, Nà Số, hội ngộ cùng quân bạn để bàn kế hoạch tác chiến.

Phía mặt trận Long Châu, do hướng từ Cao Bằng và Lạng Sơn qua khu vực Tà Lùng và Bằng Tường, địa hình tương đối bằng phẳng nên bộ đội hành quân đỡ vất vả hơn.

Trong hồi ký, Đại tướng Chu Huy Mân kể lại: "Trước khi xuất kích vượt biên giới theo thỏa thuận với Quân khu Tả Giang - Long Châu, chúng tôi cấp cho mỗi cán bộ chiến sĩ một tấm quân hiệu bằng vải màu vàng in chữ Trung Quốc màu đỏ: "Trung Quốc nhân dân giải phóng quân - 35Đ" gài trên ngực áo. Tôi nói với anh em: Từ giờ phút này trở đi, chúng ta chiến đấu trên chiến trường Trung Quốc với danh nghĩa Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, các đồng chí phải làm đúng 10 lời thề và 12 điều răn của Bác Hồ”.

Năm 2009, trong cuộc gặp gỡ các cựu chiến binh Thập Vạn Đại Sơn sau 60 năm giúp bạn, nhạc sĩ Trọng Loan, tác giả của Lời ca dâng Bác và Người Châu Yên em bắn máy bay, một trong những văn nghệ sĩ theo đoàn quân viễn chinh ngày ấy vẫn tâm đắc: "Vẫn là sự tài tình của các chiến sĩ Việt Nam, cái tài tình ấy thể hiện trong tinh thần chiến đấu anh dũng, cái tài tình ấy là kỉ luật nghiêm minh và sự khéo léo trong công tác dân vận. Không chỉ nhân dân Trung Quốc quí mến bộ đội Hồ Chí Minh, ngay cả những chiến sĩ Trung Quốc chiến đấu bên cạnh ta cũng rất khâm phục. Chính lòng quả cảm của các chiến sĩ, tinh thần quốc tế cao cả và đức hi sinh của những người lính tham gia chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn đã tạo cảm hứng sáng tác vô bờ cho tôi. Trong vòng bốn tháng tham gia chiến dịch, tôi đã sáng tác 10 ca khúc".

Trong lúc chiến đấu, bộ đội ta đặc biệt chú ý giữ an toàn cho dân, tránh lạm sát người vô tội bị quân Tưởng đẩy lên trước làm lá chắn. Trong câu chuyện của mình, Đại tá Hoàng Long Xuyên vẫn luôn nhớ lời nhân dân bạn khen ngợi bộ đội Việt Nam đánh giỏi, kỷ luật nghiêm, tôn trọng, bảo vệ dân. Họ cảm kích trước sự bảo vệ của bộ đội Việt Nam nên càng ra sức giúp ta đánh phản động Quốc dân đảng. Nhiều người tình nguyện làm liên lạc, dẫn đường, nắm địch, ủng hộ lương thực, thuốc men. 

"Trước khi lên đường giúp bạn, toàn quân đã được chỉ thị là phải coi người dân nước bạn như người dân nước mình, phải chăm lo cho dân, bảo vệ dân. Chúng tôi cũng đã được nhân dân nước bạn giúp đỡ rất nhiều trong những ngày chiến dịch. Nhất là sau khi đánh thắng quân Tưởng, nhân dân càng thêm tin yêu liên quân Việt - Trung, đồng lòng với cách mạng để xây dựng chính quyền mới." - Đại tá Hoàng Long Xuyên kể. 

Bác Phùng Thị Sâm khe khẽ hát: "Ta mơ trần gian xóa tan bằng hết biên thùy, chỉ còn loài người, chỉ còn tình thương trùm lên thế giới…". Bà bảo đó là câu hát không rõ tác giả mà những chiến sĩ làm nhiệm vụ quốc tế đầu tiên của quân đội Việt Nam đã hát bên cột mốc biên giới trước khi bước chân sang đất bạn vừa lãng mạn, vừa hào hùng, thể hiện tâm thế của những người sẵn sàng dấn thân vì đất nước và vì những người bạn Trung Quốc. Khi ấy, nhân dân Trung Quốc và những chiến sĩ Giải phóng quân nhân dân Trung Hoa gọi bộ đội Việt Nam là "Quân bạn quốc tế".

(Còn tiếp)

 
Phạm Vân Anh
 
Đọc bài gốc tại đây.

   
Salut reacted
Trả lờiTrích dẫn
quangsot
(@quangsot-2-2-2-2-2-2-2-2-2-2-2-2-2-2)
Lão niên
Cú nhóm giường bệnh
Được ưa thích
Khá giả rank 1
Tài sản: 177428.42
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 10197
Topic starter  

Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn – Bản hùng ca nơi biên khu: Tinh thần quốc tế cao thượng.

Bảo tàng Hồ Chí Minh tại huyện Long Châu, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc có một bảng ảnh tôn vinh những nhà cách mạng Việt Nam từng hoạt động tại khu vực Long Châu, trong đó, có ghi danh Đại tướng Chu Huy Mân và Đại tá Hoàng Long Xuyên, hai người chỉ huy hai cánh quân giải phóng khu vực này.

Hiện nay, tại thị trấn cửa khẩu Thủy Khẩu (Long Châu) đối diện với cửa khẩu Tà Lùng (Cao Bằng) có một điểm du lịch cũng hết sức ý nghĩa là "Nghĩa trang Liệt sĩ Trung Việt tại Thủy Khẩu Long Châu". Các liệt sĩ của hai nước Việt Nam, Trung Quốc hi sinh khi tham gia các trận đánh tại mặt trận Long Châu đều được quy tập về đây để nhân dân đến thắp hương đoái công tưởng nhớ.

Thời điểm đó, Long Châu là một trong 14 khu quân sự của Quốc dân đảng tại tỉnh Quảng Tây do hai trung đoàn bảo an, một số đội cảnh vệ, tuần sát, dân đoàn ở các huyện đóng giữ và các hương đoàn của bọn địa chủ tiếp tay. Mặt trận Tả Giang - Long Châu cũng chia hai hướng, một hướng xuất kích từ Lạng Sơn do đồng chí Hoàng Long Xuyên chỉ đạo, đánh mục Nam Quan xuống Bằng Tường, Thượng Thạch, Hạ Thạch, rồi đến Ninh Minh. Một hướng xuất kích từ Cao Bằng do đồng chí Chu Huy Mân chỉ đạo tiến công từ Thủy Khẩu, rồi thọc xuống Hạ Đống và tiến về hội quân tại Ninh Minh.

Bảo tàng Hồ Chí Minh tại huyện Long Châu, Quảng Tây, Trung Quốc tôn vinh những cán bộ cách mạng Việt Nam.  Ảnh: Vân Anh.

Ngày 12/6/1949, liên quân Việt - Trung từ hai cánh đã đồng loạt phát lệnh tấn công Bằng Tường và Thủy Khẩu. Ngày 13/6 chiếm Hạ Đống và ngày 18/6, diệt viện binh Quốc dân đảng từ Long Châu xuống, dồn tổng lực tiến đánh Ninh Minh.

Trận tiến công Thủy Khẩu cũng là trận đánh đầu tiên của liên quân Trung Việt trên đất bạn trong suốt 2 ngày đêm. Từ Thủy Khẩu, các cứ điểm khác của quân Tưởng tại La Hồi, Độc Sơn, Hạ Đống lần lượt bị liên quân đánh hạ, hàng binh kéo cờ trắng ra hàng, số khác tháo chạy dọc theo bờ sông Tả Giang và bỏ trống đường tiến thẳng thủ phủ Ninh Minh.

Chỉ trong vòng 15 ngày, nơi đây sạch bóng quân Tưởng. Hồi ký của Đại tướng Chu Huy Mân viết chi tiết: "Sáng hôm sau, mưa tạnh, chúng tôi ra lệnh tiến công Thủy Khẩu bằng những loạt đạn pháo 75 ly. Tiểu đoàn 73 vác cờ đỏ búa liềm tiến sát đồn Thủy Khẩu cùng những tiếng hô vang dội. Quân Tưởng dùng chiến thuật "quân dã ngoại giữ thành" của Nhật để đối phó lại ta. Chúng cho quân ra ngoài, chỉ để một bộ phận trong đồn bắn tỉa. Nhưng quân dã ngoại bị ta bao vây đã không dám nổ súng mà nằm rạp trườn đi từng thước trên mặt đất rồi tháo chạy về Long Châu. Chúng tôi ra lệnh cho bộ đội truy kích. Sau hai ngày đêm bị quân ta trong đánh ngoài vây, gọi hàng, toàn bộ quân địch ở Thủy Khẩu bị tiêu diệt và bị bắt làm tù binh. Trận này quân ta hy sinh mười một cán bộ, chiến sĩ".

Với hướng Nam Quan - Ải Khẩu, Phó Chỉ huy trưởng Hoàng Long Xuyên chỉ đạo bộ đội Việt Nam phối hợp với lực lượng vũ trang của bạn tiến hành phục kích hai đại đội địch, bức chúng khỏi Ải Khẩu chạy về Bằng Tường. Thực hiện kế hoạch "vây điểm diệt viện", các đơn vị đồng loạt tập kích từ nhiều hướng khiến quân địch nhiễu loạn.

Từ trái qua phải: Các đồng chí Nam Long, Biên Cương, Quyến, Lê Quảng Ba, Mạnh Hùng, Đỗ Trình trước khi lên đường viễn chinh Thập Vạn Đại Sơn. Ảnh: Nguyễn Hòa

Đại tá Hoàng Long Xuyên kể lại: "Một trong những trận giằng co lâu nhất là trận vây đồn Nam Quan, một đại đội của ta vây đồn Nam Quan, một đại đội và một trung đội hỏa lực phục kích trên đường từ Nam Quan đến Bằng Tường cách nhau 15km. Quân ta vây chặt Nam Quan suốt một tuần lễ, chặn đứng nguồn tiếp tế lương thực và đạn dược của chúng, buộc quân Tưởng phải bỏ đồn rút chạy. Các nhóm cứu viện của quân Tưởng ở nơi khác cũng bị quân ta phục kích chặn đánh tan tác".

Dù rất kinh hoàng trước sự tấn công mạnh mẽ của bộ đội Việt Nam, song chúng vẫn cưỡng ép rất nhiều dân chúng đi theo về hướng Long Châu, gây nên nhiều bi thảm cho bà con. Bộ đội Việt Nam vừa đánh chặn địch, vừa cố gắng hạn chế gây thương vong cho nhân dân bị ép đi theo chúng. Trong những ngày chiến đấu trên đất bạn, đồng chí Ngọc Trình, Đại đội trưởng Đại đội độc lập huyện Thoát Lãng, Lạng Sơn, một trong 34 chiến sĩ Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân đầu tiên đã dẫn đầu đơn vị đuổi đánh địch từ Ải Nam Quan (nay là Cửa khẩu Hữu Nghị) đến Bằng Tường.

Giữa lúc truy kích đầy quyết liệt, đồng chí không may bị một viên đạn trung liên bắn trúng giữa ngực, hy sinh trên đất bạn. Mộ phần của đồng chí Ngọc Trình cùng một liệt sĩ khác của Việt Nam và 1 liệt sĩ Trung Quốc hiện vẫn nằm ở chân núi Pò Luông, Bằng Tường. Hàng năm vào dịp Thanh minh, nhân dân trong vùng vẫn đến dâng hương.

Đợt tiến công của liên quân Việt - Trung tại mặt trận Long Châu thắng lợi, chính quyền cách mạng của bạn được thiết lập ở nhiều nơi và được đông đảo nhân dân ủng hộ. Cuối tháng 6, ta tiếp tục cử các đơn vị lẻ áp sát thị xã Long Châu, tiến hành trinh sát vũ trang, bắn phá quấy rối các vị trí, tuyên truyền vận động nhân dân và tổ chức nghi binh đánh lạc hướng phán đoán của địch và dần siết chặt vòng vây quanh Ninh Minh. Đầu tháng 7, bộ đội ta chia làm nhiều mũi, tiến công thị trấn Ninh Minh.

Quân địch ở đây lo sợ trước sức tấn công của quân ta, đã rút phần lớn lực lượng qua sông Kì Cùng sang Ninh Giang từ đêm hôm trước. Ngày 5/7/1949, Bộ Tổng tư lệnh chỉ thị kết thúc đợt hoạt động, rút quân về nước để nhận nhiệm vụ mới.

Đại tá Hoàng Long Xuyên cùng những kỷ vật khi tham gia cách mạng. Ảnh: Vân Anh

Ở hướng Khâm Châu, sau khi vượt dãy Thập Vạn Đại Sơn, bộ đội ta nhanh chóng tiếp quản nhiều căn cứ của địch ở Khâm Châu và Phòng Thành do địch đã rút về cố thủ ở các căn cứ lớn ở Nà Lường, Đông Hưng và những khu vực giáp biển. Quân số của chúng có hơn 3 trung đoàn và hàng chục dân đoàn hương (một tổ chức vũ trang ở thôn xã của chính quyền Quốc dân đảng).

Bác Thân Văn Nhã nhớ lại: "Khi đó, Bộ Tư lệnh quyết định tiến công Trúc Sơn, một thị trấn gần Đông Hưng do ở đây có đường thủy thông ra biển. Đồng chí Nam Long, Tư lệnh mặt trận phát lệnh tiến công vào đêm ngày 5/7, ba cánh quân của ta nổ súng tiến vào Trúc Sơn. Địch bắn rào rào từ các lô cốt hòng chặn đường tiến công của ta và chờ viện binh. Sau 5 ngày đêm bao vây, diệt viện, quân ta không đánh chiếm được căn cứ Trúc Sơn nên đã rút quân, nhưng liên quân cũng kịp thời giải phóng được 3 xã ở xung quanh Phòng Thành".

Sau trận Trúc Sơn, ta tiếp tục đánh tập kích các điểm đóng quân nhỏ lẻ của quân Tưởng. Chúng hoảng sợ rút về Phòng Thành, ta lập tức tiến vào các làng bản làm công tác vận động quần chúng, thiết lập an ninh trên vùng mới giải phóng.

Quần chúng nhân dân từ chỗ e dè, sợ hãi đã hân hoan chào đón bộ đội Việt Nam và giúp đỡ bộ đội triển khai các hoạt động để gấp rút thành lập chính quyền cách mạng. Tiếp đó, ta tiến đánh Nà Số, Vòng Chúc rồi hợp quân với bạn tại Mào Lẻng, một thị trấn ven biển sầm uất. Suốt một tháng bộ đội ta vừa đi vừa đánh địch, vừa bàn giao chiến lợi phẩm cho quân bạn và giúp bạn ổn định địa bàn. Cho tới cuối tháng 8, bộ đội ta phối hợp với một đơn vị du kích tập trung tiêu diệt và bắt giữ hơn 100 tên, được nhân dân hết sức nể phục.

Hơn bốn tháng vừa hành quân vừa chiến đấu tiêu diệt địch, vừa triển khai công tác dân vận, bộ đội ta đã vượt qua biết bao gian nan, nguy hiểm để cùng quân bạn mở rộng và đi tới nối liền căn cứ địa trong khu Thập Vạn Đại Sơn, hoàn thành nhiệm vụ quốc tế đầu tiên đầy tự hào.

Cuối tháng 9/1949, khi chính quyền cách mạng và lực lượng vũ trang của biên khu Điền Quế và Việt Quế đã liên lạc được với Giải phóng quân Trung Quốc Nam Hạ, bộ đội ta được lệnh rút về nước.

Sau này, để ghi công và tưởng nhớ các chiến binh đã tử trận trong chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn, năm 1956, tại thị trấn Đông Hưng (Trung Quốc) đã xây dựng đài liệt sĩ, trên khắc song song hai hàng chữ Việt - Hán: "Đài kỷ niệm liệt sĩ cách mạng nhân dân Việt - Trung". Trên bệ có khắc một bia bằng tiếng Việt "Nhân dân Trung Quốc đời đời nhớ ơn các chiến sĩ đã hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và tình hữu nghị giữa các dân tộc". Hài cốt của các tử sĩ Việt Nam và Trung Quốc nằm rải rác ở các nơi được quy tập và an táng tại đây.

Cụ Sì Láng, 84 tuổi ở chân núi Pò Luông, Bằng Tường ngày ấy mới 14 tuổi, thường xuyên làm giao liên cho bộ đội Việt Nam và dân quân xã thì nhớ rất rõ trận đánh ác liệt ngay trên quê hương mình. Đưa chúng tôi đi thăm mộ đồng chí Ngọc Trình, ông kể, bà con quê ông thương bộ đội Việt Nam lắm, bộ đội Việt Nam có 5 người bị thương chuyển về bản của ông, hai người hi sinh được an táng tại đây, còn 3 người khác được đưa về Việt Nam điều trị. Mộ của đồng chí Ngọc Trình và đồng đội hàng năm vẫn có người tới thăm nom.

 "Hồi ấy chúng tôi có gì ngon nhất, tốt nhất đều đem tặng bà con vì thấy họ khổ quá, bị quân Tưởng bóc lột, đàn áp đến xơ xác. Họ đói đến mức trong nhà chỉ có nồi cháo loãng, và câu chào nhau là "ăn cơm chưa?". Tổ quân y, quân dược của chúng tôi tập trung chữa bệnh cho bà con, phát thuốc cho bà con và làm công tác phòng dịch. Nhiều người thấy bộ đội Việt Nam đói khổ đã mang gạo, muối, khoai, sắn đến tặng nhưng chúng tôi không dám nhận. Có người bảo: "Bộ đội Việt Nam có cả con gái. Chúng mày khác hẳn bọn "ngầu quắt" (nghĩa là xương trâu, ý chỉ quân Quốc dân đảng) và tốt như quân Cộng sản Mao Trạch Đông…" - Bác Phùng Thị Sâm kể.

Dẫu chịu đói, nhưng bộ đội ta không tơ hào của dân, không lạm dụng chiến lợi phẩm mà thường chỉ lấy đủ ăn để tiếp tục chiến đấu. Phần nhiều bàn giao lại cho bạn để phát cho nhân dân cũng như cho các đơn vị bạn. Một viên thuốc, một bơ gạo, một tấm chăn cũng nhường dân. Các đơn vị quân y mỗi khi dừng chân lại tổ chức khám bệnh cho bà con, điều trị cho hàng trăm người khỏi bệnh và cứu sống được nhiều trường hợp tưởng như đã không thể qua khỏi. Vui nhất có lẽ là những lần bộ đội Việt Nam giao lưu văn hóa với nhân dân bạn.

Nhà văn Trần Đăng, tác giả của truyện ngắn nổi tiếng Trận phố Ràng, người sau khi kết thúc chiến dịch đã hi sinh trên biên giới Việt Trung thì đọc thơ. Nhạc sĩ Trọng Loan thì đàn hát những bài ca hữu nghị và dạy trẻ con cùng hát. Các đồng chí nữ ở tổ quân y, quân dược thì được bà con dạy múa điệu "nông tác vũ". Các đồng chí nam thì giao lưu bóng bàn. Không khí vô cùng thân thiện, đoàn kết.

Cuối tháng 9, hầu hết các đơn vị tham gia chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn đều rút về nước, lãnh đạo và nhân dân các vùng thuộc biên khu Điền Quế và Việt Quế trang trọng tiễn đưa. Đồng chí Trần Phát, Khu ủy viên địa khu Thập Vạn Đại Sơn rơi nước mắt, tiễn chân bộ đội Việt Nam ra tận bờ sông giáp Phù Lủng.

Ông nắm chặt tay đồng chí Lê Quảng Ba, giọng nghẹn ngào: "Cám ơn các đồng chí Việt Nam đã phối hợp chiến đấu, đem mồ hôi, xương máu giúp chúng tôi trong lúc khó khăn. Các đồng chí đã để lại những tấm gương trong sáng về tinh thần quốc tế. Cảm ơn cách mạng Việt Nam. Tuy còn bao nhiêu khó khăn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, cách mạng Việt Nam vẫn ghé vai đỡ gánh cho cách mạng Trung Quốc. Thật cao thượng!".

 
Phạm Vân Anh
 
Đọc bài gốc tại đây.

   
Trả lờiTrích dẫn
Chia sẻ: