Nga bắt đẩu sản xuất súng trường tự động AK-308 bắn bằng đạn của NATO để phục vụ xuẩt khẩu
AK-308 mới của Kalashnikov định nghĩa lại hỏa lực tương thích với NATO
Kalashnikov nâng cấp AK-308 với cỡ đạn 7.62x51mm NATO, kết hợp độ tin cậy của Nga với hỏa lực của NATO cho thị trường toàn cầu.
Trước đó Nga đã có AK-101 / AK-102, là những biến thể đầu tiên của Nga thiết kế để bắn đạn NATO 5.56x45mm (SS109). AK-101 là bản dài nòng tiêu chuẩn, còn AK-102 là bản carbine nòng ngắn.
Chủ yếu xuất khẩu sang Sri Lanka, Indonesia, Các tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE), Kenya, một số quốc gia Châu Phi & Trung Đông - thường là đơn vị đặc nhiệm, cảnh sát đặc biệt.
Trước đó, Nga đã chuyển giao việc lắp ráp AK-203 (biến thể hiện đại nhất trong gia đình AK-100/200), bắn đạn 7.62x39mm (một trong những cỡ đạn chuẩn của súng trường Nga) cho Ấn Độ. Nhà máy Korwa Ordnance Factory của liên doanh Indo-Russian Rifles Private Limited (IRRPL) bắt đầu lắp ráp hàng chục ngàn khẩu AK-203 vào cuối năm 2021 và đầu năm 2022, với kế hoạch nội địa hóa 100% công nghệ sau vài năm.
AK-203 sẽ thay cho súng trường INNAS của Ấn Độ.
Câu chuyện thay thế súng trường của Ấn Độ có nhiều điểm thú vị. Cho thấy Ấn Độ này rất củ chuối, khá là chủ quan duy ý chí và thiếu tầm nhìn xa khi phát triển vũ khi quan trọng (ít nhất ở thời điểm đó). Hy vọng đất nước chúng ta khi phát triển súng trường của riêng mình STV (họ hàng của AK, dùng chung đạn AK 7.62x39mm) đã tính đầy đủ bài học này.
Ban đầu Ấn Độ dùng súng trường INSAS (viết tắt của Indian Small Arms System) là hệ thống vũ khí bộ binh quốc nội đầu tiên do Ấn Độ tự phát triển và sản xuất, từ thập niên 1980 – 1990 bởi Ordnance Factories Board (OFB), tổ hợp công nghiệp quốc phòng quốc doanh của Ấn Độ. Thiết kế do các kỹ sư Ấn Độ tại phòng thiết kế Ishapore Small Arms Factory thực hiện, dựa nhiều từ nguyên mẫu AKM (cỡ đạn 7.62x39mm) kết hợp với một số đặc điểm của FN FAL.
Khi phát triển INSAS trong thập niên 1980–1990, Ấn Độ muốn bắt kịp xu thế NATO — lúc đó các nước phương Tây chuyển dần từ 7.62x51mm sang 5.56x45mm (nhẹ, tốc độ cao, mang được nhiều đạn). INSAS vì thế bắn đạn 5.56x45mm, do chính Ấn Độ sản xuất dựa theo chuẩn NATO SS109.
INSAS vì thế bắn đạn 5.56x45mm, do chính Ấn Độ sản xuất dựa theo chuẩn NATO SS109.
Mặc dù từng được coi là thành tựu “Make in India” đầu tiên, INSAS gặp nhiều vấn đề trong thực tế:
- Không đáng tin cậy ở điều kiện khắc nghiệt (nhiệt độ âm sâu ở Kashmir, sa mạc nóng ở Rajasthan).
- Hay bị kẹt đạn, rò rỉ dầu, nứt báng súng polymer.
- Không có chế độ bắn tự động hoàn toàn (chỉ bắn loạt 3 viên).
- Lính thường phải sửa chữa thủ công, dễ lỗi.
Do đó, sau chiến tranh Kargil 1999, INSAS liên tục bị phàn nàn và nhu cầu thay thế càng rõ rệt.
Như đã nói, khi phát triển INSAS trong thập niên 1980–1990, Ấn Độ muốn bắt kịp xu thế NATO — lúc đó các nước phương Tây chuyển dần từ 7.62x51mm sang 5.56x45mm (nhẹ, tốc độ cao, mang được nhiều đạn). INSAS vì thế bắn đạn 5.56x45mm, do chính Ấn Độ sản xuất dựa theo chuẩn NATO SS109.
Như từ đây lại nẩy ra vấn đề, đó là đạn 5.56x45mm của NATO không phù hợp chiến trường Ấn Độ. Trong xung đột Kargil (1999), binh sĩ Ấn Độ phàn nàn đạn 5.56x45mm thiếu uy lực hạ gục mục tiêu, nhất là ở địa hình đồi núi, tầm bắn xa, đối phương có áo chống đạn thô sơ. Loại đạn này tuy nhẹ, quỹ đạo phẳng nhưng dễ lệch bởi gió mạnh ở cao độ. Lực lượng bán quân sự (CRPF, BSF) đối đầu du kích Maoist trong rừng cũng cần đạn xuyên phá mạnh, bắn tầm gần. Đạn 5.56x45mm không phù hợp.
Tóm lại: Thực địa Ấn Độ cần đạn nặng, uy lực, xuyên phá tốt hơn tốc độ cao mà lực sát thương yếu.
Ban đầu, Ấn Độ có ý định cân nhắc mua SIG716 của Mỹ (cỡ đạn 7.62x51mm - chuẩn khác của NATO) và nhập khẩu số lượng nhỏ cho lực lượng đặc biệt.
Họ đã từng mua nó từ Mỹ (loạt nhỏ 70.000 khẩu) để trang bị cho các đơn vị đặc nhiệm. Đạn 7.62x51mm NATO mạnh hơn loại 5.56x45mm nhưng giá thành đạn & vũ khí cao, đòi hỏi bảo trì cầu kỳ phức tạp.
Cho nên cuối cùng Ấn Độ đã chọn AK-203 bắn cỡ đạn 7.62x39mm (một trong những chuẩn đạn của súng trường Nga) để trang bị đại trà cho quân đội, vì chúng phù hợp hơn cho chiến trường rừng núi, đô thị, dù vẫn duy trì số lượng nhỏ SIG716 cho các đơn vị đặc nhiệm.
AK-203 cũng dễ bảo trì, tin cậy, ít kẹt đạn, bảo trì dễ dàng hơn.
Thông tin thêm:
- AK-203 chỉ dùng cho quân đội Ân chứ quân đội Nga không dùng
- Hiện nay Nga dùng 3 loại đạn:
+ Đạn 5.45x39mm (AK-74M, AK-12): Chuẩn cho lính bộ binh chính quy: độ giật thấp, tầm xa, hiệu quả cao. Tất cả súng mới như AK-12 đều chuẩn hoá 5.45x39mm. Đạn này cho phép lính bắn chính xác hơn, mang được nhiều đạn hơn với khối lượng tải nhẹ hơn. Cực kỳ phù hợp cho lối tác chiến tấn công dồn dập, di chuyển nhanh. Nói chung, đạn nhỏ hơn, nhanh hơn, quỹ đạo phẳng hơn thì hiệu quả hơn trong các trận đánh tầm trung (~300–500m). Loại đạn nhỏ này cho phép sung giật ít, bắn chính xác loạt dài. Nó cũng có quỹ đạo ổn định, đầu đạn xoay lệch, gây vết thương nặng
+ Đạn 7.62x39mm (AK-103, AKM cũ, AK-203 xuất khẩu): Vẫn hữu dụng ở rừng núi, địa hình đô thị. Lực xuyên mạnh, thích hợp chiến thuật du kích, cận chiến. Nga vẫn giữ 7.62x39mm cho một số đơn vị, và đặc biệt là hướng xuất khẩu (vì nhiều nước đã có kho đạn AK cũ).
+ Đạn 9x39mm: đây là loại dùng cho vũ khí đặc nhiệm, chuyên bắn im lặng, xuyên giáp tầm gần (VSS Vintorez, AS Val). Đạn 9x39mm to hơn, nặng hơn, năng lượng cao hơn, nhưng vẫn bay chậm để tránh tạo “đạn siêu thanh” — rất lý tưởng cho giảm thanh.
Nga thử nghiệm thành công máy bay không người lái thay thế Mavic: Svarog kamikaze bay đến mục tiêu
9 tháng 4 năm 2025
Thiết bị lớn nhất có khả năng mang tải trọng lên đến 30 kg và bay xa tới 40 km.
Dòng máy bay không người lái vận tải (UAV) Svarog đã vượt qua các cuộc thử nghiệm quân sự thành công. Các máy bay không người lái này được thiết kế để vận chuyển nước, thực phẩm và thuốc men đến các vị trí tiền tuyến mà không gây nguy hiểm đến tính mạng của quân nhân.
Đại diện của dòng máy bay không người lái vận tải Svarog
Dự án bao gồm năm mẫu với tải trọng khác nhau, từ 3 đến 30 kg. Thiết bị lớn nhất có thể bay xa tới 40 km và mang theo tới 30 kg hàng hóa. Nó có thể được điều khiển bởi người vận hành thông qua giao tiếp kỹ thuật số hoặc hoạt động tự động theo một tuyến đường cụ thể.
Máy bay không người lái Svarog 4T là một lựa chọn thay thế cho máy bay Mavic 3T thương mại của Trung Quốc. UAV mới có thể mang tải trọng lên đến 3 kg, gấp sáu lần so với Mavic. Đồng thời, chi phí sản xuất rẻ hơn và sử dụng các linh kiện được dùng trong máy bay không người lái FPV.
(www1.ru)
Thảo nào mà Geran có thành tích hạ không ít máy bay chiến đấu, cả F-16 và Mig-29
Máy bay không người lái Geranium có phiên bản chống radar: sẽ biến radar thành một cái rây
13 tháng 7 năm 2025
Máy bay không người lái được trang bị chức năng kích nổ không đối không
Máy bay không người lái cảm tử "Geran" đã được trang bị chức năng kích nổ đầu đạn trên không. Các đoạn phim ghi lại hoạt động chiến đấu của máy bay không người lái đã xuất hiện trên Internet, cho thấy hiệu quả của chúng trong việc chống lại các trạm radar (RLS).
UAV "Geranium"
Đồng thời, bản thân đầu đạn cũng được trang bị một phần mảnh đạn. Trong điều kiện kích nổ ở độ cao lớn, đây là cách hiệu quả nhất để tiêu diệt các mục tiêu không bọc thép nằm trong không gian mở, trong trường hợp này là radar.
Các chuyên gia quân sự không loại trừ khả năng Geran được trang bị đầu tự dẫn quang học và các biến thể chống radar.
(www1.ru)
Những lợi thế của việc phóng máy bay không người lái Geranium từ xe bán tải đã được nêu tên: đầu đạn có thể được chế tạo mạnh hơn nữa
13 tháng 7 năm 2025
Tiết kiệm nhiên liệu có thể cho phép các nhà thiết kế giảm kích thước bình nhiên liệu
Quân đội Nga đã bắt đầu phóng máy bay không người lái cảm tử Geranium-2 từ xe bán tải với tốc độ tối đa có thể. Phương pháp này sẽ cho phép máy bay không người lái tăng thêm gia tốc đồng thời tiết kiệm nhiên liệu, các ấn phẩm công nghiệp đưa tin, trích dẫn lời các chuyên gia.
Phóng máy bay không người lái cảm tử "Geranium" từ phía sau xe bán tải
Ngoài ra, xe bán tải sẽ cho phép phóng khi đang di chuyển từ hầu hết mọi tuyến đường có thể tiếp cận, không chỉ giới hạn ở các địa điểm đã biết.
Ngoài ra, việc tiết kiệm nhiên liệu có thể cho phép các nhà thiết kế giảm thể tích bình nhiên liệu, từ đó có thể tăng kích thước đầu đạn.
(www1.ru)
@a98 @ktqsminh @ngo-rung @hatam @uman
Hệ điều hành thời gian thực BagrOS 4000 trên máy bay chiến đấu Su-35, và nhất là Su-57 đã được nói từ thời bên OF cách đây mấy năm
Bộ não của máy bay chiến đấu Su-57 mới nhất đã được tiết lộ
16 tháng 7 năm 2025
Hệ điều hành thời gian thực BagrOS 4000 đã được cài đặt trên máy bay chiến đấu thế hệ thứ năm
Máy tính kỹ thuật số (ODC) trên máy bay chiến đấu là cần thiết để tự động hóa và cải thiện hiệu quả của các nhiệm vụ chiến đấu, cũng như đảm bảo an toàn bay.
Su-57
Hệ thống phức hợp này xử lý dữ liệu từ nhiều cảm biến và hệ thống máy bay khác nhau, cung cấp các chức năng điều khiển, dẫn đường, nhắm mục tiêu và các chức năng quan trọng khác.
Tạp chí Technosfera của Nga đưa tin rằng máy bay chiến đấu Su-57 sử dụng BagrOS 4000, do Công ty Cổ phần Sukhoi PJSC phát triển, làm hệ điều hành, được tối ưu hóa cho bộ xử lý đa lõi và hỗ trợ tiêu chuẩn ARINC 653.
Đồng thời, các nhà báo lưu ý rằng thông tin này là cập nhật tính đến cuối những năm 2010.
Kể từ đó, Su-57 đã được nâng cấp đáng kể, bao gồm cả về mặt điện tử trên máy bay. Do đó, chúng tôi không biết những máy tính nào được lắp đặt trên máy bay vào năm 2025.
— Technosfera Russia
Máy tính trên máy bay cũng giám sát hoạt động của nhiều hệ thống máy bay khác nhau, thu thập dữ liệu về tình trạng của chúng và cảnh báo phi công về các sự cố hoặc tai nạn có thể xảy ra.
(www1.ru)
David đấu với Goliath: Đạn KUB độ chính xác cao của Kalashnikov đã bắt đầu tiêu diệt xe tăng và pháo tự hành
22 tháng 7 năm 2025
Đạn lang thang được đặc trưng bởi độ ồn thấp và dễ sử dụng
Đạn dẫn đường KUB, do Tập đoàn Kalashnikov (một phần của Rostec) sản xuất, đã bắt đầu tự tin tiêu diệt xe tăng hạng nặng, pháo tự hành và xe chiến đấu bộ binh (IFV), theo báo cáo của công ty.
Đạn "CUBE"
"KUB" được trang bị đầu đạn nổ phân mảnh mạnh và được thiết kế để tiêu diệt xe bọc thép hạng nhẹ ở độ sâu chiến thuật. Đạn được nhắm vào mục tiêu theo tọa độ đã biết trước và có thể được sử dụng bất cứ lúc nào trong ngày, trong điều kiện gió giật lên đến 10 m/s.
Đạn "KUB" nổi bật với độ ồn thấp, khả năng tàng hình cao và tốc độ triển khai tổ hợp, dễ vận hành, dễ phóng và dễ tháo dỡ vị trí.
Các tên lửa KUB cũng có thể được phóng theo nhóm - tối đa bốn quả đạn từ một điểm kiểm soát mặt đất; hệ thống điều khiển của tổ hợp truyền lệnh điều khiển theo thời gian thực.
(www1.ru)
UAV này vừa dùng để cài mìn, vừa dùng để vận chuyển hàng hóa nhu yếu phẩm quân sự (nhưng hoàn toàn có thể dùng trong dân sự)
Quân đội Nga tiếp nhận trực thăng 8 cánh độc đáo phục vụ đặt mìn từ xa
12 tháng 4 năm 2025
Tải trọng tối đa của máy bay không người lái lên tới 8 kg
Quân nhân Nga đã nhận được trực thăng 8 cánh đa năng phục vụ đặt mìn. Đạn dược được lắp đặt trên các tuyến đường vận chuyển
thiết bị hạng nặng mà không gây nguy hiểm cho lính công binh Nga.
Cực thăng 8 cánh là máy bay không người lái có khả năng tải trọng lên tới 8 kg. Mìn được gắn vào một thanh và được điều khiển từ xa.
Nhiệm vụ thứ hai của máy bay không người lái là vận chuyển hàng hóa, lương thực và đạn dược đến những khu vực không thể tiếp cận.
Do đó, công nghệ hiện đại giúp các đơn vị Nga giành được ưu thế trước kẻ thù.
(www1.ru)
-
Ngay từ đầu 2022, Mỹ và EU áp đặttrừng phạt xuất khẩu công nghệ cao: chip, linh kiện điện tử, vi mạch… cho Nga.
-
Bộ Thương mại Mỹ (và sau đó là một số quan chức Ukraine) tuyên bố:
-
Đây được nhắc lại nhiều lần trên các báo lớn (The Washington Post, New York Times, Reuters…).
→ Nga phải tìm nguồn thay thế.
-
Bộ điều khiển trong UAV (drone),
-
Hệ thống liên lạc, định vị,
-
Một số mạch điều khiển trong xe tăng, radar đời cũ.
-
Tận dụng linh kiện từ hàng điện tử dân dụng (có sẵn trong nước),
-
Hoặc nhập lậu chip dân dụng qua nước thứ ba (Thổ Nhĩ Kỳ, UAE, Trung Quốc…).
3. Thực tế mức độ ra sao?
-
Báo cáo từ Viện nghiên cứu Royal United Services Institute (RUSI) Anh phân tích các khí tài Nga thu được ở Ukraine cho thấy:
-
Nhiều linh kiện có nguồn gốc Mỹ, Nhật, Đức…
-
Một số con chip vốn thiết kế cho thiết bị gia dụng.
-
Điều này chứng tỏ Nga đang phảilinh hoạt thay thế linh kiệndo thiếu nguồn cung chuẩn.
-
Không phải mọi vũ khí đều như vậy. Nga vẫn có kho dự trữ lớn và ngành công nghiệp điện tử quốc phòng riêng.
-
Những con chip dân dụng được dùng chủ yếu trong các chức năng không quá đặc thù, hoặc trong tình huống khẩn cấp.
4. Vì sao báo chí nói nhiều?
-
Đây là một cách để phương Tây nhấn mạnhtác động của trừng phạt.
-
Nhưng trong thực tế, Nga có mạng lưới nhập khẩu “xám” và khả năng tự sản xuất hạn chế, nên vẫn duy trì được sản xuất vũ khí quy mô lớn, dù kém tối tân hơn.
5. Kết luận ngắn gọn
-
Liệt kê chi tiết các loại chip dân dụng từng được phát hiện trong khí tài Nga.
-
Hoặc phân tích sâu hơn ngành công nghiệp quốc phòng Nga đang xoay xở thế nào dưới trừng phạt.
Bạn đã nói:
Đúng vậy – nếu một quân đội bị hạn chế công nghệ nhưngvẫn có thể lấy chip dân dụng (thường rẻ, ít chức năng đặc biệt hơn) và tích hợp thành công vào vũ khí để nó hoạt động tốt trên chiến trường, thì điều đó cho thấykhả năng thích ứng kỹ thuật và tối ưu hóa của họ là rất đáng kể.
1. Vì sao việc này không đơn giản?
-
Chip dân dụng(dành cho máy giặt, tủ lạnh, thiết bị IoT…) thường:
-
Không được thiết kế để chịu rung động mạnh, sốc nhiệt, nhiễu điện từ… như chip quân sự.
-
Không tích hợp các tính năng bảo mật, mã hóa, chống phá hoại điện tử.
-
Khi mang vào môi trường chiến tranh (xe tăng, tên lửa, UAV):
-
Phải cómạch chuyển đổi, phần mềm điều khiển, bộ ổn áp, tản nhiệtđể chip chịu được môi trường khắc nghiệt.
-
Phải lập trình lại (firmware/software) để chip thực hiện nhiệm vụ khác hoàn toàn với mục đích ban đầu.
-
Hiểu rõ cấu trúc phần cứng – phần mềm.
-
Thiết kế bo mạch trung gian, tối ưu giao tiếp tín hiệu.
-
Kiểm thử trong điều kiện thực chiến.
2. Điều đó nói gì về năng lực kỹ thuật của Nga?
-
Trong bối cảnh bị trừng phạt, Nga không thể dễ dàng nhập chip chuyên dụng.
-
Họ tìm cách tận dụng linh kiện có sẵn trong nước hoặc nhập lậu từ thị trường dân dụng.
-
Nga vốn nổi tiếng về kỹ thuật “dã chiến” vàthiết kế đơn giản nhưng bền bỉ(xe tăng T-34 thời Thế chiến II, hay máy bay Su trong Chiến tranh Lạnh).
-
Văn hóa kỹ sư Nga thường chú trọngtính thực dụng: không cần quá hiện đại, chỉ cần hoạt động được trong điều kiện khó khăn.
-
Vũ khí không cần quá tối tân, miễn là đủ rẻ, đủ bền và sản xuất nhanh để trang bị cho lực lượng lớn.
3. Ví dụ minh họa
-
Drone tự sát (UAV) của Nga:nhiều mẫu được phát hiện có linh kiện GPS dân dụng, camera hành trình, bo mạch Arduino hoặc STM32… nhưng vẫn hoạt động và gây thiệt hại thực tế trên chiến trường.
-
Hệ thống liên lạc:dùng IC từ radio dân dụng, điều chỉnh firmware để làm thiết bị mã hóa tạm thời.
4. Ý nghĩa lớn hơn
-
Trong chiến tranh hiện đại,khả năng sáng tạo và tận dụng tài nguyênquan trọng không kém sở hữu công nghệ cao.
-
Dù chip dân dụng có hạn chế, nhưng nếu biếttối ưu thiết kế, che chắn, lập trình, nó vẫn đáp ứng một phần nhu cầu.
Bạn nói đúng — việc Nga tích hợp chip dân dụng vào vũ khí mà vẫn dùng hiệu quả trên chiến trường cho thấy họ có năng lực kỹ thuật cao, khả năng sáng tạo và tối ưu đáng nể, dù tính năng của thiết bị có thể không đạt chuẩn cao cấp.
SỰ ĐƠN GIẢN – KHI THẾ GIỚI CHẠM NGƯỠNG CỦA SỰ TINH TẾ
Có một nghịch lý lặng lẽ mà mạnh mẽ trong thế giới công nghệ – rằng đơn giản mới là tối thượng. Từ những cỗ máy từ thế kỷ trước đến các hệ thống hiện đại bậc nhất, qua từng cuộc chiến công nghệ, người ta dần nhận ra: sự đơn giản không chỉ là đẹp, mà còn là bền vững, đáng tin cậy và vượt thời gian.
Nhớ lại cuộc chiến huyền thoại giữa hai định dạng băng hình: VHS và Betamax trong thập niên 70–80, Betamax của Sony có chất lượng hình ảnh vượt trội, kích thước nhỏ gọn hơn, nhưng VHS của JVC – đơn giản, rẻ hơn và dễ sản xuất hơn – đã chiến thắng thị trường toàn cầu. Betamax sau đó chỉ còn được dùng trong các ứng dụng chuyên dụng và đắt tiền như truyền hình hoặc quân đội. Đây là một ví dụ điển hình: cái tốt hơn về kỹ thuật chưa chắc là cái phù hợp hơn với thực tế.
Cuộc chiến sau đó giữa Blu-ray và HD DVD tiếp tục tái hiện bài học cũ: phần thắng nghiêng về hệ thống có hệ sinh thái đơn giản, phổ biến và nhanh chóng đạt được sự hỗ trợ đại chúng. Nhưng rồi, cả hai đều bị lưu trữ đám mây vượt mặt – một phương thức không cần ổ quang, không cần thiết bị vật lý, càng đơn giản càng tiện dụng. Càng tiến tới, thế giới càng rút gọn mọi thứ.
Tuy nhiên, giữa làn sóng “phi vật lý hóa” ấy, ổ cứng từ tính (HDD) vẫn trụ lại vững vàng. Bởi vì dù SSD nhanh, không tiếng ồn, nhỏ gọn, nhưng vẫn có một điểm yếu chí tử: số lần ghi đọc bị giới hạn. Khi SSD chết, dữ liệu nhiều khi “bốc hơi” không để lại dấu vết. Trái lại, ổ cứng từ tính có thể khôi phục được dữ liệu ngay cả khi đầu từ hỏng, mạch cháy, hoặc cơ chế quay bị kẹt. Hơn nữa, lưu trữ từ tính cũng là hình thức được lựa chọn cho các sứ mệnh không gian mang tính lịch sử – như tàu Voyager 2, với bộ nhớ lõi từ tính đã hoạt động bền bỉ hơn 45 năm trong môi trường vũ trụ khắc nghiệt, tiếp tục gửi tín hiệu từ rìa hệ Mặt Trời. Khi thời gian là kẻ thù, thì sự đơn giản, ổn định mới là bạn đồng hành.
Trong quân sự, bài học này càng rõ ràng hơn. Radar công suất lớn, muốn phát tín hiệu vài megawatt, vẫn phải dùng bóng đèn điện tử (vacuum tube) – chứ không phải transistor hay IC hiện đại. Những hệ thống như radar P-14 của Liên Xô cũ vẫn hoạt động suốt nhiều thập niên chỉ nhờ thiết kế thuần túy bằng đèn điện tử, to lớn nhưng dễ sửa, chống xung điện từ tốt.
Hay như máy bay MiG-25, bay trên Mach 2.8, khung bằng thép, hệ thống điện tử bên trong toàn đèn điện tử – chịu nhiệt, chịu bức xạ, và không sợ hỏng do EMP (xung điện từ hạt nhân). Trong khi đó, chiếc B-2 Spirit, đỉnh cao của công nghệ tàng hình Mỹ, lại phải né mưa vì nước mưa ảnh hưởng đến lớp sơn RAM và hệ thống vi mạch bên trong.
Và rồi vẫn còn đó ông lão B-52 Stratofortress, sinh ra từ thời cơ khí, dùng logic TTL, flip-flop cổ điển, ít phụ thuộc vào phần mềm hay hệ thống điện tử phức tạp, vẫn bay được đến tận thập niên 2050, sau khi B-1B và B-2 đã “nghỉ hưu”.
Còn trong thế giới không người lái, khi Mỹ phô diễn hàng loạt UAV đắt đỏ như RQ-170 Sentinel, MQ-9 Reaper hay MQ-4C Triton, thì trên chiến trường, những chiếc Geran-2 (Shahed-136), Lancet hay Forpost do Nga sử dụng lại rẻ hơn hàng chục lần, có thể được chế tạo với máy ảnh Nikon D7200 làm hệ thống ngắm. Vì bản chất, chiến tranh không cần thứ đắt tiền – chỉ cần thứ đủ dùng, bền bỉ và sản xuất được hàng loạt. Đơn giản là một loại sức mạnh.
Và như vòng lặp lịch sử, Betamax – như Reaper, quá phức tạp cho mục tiêu đơn giản. VHS – như Geran-2, rẻ, đại trà, đúng mục đích.
Sự đơn giản không có nghĩa là ngu ngốc. Nó đòi hỏi cái nhìn sâu sắc để bỏ bớt những điều không cần thiết. Sự đơn giản – như ngôn ngữ của thiên nhiên, của các nguyên lý vật lý cơ bản – mang vẻ đẹp tinh tế, gọn gàng mà mạnh mẽ. Không ồn ào, không khoa trương, nhưng bền bỉ và hiệu quả.
Khi mọi thứ trở nên quá phức tạp, điều người ta cần chính là một giải pháp đơn giản – và hoạt động được. Và đó cũng là điều khiến sự đơn giản không bao giờ lỗi thời.
(Lý Thanh Hà)
Năm 2024, thế giới lần đầu tiên chứng kiến trí tuệ nhân tạo không chỉ hỗ trợ con người trong công việc mà còn đưa ra những quyết định quan trọng trên chiến trường. Sự phát triển ở bước tiếp theo của “dự án Granit” không chỉ là một đột phá công nghệ, mà còn là một cuộc cách mạng trong quân sự, khi mà những tên lửa hành trình hoạt động như những thực thể thông minh độc lập.
Trở lại năm 2015, tên lửa hành trình Kalibr đã khiến cả thế giới kinh ngạc về độ chính xác của chúng khi bay từ vùng biển Caspi tấn công các mục tiêu điểm ở Syria. Nhưng ngày nay, những người em của chúng từ dự án Granit đang làm nên những điều phi thường:
- Có khả năng phân chia mục tiêu độc lập trong một nhóm khoảng 20 tên lửa;
- Có thể tự động thay đổi quĩ đạo bay nếu mất kết nối với Trung tâm Chỉ huy;
- Có thể chọn mục tiêu tấn công theo mức độ ưu tiên được thiết lập trước;
- Có khả năng phối hợp tấn công theo thời gian thực.
Nghĩa là nhóm tên lửa này giống như một đàn ong, mỗi cá thể đều biết nhiệm vụ của mình, nhưng đồng thời cả đàn lại được kiểm soát chặt chẽ bởi sự phối hợp tập thể.
Bộ não của những tên lửa này được xây dựng trên cơ sở mạng AI Grom-2M, xử lý dữ liệu từ 14 nhóm cảm biến của tên lửa. Trong 1 giây, bộ não này có thể phân tích 2400 thông số bay, so sánh 1500 mẫu mục tiêu tham chiếu và dự đoán diễn biến tình huống để đưa ra phương án phối hợp tấn công. Các kỹ sư của NPO Mashinostroeniya đã đưa công nghệ được thiết kế cho tàu con thoi Buran vào dự án Granit.
Trong cuộc tập trận ở vùng Astrakhan vào tháng 3/2024, một nhóm 16 tên lửa được giao nhiệm vụ tiêu diệt 3 tổ hợp phòng không, 2 sở chỉ huy, 5 cụm thiết bị quân sự. Khi nhóm tên lửa này tiếp cận khu vực chiến đấu thì một sở chỉ huy đã bị pháo binh phá hủy trước đó, đồng thời một trạm radar mới xuất hiện ngoài phương án. Nhóm tên lửa này đã xác định và phân chia lại mục tiêu theo thời gian thực, trong đó chuyển hướng 01 tên lửa đến trạm radar mới được phát hiện. Kết quả là tất cả các mục tiêu đã bị bắn trúng với độ chính xác 1,5 mét.
Tạp chí Defense News của Mỹ đã thừa nhận rằng những phát triển tương tự của Lầu Năm Góc đã chậm hơn ít nhất 5 năm.
Kỹ sư trưởng của dự án, Alexey Vorontsov, đã phát biểu: “Chúng tôi dạy tên lửa không chỉ bay theo chương trình mà còn phải hiểu được bản chất của nhiệm vụ chiến đấu, giống như một người lính trên chiến trường”.
(Hà Huy Thành)
-
Tự động,phản ứng nhanhvới số lệnh ít hơn.
-
Chạyphần mềm được tối ưu hóacho nhiệm vụ cụ thể, trên kiến trúc đơn giản, dễ kiểm tra.
-
Tối ưu cơ khí, radar chủ động, đầu dò bán chủ động hoặc thụ động (giảm phụ thuộc xử lý trung tâm).
2. Vi xử lý của Nga yếu nhưngvẫn đủ mạnh cho nhiệm vụ quân sự
-
Ví dụ: hệ thống điều khiển tên lửa 9M96 (S-400) sử dụngbộ vi điều khiển lạc hậu theo chuẩn "ruggedized", nhưng:
-
Có tốc độ phản ứng rất nhanh (ít hơn 4 giây).
-
Không cần giao tiếp liên mạng hay AI như Mỹ.
-
Nga còn có truyền thống dùng vi mạch FPGA tự phát triển hoặccopy vi kiến trúc ARM, MIPS, gói trong module quân sự chống nhiễu, chịu nhiệt và radiation-hardened.
3. Mỹ có chip mạnh hơn, nhưng vũ khí không hẳn luôn vượt trội hơn
-
Vũ khí Mỹ (như F-35, Patriot, GMD...) sử dụng chip mạnh, nhiều cảm biến và hệ thống mạng hóa (sensor fusion), điều nàytăng hiệu suất nhưng cũng tăng độ phức tạp, chi phí và rủi ro khi bị nhiễu loạn thông tin.
-
Trong chiến tranh điện tử hoặc tác chiến phi đối xứng, hệ thống "tối giản nhưng thông minh" như của Ngathường sống sót tốt hơn.
-
Mỹ thường thiết kế theo hướng “tác chiến theo mạng – joint force”, nghĩa là mọi hệ thống phụ thuộc lẫn nhau. Điều này có thể dẫn đến "gãy chuỗi" nếu 1 mắt xích bị vô hiệu hóa.
4. So sánh hiệu quả thực tế (ví dụ: S-400 vs Patriot PAC-3)
-
S-400có khả năng theo dõi >80 mục tiêu cùng lúc, sử dụng radar mạnh hơn, vàđược xuất khẩu rộng rãi (Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ...), được đánh giá làphòng không toàn diện, đa tầng hiệu quả hơn Patriot.
-
Patriot PAC-3có phần mềm phức tạp, dễ bị đánh lừa bằng mồi nhử (decoy), hiệu quả ở mức trung bình trong chiến trường thực tế (ví dụ ở Ả Rập Saudi bị drone phá thủng dù triển khai đầy đủ hệ thống).
Kết luận
Có rất nhiều người tranh cãi nhau về Kỹ thuật nói chung, vũ khí nói riêng của Nga và Mỹ. Những bạn "fan Mỹ" thì một mực cho rằng Nga "lạc hậu" hơn Mỹ về KTCNC như điện tử, bán dẫn, chip... nên vũ khí chắc chắn đi sau và kém hơn. Dĩ nhiên các bạn "fan Nga" cũng khó phản bác vì có định kiến rộng rãi như thế.Sáng nay nhà cháu uống cà phê với anh bạn hàng xóm cũng nhân chuyện Ukraine vs Nga thì nói về vũ khí Nga-Mỹ, cái kết là anh bạn (me Mỹ hơi nặng) luyên thuyên một hồi công nghệ Mỹ và chốt một câu, vũ khí Mỹ là vô đối, Nga "ngố" xách dép nhé (!?)Thôi thì chưa hiểu lắm về thực tế vũ khí của Nga so với Mỹ khi có thể họ đi sau Mỹ về công nghệ bán dẫn, chip nhà cháu quyết định hỏi chuyên gia chatbox AI made in us chính hãng và bạn ấy đã trả lời như sau:Q: Nga thiết kế điện tử, sản xuất chip tương đối lạc hậu nhưng vẫn chế tạo được hệ thống vũ khí tối tân, hiện đại như S-400, S-500, vậy Hoa kỳ có chip mạnh hơn thì vũ khí phải đi trước Nga chứ?ChatGPT:Câu hỏi của bạn rất sâu sắc và phản ánh đúng một nghịch lý tưởng chừng như mâu thuẫn:Nga được coi là tụt hậu về công nghệ vi mạch, nhưng lại chế tạo được các hệ thống vũ khí hiện đại, sánh ngang (thậm chí vượt) Mỹ trong một số lĩnh vực như phòng không, tác chiến điện tử, siêu vượt âm.... Giải thích điều này cần phân tích từ nhiều khía cạnh kỹ thuật, chiến lược và triết lý thiết kế:1. Triết lý thiết kế vũ khí Nga khác hoàn toàn với Mỹ
Triết lý ưu tiênNga: Đơn giản – bền bỉ – chịu đựng môi trường khắc nghiệtMỹ: Tối ưu hóa – độ chính xác – tích hợp công nghệ caoMức độ tự động hóaNga: Cao, nhưng phần mềm thường đơn giản, ít tầngMỹ: Phức tạp, xử lý nhiều tình huống mềmThiết kế phần cứngNga: Ưu tiên analog, mạch số mức thấp kết hợp cơ cấu cơ họcMỹ: Full digital, phụ thuộc mạnh vào vi xử lý cao cấpKhả năng kháng chiến tranh điện tửNga: Rất cao, có thể hoạt động không cần liên kết dữ liệu liên tụcMỹ: Cao, nhưng nhiều hệ thống phụ thuộc vào mạng lưới→Nga không cần vi xử lý quá mạnh, vì hệ thống được thiết kế để:
Tự động,phản ứng nhanhvới số lệnh ít hơn.
Chạyphần mềm được tối ưu hóacho nhiệm vụ cụ thể, trên kiến trúc đơn giản, dễ kiểm tra.
Tối ưu cơ khí, radar chủ động, đầu dò bán chủ động hoặc thụ động (giảm phụ thuộc xử lý trung tâm).
2. Vi xử lý của Nga yếu nhưngvẫn đủ mạnh cho nhiệm vụ quân sự
Ví dụ: hệ thống điều khiển tên lửa 9M96 (S-400) sử dụngbộ vi điều khiển lạc hậu theo chuẩn "ruggedized", nhưng:
Có tốc độ phản ứng rất nhanh (ít hơn 4 giây).
Không cần giao tiếp liên mạng hay AI như Mỹ.
Nga còn có truyền thống dùng vi mạch FPGA tự phát triển hoặccopy vi kiến trúc ARM, MIPS, gói trong module quân sự chống nhiễu, chịu nhiệt và radiation-hardened.Thay vì tăng tốc độ xử lý,Nga tối ưu thuật toán điều hướng, phần cứng analog + bán tự động.
3. Mỹ có chip mạnh hơn, nhưng vũ khí không hẳn luôn vượt trội hơn
Vũ khí Mỹ (như F-35, Patriot, GMD...) sử dụng chip mạnh, nhiều cảm biến và hệ thống mạng hóa (sensor fusion), điều nàytăng hiệu suất nhưng cũng tăng độ phức tạp, chi phí và rủi ro khi bị nhiễu loạn thông tin.
Trong chiến tranh điện tử hoặc tác chiến phi đối xứng, hệ thống "tối giản nhưng thông minh" như của Ngathường sống sót tốt hơn.
Mỹ thường thiết kế theo hướng “tác chiến theo mạng – joint force”, nghĩa là mọi hệ thống phụ thuộc lẫn nhau. Điều này có thể dẫn đến "gãy chuỗi" nếu 1 mắt xích bị vô hiệu hóa.
4. So sánh hiệu quả thực tế (ví dụ: S-400 vs Patriot PAC-3)
S-400có khả năng theo dõi >80 mục tiêu cùng lúc, sử dụng radar mạnh hơn, vàđược xuất khẩu rộng rãi (Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ...), được đánh giá làphòng không toàn diện, đa tầng hiệu quả hơn Patriot.
Patriot PAC-3có phần mềm phức tạp, dễ bị đánh lừa bằng mồi nhử (decoy), hiệu quả ở mức trung bình trong chiến trường thực tế (ví dụ ở Ả Rập Saudi bị drone phá thủng dù triển khai đầy đủ hệ thống).
Kết luận
Ngatận dụng sự đơn giản, bền bỉ và tính tối ưu hóa cục bộđể vượt qua hạn chế công nghệ chip.
Mỹ có chip mạnh, công nghệ cao nhưng dễ lệ thuộc vào hệ thống lớn, phức tạp.
Vũ khí hiệu quả không phụ thuộc duy nhất vào sức mạnh phần cứng, mà làtổng thể giữa thiết kế – độ tin cậy – môi trường sử dụng – triết lý chiến đấu.
(Trần Lộc)
Bổ sung chút cho bài trên
1) Nga không chỉ dùng mạch analog, mà còn kết hợp cả digital, trong đó có vi xử lý số thông thường (microprocessor), vi điều khiển (microcontroller), và mạch lập trình được (FPGA - Field-Programmable Gate Array – Mảng cổng logic lập trình được tại hiện trường). Tuy nhiên, họ sử dụng digital một cách có chọn lọc, phù hợp với triết lý thiết kế "tối giản nhưng hiệu quả", thay vì theo đuổi công nghệ tiên tiến nhất bằng mọi giá như Mỹ.
Dù nổi tiếng với thiết kế đơn giản và phần cứng analog mạnh, Nga không bỏ qua digital, mà:
- Tự sản xuất một số FPGA trong nước (dòng K1986, K1829…).
- Copy và chỉnh sửa các kiến trúc ARM, MIPS từ phương Tây.
- Ví dụ với riêng loại FPGA (một loại vi mạch số rất linh hoạt, được Nga sử dụng rộng rãi trong công nghiệp quốc phòng.), Nga dùng FPGA để:
+ Xử lý radar.
+ Mã hóa thông tin liên lạc quân sự.
+ Tạo bộ điều khiển cho tên lửa/robot.
+ Chống gây nhiễu (electronic counter-countermeasures – ECCM).
Nga cũng tự phát triển FPGA hoặc dùng đồ Trung Quốc/Iran trong một số hệ thống.
Nga không chỉ phát triển/sử dụng FPGA mới mà còn tái sử dụng công nghệ cũ rồi cải tiến nâng cấp lên, theo hướng “bền – đơn nhiệm – tối ưu”.
2) Nga thiết kế hệ thống theo tư tưởng phản ứng nhanh – gọn – ít phụ thuộc.
Nga thường tối ưu bằng cách kết hợp analog + digital: cái gì làm tốt bằng analog thì dùng analog (ví dụ: lọc tín hiệu), cái gì cần xử lý logic thì dùng FPGA hoặc vi điều khiển đơn nhiệm.
Nghĩa là Nga không “chỉ dùng analog”, mà dùng cả digital, tư tưởng chung là hướng về đơn giản – hiệu quả – dễ kiểm soát.
Chú thích thêm là có nhiều trường hợp mạch analog dễ chống nhiễu hơn mạch digital (dù dĩ nhiên không phải lúc nào cũng vậy, nó phụ thuộc vào loại nhiễu, mục tiêu của hệ thống, và cách thiết kế).
Nói chung thì Analog chống nhiễu tốt hơn trong các hệ thống đơn nhiệm, cần phản ứng nhanh, hoạt động trong môi trường khắc nghiệt. Còn Digital ưu việt hơn khi cần xử lý logic phức tạp, kiểm tra lỗi, kết nối mạng – nhưng dễ bị tấn công và gây nhiễu nếu không có bảo vệ tốt.
Nga ưu tiên độ tin cậy cao hơn tốc độ.
3) Nga đầu tư vào AI, mạng hóa, đa nhiệm trong quân sự nhưng không theo kiểu cực đoan như Mỹ.
Nga đang tích cực ứng dụng AI, xử lý tín hiệu số, và thậm chí cả chiến tranh mạng (cyber warfare) trong các hệ thống UAV, tên lửa hành trình thông minh, và tác chiến điện tử tự động,
Ví dụ
- UAV (Máy bay không người lái):
S-70 Okhotnik-B (thường phối hợp với Su-57):
Có khả năng bay tự động theo cụm, chia vai trò tấn công/phòng thủ.
Sử dụng thuật toán học máy để nhận diện radar, mục tiêu, và chọn phương án tiếp cận.
Có mô hình tự hành độc lập (autonomous strike mode) – nghĩa là được trang bị AI điều hướng và chiến đấu mà không cần điều khiển con người liên tục.
Lancet & ZALA loitering munition:
Dù có vẻ đơn giản, nhưng trong bản nâng cấp, Nga đã tích hợp thị giác máy tính (computer vision) để phân biệt mục tiêu thật/giả, đánh lừa mồi nhử.
Có khả năng tự nhận diện thiết bị quân sự theo kiểu học sâu trên chip ARM/MIPS nhẹ.
- Tên lửa thông minh: AI cho điều hướng và đối kháng điện tử
Tên lửa hành trình tầm xa như Kh-101, Kalibr, và các biến thể mới:
Tích hợp bản đồ số địa hình 3D + thuật toán nhận dạng địa hình (TERCOM/DSMAC tương tự Mỹ).
Có khả năng cập nhật đường bay linh hoạt khi bị phát hiện radar.
Một số biến thể sử dụng mô hình xử lý mồi nhử và chiến tranh điện tử, nghĩa là: Nhận diện tín hiệu giả, Ra quyết định theo hành vi học được (AI pattern-based decision logic).
- Nga tăng cường mạng hóa & hợp nhất cảm biến, dù không theo kiểu Mỹ
Kiểu Mỹ: Tích hợp toàn bộ: F-35 → UAV → vệ tinh → radar mặt đất → điều khiển từ xa (sensor fusion + C4ISR).
Kiểu Nga: Không sao chép hoàn toàn mô hình đó, nhưng đã có các phiên bản chiến đấu "liên kết lỏng" (loosely networked warfare), ví dụ
+ Su-57 + Okhotnik-B + radar mặt đất + tên lửa S-350/S-400 phối hợp bán tự động.
+ Có hệ thống trao đổi dữ liệu tầm ngắn, sử dụng mã hóa thay vì kết nối liên tục như Mỹ (giảm nguy cơ bị hack/jamming).
+ S-500 Prometey tích hợp nhiều tầng radar và đánh chặn mục tiêu siêu thanh – có thể coi là 1 hình thức sensor fusion tối giản
- AI trong tác chiến điện tử (ECM & ECCM)
Nga vốn nổi tiếng về chiến tranh điện tử (Krasukha-4, Murmansk-BN...), và giờ:
Tích hợp AI để phân tích phổ tần số, xác định nguồn phát, và lựa chọn phương án gây nhiễu tối ưu.
Có hệ thống tự động học hành vi phản ứng của radar đối phương, và thay đổi chiến thuật ECM theo thời gian thực.
Các hệ thống mới có khả năng “deep spoofing” – gây nhầm lẫn AI của UAV địch bằng dữ liệu giả.
- Tích hợp AI trong việc mở rộng khả năng đa nhiệm tự động
+ AI giúp các hệ thống tự học, tự ưu tiên tác vụ.
+ UAV như Okhotnik-B có thể tự chia vai trò (leader/follower), tấn công xen kẽ, tự tránh radar.
+ Radar mặt đất AESA mới (Nebo-M, Niobium) có thể:
+ Quét nhiều băng tần.
+ Ưu tiên mục tiêu nguy hiểm nhất.
+ Tự giao việc cho tổ hợp tên lửa phù hợp.
Nói chung đa nhiệm (multifunctionality/multirole) trong kỹ thuật vũ khí kiểu Nga khác với Mỹ, nhưng không làm kiểu “tất cả trong một khối cực phức tạp” như Mỹ.
Nga thiên về tối ưu hóa từng thành phần để có thể đa nhiệm hiệu quả, bền, dễ vận hành. Đa nhiệm của Nga thiên về:
+ Chiến thuật và phối hợp giữa các hệ thống.
+ Phần mềm tối ưu, không cần vi xử lý quá mạnh.
+ Kiến trúc mở – có thể chia nhỏ nhiệm vụ và phối hợp qua link data, AI phân tán.
- Tóm lại, Nga không từ chối AI hay mạng hóa, mà:
+ Đi sau nhưng có chọn lọc, tập trung vào các ứng dụng có hiệu quả chiến thuật cao mà không làm tăng điểm yếu hệ thống.
+ Ưu tiên AI trên thiết bị đơn lẻ (edge AI): UAV, đầu dò tên lửa, hệ thống radar, ECM – không phụ thuộc cloud hay mạng liên tục như Mỹ.
- Triết lý Nga hiện đại thiên về:
+ “Tối giản hệ thống – nhưng không tối giản tư duy”
+ Hệ thống có thể đơn giản, nhưng quyết định trong đó có thể phức tạp, AI hóa, và thích nghi chiến trường.
Bom lượn UMBP-5 mới dành cho Su-34 hóa ra là hậu duệ của D-30SN từ hệ thống pháo phản lực phóng loạt Tornado-S.
04/08/2025
Đạn lượn này đã được trang bị hệ thống ngắm bắn hiện đại.
Quân đội Nga đã nhận được bom lượn UMBP-5 mới, một phiên bản phát triển tiếp theo của đạn D-30SN từ hệ thống pháo phản lực phóng loạt Tornado-S.
UMBP-5 có đầu đạn lớn hơn và vỏ bọc chắc chắn hơn so với phiên bản D-30SN. Loại đạn mới này cũng có tầm bắn xa hơn nhờ hệ thống dẫn đường và cánh được cải tiến.
Hiện chưa có thông số kỹ thuật chính thức cho các loại đạn mới. Theo các nguồn tin công khai, tầm bắn của UMBP-5 phụ thuộc vào phương pháp sử dụng.
Khoảng 90–120 km khi thả từ máy bay ở độ cao bình thường (10–12 km, tốc độ 900–1000 km/h), lên tới 145–160 km khi thả từ độ cao lớn và tốc độ cao hơn (~13.500 m, 1250–1350 km/h), từ 270 đến 320 km nếu được sử dụng làm bệ phóng cho hệ thống pháo phản lực phóng loạt 300 mm.
(www1.ru)
UAV đánh chặn mới của Nga cũng mang tên Kinzhal. Đây là một trong những loại UAV Nga dùng để đánh chặn UAV
Nga ra mắt UAV đánh chặn mới
Chủ nhật, 10/08/2025
Trung tâm Hệ thống và Công nghệ Không người lái Nga (CBST) vừa giới thiệu loạt máy bay không người lái (UAV) đánh chặn chuyên dụng mới tại Diễn đàn “Archipelago-2025” ở Skolkovo.
Các mẫu trưng bày có thiết kế khí động học và cấu trúc đa dạng, trong đó một số tương tự giải pháp từng xuất hiện trên UAV đánh chặn của Ukraine.
Một trong những sản phẩm nổi bật là Skvorets-PVO được trang bị khả năng cất cánh thẳng đứng và hệ thống ngắm tự động dựa trên trí tuệ nhân tạo, có thể đạt tốc độ tới 270km/h.
Mẫu UAV Kinzhal cũng được giới thiệu, với tốc độ tối đa khoảng 300km/h, khả năng tự động tấn công mục tiêu và tích hợp vào mạng lưới phát hiện UAV tự động.
Máy bay không người lái đánh chặn Skvorets-PVO và Kinzhal của Nga được trưng bày (Ảnh: United24).
Ngoài ra, CBST còn trưng bày hệ thống đánh chặn BOLT, nằm trong tổ hợp chống UAV quy mô lớn gồm radar phát hiện mục tiêu, nhận dữ liệu chỉ thị từ người vận hành hoặc hệ thống radar phòng không.
Bên cạnh các thiết bị trên không, CBST còn giới thiệu Krestnik-M, loại UAV tấn công các mục tiêu di động trên biển, có thể phóng từ đất liền, tàu hoặc máy bay. Mẫu này sử dụng thiết kế đuôi chữ V, cánh thẳng có thể mở ra sau khi phóng.
Một mẫu khác là Ovod-PVO, UAV 4 cánh quạt đa nhiệm có thể mang theo đạn động năng hoặc hệ thống kích nổ tích hợp.
Trước đó, các báo cáo cho biết lực lượng Nga, đặc biệt là đơn vị Rubicon, đã áp dụng chiến thuật chống UAV do Ukraine tiên phong, giúp nâng cao đáng kể hiệu quả bắn hạ các UAV trinh sát của Ukraine, gồm Leleka, Horlytsia, Shark và FlyEye.
https://dantri.com.vn/the-gioi/nga-ra-mat-uav-danh-chan-moi-20250810145721232.htm
"Phong lữ" sẽ trông như một bông hoa: Máy bay không người lái cảm tử "Gerbera" lần đầu tiên được trang bị hệ thống dẫn đường quang học
18 tháng 4 năm 2025
Trước đây, máy bay không người lái được dẫn đường đến mục tiêu bằng mô-đun dẫn đường vô tuyến.
Máy bay không người lái cảm tử Gerbera tàng hình của Nga đã bắt đầu tự dẫn đường đến mục tiêu bằng hệ thống dẫn đường quang học. Đoạn phim đầu tiên về máy bay không người lái tấn công được sử dụng trong cấu hình này đã xuất hiện trực tuyến.
Máy bay không người lái cảm tử Gerbera
Trong video được công bố, có thể thấy máy bay không người lái, dưới sự điều khiển của người điều khiển, "ngắm bắn" vào xe bọc thép và bắn trúng chính xác vào phần đuôi xe, khiến đầu đạn phát nổ.
Máy bay không người lái Gerbera được phát triển bởi Cục Thiết kế Gastello. Theo thông tin từ các nguồn mở, nó có tầm bắn hiệu quả 300-400 km, trọng lượng đầu đạn 5-7 kg và mô-đun dẫn đường vô tuyến.
"Gerbera" cũng có khả năng hoạt động như một mục tiêu giả, qua đó đánh lạc hướng hệ thống phòng không của đối phương.
(www1.ru)
UAV trinh sát đa năng VIT-2 lắp tháp pháo được phát triển tại Nga
Ngày 1 tháng 4 năm 2025
UAV này có khả năng nắm bắt và theo dõi các mục tiêu trên mặt đất trong khi bay
Công ty Vitres của Nga đã phát triển một loại máy bay không người lái (UAV) mới phục vụ trinh sát quang điện tử, mang tên VIT-2. Phương tiện cất cánh thẳng đứng này được thiết kế để thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ trinh sát trên không.
UAV trinh sát VIT-2
VIT-2 được phóng mà không cần sử dụng máy phóng, giúp đơn giản hóa đáng kể quá trình chuẩn bị bay.
UAV được trang bị mô-đun quang điện tử lắp tháp pháo, cho phép bắt giữ và theo dõi các mục tiêu trên mặt đất trong khi bay, đảm bảo độ chính xác và độ tin cậy cao của dữ liệu.
Do tính linh hoạt, VIT-2 lý tưởng để thực hiện các nhiệm vụ phát hiện, phân loại mục tiêu và chỉ định mục tiêu cho vũ khí hỏa lực trong các hệ thống trinh sát và tấn công.
Ưu điểm: cất cánh thẳng đứng ở chế độ quadcopter (VTOL), zoom quang 6x, giữ mục tiêu "đã bắt" mà không cần sự can thiệp của người điều khiển, khả năng bay trong điều kiện tác chiến điện tử (UAV).
Đặc điểm của UAV VIT-2:
Thời gian bay lên đến 30 phút, trọng lượng cất cánh lên đến 2,3 kg, tốc độ tối đa 100 km/h, tốc độ bay hành trình 70 km/h, độ cao tối đa 1,5 km, phạm vi truyền tín hiệu điều khiển lên đến 40 km, phạm vi truyền tín hiệu video lên đến 30 km.
(www1.ru)
Hệ thống tác chiến điện tử bay đầu tiên trên thế giới được phát triển tại Nga
Ngày 2 tháng 4 năm 2025
Máy bay không người lái có thể gây nhiễu kênh liên lạc của máy bay không người lái kamikaze của đối phương trong khi bay
Tại vùng Sverdlovsk, các nhà phát triển địa phương đã thử nghiệm thành công máy bay không người lái đầu tiên trên thế giới có khả năng chặn tín hiệu và vô hiệu hóa thiết bị. Thông tin này được báo cáo bởi đại diện của công ty Robotology-Neuro, đơn vị phát minh ra công nghệ cho UAV.
Một trong những lợi thế chính của công nghệ này là hoạt động của máy bay không người lái không bị ảnh hưởng bởi hệ thống tác chiến điện tử (EW) của chính nó.
Điều này có nghĩa là nó có thể thực hiện các chuyến bay tự động theo các tuyến đường được chỉ định với độ chính xác dẫn đường cao, đồng thời triệt tiêu các kênh liên lạc và tín hiệu video của các robot và máy bay không người lái FPV khác.
— Robotology-Neuro
Công nghệ mới cho phép người vận hành điều khiển máy bay không người lái theo thời gian thực, ngay cả khi đang có hệ thống tác chiến điện tử đang hoạt động, bằng cách chọn tần số cần thiết để triệt tiêu tín hiệu vô tuyến.
(www1.ru)












