Binh đoàn xe đạp thồ huyền thoại trong chiến dịch Điện Biên Phủ
Gần 21.000 xe đạp cải tiến, mỗi chiếc chở 200-300 kg, đã góp phần giải quyết bài toán vận tải quân lương, vũ khí cho chiến dịch Điện Biên Phủ.
Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch tổng tiến công vào "pháo đài bất khả xâm phạm" của quân Pháp ở Điện Biên Phủ. Theo tính toán của Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam cùng Tổng cục Cung cấp, để phục vụ hơn 87.000 người ở tuyến đầu (54.000 bộ đội và 33.000 dân công) cần huy động ít nhất 16.000 tấn gạo (chưa kể gạo cho dân công), 100 tấn thịt, 100 tấn rau, 80 tấn muối và khoảng 12 tấn đường...
Nguồn lương thực, thực phẩm cung cấp cho chiến trường chủ yếu được huy động từ các vùng Việt Bắc (Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên), Liên khu 3 (Hải Phòng, Kiến An, Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương) và Liên khu 4 (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế). Hầu hết phải vận chuyển qua chặng đường 500-600 km, phần lớn là đèo dốc hiểm trở, máy bay Pháp thường xuyên dội bom.
Ngày 27/7/1953, Thủ tướng quyết định thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận trung ương do Phó thủ tướng Phạm Văn Đồng làm chủ tịch. Nhiệm vụ là chỉ đạo các cấp ngành ở trung ương và địa phương huy động tối đa sức người, sức của phục vụ cho chiến trường. Ngoài ôtô tải hơn 530 chiếc, một trong những lực lượng chủ lực phục vụ hậu cần cho chiến dịch Điện Biên Phủ là xe thồ.
Binh đoàn xe đạp thồ trên đường ra chiến dịch. Ảnh: TTXVN
Xe đạp thời đó rất hiếm, phổ biến là Peugeot hay Lincon do Pháp sản xuất và chỉ những gia đình giàu có mới có thể sở hữu. Mỗi chiếc Peugeot giá trị bằng cả gia tài, nhưng hưởng ứng lời kêu gọi của Hội đồng cung cấp mặt trận các địa phương, nhiều gia đình không ngần ngại ủng hộ.
Theo thống kê, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, các tỉnh Việt Bắc huy động được hơn 8.000 xe đạp thồ, Liên khu 3 hơn 1.700 xe, Liên khu 4 hơn 12.000 xe.
.................
Nối tiếp truyền thống, sau này ở MB thì xe đạp thồ cũng là lực lượng vận chuyển chủ yếu hàng hóa mãi đến tận tầm năm 1990 thì bớt dần do lúc đó xe máy bãi về nhiều, thay thế dần.
Bài gốc thông tin đầy đủ hơn mời các cụ bấm vào link sau :
https://vnexpress.net/binh-doan-xe-dap-tho-huyen-thoai-trong-chien-dich-dien-bien-phu-4734512.html
Tại Điện Biên Phủ:
Ngày 30/4/1954, Bộ Chỉ huy Mặt trận thông báo các đơn vị biết ngày nổ súng của đợt tiến công thứ 3 là ngày 1/5/1954. Nhiệm vụ của các đơn vị trong đợt tiến công này là:n bay Mường Thanh và khống chế khu vực tương đối rộng nhằm ngăn chặn quân ta tiến công.
Ngày 30/4/1954, Bộ Chỉ huy Mặt trận thông báo các đơn vị biết ngày nổ súng của đợt tiến công thứ 3 là ngày 1/5/1954. Nhiệm vụ của các đơn vị trong đợt tiến công này là:
- Đại đoàn 316: Tiêu diệt điểm cao C1 và giữ vững trận địa đó; đồng thời đánh lấn C2 để phối hợp với trận đánh C1. Nếu điều kiện thuận lợi thì phát triển tiêu diệt C2; chuẩn bị đầy đủ để đánh chiếm những lô cốt quan trọng của địch trong vị trí A1 và chiếm giữ những lô cốt đó.
- Đại đoàn 312: Tiêu diệt cứ điểm 505, 505A. Dùng hỏa lực và một đơn vị nhỏ phối hợp với Đại đoàn 316 chặn viện trong lúc 316 tiêu diệt C1. Chuẩn bị và tiêu diệt vị trí 204.
- Đại đoàn 308: Tiếp tục chuẩn bị và tiêu diệt cứ điểm 311B, đồng thời đánh lấn vị trí 310.
- Trung đoàn 57 Đại đoàn 304: Kiềm chế pháo binh địch và đánh lấn vào khu vực C (Hồng Cúm), nếu có điều kiện thì tiêu diệt khu C, chuẩn bị một tiểu đoàn vận động sang hướng Thượng Lào, tác chiến khi có lệnh.
- Đại đoàn 351: Ngoài nhiệm vụ thường xuyên, phối hợp với bộ binh trong các trận đánh điểm và đánh phản kích.
Trong lúc tiêu diệt A1 và đánh lấn C2, các đơn vị phải chuẩn bị lực lượng và kế hoạch để có điều kiện thuận lợi thì phát triển tiêu diệt C2, tiếp tục phát triển đánh chiếm các cứ điểm của địch còn lại ở phía đông sông Nậm Rốm.
Cùng ngày, các đơn vị đã tổ chức sinh hoạt chính trị, rất nhiều cán bộ, chiến sĩ viết quyết tâm thư gửi lên cấp trên tỏ rõ ý chí quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, giành toàn thắng cho chiến dịch.
Trên chiến trường phối hợp:
Trận Vơn Xai (tỉnh Stung Treng, Campuchia): Tại Campuchia, Tiểu đoàn 436 thuộc Trung đoàn bộ binh 101 (Đại đoàn 325) cùng với các đội vũ trang công tác Việt Nam tại đông bắc Campuchia phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tiến công Vơn Xai. Trước nguy cơ tiêu diệt, địch huy động một đại đội thuộc binh đoàn cơ động số 52 (GM52) đến tăng viện cho Vơn Xai. Tranh thủ địch chưa kịp củng cố công sự, tiểu đoàn 436 tổ chức tập kích bất ngờ, tiêu diệt phần lớn lực lượng đại đội tăng viện, đồng thời sử dụng một trung đội xe bọc thép tiến công tiêu diệt địch ở Vơn Xai, làm chủ trận địa. Hoảng sợ trước sức tiến công của liên quân Việt Nam - Campuchia, địch ở Bò Khăm, Bò Kẹo, Lôm Phắt rút chạy. Cả một vùng rộng lớn ở đông bắc Campuchia, từ Vơn Xai đến biên giới phía bắc Tây Nguyên được giải phóng.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp giao nhiệm vụ chiến đấu cho các đơn vị tại Sở chỉ huy Mặt trận Điện Biên Phủ (Ảnh: TTXVN)
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, có rất nhiều mệnh lệnh đầy tính nhân văn được đưa ra, thể hiện sự quan tâm của Đảng, của Bộ tư lệnh tới các chiến sĩ, đồng thời cũng như lời hiệu triệu ý chí chiến đấu của bộ đội ta. “Mặc quần áo mới” là một “mệnh lệnh” như vậy. Cuốn “Chiến thắng Điện Biên Phủ (Ký sự)”, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân có ghi lại mệnh lệnh đặc biệt này với những kiến giải mang tính lịch sử: “Ngày 30/3, phần lớn các chiến sĩ đều mặc quần áo mới. Đối với các chiến sĩ, ngày chiến đấu là một ngày hội đặc biệt. Có nhiều đơn vị đã qua mấy tháng dòng chuẩn bị. Các chiến sĩ đã sống hàng tháng trong những căn hầm chật hẹp tại trận địa. Đêm này sang đêm khác, phải lần mò vào giáp vị trí địch, dầm mình dưới những trận bão thép đề tạo nên từng mét đường hào. Hôm nay, giờ chiến đấu đã đến!
Sức khỏe bị giảm sút dần sau những ngày làm việc nặng nhọc và căng thẳng. Họ đã mong đợi từng phút cho thời gian chuẩn bị qua đi.”
Với những chiến sĩ tham gia trận Điện Biên Phủ đầy ác liệt, mỗi trận đánh là một lần bước tới lằn ranh sinh tử, ở đó không có chỗ cho sợ hãi hay đắn đo, mà chỉ có ý chí quyết chiến quyết thắng bất chấp gian khổ hy sinh. Chính bởi vậy, khi ra trận, các chiến sĩ được mặc bộ quân phục sạch đẹp để sẵn sàng hy sinh cho một chiến thắng đầy vẻ vang của đất nước.
Ngày xuất bản: 30/4/1954
Nội dung: Trung tá, ThS Nguyễn Quốc Hùng - Viện Lịch sử quân sự, Ngọc Bách Thu
Trình bày: HÙNG HIẾU
Ảnh: TTXVN
Mấy hôm nay cả nước nắng nóng kỷ lục.
Để giải nhiệt đỡ nắng nực, mời các cụ chiêm ngưỡng hình ảnh đẹp của các người đẹp Miền Nam tham gia lễ diễu binh kỷ niệm 70 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Để bắt nhịp với các khối tham gia diễu binh, diễu hành trong thời gian tập luyện cường độ cao cùng thời tiết nắng nóng khắc nghiệt tại Trung tâm Huấn luyện quân sự quốc gia 4 (TB4) và tại tỉnh Điện Biên, những bóng hồng phương Nam đã luôn tập trung cao độ, kiên trì hoàn thành tốt các nội dung huấn luyện.
Đại tướng Phan Văn Giang - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Đại tướng Tô Lâm - Bộ trưởng Bộ Công an, kiểm tra, động viên khối nữ Du kích miền Nam trong buổi hợp luyện tại TB4, ngày 4/4.
Sau khi cơ động lên Điện Biên cùng các lực lượng khác tiếp tục luyện tập, khối nữ Du kích miền Nam luôn được người dân Điện Biên háo hức quan tâm.
Một vài hình ảnh chị em tập luyện. Xinh ơi là xinh.
Bài và ảnh đầy đủ mời các cụ xem ở link dưới đây :
17 giờ ngày 1/5/1954, các trận địa pháo của ta bắn phá mãnh liệt vào nhiều khu vực còn lại tập đoàn cứ điểm của địch. Kết quả, cụm pháo địch ở Hồng Cúm bị tê liệt hoàn toàn, một kho đạn bị phá hủy với 3.000 viên, một kho lương thực, thực phẩm bốc cháy. Đợt pháo kích kéo dài gần một giờ đồng hồ, bộ đội ta đồng loạt tiến đánh nhiều vị trí.
Trên dãy đồi phía đông, Trung đoàn 98 (Đại đoàn 316) nhanh chóng tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm C1 (Eliane 1), thừa thắng đẩy mạnh vây lấn và chuẩn bị tiêu diệt C2 (Eliane 4), đồng thời củng cố trận địa vừa chiếm được, sẵn sàng đập tan các cuộc phản kích của địch. Trên bờ phía đông sông Nậm Rốm, Trung đoàn 209 (Đại đoàn 312) tiến công các cứ điểm 505 và 505A (Dominique 3), tiêu diệt 1 đại đội lính An-giê-ri.
Ở phía tây, Trung đoàn 88 (Đại đoàn 308) tiêu diệt gọn 1 đại bộ binh lê dương, hoàn toàn chiếm lĩnh cứ điểm 311A (Huguette 5). Ở phía nam, Trung đoàn 57 của Đại đoàn 304 tiêu diệt một bộ phận địch tại khu C trong cụm cứ điểm Hồng Cúm.
* Trong cuốn: Henri Navarre,Thời điểm của những sự thật (Trích Hồi ký của Tướng Navarre về Điện Biên phủ), Nguyễn Huy Cầu dịch, NXB Công an nhân dân - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, có viết: “Ngày 1/5, chiến hào đối phương đã trực tiếp tiếp xúc với chúng tôi. Quân số của họ được bổ sung và còn có thêm đầy đủ lực lượng dự bị. Dự trữ đạn cũng đã có đủ. Đối đầu với họ lúc này, chúng tôi chỉ có những đơn vị mệt mỏi và rất thiếu hụt quân số. Một phần pháo binh đã bị phá hủy và đạn cũng rất thiếu.
Việt Minh bắt đầu tổng công kích. Sau một ngày chiến đấu, khắp xung quanh khu Trung tâm đều bị đánh chiến. Những cuộc phản kích của chúng tôi chỉ khôi phục được một phần tình hình. Đứng trước thế phải lựa chọn, hoặc chứng kiến cuộc chiến đấu sẽ nhanh chóng kết thúc, hoặc còn cố thủ được nó rất ít ngày bằng cách tăng cường lực lượng, theo yêu cầu của Tướng Cô-nhi, tôi quyết định ngày 2 tháng 5 sẽ ném xuống Điện Biên Phủ tiểu đoàn dù thứ 5 - Tiểu đoàn dù thuộc địa số 1 (1BPC), nhưng do khu vực nhảy dù đã bị thu hẹp nên chỉ ném xuống được nửa tiểu đoàn”.
Bị quân ta tấn công, địch ở các vị trí khu đồi C chạy toán loạn, các chiến sĩ xung kích của ta ở dưới các giao thông hào đang dùng súng trường bắn tỉa. (Ảnh: TTXVN)
Những thành công sau hai đợt tiến công đầu tiên của quân dân ta trên chiến trường Điện Biên Phủ tiếp tục là động lực cho phong trào đấu tranh chống áp bức của chính phủ Ngụy quyền và đòi lại công bằng cho nhân dân miền nam Việt Nam. Cuốn “Chiến thắng Điện Biên Phủ toàn thư” do NXB Từ điển bách khoa phát hành đã kể lại thời điểm đó: “Ngày 1/5/1954, khi đợt tấn công thứ ba của quân dân ta ở Điện Biên Phủ bắt đầu thì công nhân và nhân dân lao động Sài Gòn-Chợ Lớn đã tuần hành mít-tinh trước Tòa đô chính của nam ngụy quyền. Đoàn biểu tình tập hợp hàng nghìn người tham gia hô vang khẩu hiệu: “Trả phụ cấp gia đình trên căn bản duy nhất!”, “Áp dụng di dịch lương bổng!”, “Mở thêm trường học!”, “Chống nạn đổi nhà lấy đất!”. Những khẩu hiệu nêu trong ngày Quốc tế Lao động thể hiện mục tiêu đấu tranh vì quyền lợi của công nhân, vì độc lập tự do, quyền dân sinh, dân chủ… Cuộc đấu tranh ở Sài Gòn-Chợ Lớn trong những ngày chiến dịch Điện Biên Phủ thể hiện tinh thần yêu nước, bất khuất của các tầng lớp nhân dân ở đây, là sự phối hợp đẹp, có hiệu quả với chiến trường chính”.
Ngày xuất bản: 1/5/1945
Nội dung: Thiếu tá, ThS Trần Quốc Dũng-Viện Lịch sử quân sự, Ngọc Toản Thu
Trình bày: ANH NGỌC
Ảnh: TTXVN
Tại Hồng Cúm, Trung đoàn 57 tăng cường vây ép, tiến công diệt nhiều sinh lực địch, rạng sáng ngày 2/5/1954, địch phải rút khỏi khu C. 4 giờ sáng ngày 2/5/1954, Trung đoàn 209 (Đại đoàn 312) chiếm được cứ điểm 505 và 505A (Dominique 3) trên bờ phía đông sông Nậm Rốm.
Đêm ngày 2/5/1954, Trung đoàn 36 diệt gọn cứ điểm 311B (Huguette 4). Trong ngày, các đơn vị của ta loại khỏi vòng chiến đấu 2 tiểu đoàn địch, bắn rơi 1 máy bay quan sát kiểu Morane và 1 máy bay Corsair.
Sau những thắng lợi của ta, Trung tâm đề kháng Eliane án ngữ phía đông tập đoàn cứ điểm chỉ còn hai vị trí là A1 (Eliane 2), C2 (Eliane 4). Bên phía tây cánh đồng Mường Thanh, bộ đội mở các đường hào thẳng hướng đến Sở chỉ huy của Đờ Cát, có nơi chỉ cách Sở chỉ huy tập đoàn cứ điểm 300m.
Các đơn vị xung kích của ta đang tấn công địch trên đồi A1. (Ảnh: TTXVN)
Về phía địch: Trong lúc các đơn vị quân Pháp đang bị vây hãm tại lòng chảo Điện Biên Phủ, ngày 2/5/1954, Chính phủ Mỹ buộc phải chấp nhận lập trường kiên định của Chính phủ Liên Xô về việc Việt Nam Dân chủ cộng hòa là một bên trong Hội nghị Giơnevơ. Với sự ủng hộ tích cực của Liên Xô, lần đầu tiên Việt Nam tham dự một hội nghị quốc tế lớn, mặc dù chưa được các nước Anh, Pháp, Mỹ công nhận về mặt ngoại giao.!
Trước nguy cơ bị tiêu diệt ở Điện Biên Phủ, ngày 2/5/1954, Navarre vội vã từ Sài Gòn bay ra Hà Nội triệu tập một cuộc họp bàn cách cứu vãn tình thế. Dự họp có tướng Cônhi, đại tá Crevơcơ - Tư lệnh lực lượng Lào và những sĩ quan thuộc lực lượng lục quân ở miền Bắc Việt Nam. Mọi người đều thống nhất nhận định “Điện Biên Phủ không thể nào giữ được nữa”. Tướng Navarre cũng đã báo cáo về Pháp và được trả lời: “Dù thế nào cũng không được đầu hàng”!.
Trước tình thế đó, Navarre chủ trương: Tiếp tục chiến đấu cầm cự nhằm kéo dài thời gian tồn tại của Điện Biên Phủ. Thiếu quân thì tăng viện. Thiếu súng đạn, lương thực thì tiếp tế. Lúc nào không còn điều kiện chiến đấu nữa thì rút sang Lào; quyết định thành lập những đội “tình nguyện nhảy dù”, nghĩa là chưa biết nhảy dù cũng cứ leo lên máy bay, đeo dù lao xuống. Theo các hồ sơ của Pháp, trong giai đoạn cuối của trận Điện Biên Phủ, đã có 1.800 lính “tình nguyện nhảy dù” gồm những binh lính chưa thạo, chưa tốt nghiệp, thậm chí chưa học nhảy dù đã bị ném xuống thung lũng Điện Biên Phủ.
Dưới sự đôn đốc trực tiếp của Navarre, ngay trong ngày và đêm 2/5/1954 đã có 120 tấn hàng tiếp tế thả xuống Điện Biên Phủ, trong đó 50% bị thất lạc, góp phần nâng số lương thực dự trữ từ ba lên năm ngày, cùng với 5 cơ số đạn pháo 105mm, 3 cơ số đạn pháo 155mm, 3 cơ số đạn cối 102mm3.
Công tác hậu cần được tổ chức lại một cách linh hoạt, nhằm bảo đảm cho thành công của đợt tiến công thứ ba cũng như tận dụng hiệu quả các nguồn lực. Trong cuốn “Công tác hậu cần chiến dịch Điện Biên Phủ” do Tổng cục Hậu cần xuất bản năm 1979, có viết: Sau đợt 2, Tổng cục và các đơn vị đều rút kinh nghiệm, thấy rõ tác dụng quan trọng của việc bố trí hậu phương gần hay xa ảnh hưởng rất lớn đến mọi mặt công tác bảo đảm nên chấn chỉnh lại. Việc dịch tuyến hậu cần đơn vị ra sát hỏa tuyến cũng là một cuộc đấu tranh tư tưởng rất gay go. Sau đó, hậu phương các đơn vị nhích ra sát hỏa tuyến hơn. Lúc đó, ta đã bao vây chặt, địch không thọc ra được nên ta đề ra phương châm vận chuyển ở hỏa tuyến “phát huy tác dụng của cơ giới ở hỏa tuyến” tranh thủ sử dụng ô-tô để giảm bớt việc vận chuyển bằng người ở trận địa. Để tránh ùn người ở giao thông hào, đỡ thương vong và đỡ cản trở đi lại, ta lại đề ra phương châm “giảm số người, tăng năng suất”, chỉ đề những người khỏe mạnh có năng suất ở trận địa.
Tác giả: Thiếu tá, ThS Trần Quốc Dũng, Viện Lịch sử quân sự, Ngọc Toản Thu
Ảnh: TTXVN
Trình bày: VŨ ANH TUẤN
VnExpress.net có bài khá hay và đầy đủ về chiến dịch Điện Biên Phủ. Đồ họa chi tiết và đẹp. Các cụ bấm vào link dưới bài để xem toàn văn bài viết.
"Điện Biên Phủ là tập đoàn cứ điểm bất khả xâm phạm, các bạn đừng nghe lời tướng Giáp mà đánh vào. Đánh vào không còn đường về với bố mẹ".
Tiếng loa dụ hàng từ cứ điểm Him Lam của quân đội viễn chinh Pháp vang vọng suốt ngày đêm giữa núi rừng Mường Thanh, lặp đi lặp lại. Nhưng các chiến sĩ của Đại đoàn 312 bao vây bên ngoài căn cứ Pháp không hề bị lung lay.
"Chúng tôi đâu để ý vì tinh thần chiến đấu lên cao, ai cũng chờ giờ nổ súng", cựu binh Nguyễn Hữu Chấp, Trung đoàn 209, Đại Đoàn 312, kể về những ngày "khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt" trên chiến hào Điện Biên Phủ.
Hành quân từ 0h đến rạng sáng, bám trụ suốt ngày dài trong đường hào sâu quá đầu, chỉ rộng bằng cánh tay, nhưng không ai nao núng, kiên nhẫn chờ hiệu lệnh tiến công. Tất cả chiến sĩ đều sẵn sàng cho một trận chiến dài "đánh chắc, tiến chắc".
"Đây là trận đánh không được phép thua", đại tướng Võ Nguyên Giáp kể trong hồi ký Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử.
Thời điểm đó, cuộc xâm lược của Pháp tại ba nước Đông Dương (Lào, Campuchia, Việt Nam) đã bước sang năm thứ 9. Các bên đều trong thế giằng co, bất phân thắng bại. Pháp ngày càng kiệt quệ cả về người và của - thiệt hại hơn 320.000 binh lính, sĩ quan và tiêu tốn 3.000 tỷ franc. Giới cầm quyền muốn tìm kiếm "lối thoát danh dự" nhằm kết thúc chiến tranh.
Trọng trách tạo ra bước ngoặt ấy được trao cho Henri Navarre (Nava), Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Đông Dương thứ 7. Một bản kế hoạch tác chiến mang tên chính mình được vị tân chỉ huy vạch ra, với viện trợ từ đồng minh Mỹ. Nava đặt mục tiêu trong vòng 18 tháng, xây dựng lực lượng cơ động vượt trội đối phương, xoay chuyển tình thế, tìm kiếm chiến thắng.
Cùng lúc, Kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954 được Bộ Chính trị Việt Nam thông qua, xác định Tây Bắc làm hướng hoạt động chính. Giữa tháng 11/1953, đơn vị chủ lực lên đường ra mặt trận.
Những động thái quân sự của quân đội Việt Nam khiến đối phương không thể ngồi yên. Nava quyết định huy động lượng lớn binh lực, lập một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương.
Điện Biên Phủ, nằm phía tây vùng núi Tây Bắc, sát biên giới Việt Lào, là nơi được chọn. Nava đánh giá căn cứ địa này sẽ là "con nhím" chặn đường chủ lực của Việt Minh, giúp Pháp đứng vững ở Tây Bắc, đồng thời làm "chìa khóa bảo vệ Thượng Lào". Pháp tin rằng Điện Biên Phủ là "canh bạc" quyết định vận mệnh cuộc chiến.
.................................
Quân đội Nhân dân Việt Nam ăn mừng trên nóc hầm tướng De Castries khi chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, chiều 7/5/1954. Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam
Thông tin đầy đủ mời các cụ bấm vào link sau :
https://vnexpress.net/vong-vay-lua-tren-chien-hao-dien-bien-phu-4738667.html#phan-1
Ngày 3/5/1954, quân Pháp tăng cường Đại đội 2, Tiểu đoàn dù thuộc địa số 1, 100 khẩu pháo 57mm và khoảng 400 trọng liên đã được thả xuống Điện Biên Phủ. Ở Hải Phòng, Tàu sân bay Bois Belleau cập bến cảng.
Trước yêu cầu khẩn trương của nhiệm vụ chi viện cho chiến trường, Liên khu ủy Việt Bắc đã ra Chỉ thị “Tích cực bảo vệ đường giao thông quốc phòng”, động viên quân và dân phát huy vai trò là hậu phương phối hợp với mặt trận chính Điện Biên Phủ, ra sức bảo đảm giao thông, hoàn thành vượt mức mọi kế hoạch vận chuyển chi viện cho mặt trận.
Đoàn xe đạp thồ trên đường vào chiến dịch Điện Biên Phủ. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Bộ Chỉ huy Liên khu Việt Bắc giao nhiệm vụ bảo quản, sửa chữa những con đường nội tỉnh cho từng địa phương phụ trách bảo vệ: Đường số 1 và 1B giao cho tỉnh Lạng Sơn, Đường số 3 giao cho tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn; Đường số 4 giao cho tỉnh Cao Bằng; đồng thời, thành lập ra Ban Đường sá từ cấp Liên khu đến các xã ven đường chiến lược nối từ Việt Bắc đến Điện Biên Phủ, với đại diện các ngành quân - dân - chính - Đảng.
Để bảo đảm giao thông thông suốt, quân và dân hai tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn đã san lấp được hàng vạn mét khối đất, đá trên tuyến vận tải từ Quán Vuông - Định Hóa ra mặt trận. Quân và dân Bắc Giang phối hợp cùng công binh của Bộ và thanh niên xung phong mở mới đường đoạn từ Đường số 13 với Đường số 41 được 87km, hình thành tuyến giao thông chủ yếu từ Việt Bắc lên Tây Bắc.
Các đơn vị bộ binh cơ giới đang khẩn trương đưa bộ đội vào Điện Biên Phủ. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Liên khu trực tiếp chỉ đạo mở những tuyến đường trọng điểm, quan trọng từ Nước Hai - Án Lại - Mã Phục - Quảng Hòa, đường từ Thủy Khẩu đi Bò Ca dài 113km, Bò Ca đi Chợ Mới 21km, Chợ Mới đến Bờ Đậu đi Tuyên Quang dài 174km, Đường số 16 từ Mẹt đến Thái Nguyên dài 83km, Đường số 1B từ Đồng Đăng đến Thái Nguyên dài 145km...
Nhân dân các địa phương hai bên đường có sáng kiến thành lập ra các tổ bảo vệ đường, với nhiệm vụ thường xuyên bám mặt đường sửa chữa khắc phục hư hỏng cầu đường. Trên trục Đường số 3 từ Thái Nguyên đi Bắc Kạn, các địa phương thành lập được 331 tổ với trên 3.000 tổ viên. Bên cạnh đó, các tổ nhân dân bảo vệ đường còn cùng bộ đội theo dõi phát hiện và diệt trừ bọn chỉ điểm, biệt kích...
Với sự cố gắng, nỗ lực không ngừng, quân và dân Liên khu Việt Bắc đã huy động được 2.368.876 ngày công lao động làm mới được trên 1.600km đường, bắc 214 cầu với chiều dài 2.482m. Toàn Liên khu có tới 36.519 lượt người đi dân công hỏa tuyến; đặc biệt có nhiều gia đình cả ba thế hệ cùng ra trận.
Đồng bào các dân tộc Việt Bắc tự quyên góp tiền mua trên 6.000 xe đạp thồ, hình thành “Đội quân tay ngai” tham gia vận chuyển hàng hóa phục vụ mặt trận Điện Biên Phủ. Cùng với đó, nhân dân huy động ủng hộ mặt trận được 4.680 tấn gạo, 454 tấn thịt, 113 tấn đậu, 800 tấn rau quả. Đoàn dân công bao gồm già, trẻ, gái, trai từ các rẻo cao ngày đêm nô nức ra các điểm tập kết trên tuyến Đường số 1, Đường số 3 tiếp nhận hàng viện trợ của các nước anh em, vận chuyển lên chiến trường Điện Biên Phủ.
Đoàn dân công xe thồ phục vụ tiền tuyến. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
* Trong cuốn Lời thú nhận muộn mằn, Nxb Hà Nội, 2004, tr. 78, Marcel Bigeard (sau là Đại tướng, Bộ trưởng Quốc phòng Pháp) có viết: “Những con người do tướng Giáp đào luyện thật là những chiến binh tuyệt vời! Những cuộc phản kích của quân Việt chặn đứng pháo binh của chúng tôi, các khẩu súng cối của chúng tôi không thể nhả đạn”.
Sau khi pháo binh ngừng bắn, các chiến sĩ xung kích của ta đã lợi dụng địa hình địa vật đang tiến sát vào các vị trí của địch. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Các loại vũ khí hiện đại và phương tiện chiến tranh có nhiều thứ mang nhãn hiệu Mỹ của giặc Pháp ở Điện Biên Phủ bị quân ta phá hủy và thu được. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Nội dung: Thiếu tá, ThS TRẦN QUỐC DŨNG, Viện Lịch sử quân sự.
Ảnh: Báo Nhân Dân, TTXVN
Trình bày: VŨ HẢI
Nhân dịp kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, phóng viên Báo Nhân Dân thường trú tại Trung Quốc đã có cuộc trò chuyện với ông Vi Tiêu Nghị - con trai Thượng tướng Vi Quốc Thanh, nguyên Trưởng Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
Tiếp chúng tôi trong căn nhà nhỏ còn lưu giữ nhiều kỷ vật, gắn liền với Thượng tướng Vi Quốc Thanh lúc sinh thời, ông Vi Tiêu Nghị và mẹ là bà Hứa Kỳ Sảnh, năm nay đã hơn 90 tuổi, không khỏi xúc động khi nhắc tới những ký ức về vị tướng Trung Quốc gắn bó và dành nhiều tình cảm cho đất nước Việt Nam.
Hồi tưởng lại lời kể của Thượng tướng Vi Quốc Thanh về chiến dịch Điện Biên Phủ, ông Vi Tiêu Nghị cho biết, sau những thất bại trong các chiến dịch như Chiến dịch biên giới, Chiến dịch Thượng Lào, Pháp bổ nhiệm tướng Henri Navarre làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương. Navarre đã xây dựng kế hoạch quân sự mang tên mình để xoay chuyển cục diện chiến tranh Đông Dương, với nhận định chiếm được vùng đất này sẽ có thể khống chế toàn bộ vùng tây bắc Việt Nam, cắt đứt liên lạc giữa quân dân Việt Nam với các nước Lào, Trung Quốc, đồng thời gây khó khăn cho việc tiếp tế hậu cần của quân đội Việt Nam.
Ông Vi Tiêu Nghị và mẹ là bà Hứa Kỳ Sảnh.
Cuối năm 1953, quân Pháp bắt đầu điều quân đồn trú tại Điện Biên Phủ, trong đó có lính đánh thuê, sau này còn bổ sung thêm lính dù. Trước tình hình đó, theo đề nghị của Việt Nam, Trung Quốc cử Đoàn cố vấn quân sự sang giúp quân đội Việt Nam. Tướng Vi Quốc Thanh làm Trưởng Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc sang tham mưu cho chiến dịch Điện Biên Phủ.
Ông Vi Tiêu Nghị nói: “Trước khi lên đường sang Việt Nam, Chủ tịch Mao Trạch Đông đã tổ chức cuộc họp với các lãnh đạo Đoàn tại Trung Nam Hải. Ông yêu cầu mọi người hỗ trợ cách mạng Việt Nam một cách vô tư trong sáng, cũng giống như phục vụ cách mạng Trung Quốc. Cha tôi ghi nhớ lời căn dặn của Chủ tịch Mao Trạch Đông. Sau khi sang Việt Nam, ông đã đóng góp ý kiến của mình vào việc xây dựng và tác chiến của quân đội Việt Nam”.
Nhân dịp kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, ông Vi Tiêu Nghị đã có dịp sang Việt Nam đi tham quan chiến trường Điện Biên Phủ năm xưa. Ông cho biết tất cả những gì mình biết về Điện Biên Phủ đều là được nghe kể lại, nay được cảm nhận trực tiếp qua các điểm di tích như Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ, nơi Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng các đồng chí Bộ chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ thường làm việc và nghỉ ngơi; nơi làm việc của Đoàn Cố vấn quân sự Trung Quốc...
Cũng giống như cha mình, ông Vi Tiểu Nghị rất khâm phục tinh thần chiến đấu anh dũng, khắc phục và vượt qua khó khăn, gian khổ của quân dân Việt Nam, nhất là việc vận chuyển vũ khí, đạn dược, lương thực trong chiến dịch Điện Biên Phủ đều hoàn toàn dựa vào sức người, trong điều kiện thiếu thốn và chênh lệch lớn về tương quan lực lượng với địch.
Ông Vi Tiểu Nghị.
Về ý nghĩa của Chiến thắng Điện Biên Phủ đối với Việt Nam, Trung Quốc và thế giới, ông Vi Tiêu Nghị cho rằng, thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ khiến quân Pháp phải rút khỏi Đông Dương, sự nghiệp giải phóng dân tộc của Việt Nam giành thắng lợi. Sự lớn mạnh và trưởng thành của quân đội Việt Nam, từ đội du kích dần từng bước trở thành quân đội chính quy, đã tạo tiền đề cho cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và giải phóng, thống nhất đất nước sau này.
Đối với Trung Quốc, những năm 50 của thế kỷ trước, việc duy trì ổn định tình hình phía bắc Trung Quốc là Triều Tiên và phía nam Trung Quốc là Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc. Ngoài ra, chiến thắng Điện Biên Phủ cũng có ảnh hưởng tới phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Việc Việt Nam đấu tranh đánh bại thực dân Pháp và sau này là đế quốc Mỹ để thống nhất đất nước là sự cổ vũ to lớn cho phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Thượng tướng Vi Quốc Thanh (2/9/1913-14/6/1989) từng là Trưởng Đoàn Cố vấn quân sự Trung Quốc tại Việt Nam; là Phó Ủy viên trưởng Ủy ban Thường vụ Nhân Đại toàn quốc (Phó Chủ tịch Quốc hội) khóa IV, V; Phó Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Hội nghị Chính trị hiệp thương nhân dân Trung Quốc khóa IV, V; Ủy viên dự khuyết, Ủy viên Trung ương Đảng khóa VIII; Ủy viên Trung ương Đảng khóa IX; Ủy viên Bộ Chính trị khóa X, XI, XII.
Ông Vi Tiêu Nghị là con thứ hai của Thượng tướng Vi Quốc Thanh, từng tham gia quân đội, đã nghỉ hưu; hiện là nhà nghiên cứu về lịch sử quân sự và cách mạng Trung Quốc.
Ngày xuất bản: 24/4/2024
Nội dung: HỮU HƯNG - HỒ QUÂN
(Phóng viên Báo Nhân Dân thường trú tại Trung Quốc)
Trình bày: NHÃ NAM
https://tienphong.vn/co-mot-hon-truong-dieu-ky-trong-ham-do-cat-post1631477.tpo
Cao Văn Khánh sinh năm 1917, tại Huế trong một gia đình quý tộc trí thức của triều Nguyễn. Ông tốt nghiệp cử nhân Luật, Trường Đại học Đông Dương, nhưng ông không hành nghề luật mà làm thầy giáo dạy toán trường tư ở Huế.
Sau ngày nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) ra đời, Cao Văn Khánh tham gia thành lập và là Phó Chủ tịch Giải phóng quân Huế, về sau sáp nhập với Việt Minh. Khi quân Pháp nổ súng gây hấn ở Nam bộ (23/9/1945), ông được cử theo đoàn quân Nam tiến vào Bình Định, rồi trở thành Ủy viên Quân sự Bình Định. Sau đó, ông được cử làm Khu trưởng Khu V. Giữa năm 1946, ông là Đại đoàn trưởng Đại Đoàn 27. Tháng 12/1947, ông trở lại làm Khu trưởng Khu V.
Tháng 8/1949, ông được điều ra Bắc làm Đại đoàn phó Đại đoàn 308, Đại đoàn chủ lực đầu tiên của Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông cùng đại đoàn tham gia nhiều chiến dịch từ Chiến dịch Biên giới 1950, đến các Chiến dịch Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung (1951), Chiến dịch Hòa Bình (1952), Chiến dịch Tây Bắc (1952)...
Theo lời kể của các cựu chiến binh Điện Biên năm xưa, Cao Văn Khánh có người yêu là Nguyễn Thị Ngọc Toản, nữ cứu thương mặt trận Điện Biên Phủ. Hai người quen nhau khi Ngọc Toản còn là nữ sinh khuê các, xinh đẹp trường Đồng Khánh, Huế, con cụ Thượng thư Bộ Hình Tôn Thất Đàn, một gia đình trâm anh thế phiệt. Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, cả thầy Khánh và cô học trò Ngọc Toản nghe lời kêu gọi thiêng liêng của Tổ quốc, đều lên đường tham gia chiến đấu. Thầy Khánh làm ở Ban Chỉ huy Giải phóng quân, còn nữ sinh Ngọc Toản tham gia cứu thương. Họ nẩy nở tình cảm khi Cao Văn Khánh được điều ra chiến khu Việt Bắc, giữ chức Đại đoàn Phó, Đại đoàn 308.
Tại Chiến khu Việt Bắc, do tình duyên hay số phận, Cao Văn Khánh gặp lại cô nữ sinh khuê các ngày nào, giờ đã trở thành một nữ cứu thương gan dạ.
Tình yêu giữa hai người không lãng mạn như mối tình trong phim ảnh hiện đại. Chuyện tình giữa tướng Cao Văn Khánh và Ngọc Toản bắt đầu một cách bất ngờ.
Chuyện kể rằng: SauChiến thắng Điện Biên Phủ, Đại đoàn 308, tổ chức duyệt binh mừng chiến thắng. Tham dự buổi lễ có Cục trưởng Cục Tuyên huấn Lê Quang Đạo. Ngoài việc công, ông Đạo còn có một “bí mật” giúp cho Đại đoàn phó Cao Văn Khánh. Tướng Đạo đưa cho Cao Văn Khánh xem bức ảnh một cô gái có cặp mắt đen nhánh, tinh nghịch, yêu đời với nụ cười hút hồn mà Cao Văn Khánh ngờ ngợ đã từng gặp đâu đó rồi?
Đúng! Đây là con gái quan Thượng thư triều Nguyễn Tôn Thất Đàn (cụ đã tham gia kháng chiến chống Pháp ngay từ ngày đầu). Qua sự mối lái của Lê Quang Đạo và nhiều đồng chí khác, mối duyên Cao Văn Khánh và Ngọc Toản dần nảy nở. Thuở ấy việc yêu đương phải có người làm mối. Đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ, nhận giúp bạn, đến đặt vấn đề với gia đình Ngọc Toản. Khi ông Vũ gặp mẹ Ngọc Toản, ông thận trọng: “Thưa cụ, tôi có người bạn tốt, đánh giặc giỏi. Anh chưa có vợ vì bận đánh giặc. Nay muốn làm rể cụ. Xin cụ cho phép anh ấy được viết thư tìm hiểu chị Toản”.
Bà cụ thủng thẳng trả lời: “Tui kén rể, chứ đâu kén người đánh giặc giỏi. Con tui trưởng thành rồi, nên chỉ cần là người tốt và con tui ưng, thì tui đồng ý người đó”.
Ông Vũ ra về tấm tắc khen: “Tưởng cụ là vợ quan, lễ giáo phong kiến, nào ngờ bà cụ lại tân tiến như vậy!”.
Tuy đã yêu nhau, nhưng trong thâm tâm Ngọc Toản vẫn còn lấn cấn, trong nhật ký của mình bà viết: “...Tôi thấy anh ấy là mẫu người mà tôi mong muốn, sẽ làm bạn đường, sẽ đi suốt cuộc đời mà mình đã vạch hướng...Nhưng tôi còn đòi hỏi: Yêu là phải tôn trọng nhau, đừng làm cản trở những nguyện vọng cá nhân, sự bình đẳng giới. Tôi lo sợ nếu lập gia đình trong bước đường công tác, hoạt động, nhất là anh lớn tuổi, có thể sẽ gia trưởng. Nhưng là người khiêm tốn và chín chắn trong cuộc sống, anh hiểu và chinh phục tôi...”.
Phải đến tháng 12/1953, một sự kiện đã đến với Ngọc Toản khi bà đi tìm đơn vị mới. Bà lạc vào đúng chỗ đóng quân của Cao Văn Khánh, vừa từ Luang Prabang (Lào) trở về. Giữa núi rừng Tây Bắc hai người yêu nhau, bỗng tình cờ gặp nhau. Bà nghĩ, đúng là duyên số đã đưa họ đến với nhau: “Buổi gặp gỡ tình cờ đó ở giữa núi rừng Điện Biên càng làm tôi thấy rõ lòng mình đã thật sự yêu anh”.
Lúc chia tay, họ hẹn nhau ngày chiến thắng sẽ làm hôn lễ tại gia đình.
Chiến dịch Điện Biên Phủ nổ ra, ngày càng nhiều thương binh chuyển đến giải phẫu. Đêm về cầm ngọn đèn tới chăm sóc từng thương binh, lòng Ngọc Toản xót xa thắt lại khi nghe tiếng thở thương binh mỗi lúc một yếu dần. Họ là những thanh niên còn quá trẻ mới 18 đôi mươi. Trong nỗi lo chung, còn có nỗi lo riêng cho người yêu - anh Cao Văn Khánh- song biết làm sao được!
Đám cưới có một không hai
Chiều 7/5/1954, chiến trường chấm dứt tiếng súng, nữ cứu thương Ngọc Toản được lệnh lên Mường Thanh nhận nhiệm vụ mới. Cô từ trong rừng sâu Tuần Giáo, khoác túi xách, 5 giờ chiều cuốc bộ vượt qua suối sâu vực thẳm, đèo Pha Đin cao chất ngất đi suốt đêm, mãi đến 2 giờ sáng hôm sau mới tới nơi. Do thông thạo tiếng Pháp, bà được phân công đến gặp và nói chuyện với một nữ tù binh Pháp duy nhất, vốn là nữ tiếp viên trên máy bay quân sự Pháp. Thể theo đề nghị của Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam, Bác Hồ ra lệnh trả tự do cho nữ tù binh này. Nữ cứu thương Ngọc Toản đã giải thích cho nữ tù binh ấy về chính sách khoan hồng của Chính phủ ta và khuyên cô viết thư cảm ơn Bác Hồ. Đó là ngày 18/5, trước sinh nhật Bác một ngày.
Đến Mường Thanh làm nhiệm vụ, nhưng có lẽ do duyên phận, tình cờ nữ cứu thương được gặp lại người yêu - Đại đoàn phó Cao Văn Khánh.
Lạ lùng thay, giữa lúc khói lửa còn nóng bỏng, mùi đạn bom còn khét lẹt hai người tình cờ gặp nhau - nghẹn ngào không nói nên lời, hai người chỉ kịp thốt lên “Anh”! “Em”! Rồi tự nhiên nước mắt trào tuôn. Định nói với nhau bao điều, chưa kịp nói, thì Đại đoàn phó Cao Văn Khánh được lệnh đi tiếp quản trận địa Mường Thanh và trao trả tù binh.
Ngay lúc đó, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Trần Lương đã “đọc” được tâm sự của hai người: “Chúng tôi biết anh chị yêu nhau lâu rồi, song vì chiến tranh liên miên, chưa có điều kiện tính chuyện trăm năm. Hiếm có dịp anh chị gặp nhau thế này, hay là làm hôn lễ tại đây. Chúng tôi sẽ đứng ra làm chủ hôn cho”.
Ngay giữa chiến trường còn ngổn ngang bom đạn, chưa xin phép mẹ, không có mặt gia đình, bạn bè, lại còn chưa sắm sửa quần áo...Dù là ở chiến trường, một đời người con gái đi lấy chồng là một sự kiện lớn trong đời! Sao vội vàng như vậy được?
Cao Văn Khánh và Ngọc Toản trên chiếc xe jeep
Nay nghe nói chuyện cưới xin, nhiều người tham gia ý kiến. Tất cả các chiến hữu của Cao Văn Khánh và Ngọc Toản ai cũng vun vào. Khi gặp tướng Lê Trọng Tấn, anh Khánh giới thiệu: “...Cô Toản, y sỹ”.
- Tôi có nghe tên, nhưng nay mới gặp. Và tôi cũng biết chỉ vài ngày nữa thôi, cô gái Huế dịu dàng, thùy mị này sẽ trở thành chị Khánh ở ngay trên đất Điện Biên lịch sử này. Tôi chúc mừng hạnh phúc anh chị” - Tướng Tấn nói.
Sau một ngày rưỡi suy nghĩ rất lung, đến chiều 21/5 bà đồng ý cưới. Sau này bà viết: “Cái chết và sự sống, cuộc đời và hạnh phúc của người lính Cụ Hồ, suy nghĩ về cuộc sống lúc đó thật tự nhiên và giản dị. Đã yêu nhau rồi thì cần gì phải câu nệ hình thức”.
Thế là quyết định ngày “lên xe”, anh em phân công nhau mỗi người một việc trang trí hầm De Castrie thành phòng cưới. Đám cưới không có hoa, nhưng bộ đội trang trí hầm với các dù Pháp đủ màu. Sắp xếp đủ chỗ ngồi cho hơn 40 đại biểu của “hai họ”. Bên nhà gái là các cán bộ Quân y, nhà trai là cán bộ của Đại đoàn 308.
Ngày 22/5/1954, lễ cưới được tổ chức trong hầm chỉ huy của bại tướng De Castrie, dưới ánh sáng đèn măng song. Tình cảm dâng trào khi hai anh chị sóng đôi dắt tay nhau vào hầm, trong sự hồ hởi, vỗ tay vang dội của tất cả các quan khách “hai họ” là những đồng đội còn sống sót ở chiến trường trở về.
Giây phút xúc động này, nhiều năm sau Cao Văn Khánh còn nhắc lại: “Em còn nhớ lúc anh và em âu yếm bước vào hầm chỉ huy sở De Castrie để làm lễ không ? Ông Trần Lương chủ hôn tuyên bố và ông Cầm, Chính ủy Mặt trận của Cục Quân y, đại diện đơn vị cô dâu phát biểu. Đám cưới có chụp ảnh, quay phim”.
Đám cưới là một sự kiện và là niềm vui chung của cán bộ chiến sỹ Điện Biên Phủ. Nhiều năm sau, những cựu chiến binh ở độ tuổi “cổ lai hy” vẫn còn nhắc đến vẻ đẹp lãng mạn đầy chất thơ của ngày vui ấy. Tình yêu nảy nở trên mặt trận giúp vị chỉ huy Đại đoàn chủ lực và người nữ cứu thương xinh đẹp nơi hỏa tuyến với đám cưới được tổ chức ngay tại sở chỉ huy của tướng giặc và chiến trường trở thành hôn trường, khi khói bom đạn còn chưa tan.
Đám cưới không có hoa, nhưng có kẹo ngoại nuga, thuốc là Philip, rượu Tây Napoléon là chiến lợi phẩm thu được, khách mang đến chung vui. Đám cưới có biểu diễn văn nghệ “cây nhà lá vườn”. Chú rể hát bài “Bộ đội về làng”, cô dâu cất giọng “Em bé Mường La”.
Vợ chồng Cao Văn Khánh
Đám cưới không lên “xe hoa” nhưng lên xe tăng - đứng cạnh tháp pháo tăng nhìn ra chiến địa Mường Thanh tan hoang, Ngọc Toản khe khẽ thốt lên: “Bao nhiêu đồng đội đã hy sinh mà mình còn được sống”. Bà nhớ lại đã có hàng trăm thanh niên đã hy sinh trên tay bà ở bệnh viện dã chiến, những người hẳn chưa một lần được yêu!
Cô dâu, chú rể chụp một kiểu ảnh trên xe tăng đã tham chiến ở Điện Biên Phủ, Cao Văn Khánh nói: “Đó là kỷ niệm suốt đời của chúng ta, những ngày vui nhất của anh và em sau trận chiến thắng lịch sử, trong một khung cảnh lịch sử phải không em?” Niềm vui chiến thắng, xen kẽ tình cảm lứa đôi. Vui duyên mới khi nhiệm vụ đã hoàn thành. Giản dị mà vô cùng thân mật. Một đám cưới hiếm thấy, một tình yêu bền chặt suốt đời.
Cảm ơn các cụ đã vào thăm thớt và gửi quà động viên. Em lại tiếp tục cửu tin từ Nhân dân về.
Sắp đến ngày chiến thắng rồi các cụ ơi.
Sau 15 ngày đêm kiên cường, bền bỉ làm nhiệm vụ, đường hầm dài 49m đã hoàn thành. Chiều và đêm ngày 4/5/1954, khối thuốc nổ gần 1.000kg chia làm 49 gói, do đồng chí Nguyễn Điệt thiết kế đưa vào buồng nổ cuối đường hầm cùng với 6 đường dây chuyền nổ nổi vào nụ xòe, dây cháy chậm và 1 đường dây điểm hỏa bằng điện.
Phân đội công binh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đào đường hầm và đưa thuốc nổ vào lòng đồi A1. Tiếp đó, 1 tổ gồm các đồng chí Nguyễn Phú Xuyên Khung, Nguyễn Điệt, Lưu Viết Thoảng và Nguyễn Văn Bạch, do đồng chí Nguyễn Phú Xuyên Khung chỉ huy được giao nhiệm vụ điều khiển cho bộc phá nổ khi có lệnh. Toàn phân đội công binh đã nêu cao tinh thần dũng cảm, không sợ hy sinh để làm nhiệm vụ, trong đó có đồng chí Lưu Viết Thoảng, sau này cùng với thành tích phá bom được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân[1].
Tại Geneve, Phó Thủ tướng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam tới dự hội nghị bàn về Đông Dương.
Các đơn vị xung kích của ta tấn công sân bay Mường Thanh và làm chủ sân bay từ chiều 22/4, cắt đứt đường tiếp tế cho Tập đoàn cứ điểm.
Về Phía địch: Đại đội 3 thuộc Tiểu đoàn dù thuộc địa số 1 tới tiếp viện cho Đại đội 2 đóng tại Eliane 2 (A1) vào lúc rạng sáng ngày 4/5/1954. Tiểu đoàn 1 thuộc bán Lữ đoàn lê dương số 13 rút lui.
Ngày 4/5/1954, Cônhi điện cho Đờ Cát-xtơ-ri một số chỉ thị về cuộc rút chạy theo quyết định của Tổng chỉ huy, trao cho Đờ Cát-xtơ-ri quyền lựa chọn cách thức và thời gian tùy theo sáng kiến của mình sau khi nhận được lệnh, trước hết, phải phá hủy các xe tăng, đại bác, tài liệu mật, mật mã và dụng cụ vô tuyến điện. Cho tới khi có lệnh phải duy trì nhiệm vụ chống cự tại chỗ, không được có tư tưởng rút lui, phải hết sức giữ bí mật về kế hoạch và chuẩn bị sự thực hiện thận trọng tối đa.
Tướng De Castries và bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ ra hàng.
Thực hiện quyết định của Na-va, ngay trong ngày 4/5/1954, Đờ Cát-xtơ-ri họp các sĩ quan cao cấp tại Mường Thanh phổ biến kế hoạch Albatros. Cuộc họp có mặt Lăng-gơ-le, Lơ-mơ-ni-ê, Bi-gi-a, Va-đô và Xê-ganh Pa-gít. Sau khi bàn thảo, Bộ Chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ quyết định phải chia làm ba cánh quân khi rút chạy. Cánh thứ nhất, gồm toàn bộ quân dù, do Lăng-gơ-le và Bi-gia chỉ huy. Cánh thứ hai, gồm toàn bộ quân lê dương và Bắc Phi, do Lơ-mơ-ni-ê và Va-đô chỉ huy. Cánh thứ ba, gồm toàn bộ quân ở Hồng Cúm, do Fla-lăng chỉ huy. Có ba đường rút lui: thứ nhất qua bản Keo Lom, thứ hai theo thung lũng Nậm Nưa và thứ ba theo hướng Nậm Hợp. Dự kiến kế hoạch rút chạy sẽ được thực hiện vào 20 giờ ngày 7/5/1954.
Ở Hà Nội, Tổng cao ủy Dejean và Tổng tư lệnh Na-va nghiên cứu kế hoạch xúc tiến ngừng bắn ở Đông Dương.
__________________________________
[1] Lịch sử Công binh Việt Nam (1945 - 2005), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006, tr. 254.
Nội dung: Thiếu tá, ThS Trần Quốc Dũng – Viện Lịch sử quân sự, Ngọc Bách Thu
Trình bày: Phi Nguyên
Ảnh: Nhân Dân
https://vnexpress.net/noi-dau-tri-voi-de-castries-trong-chien-dich-dien-bien-phu-4736329.html
Em đưa một số hình ảnh tiêu biểu, ảnh đầy đủ và video thì các cụ bấm vào link trên để xem.
ĐIỆN BIÊN-105 ngày đêm Sở Chỉ huy chiến dịch ẩn sâu trong rừng Mường Phăng, đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng Bộ Chỉ huy đã ra những quyết định quan trọng cho đến ngày chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, 7/5/1954.
Sở Chỉ huy chiến dịch gồm hệ thống hầm hào, 12 lán lợp tranh nằm liên hoàn dọc con suối chạy quanh chân núi Pú Đồn, trên diện tích rừng tự nhiên 73 ha. Bộ phận tiền trạm sau nhiều chuyến thị sát đã chọn cánh rừng này làm nơi trú ẩn cho cơ quan đầu não chiến dịch. Mường Phăng là vùng đất của người Thái - những đồng bào mà các cán bộ cách mạng tin rằng sẽ luôn bảo vệ, che giấu và cung cấp thông tin, liên lạc khi cần.
Vòng ngoài cùng, ngay cửa rừng là trạm gác. Năm ấy, các chiến sĩ cảnh vệ thường trèo lên những cây cao quan sát từ xa người ra vào. Tiếp đến là các cơ quan liên lạc, cơ quan tham mưu, chính trị, lán của Bộ Chỉ huy chiến dịch nằm sâu phía trong.
Khu lán ở của điệp báo viên cùng đoàn sĩ quan liên lạc giữa Bộ Chỉ huy chiến dịch với đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc. Các lán dựng từ tre, lợp tranh, bên trong bố trí đơn sơ, bàn làm việc và giường ngủ đều bằng tre, vầu.
Đối lập với lán trại đơn sơ của Việt Minh là hệ thống công sự dày đặc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, nơi cả Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh ở Đông Dương Henri Navarre và Chỉ huy trưởng tập đoàn cứ điểm Christian de Castries tự tin sẽ "bắt tướng Giáp phải bại trận".
Lán đại tướng Võ Nguyên Giáp nằm dưới tán những cây dẻ cao vút. Rừng Mường Phăng trong ký ức ông cảnh rất đẹp, quan trọng là trèo lên đỉnh núi phía sau là nhìn thấy cánh đồng Mường Thanh và tập đoàn cứ điểm của quân Pháp.
"Hạnh phúc lớn nhất đối với người cầm quân là được ở bên bộ đội ngay tại mặt trận", đại tướng viết trong hồi ký Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử. Có thời gian là ông lại lên đỉnh núi dùng ống nhòm quan sát trận địa và "cảm thấy mình như đang được ở chiến hào, bên cán bộ, chiến sĩ".
Căn lán rộng 18 m2, gồm gian lớn để đại tướng Võ Nguyên Giáp làm việc, nghỉ ngơi; bên cạnh là gian sinh hoạt của chiến sĩ cần vụ. Chiếc bàn tre lớn là nơi đại tướng thường đặt bản đồ chiến trường Điện Biên Phủ để nghiên cứu và đưa ra các quyết định chiến trường. Ảnh: Catherine Karnow
Bên hông lán ở của Tổng chỉ huy chiến dịch Võ Nguyên Giáp có đường hầm xuyên núi dài 69 m, cao gần 2 m, nối thông với lán của Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái. Dọc đường hầm có ngách nhỏ để đặt máy thông tin, cũng là nơi ẩn mình tránh đạn chiến đấu nếu đối phương đột kích. Ngoài ra còn có các gian nhỏ là nơi các chỉ huy họp bàn tác chiến, sinh hoạt khi máy bay Pháp trinh thám.
Lán sinh hoạt, làm việc của thiếu tướng Hoàng Văn Thái. Ông phụ trách tiền trạm, nghiên cứu mặt trận và tham mưu cho Bộ Chỉ huy chiến dịch những quyết định quan trọng.
Nhận lời mời của Việt Nam, Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Sébastien Lecornu sẽ tham dự lễ kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ vào ngày 7/5.
Theo Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam, tham dự lễ kỷ niệm cùng ông Sébastien Lecornu có bà Patricia Mirallès, Quốc vụ khanh, phụ trách Cựu chiến binh và Ký ức.
Tại Điện Biên Phủ, bà Quốc vụ khanh sẽ khám phá cung đường ký ức lịch sử bằng ba thứ tiếng; tham dự buổi lễ chiếu sáng nghệ thuật cầu Mường Thanh do thành phố Lyon thực hiện. Thăm địa điểm chiến trận, Bộ trưởng Quốc phòng Pháp và Quốc vụ khanh sẽ trò chuyện với cựu chiến binh cả hai bên.
Gác lại quá khứ, hướng tới tương lai. Mời các cụ xem bài đầy đủ ở link sau :
Ngày 5/5/1954, quân ta củng cố các vị trí đã chiếm được tại Eliane 1 (C1) và Dominique 3 (505, 505A).
Về phía địch, những trận mưa lớn ban đêm cản trở các hoạt động quân sự. Nhiều hầm hố bị ngấm nước mưa đã sụp đổ. Pháp tiếp tục chi viện 74 người thuộc Tiểu đoàn dù thuộc địa số 1 vẫn nhảy dù xuống chi viện cho Điện Biên Phủ.
Quá nửa đêm cùng ngày, Bộ Chỉ huy Pháo binh báo cáo về cơ quan hậu cần tình hình đạn pháo bắn trong ngày: 2600 quả 105mm, 40 quả 155mm và1180 quả 120mm. Với nhịp bắn như thế này, nếu tiếp tế đường không không tăng lên thì Điện Biên Phủ ngay từ mai sẽ thiếu đạn pháo[1].
Kiểm kê kho: lương thực còn 3 ngày, đạn pháo 105mm còn 3 cơ số, đạn pháo 155mm còn 2 cơ số, đạn cối 120mm còn 1 cơ số[2].
Đại đội 3 thuộc Tiểu đoàn dù thuộc địa số 1 tới Eliane 2 (A1) thay cho bộ phận còn lại của Tiểu đoàn 1 bán Lữ đoàn lê dương 13.
Mỹ lập cầu hàng không tiếp tế bằng máy bay vận tải cỡ lớn C119 chi viện cho quân Pháp ở Điện Biên Phủ gặp khó khăn. Vào lúc 5 giờ, hai chiếc C119 thả được dù, 37% của 78 tấn thả dù trong ngày bị mất. Hầu hết số hàng đều rơi sang trận địa của ta.
Các loại vũ khí hiện đại và phương tiện chiến tranh có nhiều thứ mang nhãn hiệu Mỹ của giặc Pháp ở Điện Biên Phủ bị quân ta phá hủy và thu được.
Ở Hà Nội, 10 giờ ngày 5/5/1954, cuộc họp trong thành tiếp tục, các tướng Navarre, Bodet, Cônhi tiếp tục nghiên cứu dự án Albatros. Đến 12 giờ 15 phút, Tổng tư lệnh Navarre đi Sênô rồi vào Sài Gòn.
[1] BERNARD B.FALL, Điện Biên Phủ một góc địa ngục, Người dịch: Vũ Trấn Thủ, Nxb Công an nhân dân phối hợp với Công ty Văn hóa Phương Nam phối hợp thực hiện, tr.710, 711.
[2]JEAN POUGET, Tướng Navarre với trận Điện Biên Phủ, Người dịch Lê Kim, Nxb Công an nhân dân phối hợp với Công ty Văn hóa Phương Nam phối hợp thực hiện, tr.517, 518..
Ngày xuất bản: 5/5/1954
Nội dung: Thiếu tá, ThS Trần Quốc Dũng – Viện Lịch sử quân sự
Trình bày: HÙNG HIẾU
Ảnh: TTXVN
Bài hay và ảnh đẹp trên VnExpress.net. Mời các cụ bấm vào link để xem bài gốc.
https://vnexpress.net/chien-dia-dien-bien-phu-sau-70-nam-4736615.html
ĐIỆN BIÊNTừng chằng chịt dây thép gai, bãi mìn, công sự, 70 năm sau thung lũng Điện Biên Phủ trở thành cánh đồng lúa, ngô xanh mướt, sân bay có thể tiếp nhận 300.000-500.000 khách mỗi năm.
Nằm phía Tây Bắc cách Hà Nội khoảng 500 km, Điện Biên Phủ với tên khởi nguyên "Mường Thanh" là thung lũng rộng lớn, núi đồi bao quanh, ở giữa có dòng sông Nậm Rốn. Chịu ảnh hưởng của gió tây khô nóng, thời tiết nơi này chia hai mùa khô và mưa rõ rệt.
Điện Biên Phủ giờ là trung tâm sầm uất với diện tích hơn 308 km2, hơn 80.000 dân cư sinh sống, hạ tầng đô thị phát triển. Thành phố những ngày này đón hàng chục nghìn lượt khách viếng thăm khi Việt Nam chuẩn bị tổ chức lễ kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ.
70 năm trước, Pháp xây dựng nơi này thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, chìa khóa bảo vệ Thượng Lào, hút quân chủ lực của Việt Minh về đây để tiêu diệt. Trên thực tế, Điện Biên Phủ ban đầu không nằm trong kế hoạch của cả hai bên, song đã trở thành điểm hẹn cho trận công kiên cuối cùng kết thúc 9 năm kháng chiến chống Pháp.
Ảnh tư liệu chụp tháng 2/1954, toàn bộ lòng chảo Mường Thanh bị quân Pháp chiếm đóng.
Cánh đồng Mường Thanh - vựa lúa lớn nhất Tây Bắc nằm cách biên giới Việt - Lào 13 km. Cánh đồng đứng đầu trong câu ca "nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc”, chỉ bốn vựa lúa chính của vùng là Mường Thanh (Điện Biên), Mường Lò (Yên Bái), Mường Than (Lai Châu) và Mường Tấc (Sơn La).
Khác ruộng bậc thang đặc trưng của vùng núi phía Bắc, cánh đồng Mường Thanh bằng phẳng trải dài gần 20 km, rộng 6-8 km thuộc địa giới TP Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên. Với gần 4.000 ha ruộng nước cho năng suất bình quân 63 tạ mỗi ha, đây vẫn là nơi canh tác chính của đồng bào người Thái. Nhiều loại gạo đặc sản như séng cù, tám thơm, nếp nương, nếp than… vang danh khắp nước. Ngoài sản xuất, cánh đồng Mường Thanh còn là điểm du lịch của Điện Biên.
Ngày 20/11/1953, những toán lính Pháp đầu tiên nhảy dù xuống cánh đồng nằm trong lòng chảo Điện Biên, dần biến nơi này thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, gồm 49 cứ điểm chia ba phân khu, được bảo vệ bởi hệ thống hầm hào, công sự, hỏa lực mạnh, bãi mìn cùng dây thép gai.
Sân bay Mường Thanh nằm ở trung tâm lòng chảo, được người Pháp xây dựng năm 1939 cho mục đích quân sự. Sau năm 1954, sân bay phục vụ cả dân sự và quân sự, ngày nay là Cảng hàng không Điện Biên, có khả năng tiếp nhận 300.000-500.000 hành khách mỗi năm sau nhiều lần nâng cấp. Đường băng mới dài 2.400 m, rộng 45 m, đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật cho các loại tàu bay hiện đại như A320, A321. Giữa đường băng cũ và mới nằm trong khuôn viên sân bay còn lưu giữ đài tưởng niệm nhỏ. Đây là di tích cứ điểm 105 (Huguette 6) do đơn vị lính Âu Phi chốt giữ.
Nơi đây được coi là "dạ dày" của tập đoàn cứ điểm khi mỗi ngày tiếp nhận khoảng 200 chuyến bay từ Gia Lâm (Hà Nội), Cát Bi (Hải Phòng) tiếp tế hậu cần, lương thực, vũ khí cho lính viễn chinh Pháp. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, sân bay là trọng điểm bắn phá của pháo binh, cao xạ Việt Minh nhằm cắt đứt cầu hàng không chi viện, triệt tiêu khả năng cất, hạ cánh của các loại máy bay trinh sát. Trong ảnh là bộ đội Việt Minh pháo kích vào sân bay. Ảnh tư liệu UIC Collection
Một phần đường hào chiến đấu của bộ đội Việt Minh trên sườn đồi A1 được phục dựng bằng bêtông, rải xi măng chống sạt lở. Khu vực này từng là điểm giao tranh quyết liệt của hai bên từ ngày 30/3 đến 6/5/1954. Đồi A1 được coi là cuống họng của phân khu trung tâm, được bao bọc lô cốt và hầm ngầm kiên cố nhằm bảo vệ Bộ chỉ huy quân Pháp. Công phá được nơi này, bộ đội Việt Minh đã mất 39 ngày cùng nhiều hy sinh, thương vong bởi quân Pháp cố thủ trong lô cốt và có hỏa lực mạnh chi viện.
Để diệt được tập đoàn cứ điểm, bộ đội dùng chiến thuật "vây, lấn, tấn, diệt", đào gần 200 km đường hào từ trên núi cao tiến xuống lòng chảo Mường Thanh. Đường hào có hầm chiến đấu, trữ vũ khí, nơi ngủ, sinh hoạt, cứu chữa thương binh… Dựa vào hệ thống hào giao thông này, quân Việt Minh phá bãi mìn, gỡ hàng rào kẽm gai, áp sát chân cứ điểm rồi đồng loạt xung phong. Cách đánh khiến quân Pháp khiếp đảm vì không biết đối phương sẽ tiến công khi nào, từ hướng nào.
Sức công phá của khối thuốc nổ tạo thành hố sâu hình chiếc phễu trên đỉnh đồi A1, sau 70 năm vẫn còn nguyên dấu tích. Nơi này được trải lớp ximăng tránh sụt lún, xói mòn, thường là điểm tham quan đầu tiên của du khách khi tới Điện Biên.
Đêm 6/5/1954, tiếng nổ từ khối bộc phá 960 kg là hiệu lệnh tổng công kích đợt cuối cùng của chiến dịch Điện Biên Phủ. Từ ngày 20/4 đến 4/5, đội công binh do chiến sĩ Nguyễn Phú Xuyên Khung dẫn đầu đào được một đường hầm dài 49 m vào lòng đồi, nhồi khối bộc phá gần một tấn chờ khai hỏa.
(Còn nữa)
Chiến địa Điện Biên Phủ sau 70 năm
(Tiếp theo)
Cầu Mường Thanh được xây dựng vào năm 1953, nối hai bờ sông Nậm Rốm. Cầu dài 40 m, rộng 5 m, chịu tải trọng khoảng 18 tấn, được quân Pháp vận chuyển vật liệu sang lắp ghép. Mặt cầu bằng các thanh gỗ, hai bên thành là sắt chống đỡ, không có trục giữa. 70 năm trước, đây là cầu sắt duy nhất bắc qua sông Nậm Rốm, nối các cứ điểm phía Tây sông với các cao điểm phía Đông của tập đoàn cứ điểm. Cây cầu là huyết mạch vận chuyển vũ khí, vật liệu để xây dựng các cứ điểm phòng ngự khu vực phía đông.
Trên sông Nậm Rốm hiện xây nhiều cầu mới, nhưng cầu Mường Thanh vẫn được giữ lại và trùng tu hai lần vào các năm 1999, 2019. Cây cầu nằm trong số hơn 40 điểm di tích thành phần thuộc Di tích quốc gia đặc biệt chiến trường Điện Biên Phủ, song nhiều hạng mục đã xuống cấp.
Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ nằm sâu trong rừng nguyên sinh dưới chân núi Pú Đồn, nơi cơ quan đầu não ẩn trú từ ngày 31/1/1954 tới 15/5/1954. Nơi này cách tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ chưa tới 30 km về phía Tây.
105 ngày ở đây, đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng các chỉ huy họp bàn, ra mệnh lệnh, quyết định quan trọng trên chiến trường. Trong lễ duyệt binh mừng chiến thắng tại khu đồi phía Đông Sở chỉ huy, ngày 13/5/1954, tướng Giáp lần đầu tiên nói đến "tiến về giải phóng đồng bằng Bắc Bộ" - nhiệm vụ tất yếu mà cục diện chiến trường năm 1954 đặt ra cho quân đội qua 9 năm kháng chiến.
Trung tâm thành phố là nơi tọa lạc hệ thống di tích lịch sử chiến thắng Điện Biên Phủ, như các đồi A1, C1, D1, E1 và khu trung tâm tập đoàn cứ điểm Pháp (khu hầm De Castries), Nghĩa trang liệt sĩ A1; các công trình mới xây dựng như Đền thờ liệt sĩ tại chiến trường Điện Biên Phủ trên đồi F, Bảo tàng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ...
Trung tâm thành phố Điện Biên Phủ nhìn từ đỉnh đồi D1 thay đổi trong 20 năm gần đây
(Còn nữa)