70 năm chiến thắng ...
 
Notifications
Clear all

70 năm chiến thắng Điên Biên Phủ

234 Bài viết
20 Thành viên
1041 Reactions
10.8 K Lượt xem
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
 

Trích dịch từ Chương 31 cuốn Số phận đa dạng của Eddie Vegas (The Manifold Destiny of Eddie Vegas), câu chuyện của một người lính Algeria đã có mặt ở Điện Biên Phủ.

'Những con giòi chết tiệt!

‘Những con giòi… đây là câu chuyện dành cho bạn về Điện Biên Phủ - những con giòi. Có giòi ở khắp mọi nơi. Giòi còn tệ hơn chấy rận, vì chúng sinh ra từ cái chết - ngay cả khi, trong một khoảnh khắc nào đó, bạn có thể quên rằng mình đã bị mắc kẹt một cách vô lý trong thung lũng chết chóc, bạn sẽ thấy một con giòi vẫy tay từ những nơi không ngờ tới, ngay cả từ Nam Yum [Nậm Rốm], để chắc chắn, để khẳng định rằng bạn biết mình đang ở đâu, rằng bạn đang sống hoàn toàn không có lý do và chỉ dựa vào sự quan phòng của lũ giòi, rằng chẳng bao lâu nữa bạn cũng sẽ mọc ra giòi. Mọi chiến hào đều chứa đầy các bộ phận cơ thể, tôi không quan tâm bạn đọc gì về bệnh viện đông đúc, mất vệ sinh - không có cách nào để thu thập tất cả các xác chết, tất cả các mảnh xác, tất cả xác địch, tất cả các mảnh xác địch. Một trận tay đôi, và có hàng chục người trong số họ, xác chết ở khắp mọi nơi, bạn nghĩ người Pháp đã dọn sạch từng xác chết trên đồi? Ngay sau khi họ đẩy lùi một cuộc tấn công, họ lại phải hứng chịu hỏa lực của pháo binh, hoặc phốt pho trắng và pháo binh, súng không giật…, thịt và nội tạng con người thối rữa khắp nơi, và lũ giòi nhân lên theo tỷ lệ trong Kinh thánh. Và lũ giòi đứng về phía người dân địa phương. Chúng không bao giờ bò lên đồi đuổi theo Việt Minh, chúng đuổi theo chúng tôi. Bạn có thể dọn sạch một khu vực có đường kính 5 feet trước khi bạn đi ngủ, khi bạn có thể ngủ, và bạn sẽ thức dậy với những con giòi không thể đợi cho đến khi bạn chết. Có những thứ trong tai bạn, miệng bạn, lỗ mũi bạn, lỗ đít bạn, đang cố chui vào lỗ vòi nước của bạn. Ngày nối ngày chết tiệt, đêm tiếp đêm chết tiệt. Và đây là chiến tranh chiến hào - người Pháp không có pháo đài, họ tiến hành trận chiến dưới lòng đất và trên những ngọn đồi trọc - bạn đọc về chuột và chấy rận. Trong trường hợp này đó là giòi. Giòi chạy trận, giòi sinh sôi trên sự chết chóc và ngu xuẩn của quân Pháp. Về phần chuột, tôi đã trở thành một trong số chúng: họ gọi chúng tôi như vậy - lũ chuột ở Nam Yum."

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Big bang, U Cay, silverstar0211 and 4 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
 

"Bạn phải hiểu. Chúng tôi biết chiến tranh, chiến tranh trong rừng rậm. Và chúng tôi bắt đầu biết đến chiến tranh hiện đại, chiến tranh không cân xứng, trong đó một bên, trong trường hợp này là phe chúng ta, có tất cả lợi thế về công nghệ, máy bay, bom mảnh, bom napalm, phốt pho trắng - chúng ta, hoặc họ, người Pháp, sử dụng nó đầu tiên. Họ khủng bố kẻ thù mọi lúc mọi nơi. Và chúng tôi đã dọn dẹp. Hoặc chúng tôi hành quân vào những trận chiến rừng rậm chết chóc. Nhưng chúng tôi đã mạo hiểm mạng sống của mình theo cách mà chúng tôi hiểu. Chúng tôi biết rừng, Việt Minh biết rừng. Đó là một cuộc chiến công bằng. Một cuộc chiến trung thực. Điện Biên Phủ là một sự ngu xuẩn khổng lồ đã chế nhạo chúng ta. Một sự nhạo báng của lũ giòi để lũ giòi gửi đến chỗ chết. Tôi là một lính bắn tỉa. Và trận Điện Biên Phủ lại không phải dành cho phe tôi, phe của lính bắn tỉa. Kẻ thù ở trong rừng rậm và chúng tôi ở trên bãi đất trống. Bãi đổ bộ của chúng tôi nằm trong tầm bắn của pháo binh của họ. Đối với họ, nó giống như một trò chơi, làm nổ tung máy bay của chúng tôi. Và họ có pháo binh mà lẽ ra họ không được phép có - đó là điều mọi người đều biết về trận chiến - nhưng, kìa, thứ họ cũng có là khả năng phòng không, phòng không và những thứ tương tự xuất sắc. Người Pháp không thể làm gì với máy bay của họ ngoài việc thả tiếp tế, và họ cũng phải thả rất nhiều tiếp tế, vì một nửa số hàng họ thả rơi xuống khu vực của Việt Minh. Những người lính nhảy dù cũng vậy, và tôi nhìn thấy một số người lính nhảy dù rơi xuống: hết người này đến người khác trôi nổi như một chú hề, mục tiêu cho đủ loại xạ thủ, thủng lỗ chỗ vì đạn trên đường rơi xuống, hạ cánh chết trên những cành cây chưa kịp đốn xuống làm củi. Việt Minh vô hình; pháo binh của họ là vô hình. Tôi có ích gì trong trường hợp này. Tôi hầu như không có nơi nào để trốn và phải bắn vào kẻ thù được ngụy trang hoàn hảo. Thỉnh thoảng tôi có thể bắn trong những chớp lóe sáng. Nhưng đúng là chớp sáng, chúng sẽ tắt trước khi bạn có thể bắn."

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Big bang, U Cay, silverstar0211 and 4 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
 

"Tôi có một vài lần. Và đó luôn là một niềm vui. Chọn ra một chỗ cách xa cả dặm, một thoáng tán lá chuyển động thiếu tự nhiên, có khi hàng giờ tĩnh lặng, ngắm nhìn, rồi bất chợt lộ ra những hình ảnh không thể nhầm lẫn của làn da, khuôn mặt, giữa những chiếc lá. Và không lãng phí thời gian, tôi thực hiện một cú bắn và có được một chiến thắng cá nhân thầm lặng khác. Không ai ở bên tôi biết, và không có tiếng ồn nào kéo dài kể cả khi kẻ địch có la hét - điều này thật hiếm khi xảy ra, vì gần như mọi phát bắn đều đồng nghĩa với cái chết ngay lập tức.

‘Chết ngay lập tức…nhưng không có giòi. Họ có địa thế cao. Họ có rừng rậm trải dài hàng trăm dặm xung quanh. Có lẽ họ gặp vấn đề về nước lọc. Chúng tôi cũng vậy. Đặc biệt là khi chúng tôi trở thành chuột. Nhưng đỉa là đặc ân so với giòi; thực ra, đối với tôi đỉa là một thú vui riêng. Tôi rất thích bóc chúng ra khỏi cơ thể mình. Tôi thích chúng, ồ, vì những gì chúng đang cố gắng làm để tồn tại. Chúng là những kẻ hút máu trung thực. Hãy so sánh họ với quân Pháp, những kẻ lãng phí máu khét tiếng. Ném hết người này đến người khác vào cuộc chiến vô nghĩa, vô vọng, tốn máu. Máu và xác dành cho giòi chứ không phải đỉa."

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Payroll, Big bang, U Cay and 5 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
 

"‘Khoảng một tháng trước chiến thắng cuối cùng của Việt Minh, tôi đã trở thành kẻ phản bội. Người Pháp là ai? Tại sao họ lại ở đây? Máy bay quả thực là một điều kỳ diệu đáng kinh ngạc. Vậy thì tại sao họ lại thả những quả bom chết chóc gớm ghiếc? Tại sao họ, nếu là người Pháp, lại thả nhiều trang thiết bị như vậy cho Việt Minh? Tại sao họ lại để chúng trên đường băng ở nơi dễ thấy để Việt Minh tiêu diệt? Có phải họ đến từ Pháp không? Họ đến từ gần Hà Nội. Chúng ta đã nghe nói đến Hà Nội, người Pháp đang làm gì ở đó? Không khí trắng này là gì? Những quả bom này từ đâu ra? Những viên đạn này? Bạn muốn chúng tôi làm gì? Ngọn đồi đó, và người ta đặt tên là gì? Chúng tôi thậm chí không thể phát âm tên đó. Tên của một người phụ nữ? Huguette? Đó không phải là tên của ngọn đồi đó sao? Khi người ta lên ngọn đồi đó, Việt Minh tấn công họ từng đàn, để lại hàng vạn con giòi trên mỗi người. Khi họ đi đến ngọn đồi đó, họ bị bom nổ tung, giòi lây lan khắp nơi, kìa. Tại sao chúng ta lại đi đến ngọn đồi đó. Chúng ta sẽ không đi đến ngọn đồi đó. Tôi phải giải thích thế nào về việc họ phải đi đến ngọn đồi đó? Lúc đó tôi chưa sẵn sàng. Tôi đã muốn thừa nhận: chúng ta bị mắc kẹt ở đây rồi các bạn ạ. Chúng ta phải làm gì? Chúng ta sẽ không đi đến ngọn đồi đó. Sếp của tôi trở nên mất kiên nhẫn với chúng tôi và tôi đã rạch cổ ông ta khi ông ta đang ngủ. Tôi đã cắt cổ hắn khi hắn đang ngủ và dẫn người của mình tham gia vào nhóm còn lại được gọi là những kẻ đào ngũ - những gì mà người Pháp gọi là lũ chuột ở Nam Yum."

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Big bang, U Cay, silverstar0211 and 3 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
 

"Hầu hết chúng tôi đều ở trên bờ Nam Yum xa về phía bắc và rất gần sân bay, nơi ban đầu cung cấp cho chúng tôi sự bảo vệ từ phía tây vì sân bay vô dụng nhưng ít nhất nó là một không gian rộng mở và mọi con mắt đều đổ dồn vào đó. Ở trên ngọn đồi phía bên kia là Việt Minh, nhưng họ nhanh chóng nhận ra rằng chúng tôi không còn là mục tiêu quan trọng nữa, chúng tôi là những người không tham chiến, và hơn nữa, họ có thể tận dụng chúng tôi vì chúng tôi là chuyên gia trong việc tiếp tế. Người Pháp ghê tởm nghĩ chúng tôi là những người không có can đảm bắt giòi, nhưng với lòng dũng cảm lớn lao, chúng tôi đã có can đảm dấn thân vào những vùng nguy hiểm, nơi đồ tiếp tế bị thả rơi. Nhưng tất nhiên là không có nguy hiểm vì Việt Minh biết rõ mọi hành động của chúng tôi. Và chúng tôi trao đổi đồ dùng để lấy thức ăn, nhờ lòng thương xót của họ, hoặc nếu đó là thức ăn thì chúng tôi sẽ ăn nó. Chúng tôi có mọi thứ mà một kẻ bị hiến tế có thể mong muốn - thức ăn, một sự an toàn tương đối khỏi lũ giòi - ồ, lũ giòi đã đến kìa, nhưng chúng tìm thấy rất ít thứ để ăn và rất ít vùng sinh sản, không có cả núi thịt để chúng thỏa mãn. Như tôi đã nói, chúng xuất hiện ở mọi nơi, nhưng chỉ để nhắc nhở chúng ta về những gì con người đang làm và những kẻ điên rồ này đã biến chốn này thành thiên đường cho chúng như thế nào. Và những con chuột, những con chúng tôi đã ăn thịt. Chúng tôi là những con chuột của Nam Yum! Vâng, chúng tôi có tất cả mọi thứ, nhưng tất nhiên, chỉ là một chút chỗ trú ẩn khỏi sự ẩm ướt thường xuyên, mưa, cuộn tròn trong những cái hố trên bờ sông, giữ ấm - vì trời rất lạnh, trong khu rừng trên cao khi có nhiều mưa, khi bùn không bao giờ khô. Chúng tôi thậm chí còn có cá. Tại sao cá lại không có vây cao ở đó thì tôi sẽ không bao giờ biết được. Có lẽ chúng là nạn nhân của tình trạng quá đông đúc, nhưng thật là ngạc nhiên khi thấy một quả lựu đạn trong một vũng sông sẽ mang đến điều gì trên mặt nước, và hương vị của một con cá da trơn khổng lồ nướng trong ngọn lửa được che chắn cẩn thận, có lẽ mùi thơm của món nướng dâng lên thành từng đợt và cuộn tròn như phốt pho trắng hướng vào lỗ mũi của những người đang đói khát bị bao vây…"

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Big bang, U Cay, friendship2k and 2 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
 

"Và họ đang chết đói, đến cuối cùng họ chẳng còn gì, ít đạn dược, không có gì ngoài lòng dũng cảm của người Pháp, mà tôi sẽ định nghĩa giống như một cỗ máy tự động bước đi về phía miệng vách đá. Trong khi đó, chúng tôi luôn ăn uống khá đầy đủ, ngủ… ngủ không thoải mái, trong cơn khó chịu, một số lên cơn điên cuồng, một số thức dậy như chết - dù sao thì đó cũng chỉ như một kỳ nghỉ lễ tương đối… Một đêm nọ, tôi đã ở với một người Ma-rốc, chúng tôi đã ăn uống, chúng tôi rất vui vẻ. Chúng tôi ôm nhau đi ngủ để sưởi ấm và tôi thức dậy vào buổi sáng và thấy anh ấy đã chết. Tưởng chừng như khỏe mạnh vào đêm hôm trước, giờ đây anh ta đã trở thành một xác chết. Một xác chết sẽ không giữ ấm được lâu cho một người đàn ông. Tôi đưa anh ấy băng qua Nam Yum, bế anh ấy lên bờ rồi bỏ anh ấy xuống con mương chạy dọc sân bay. Ngày hôm sau, một ngày nắng hiếm hoi, tôi ngồi bên bờ sông, suy ngẫm.

Tôi có triết lý về thân phận của con người theo thứ bậc, sự thù địch, bản chất giết người, kẻ yếu, kẻ mạnh, kẻ ngu ngốc không? Có lẽ, trong một thời gian dài, đã nhiều giờ và nhiều ngày dài, Việt Minh đã cố thủ một vòng vây nghẹt thở quanh các vị trí của quân Pháp - nếu bạn có thể gọi chúng như vậy. Người Pháp trên đài suốt ngày cầu xin, lập kế hoạch, cứu rỗi từ trên không. Nhiều quân hơn! Thêm nguồn tiếp tế! Niềm tin vào công nghệ chắc chắn đến mức đến phút cuối cùng họ vẫn tin rằng công nghệ của họ sẽ cứu được họ. Và như bây giờ chúng ta đã biết, và tin tôi đi, lúc đó tôi đã nghi ngờ điều đó, sự cứu rỗi là ở dạng, một số người hy vọng, là vũ khí hạt nhân do người Mỹ cung cấp. Tôi lo sợ điều này nên đã gạt nó ra khỏi tâm trí. Nó đã là vô lý rồi. Không chỉ Triều Tiên, mà cả Chiến tranh thế giới thứ hai cũng đã chứng minh sự vô ích của sức mạnh không quân trước lực lượng trên bộ, nhưng đối với người Pháp, đó mới là vấn đề then chốt: sức mạnh không quân so với lực lượng trên bộ. Làm sao họ có thể thua được? Giống như cách người Mỹ đã làm ở Hàn Quốc.

Vô số suy nghĩ hiện lên trong tôi khi tôi ngồi trên bờ sông vào ngày nắng đẹp đó, nhìn vào nghịch lý của dòng sông luôn chảy, mà người Hy Lạp nói rằng không thể bước vào hai lần mà giống nhau. Hãy đi nói với tên Spartan đó rằng nếu nó không giống thì cũng không khác mấy. Tôi ngồi trên bờ và mặt trời lấp lánh trên sông và tôi nhìn về phía thượng nguồn và một tia sáng lóe lên một cái gì đó, một mảng trắng xa xa, hướng về phía hạ lưu, và tôi đang chìm đắm trong suy nghĩ, và, kìa, một lúc sau tôi tình cờ liếc nhìn một lần nữa, tôi đã nhìn thấy cái gì, một khối trắng lớn đang tiến lại gần tôi, tôi trở nên sợ hãi. Hãy hiểu rằng, tất cả chúng ta đều điên rồ theo cách riêng của mình ở mức độ riêng của mình, hoặc như vậy, với những cách kiên trì khác nhau như thể không hoàn toàn mất trí, có lẽ vì bản thân môi trường cũng điên rồ tương ứng–và do đó, khối trắng lớn kia đã đến vì tôi! Bây giờ, khi tôi nhìn đi chỗ khác, đó là một hành động có chủ ý và tôi ngay lập tức bị kéo trở lại khối màu trắng, gần hơn, đủ gần để tôi có thể thấy rằng đó là một sinh vật sống, nó đang quằn quại, như một đàn giòi quằn quại, và thực sự đó là một khối giòi đang bơi, như tôi tính toán đến từ hướng của người Ma-rốc đã chết, người đã tìm thấy cái chết của mình ở gần tôi, và bây giờ đang đến để đưa tôi trở lại cái mương giòi của hắn, đã gửi đội quân giòi của hắn đến tìm tôi! Một quả lựu đạn cầm tay, kìa! Tôi hoảng loạn bò lên bờ sông và giật một quả lựu đạn từ một tay xã hội đen người Algeria, chạy đến bờ sông và ném vào giữa đám đông khi nó còn cách mười lăm mét, và thổi bay chúng lên trời, do đó trở thành cơn ác mộng của chúng tôi, một cơn mưa giòi. Tôi chạy điên cuồng xuống sông, tôi lột quần áo, cào, chà và lau, rồi một ngày hoặc vài ngày sau tỉnh dậy, chính tên xã hội đen người Algeria đó đang lau đầu tôi dưới mưa.

"Mọi chuyện kết thúc rồi," anh ấy nói, "chúng ta hãy đi lên đồi."

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
CarlVinson, Big bang, U Cay and 3 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
phuongminha6
(@phuongminha6)
Trung niên
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 38104.19
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 5799
 

Đăng bởi: @coco

Trích hồi ký “Thời điểm của những sự thật” (Le temps des vérités) của Henri Navarre, đoạn những ngày sau đợt tấn công đầu tiên của Quân đội Việt Nam vào Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (từ ngày 13/3 đến 17/3/1954).

“Trong những ngày tiếp theo, có nhiều biếu hiện hoang mang dao động trong hàng ngũ chúng tôi ở Điện Biên Phủ.

Đại tá chỉ huy pháo binh của tập đoàn cứ điểm, một sỹ quan cao cấp rất thạo việc và tự trọng, thấy những dự đoán về sử dụng pháo binh của mình bỗng đổ vỡ, và không thể chịu đựng được sự nhục nhã mà ông cho là thuộc phần trách nhiệm của mình, đã tự vẫn.

Nhiều vụ đào ngũ đã xảy ra ở nhiều đơn vị: Bắc Phi, Việt Nam và đặc biệt là Thái. Những kẻ đào ngũ trốn vào những căn hầm tự đào lấy ở dọc sông Nậm Rốm. Đến cuối trận đánh, nơi ấy đã biến thành một "khu dân cư" với vài trăm "cư dân", sống bằng những thứ cướp đoạt được. Người ta gọi chúng là "những con chuột sông Nậm Rốm".

Trong những đơn vị chất lượng trung bình hoặc chỉ huy lỏng lẻo, nhất là những đơn vị đông lính Việt Nam, tinh thần tỏ ra tồi tệ. Chỉ trong ít ngày, hai tiếu đoàn Thái đã bỏ chạy. Ở Isabelle (tức Phân khu Nam - Hồng Cúm) vào cuối trận đánh, xảy ra hiện tượng kháng lệnh ở ngay một tiểu đoàn Algeri. Sau nhờ sự kiên quyết kết hợp với sự mềm dẻo của chỉ huy cụm cứ điểm là Trung tá Lalande, mà sự việc đã được giải quyết và không gây hậu quả nghiêm trọng, song hiện tượng xấu này đã nhiều người biết.”

 

Chuột Nậm Rốm không phải vài trăm hay 1 nghìn như sách nói. 

Trong các ghi nhận, hồi ký của quân đội Việt Minh thì số chuột Nậm Rốm này lên đến hàng nghìn. Cả cuộc chiến, Pháp ném vào ĐBP hơn 2 vạn quân, vậy mà đến lúc kết thúc có 1.62 vạn quân bị bắt làm tù binh. Trong số 1,62 vạn tù binh này thì số chuột Nậm Rốm đóng góp khá nhiều. Chứ với ngần đấy quân mà ko đầu hàng thì trận ĐBP còn phải kéo dài

 

Mời các cụ ghé trang trại nhà em :
https://otonet.fun/forums/postid/7861/


   
Hóng hớt, CarlVinson, Big bang and 3 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31900.7
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3386
Topic starter  

Ngày này năm xưa.

Ngày 20/3/1954: Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi thư động viên bộ đội xây dựng trận địa

Để bảo đảm cho nhiệm vụ tiến công, tiêu hao và tránh phi pháo địch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh, Chỉ huy trưởng Chiến dịch đã gửi thư động viên bộ đội “Xây dựng trận địa tiến công và bao vây địch nhanh chóng, đạt tiêu chuẩn”.

image

Bộ tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam nghiên cứu kế hoạch tác chiến. (Ảnh: TTXVN)

Trong thư, Đại tướng yêu cầu bộ đội không được chủ quan khinh địch, tiếp tục chiến đấu bền bỉ, vượt khó khăn gian khổ giành cho được toàn thắng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Về tư tưởng, Đại tướng yêu cầu cần thấm nhuần phương châm “đánh chắc, tiến chắc”, chiến đấu liên tục. Vì qua đợt 1 chiến dịch, dù địch thất bại nhưng ưu thế binh hỏa lực vẫn còn mạnh, số lượng địch vẫn đông, địch còn mạnh về tiếp tế bằng đường không và vẫn còn khả năng tiếp viện, pháo binh địch còn mạnh. Trong khi đó về phía ta, pháo binh và pháo cao xạ mới chỉ hạn chế được pháo binh và không quân địch một phần. Khi có trận địa bao vây trên một phạm vi rộng, chiều sâu dài thì càng dễ dàng cho bộ đội tiếp cận địch và hạn chế hiệu lực không quân của chúng.

Đại tướng yêu cầu bộ đội phải nắm chắc về quy định xây dựng công sự trận địa nhanh chóng chính xác và đúng tiêu chuẩn. Khi tiến hành xây dựng công sự trận địa đúng tiêu chuẩn và chính xác, chúng ta hạn chế được máy bay và phi pháo địch, từ các giao thông hào, bộ đội có thể di chuyển an toàn và sử dụng bức kích pháo tiến công lại trọng pháo địch. Hiệu lực của bức kích pháo, nếu phát huy được hỏa lực, thì cũng gần bằng hiệu lực của trọng pháo. Sử dụng tất cả các cỡ pháo của ta từ 82mm trở lên, lấy đạn chiến lợi phẩm của địch mà đánh địch.

Đại tướng cũng đề ra phương án tổ chức những tổ lưu động đánh xe tăng, tập trung hỏa lực để bắn từng chiếc xe tăng địch. Khi đánh xe tăng địch, phải dùng những giao thông hào có hố phòng pháo và hầm trú ẩn làm về phía địch. Như vậy sẽ giảm thương vong trước hỏa lực của xe tăng địch.

Cùng với đó bộ binh, cũng phải có những đơn vị nhỏ đánh địch phản kích, đánh địch nhảy dù xuống, đoạt dù tiếp tế của địch… Khi bộ đội làm trận địa cho đúng tiêu chuẩn thì sẽ giảm bớt thương vong.

Sau khi trận địa đã hoàn thiện, Đại tướng cũng đề ra phương pháp chiến đấu hiệu quả hơn như, bộ đội phòng không bố trí gần, uy hiếp dần không phận của địch trong phạm vi gần khu tung thâm, bắt buộc máy bay chúng phải bay cao, có thả dù tiếp tế hay thả viện binh cũng khó hoặc sẽ rơi vào trận địa của ta.

image

Giao thông hào của ta đã cắt đôi sân bay Mường Thanh, tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến sĩ xung kích tiêu diệt địch. (Ảnh: TTXVN)

Ngoài ra, sau khi đào xong giao thông hào, bộ đội phải tiến hành các phương án ngụy trang, địch không biết ở nơi nào thì có quân ta, ở nơi nào thì không có, lại phải đào rãnh hoặc hố để thu hút nước mưa và làm cho nước thoát khỏi giao thông hào. Cuối cùng khi những giao thông hào chiến đấu và giao thông hào trục của ta đều làm đúng tiêu chuẩn và đã tiếp cận khu tung thâm của địch trong tầm hỏa lực bức kích pháo của ta, lúc đó ta đã hình thành trận địa bao vây địch.

Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy, nhiệm vụ xây dựng trận địa tiến công và bao vây bằng giao thông hào đã trở thành một công trình lao động và chiến đấu to lớn của quân ta. Thể hiện tinh thần chiến đấu anh dũng, lao động cần cù, khắc phục mọi khó khăn, vượt qua mọi gian khổ của quân đội cách mạng. Thành công của trận địa tiến công và bao vây bằng giao thông hào là nghệ thuật quân sự đặc sắc, giải quyết được vấn đề bộ đội tiếp cận quân địch trên địa hình bằng phẳng, vận chuyển lực lượng, giữ vững trận địa, tiến hành chiến đấu liên tục, làm cho địch trở tay không kịp, cùng với đó trận địa tiến công giao thông hào hạn chế đến mức cao tác dụng của pháo binh và không quân địch.

Sau khi Đại tướng Tổng Tư lệnh gửi thư cho các đơn vị bộ đội yêu cầu xây dựng trận địa tiến công, bao vây địch đạt tiêu chuẩn và chính xác, Thiếu tướng Hoàng Văn Thái, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, ra Chỉ thị gửi các đại đoàn bổ sung về xây dựng trận địa, về chiến thuật2.

 

Ghi lại ký ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trong cuốn "Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử", NXB Quân đội nhân dân (2000), tác giả Hữu Mai viết: Thời gian dành cho việc xây dựng trận địa bao vây và tiến công trong đợt 2 là 10 ngày. Chúng ta thấy cần có hai loại đường hào: đường hảo trục dùng cho việc cơ động pháo, vận chuyển thương binh, điều động bộ đội lớn; đường hào tiếp cận dịch của bộ binh. Đường hào trục sẽ chay một đường vòng rộng bao quanh toàn bộ trận địa địch ở phân khu trung tâm. Đường hào bộ binh sẽ chạy từ những vị trí trú quân của các đơn vị trong rừng đổ ra cánh đồng, cắt ngang đường hào trục, tiến vào những vị trí địch mà ta tiêu diệt. Các loại đường hào đềi có chiều sâu là 1,7m, không quá rộng để bảo đảm an toàn trước bom đạn địch, và giữ bí mật cho bộ đội di chuyển. Đáy hào bộ binh rộng 0,5m, đáy hào trục rộng 1,2m...

Việc xây dựng trận địa phải tiến hành ban đêm, làm tới đâu ngụy trang tới đó và triển khai cùng một lúc trên toàn thể mặt trận để phân tán sự chống phá của địch. Phải có một thời gian biểu hoàn toàn mới cho bộ đội. Buổi sáng, là giờ ngủ. Khoảng cách sau bữa cơm trưa với bữa cơm chiều là thời gian chuẩn bị vật liệu xây dựng trận địa, lên rừng đốn gỗ, chặt lá ngụy trang. Sau bữa cơm chiều, từ nơi trú quân tiến ra cánh đồng. Suốt đêm là thời gian đào trận địa. Bộ đội phải lao động cật lực từ 14 tới 18 tiếng mỗi ngày.

 

Về phía địch:

- Tại mặt trận Điện Biên Phủ, quân Pháp tiếp tục thả thêm quân dù tăng cường cho Điện Biên Phủ, 5 chiếc Dakota đã hạ cánh và cất cánh ở sân bay Mường Thanh.

image

Cảnh lính Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ ngày 23/3/1954 khi chiến dịch Điện Biên Phủ đẫm máu kéo dài 55 ngày đêm bắt đầu. (Ảnh: TTXVN)

- Tại Mỹ, Tướng Paul Ely - Tham mưu trưởng quân đội Pháp tới Washington gặp Tổng thống Eisenhower để cầu cứu sự giúp đỡ của Mỹ. Phía Pháp muốn có một cuộc ném bom ồ ạt xuống chung quanh Điện Biên Phủ. Mỹ lo ngại cho số phận của Điện Biên Phủ. Tuy nhiên, Tướng Ely tỏ ra lạc quan về việc Điện Biên Phủ sẽ cố thủ được nếu các yêu cầu tăng viện nhanh chóng được chuyển tới để có thể đánh mạnh vào đối phương.

Ngày xuất bản: 20/3/2024
Nội dung: ThS NGUYỄN THỊ THẢO - Viện Lịch sử quân sự, MAI THU NGỌC
Trình bày: BÔNG MAI
Ảnh: TTXVN


   
Phan khoi lon, Hóng hớt, CarlVinson and 2 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31900.7
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3386
Topic starter  
image

Cuộc đấu tranh của hàng chục triệu người ở khắp các châu lục nhằm giải phóng chế độ thuộc địa là sự kiện có ý nghĩa thời đại trong thế kỷ XX. Trong đó, chiến công đánh thắng thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam trong Chiến dịch Điện Biên Phủ tháng 5/1954 là thắng lợi mở đầu cho sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc trên phạm vi quốc tế.

Với chiến thắng lịch sử ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành người đầu tiên kiến lập thành công sự nghiệp giải phóng thuộc địa trong thế kỷ XX. Vì vậy, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, cụm từ Việt Nam - Điện Biên Phủ - Hồ Chí Minh luôn luôn được thế giới ngưỡng mộ; và Việt Nam trở thành tấm gương cho các dân tộc bị áp bức trên con đường giải phóng thuộc địa.

Từ đó, Việt Nam - Điện Biên Phủ - Hồ Chí Minh không chỉ là cụm danh từ được viết hoa mà còn là một giá trị; nó đồng nghĩa với chiến thắng và trở thành tương lai cho các dân tộc bị áp bức noi theo.

1. Chiến thắng Điện Biên Phủ tạo nên giá trị Việt Nam trong thế kỷ XX

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là bằng chứng khẳng định trên thực tế tính đúng đắn luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về tính chủ động của cuộc cách mạng giải phóng thuộc địa: Nó có thể nổ ra và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Thành quả vĩ đại nhất của cuộc cách mạng này là chế độ thuộc địa do thực dân Pháp lập ra ở Việt Nam gần một thế kỷ trước bị đánh đổ, thay vào đó là sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam còn là sự tuyên chiến và chiến thắng đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với chế độ cai trị thực dân Pháp ở Việt Nam và Đông Dương. Tuy nhiên, được đế quốc Anh ủng hộ nên ngay sau Cách mạng Tháng Tám, thực dân Pháp lại quay lại xâm lược nước ta một lần nữa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta anh dũng tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp để bảo vệ nền độc lập vừa mới giành được. Cuộc đọ sức lần này là sự khẳng định vị thế của một Nhà nước Việt Nam độc lập trước âm mưu tái lập một chế độ thuộc địa thông qua con bài Bảo Đại cùng bọn bù nhìn với nhiều cuộc gặp gỡ và nhiều tổ chức do thực dân Pháp dàn dựng, có sự "giúp sức" của đế quốc Mỹ. Do đó, để giành thắng lợi trong cuộc đọ sức này, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm đặt ra và giải quyết đúng đắn hai nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc, thấy rõ những thuận lợi, khó khăn của lực lượng kháng chiến, đồng thời vạch rõ âm mưu, kịp thời để ra đối sách thích hợp trước mọi âm mưu của thực dân Pháp và bọn bù nhìn.

Là lãnh tụ chính trị và nhà chiến lược quân sự thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ cùng Trung ương Đảng xây dựng đường lối kháng chiến, mà còn sớm tiên đoán về một "trận chiến quyết liệt" kết thúc kháng chiến. Từ năm 1949, thông qua hàng loạt cuộc phỏng vấn của giới báo chí quốc tế, Hồ Chí Minh thấy cánh cửa đàm phán để đi đến kết thúc cuộc chiến. Tuy nhiên, Người không thụ động chờ kết cục kháng chiến, mà vẫn tích cực chuẩn bị lực lượng cho trận đánh cuối cùng! (1). Đây là những cuộc thăm dò thái độ của Chính phủ Hồ Chí Minh về những điều kiện cho một thỏa thuận để kết thúc cuộc đối đầu Việt - Pháp sắp tới. Trong trả lời các cuộc phỏng vấn, Hồ Chí Minh vừa mở rộng cánh cửa hòa bình, vừa giữ vững nguyên tắc: quyền độc lập, thống nhất của Việt Nam.

image

Tháng 12/1953, tại chiến khu Việt Bắc (Thái Nguyên), Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở mặt trận có tính chiến lược tiêu diệt tập đoàn cứ điểm quân viễn chinh tinh nhuệ Pháp ở Điện Biên Phủ.

Như một nhà tiên tri, từ giữa năm 1949, Hồ Chí Minh đã mô tả bước đi cuộc kháng chiến qua truyện ký Giấc ngủ mười năm (2) như đúng cục diện và kết cục của cuộc đọ sức Pháp - Việt tại Điện Biên Phủ. Đó là:

- Pháp được Mỹ viện trợ: "chúng tiếp được viện binh bằng máy bay. Quân ta bắn rơi mấy chiếc, xét ra không phải máy bay của Pháp, mà của một nước ngoài" (3) (thực tế, đến cuối Chiến dịch Điện Biên Phủ, Pháp đã nhận viện trợ của Mỹ là hơn 70%..., trong đó 120 máy bay viện trợ hẳn và 49 máy bay Mỹ cho Pháp mượn). - Đây là "trận đánh lớn cuối cùng", kết thúc cuộc kháng chiến. Pháp huy động "từng đoàn, từng lũ máy bay... tủa ra như ong... Chúng giội bom xuống như mưa. Tốp máy bay này về thì tốp khác tới, chúng thay nhau ném bom... Tiếng nổ long trời chuyển đất, khói lên nghi ngút như mây" - "Theo kế hoạch của giặc, thì trận này phải là một trận khủng khiếp nhất".

 

- Quân ta thắng lớn và Pháp buộc phải đàm phán với ta, Pháp công nhận quyền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam: "Quân địch bị ta vây kín. Chúng không thể cứu viện được nhau, bị quân ta tiêu diệt gần hết". "Kết quả trận đấy khủng khiếp thật, nhưng khủng khiếp cho giặc... hơn một vạn giặc chết và bị thương (3) "; "Tin thất bại về đến Pháp, cả nước xôn xao, đòi lập tức giảng hòa với ta. Quốc hội Pháp đánh đổ Chính phủ cũ, bầu ra Chính phủ mới. Chính phủ này liền phái đại biểu qua thương lượng với Chính phủ ta (4) "; Chính phủ Pháp không thể "cò kè bớt một thêm hai" mà phải công nhận "Việt Nam hoàn toàn thống nhất và độc lập, có Quốc hội riêng, Chính phủ riêng, quân đội riêng, ngoại giao riêng...". Thực tế kết cục cuộc kháng chiến và những điều khoản của Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương khá trùng hợp với tiên đoán trong Giấc ngủ mười năm.

 

Một năm sau khi bắt đầu Giấc ngủ mười năm, trên đường đi Chiến dịch Biên giới năm 1950, Hồ Chí Minh lại nói với các chiến sĩ cùng hành quân: "Cuộc kháng chiến của chúng ta tuy rất gian khổ, nó có thể kéo dài bốn, năm năm nữa, nhưng cuối cùng chúng ta nhất định thắng lợi" (5).

Là bậc thầy chỉ đạo cuộc chiến tranh cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn luôn vạch ra đường lối chính trị và quân sự thích hợp để dẫn đến thắng lợi trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Tại thời điểm năm 1950, Hồ Chí Minh chưa có thể dự đoán chính xác nơi sẽ diễn ra trận chiến cuối cùng của cuộc kháng chiến, nhưng ngay ở chính giữa thế kỷ XX, Người đã sớm nhìn thấy và chủ động tạo ra những yếu tố để xây dựng con đường đi đến chiến thắng Điện Biên Phủ - sự kiện mang ý nghĩa thời đại, góp phần làm nên giá trị Việt Nam trong thế kỷ XX.

image

Đại tướng Võ Nguyên Giáp báo cáo tình hình chiến dịch Điện Biên Phủ với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ảnh tư liệu

 

2. Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh - cơ sở hình thành đường lối kháng chiến, yếu tố quan trọng tạo nên chiến thắng Điện Biên Phủ

Ngay sau khi ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo toàn dân vào trận chiến đấu mới. Đây là cuộc đấu tranh toàn diện nhằm phát huy ưu thế chính trị, xây dựng lực lượng để tăng cường thế và lực của kháng chiến.

Có nhiều yếu tố kết thành chiến thắng của quân và dân ta đối với thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ. Trong đó, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự chỉ đạo của Người đối với kháng chiến là yếu tố cực kỳ quan trọng. Nó được thể hiện trong suốt tiến trình cuộc kháng chiến.

Có thể dễ dàng tìm thấy tư tưởng Hồ Chí Minh và sự quan tâm của Người trong từng giai đoạn, thậm chí ở từng trận đánh của cuộc kháng chiến. Điều đặc biệt là tư tưởng Hồ Chí Minh gắn bó mật thiết với đường lối kháng chiến, kiến quốc của Đảng trong suốt cuộc kháng chiến.

Trong Báo cáo trình bày tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương (khóa II) đầu năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ 10 nhiệm vụ để "Lãnh đạo kháng chiến và chính sách quân sự", trong đó nhiệm số 1 là: "Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu để phân tán lực lượng địch và tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng tự do. Đó là phương hướng chiến lược của ta hiện nay" (7).

Trên thực tế, tư tưởng này đã trở thành tư tưởng quân sự của Đảng ta, chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Pháp, góp phần tạo nên những bước tiến vững chắc cho kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954 và chiến thắng Điện Biên Phủ tháng 5/1954. Tư tưởng và nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh thể hiện rõ hơn tại cuộc họp Bộ Chính trị ở Tỉn Keo (Việt Bắc) đầu tháng 10/1953. Sau khi Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp trình bày tình hình chung, cách thức chuyển quân, hoạt động của địch và nêu lên nhận xét: "Hiện nay, Nava đã tập trung một số lực lượng cơ động lớn chưa từng có khởi đầu chiến tranh, sẵn sàng chờ đón cuộc tiến công của ta..." (8). Chủ tịch Hồ Chí Minh đang lắng nghe bình thản, bỗng giơ bàn tay lên, nắm lại rồi mở ra mỗi ngón trở về một hướng và nói rành rọt, đầy tự tin: "Địch tập trung quân cơ động để tạo nên sức mạnh... Không sợ! Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì sức mạnh đó không còn" ) (9). Sau khi nghe báo cáo thêm về kế hoạch Nava và các phương án tác chiến của Tổng Quân ủy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hỏi về phản ứng của địch nếu ta dự kiến đưa quân lên Tây Bắc và khả năng thu quân cơ động của địch khi ta mở các hướng khác, Người kết luận: "Về hướng hoạt động, lấy Tây Bắc làm hướng chính, các hướng khác là hướng phối hợp. Hướng chính hiện nay không thay đổi, nhưng trong hoạt động có thể thay đổi. Phép dùng binh ở đây là phải thiên biến vạn hóa" (10).

Ở đây, không chỉ thấy sự nhất quán trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh từ Hội nghị Trung ương lần thứ tư đến cuộc họp này của Bộ Chính trị là "Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu để phân tán lực lượng của địch" mà còn thấy rõ quyết tâm tiêu diệt địch và sự sáng tạo của Người trong quá trình chỉ đạo kháng chiến. Với quyết định: "Hướng chuyển quân chính là hướng Tây Bắc" trên thực tế là ta chủ động chọn địa điểm cho trận chiến cuối cùng, chọn nơi đánh bại âm mưu chiếm đóng của thực dân Pháp ở Đông Dương.

Mục tiêu kế hoạch Nava là làm xoay chuyển tình hình có lợi cho Pháp ở Đông Dương trong 18 tháng. Trong kế hoạch này, địa danh Điện Biên Phủ chưa được nhắc tới. Chỉ sau Hội nghị Tỉn Keo, với quyết định mang tính chiến lược của ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra: "Về hướng hoạt động, lấy Tây Bắc làm hướng chính" thì địch mới tập trung quân lên Điện Biên Phủ và đặc biệt là sau khi nhiều đơn vị, lực lượng của ta cũng chuyển lên hướng Tây Bắc thì Điện Biên Phủ mới trở thành nơi dồn dập tập trung quân Pháp. Điện Biên Phủ nhanh chóng trở thành nơi quyết chiến chiến lược của cả ta và địch. Rõ ràng, Điện Biên Phủ là sự đối phó bị động của địch. Nó đánh dấu sự phá sản bước đầu của kế hoạch Nava. Về phía ta, Điện Biên Phủ là sự lựa chọn chủ động, là quyết tâm chiến đấu của quân và dân ta, đồng thời là bước phát triển mới để kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến dưới ánh sáng tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.

Trên thực tế, Điện Biên Phủ thực sự là cuộc đọ sức của ta với thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (hơn 70% viện trợ của Mỹ). Để chiến thắng trong cuộc đọ sức này, chúng ta phải vượt qua nhiều khó khăn và không được phép mắc sai lầm, đặc biệt về quân sự. Vì vậy, tại mặt trận đã có lúc Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh, Chỉ huy trưởng mặt trận đã phải phân tích, suy ngẫm đầy gay cấn trước khi đi đến "quyết định khó khăn nhất trong đời chỉ huy" của mình là: Hoãn kế hoạch tấn công địch trong ba đêm hai ngày, "kéo pháo ra", thay đổi phương châm tiêu diệt địch: từ "đánh nhanh, thắng nhanh" sang "đánh chắc, tiến chắc" tại cuộc họp Đảng ủy mặt trận ngày 26-1-1954. Đây là quyết định lịch sử, tránh được sự tổn hại lực lượng, góp phần làm nên sức mạnh áp đảo quân Pháp trong trận tiến công của ta mở đầu Chiến dịch Điện Biên Phủ sau đó 46 ngày (11).

image

Sau nửa thế kỷ của "Điện Biên chấn động địa cầu", ngày nay mỗi khi nói và viết về quyết định lịch sử này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp bao giờ cũng cho rằng cơ sở hình thành của nó chính là tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh cùng với sự chỉ đạo tài tình của Người đối với Chiến dịch Điện Biên Phủ cũng như với toàn bộ tiến trình của cuộc kháng chiến. Đại tướng thường kể về những lời Chủ tịch Hồ Chí Minh dặn dò chân tình - những quân lệnh được vinh dự tiếp nhận trước khi ra trận: "Chiến trường ta hẹp, người của ta không nhiều, cho nên ta chỉ được thắng, không được bại, vì bại thì hết vốn" (12), "Tổng Tư lệnh ra mặt trận. Tướng quân tại ngoại. Trao cho chú toàn quyền quyết định. Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh" (13).

Tròn 40 năm sau chiến thắng Điện Biên Phủ, năm 1994, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói thêm về sự hình thành quyết định lịch sử ngày 26/1 như sau: "Ngay sau khi có quyết định thay đổi cách đánh, tôi xin ý kiến của Bác và anh Trường Chinh. Cũng như sự tin cậy của Trung ương đã giao phó trước khi vào chiến dịch. Tôi đã nhận được sự ủng hộ hoàn toàn" (14). Rõ ràng những quyết định đúng đắn và sáng tạo tại chiến trường Điện Biên Phủ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gắn liền với tư tưởng quân sự của người thầy cách mạng Việt Nam - Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong đợt tiến công thứ hai (4/1954) khi lực lượng của ta đang tăng cường đánh lấn, bao vây, chia cắt và khống chế đường tiếp viện hàng không của địch, tại Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp và nói chuyện với nhà báo Australia W.Burchett về thế trận ở Điện Biên Phủ với quyết tâm chiến đấu và niềm tin chắc thắng. Người lật ngửa chiếc mũ cứng đặt trên bàn tre, đưa tay vòng quanh vành mũ và giải thích: "Núi ở đây và chúng tôi ở đây". Rồi Người nắm tay lại, đấm vào lòng mũ và nói tiếp: "Còn đây là quân Pháp. Họ không thoát chỗ này được" (15). Và sự thật là chỉ hơn một tháng sau đó, Điện Biên Phủ đã trở thành nấm mồ chôn chủ nghĩa thực dân Pháp và nơi đó như được khắc họa hình ảnh cây thập ác đánh dấu nấm mồ chôn mưu đồ xâm lược của thực dân Pháp ở Đông Dương như chính một người Pháp ở tại Thủ đô Paris đã tiên đoán trước đó hơn ba thập kỷ khi nói về vai trò của Nguyễn Ái Quốc (tên của Hồ Chí Minh những năm 20 của thế kỷ XX - T.G).

image

Thiếu tướng Hoàng Văn Thái (hàng sau, thứ hai từ trái sang, đứng cạnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp) cùng Bác Hồ tới thăm hỏi, động viên cán bộ, chiến sỹ lập thành tích xuất sắc trong Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.

 

3. Nghệ thuật chỉ đạo và kết thúc cuộc chiến

Là người hiểu rõ những thiệt thòi và mất mát của nhân dân mình trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp nên sau Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách để ngăn chặn cuộc đối đầu Pháp - Việt. Nhưng sự đã không thành. Cho nên, ngay từ khi cuộc chiến mới nổ ra, Hồ Chí Minh đã tìm kiếm mọi cơ hội để đàm thoại, cứu vãn hòa bình. Thiện chí của Hồ Chí Minh đã được chính Tổng thống Pháp François Mitterrand thừa nhận trong dịp sang Việt Nam thăm Điện Biên Phủ năm 1993 là: "Tôi nhớ lại chuyến thăm của Hồ Chí Minh đến Pháp. Hôm trước diễn ra Hội nghị Phôngtennơblô, ông Hồ Chí Minh đã tìm kiếm những người đối thoại; không tìm được dù rất mong muốn đàm phán để hướng tới độc lập, ông Hồ Chí Minh đã bị đẩy vào cuộc chiến tranh. Việt Nam đã tiến hành một cuộc chiến tranh vì độc lập. Yếu tố dân tộc đã có tính quyết định hơn bất kỳ yếu tố hệ tư tưởng nào khác" (16). Với ý định sang Việt Nam, thăm Điện Biên Phủ để "tư duy và cảm nhận" nên trong một cuộc trả lời phỏng vấn, người đứng đầu nước Pháp đã tự nhận trách nhiệm của họ đối với cuộc chiến tranh này là: "Chúng tôi đã có một cuộc chiến tranh ở Việt Nam khốc liệt như một cuộc chiến tranh... Theo tôi, cuộc chiến tranh này tôi nhớ đã có nhiều lần viết về nó... là một sự sai lầm. Công cuộc thực dân hóa của Pháp lúc đó cần phải thích nghi, sang trang" (17).

Là người đã viết Bản án chế độ thực dân Pháp, Hồ Chí Minh hiểu khá rõ bản chất của bọn thực dân nên Người không ảo tưởng vào những trò chính trị do Pháp nặn ra, mà luôn nêu cao cảnh giác, đánh giá đúng ý nghĩa của thắng lợi trên chiến trường đối với đàm phán, tìm giải pháp cho cuộc chiến. Trong lớp chỉnh huấn cán bộ trí thức khi cuộc kháng chiến sắp bước vào thời kỳ quyết liệt, Người đã chỉ rõ: "Ta cũng phải đánh cho Pháp quỵ. Lúc ấy, có đàm phán mới đàm phán, chứ không phải đưa đàm phán ra là nó đàm phán ngay đâu. Đừng có ảo tưởng. Mục đích của nó là xâm lược. Nó mất 99% còn hy vọng 1%, nó vẫn đánh. Phải đánh nó quỵ nó mới chịu" (18).

Đáp ứng yêu cầu của mặt trận, hàng vạn dân công, hàng chục vạn tấn vũ khí, lương thực được vận chuyển từ hậu phương hướng lên Tây Bắc, tới rừng núi Điện Biên, tiếp sức cho bộ đội hun đúc quyết tâm "tiêu diệt Trần Đình". Từ hậu phương, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư, điện động viên khen ngợi thành tích chiến đấu của bộ đội ở Điện Biên Phủ.

Cũng trong tháng 4/1954, trước khi lên đường dự Hội nghị Giơnevơ, Trưởng đoàn Phạm Văn Đồng có cuộc gặp gỡ với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người nói với đồng chí Phạm Văn Đồng: Bác sẽ có quà tặng cho Đoàn ta tại Hội nghị. Món quà vô giá ấy chính là tin chiến thắng Điện Biên Phủ, đã đến với đoàn ngay chiều hôm trước ngày Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương khai mạc (19).

Chiến thắng Điện Biên Phủ tạo ra lợi thế cho Việt Nam tại Hội nghị Giơnevơ. Tuy nhiên do lúc ấy quốc tế đang trong bầu không khí hòa hoãn nên vấn đề phát huy lợi thế của chiến thắng Điện Biên Phủ của Việt Nam trên bàn Hội nghị bị chi phối khá mạnh bởi ý đồ và quyền lợi thỏa hiệp giữa các nước lớn.

image

Chủ tịch Hồ Chí Minh thưởng huy hiệu cho các chiến sĩ lập nhiều chiến công trong chiến dịch Điện Biên Phủ.

Trong bối cảnh quốc tế như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã một mặt chỉ đạo đoàn đấu tranh thực hiện mục tiêu: Hòa bình, Độc lập, Thống nhất và Dân chủ thể hiện qua Đề nghị tám điểm của Trưởng đoàn Phạm Văn Đồng đưa ra ngày 10/5/1954. Các điểm có nội dung gắn kết quân sự với chính trị, Việt Nam với Lào, Campuchia. Trong các cuộc gặp gỡ "vận động" Đoàn Việt Nam cố gắn với hai đoàn Liên Xô và Trung Quốc trên tinh thần xã hội chủ nghĩa anh em. Mặt khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ động tạo ra các cuộc tiếp xúc với các nhà lãnh đạo hai nước anh em nhằm tìm kiếm hậu thuẫn cho những quan điểm của Việt Nam. Song, đây là công việc rất nhạy cảm, liên quan khá nhiều đến thái độ chủ quan của hai nước lớn anh em này.

Cuối tháng 3/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua Bắc Kinh, sau đó cùng đồng chí Phạm Văn Đồng (đã đến Bắc Kinh từ ngày 20/3/1954) cùng đi Mátxcơva để luận đàm với các nhà lãnh đạo Liên Xô và đồng chí Chu Ân Lai (đang ở Mátxcơva). Kết quả tổng quát các cuộc hội đàm có thể tóm tắt: "Cộng hòa nhân dân Trung Hoa không thể công khai ủng hộ Việt Nam trong trường hợp mở rộng xung đột khu vực". Trong bối cảnh ấy, Việt Nam không đánh giá quá cao Hội nghị Giơnevơ nhưng không bỏ lỡ cơ hội, tiếp tục tạo ra những cuộc gặp gỡ tay đôi, đặc biệt với Liên Xô và Trung Quốc để tiếp tục tìm kiếm hậu thuẫn, chia sẻ lập trường, hình thành giải pháp thực thi tại hội nghị. Vì vậy, từ ngày 3 đến ngày 5/7/1954 Hồ Chí Minh hội đàm tại biên giới Việt - Trung với Chu Ân Lai trên đường công du của Chu Ân Lai từ New Delhi và Rangoon trở về Trung Quốc. Rất ít nội dung cuộc hội đàm dài ngày được công bố. Chỉ biết sau đó tin tức từ Bắc Kinh tiết lộ: Hai nhà lãnh đạo đã trao đổi quan điểm toàn diện về Hội nghị Giơnevơ, về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương và các vấn đề có liên quan; Chủ tịch Hồ Chí Minh bày tỏ ý kiến rằng năm nguyên tắc chung sống hòa bình hoàn toàn có thể áp dụng để củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam, Lào và Campuchia. Sau đó ba nghị định thư giữa Trung Quốc và Việt Nam được ký kết (20) .

Như vậy, mục tiêu và những giải pháp của Đoàn đại biểu Việt Nam nhằm kết thúc cuộc kháng chiến tại Hội nghị Giơnevơ là những đòi hỏi chính đáng của nhân dân ta. Tuy nhiên, do tương quan lực lượng và bối cảnh hòa hoãn nên không phải tất cả những thắng lợi Việt Nam trên chiến trường đã được đánh giá đúng như giá trị của nó tại hội nghị. Theo đó, việc lấy vĩ tuyến 17 để làm giới tuyến tạm thời Bắc - Nam và thời hạn tổng tuyển cử là hai năm là một kết quả thực tế dành cho Việt Nam là có thể hiểu được. Đối với Việt Nam, Hiệp định Giơnevơ vẫn là một thắng lợi, là cơ hội nhằm củng cố lực lượng để chuyển sang một giai đoạn mới (21).

 

Chiến thắng Điện Biên Phủ là một sự kiện có tầm vóc lớn lao, có ý nghĩa trọng đại đối với Việt Nam và nhân loại. Nhà sử học phương Tây Giuyn Roa viết: Điện Biên Phủ "là nỗi kinh hoàng khủng khiếp, là nỗi thất bại lớn nhất của phương Tây, báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ và sự cáo chung của một nền cộng hòa Pháp" (22). Còn tác giả G.Budaren và F.Cavi Giôliôli viết trên tờ Người quan sát cho rằng: "Điện Biên Phủ là một trong những trận giao chiến đã thay đổi số phận thế giới".

Đối với chúng ta, Điện Biên Phủ là sự thắng lợi đầu tiên của một dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân để mở đầu cho sụp đổ trên phạm vi toàn thế giới. Đó là thắng lợi trên thực tế của tư tưởng Hồ Chí Minh về khả năng thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, là thắng lợi của tư tưởng, nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh.

Thắng lợi của Việt Nam đối với thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ đã khẳng định giá trị tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Đây là thắng lợi mở đầu cho quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân trên phạm vi thế giới. Thắng lợi ấy đã tạo nên một giá trị Việt Nam trong thế kỷ XX. Và lãnh tụ tối cao của dân tộc Việt Nam - Chủ tịch Hồ Chí Minh được thế giới thuộc địa ngợi ca là: người thầy giành tự do độc lập dân tộc; Tổ chức UNESCO của Liên hợp quốc công nhận là Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, nhà văn hóa kiệt xuất.

 

Phó giáo sư, Tiến sĩ LÊ VĂN TÍCH, Phó Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

Trích trong sách “50 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ: Điện Biên Phủ - Hợp tuyển công trình khoa học”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. Trước đó, bài đã đăng trong sách:Chiến thắng Điện Biên Phủ - Mốc vàng lịch sử, chân lý thời đại, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004.

Trình bày: Hạnh Vũ
Ảnh: TTXVN

 
 

(*) Tỉnh ủy - Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên - Bộ Tư lệnh Quân khu 2 - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Chiến thắng Điện Biên Phủ - Mốc vàng lịch sử, chân lý thời đại, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004.

(1) Chỉ trong năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời phỏng vấn của nhiều nhà báo quốc tế: Nhà báo Mỹ Eli Mâysi (lần 2, tháng 5-1948), Hãng thông tấn Anh Reuters (2-2-1949), báo France Soir (28-2-1949), nhà báo Mỹ Harôn Ixắc, nhà báo Standley Harrison (3-1949), Dân quốc Nhật báo (4-1949), Báo Tribune (20-4-1949), báo Franc-Tireur (6-1949)... Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, các trang 429, 564, 568, 571, 577, 581, 586, 646.

(2) Ký tên: Trần Lực, Tổng bộ Việt Minh xuất bản tại Việt Bắc, 1949. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 603-623.

(3) Các đoạn trong ngoặc kép ở phần này được trích từ Giấc ngủ mười năm.

(4) Thực tế quân số địch bị ta diệt và bắt sống là 16.200 tên.

(5) Chính phủ mới do Biđôn làm Thủ tướng.

(6) TL: Vừa đi đường vừa kể chuyện, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.83

(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr. 13.

(8), (9), (10) Võ Nguyên Giáp: Thế giới còn đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi, Ban Khoa học xã hội Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, 1991, tr. 74-75, 75, 77.

(11) Trận tiến công mở đầu Chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu từ 17h ngày 13-3-1954. (12), (13) Võ Nguyên Giáp: Thế giới còn đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi, Sđd, tr. 91, 79.

(14) Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ - xưa và nay, Tạp chí Xưa và Nay, số 2. V-1994, tr.8.

(15) Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr.179.

(16), (17) Trả lời phỏng vấn của Tổng thống Pháp Ph. Míttơrăng trong chuyến thăm Việt Nam, 4 - 1993, Tạp chí Xưa và Nay, số 2 - 1993, tr. 9.

(18) 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7. tr.113.

(19) Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên con đường dân giàu, nước mạnh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.119.

(20) Phrăngxoa Gioayô: Trung Quốc và việc giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất - Giơnevơ 1954, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1981, tr. 432-436.

(21) Khắc Huỳnh: Hội nghị Giơnevơ 1954 về Đông Dương sau năm thập kỷ nhìn lại, Tạp chí Xưa và Nay, số 143, tháng 7-2003, tr.7

(22) Dẫn theo Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ xưa và nay, Tạp chí Xưa và Nay, số 2, V - 1994.

--------------


   
Hóng hớt, CarlVinson, Big bang and 2 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31900.7
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3386
Topic starter  

Cụ nào dịp này rảnh lên Điện Biên thì tha hồ hội hè.

Hơn 2.000 diễn viên trình diễn xòe Thái tại Điện Biên

NDO - Nằm trong chuỗi các hoạt động của Năm Du lịch quốc gia - Điện Biên và Lễ hội Hoa Ban 2024, ngày 17/3, tại sân vận động tỉnh Điện Biên diễn ra liên hoan "Nghệ thuật xòe Thái", thu hút hơn 2.000 diễn viên tham gia trình diễn và hàng nghìn khán giả đến xem, cổ vũ.
image

https://nhandan.vn/hon-2000-dien-vien-trinh-dien-xoe-thai-tai-dien-bien-post800370.html

 


   
Hóng hớt, CarlVinson, Big bang and 1 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31900.7
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3386
Topic starter  

Mời các cụ trẻ/ con cháu các cụ tham gia thiết kế sản phẩm tuyên truyền Chiến thắng Điện Biên Phủ

Giải thưởng ngon phết :

image

https://nhandan.vn/sinh-vien-tranh-tai-thiet-ke-san-pham-tuyen-truyen-chien-thang-dien-bien-phu-post800444.html

 


   
Hóng hớt, CarlVinson, Big bang and 1 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31900.7
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3386
Topic starter  
image
image

Chiến thắng Điện Biên Phủ không chỉ là chiến thắng của nhân dân Việt Nam mà còn là một chiến thắng có tính biểu trưng đối với toàn thế giới, nhất là đối với các dân tộc dưới ách áp bức, đô hộ của thực dân Pháp như Algeria, Maroc, Tunisia…

Khi thực dân Pháp tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh tại Đông Dương vào cuối năm 1946, quân đội của thực dân Pháp đã nghĩ rằng hoàn toàn có thể chiến thắng được quân đội của Việt Nam trong vòng vài tuần, vài tháng. Thực dân Pháp đã không nghĩ rằng họ sẽ phải đối mặt với một cuộc kháng chiến toàn quốc, thực tế đã ngay lập tức giành được chiến thắng trước quân đội Pháp trong giai đoạn này.

Đến năm 1949, mối liên hệ của Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa khác như là Liên Xô (trước đây), Trung Quốc… càng làm mạnh mẽ hơn nữa sức mạnh của cuộc kháng chiến. Ở thời điểm đó, quân đội Pháp không còn mong đợi gì ngoài mục tiêu đè bẹp cuộc kháng chiến của Việt Nam. Phía Mỹ tăng cường sự hiện diện trong các cuộc xâm lược của thực dân Pháp tại khu vực Đông Dương. Quân đội Pháp đã tăng cường rất nhiều các khí tài, nhân lực, với số lượng lên tới hàng trăm nghìn tấn.

Khi tướng Nava quyết định mở chiến dịch tấn công Điện Biên Phủ thì quân đội Pháp bắt đầu có một niềm tin rằng họ sẽ chiến thắng. Họ đã tăng cường lực lượng lên rất nhiều và với một niềm tin sẽ làm suy yếu được Quân đội nhân dân Việt Nam. Và điều này là không hề dễ dàng một chút nào.

image

Các đơn vị pháo binh của ta tiếp tục pháo kích vào các vị trí của địch. Các vị trí của địch bị trúng đạn pháo đang bốc cháy. (Ảnh: TTXVN)

 

Tôi đã từng có cơ hội được gặp Đại tướng Giáp, ông đã giải thích cho tôi rất nhiều về tướng Nava cũng như là kế hoạch của Nava.

Hàng trăm nghìn người vận chuyển, bằng nhiều phương tiện và hình thức khác nhau như là đi bộ, xe đạp hay xe tải, để chuyển hàng trăm nghìn tấn đạn dược và lương thực cho quân đội Việt Nam. Vì vậy quân đội của thực dân Pháp hoàn toàn bất ngờ sau đó là dẫn đến sự thất bại vào năm 1954.

Chiến thắng Điện Biên Phủ không chỉ là một chiến thắng trên mặt quân sự mà còn về mặt chính trị, là sự tổng hòa giữa ý chí của người dân cũng như sự quyết tâm của những con người vĩ đại.

Có thể nói rằng, dân tộc là Việt Nam là một dân tộc dũng cảm, kiên cường, tinh nhuệ trong chiến đấu và quyết tâm đánh thắng vốn đã được hình thành từ trong truyền thống lịch sử lâu đời của mình. Trong khi đó thực dân Pháp cậy sức mạnh về quân sự, không hiểu rõ lịch sử chống ngoại xâm của Việt Nam với nhiều tấm gương đánh giặc như Nguyễn Trãi hay các cuộc chiến chống giặc ngoại xâm phương bắc của nhân dân Việt Nam trong thời kỳ phong kiến.

Quan trọng hơn cả là nhân dân Việt Nam khi đó được dẫn dắt bởi một con người vô cùng quan trọng trong lịch sử dân tộc, đó là Nguyễn Ái Quốc, sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh, một tấm gương về tinh thần yêu nước, được nhân dân hết lòng ủng hộ, đi theo. 

Tôi đã từng được gặp gỡ Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Đó là cơ duyên thật tuyệt vời ở thời điểm tôi đang là phóng viên thường trú của Báo Nhân đạo (Đảng Cộng sản Pháp). Lần đầu tiên tôi được gặp Đại tướng Giáp vào năm 1979 nhân dịp kỷ niệm 25 năm chiến thắng Điện Biên Phủ.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp chưa từng học qua trường lớp quân đội nào, mà tự học bằng chính những kinh nghiệm của mình. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ định Võ Nguyên Giáp phụ trách quân đội Việt Nam, ông chưa hề biết gì về các vấn đề quân sự.

Có thể nói rằng dân tộc Việt Nam đã rất may mắn có được Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ông đã vận dụng được tất cả những kiến thức quân sự tài tình của dân tộc Việt Nam cũng như của toàn thế giới, để dẫn dắt cho quân đội Việt Nam giành được chiến thắng cuối cùng vào năm 1954.

image

Giới thiệu sách viết chiến thắng Điện Biên Phủ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhà sử học Alain Ruscio cho rằng thất bại ở Điện Biên Phủ là hệ quả tất yếu của những toan tính chiến lược sai lầm của thực dân Pháp đã không thấy hết sức mạnh của dân tộc Việt Nam quyết tâm đứng lên bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc.

 

Rõ ràng, chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi vĩ đại của Việt Nam và cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới.

Năm 2004, nhân kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, tôi đã từng nhận xét rằng Điện Biên Phủ là ngọn gió của lịch sử. Đúng vậy, ngọn gió đó trong trường hợp này được gọi là sự phi thực dân hóa. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã làm thay đổi lịch sử. Có thể nói rằng thế kỷ 19 là thế kỷ của các quốc gia châu Âu trong đó có Pháp khi mà tại thời điểm đó thực dân Pháp xâm lược và thiết lập chế độ thuộc địa tại nhiều khu vực như ở châu Phi, châu Á, châu Đại Dương…

Có thể nói thế kỷ 19 là thời điểm huy hoàng của người da trắng. Đến thế kỷ thứ 20 thì tình hình đã có rất nhiều thay đổi. Rất nhiều quốc gia thuộc địa đã giành được chiến thắng trong đó, có Việt Nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ là một biểu tượng đối với các dân tộc bị áp bức cũng như các nhà lãnh đạo tại các quốc gia này.

Chiến thắng Điện Biên Phủ ở thời điểm đấy là một bước ngoặt lịch sử đối với nhiều dân tộc thuộc địa, bị áp bức dưới nhiều hình thức khác nhau của chế độ thực dân hoặc chế độ đế quốc. Họ đã vùng lên giành chiến thắng. Tại Pháp, rất rất nhiều người dân Pháp ghi nhận chiến thắng Điện Biên Phủ như một dấu mốc đánh dấu sự sụp đổ của chế độ thực dân.

Kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ không chỉ là dịp nhìn lại chiến thắng lừng lẫy của Việt Nam, mà còn thấy rõ hơn mối lương duyên đặc biệt giữa hai nước qua nhiều thăng trầm lịch sử.

Có thể nói rằng mối quan hệ Việt Nam và Pháp thật đặc biệt. Hai dân tộc Việt Nam và Pháp có lý do để cùng nhau xây dựng nên mối quan hệ hữu nghị và hợp tác như thời điểm hiện tại bởi vì chế độ thực dân về bản chất không phải là điều mà người dân Pháp mong đợi.

Điều thứ hai nữa là Chủ tịch Hồ Chí Minh có được tình cảm rất lớn từ nhân dân Pháp. Nguyễn Ái Quốc đã có thời gian sống và làm việc tại Pháp và hiểu về xã hội Pháp, hiểu rằng nhân dân Pháp không hề ủng hộ chế độ thực dân. Cùng với đó là rất nhiều tổ chức chính trị, nghiệp đoàn như là Đảng Cộng sản Pháp, giới tri thức có một cái nhìn vô cùng cởi mở. Nhân dân Pháp muốn tất cả mọi người hiểu rằng nhân dân Pháp là một dân tộc giàu tình hữu nghị, không giống như những người bảo thủ theo đuổi chế độ thực dân.

Trong giai đoạn thuộc địa, đã có rất nhiều người Pháp đã xuống đường biểu tình phản đối các cuộc chiến tranh tại Việt Nam cũng như tại Đông Dương. Giai đoạn sau đó, nhân dân Pháp cũng tiến hành rất nhiều cuộc biểu tình nhằm phản đối cuộc chiến tranh do quân đội Mỹ tiến hành ở Việt Nam. Điều này càng làm gắn bó hơn nữa tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt Nam và Pháp. Thực tế là hai dân tộc đã dành cho nhau rất nhiều tình cảm yêu thương, gắn bó. Ngày nay có rất nhiều khách du lịch Pháp đến thăm quan tại Việt Nam để có thể được tận mắt nhìn thấy các danh lam thắng cảnh, để thưởng thức những món ăn ngon tuyệt vời của Việt Nam. Và Việt Nam cũng là một quốc gia không hề bị hòa lẫn vào các quốc gia châu Á khác.

image

 

Nội dung: KHẢI HOÀN và MINH DUY
(Phóng viên báo Nhân Dân thường trú tại Pháp)
Trình bày: D.D


   
Trả lờiTrích dẫn
(@big-bang)
Trung niên
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 27421.49
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3636
 

Cụ nào đã từng đi tuyến Điện biên, Lai châu từ hồi còn chưa hạ cấp đường thì mới thấy sự gian nan ngày xưa của Bộ đội khi đưa quân, súng, pháo, lương thực lên Điện biên.

Có mấy điểm đáng tiếc về hiện trạng điện biên như sau:

1. Để xây dựng thành phố Điện biên, chúng ta đã tiến hành san lấp các quả đồi, vì vậy địa thế toàn khu vực đã thay đổi, không thể hình dung thực địa ngày xua.

2. Trên bức tường đá liệt kê danh sách các liệ sĩ ở nghĩa trang Điện biên, chỉ có tên mà không có quê quán của các liệt sĩ, theo cháu đó là một điều đáng tiếc. Giá như có thêm một dòng quê quán của các liệt sĩ thì tốt hơn

Маруся идет в школу


   
silverstar0211, flash001, Hóng hớt and 3 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cadjc
(@cadjc)
Công dân
Được ưa thích
Tài sản: 311.37
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1099
 

TRUNG ĐOÀN 675 TRONG CHIẾN CUỘC ĐÔNG XUÂN 1953 - 1954 VÀ CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ

 

Những thắng lợi liên tiếp của quân đội ta trong các chiến dịch Tây Bắc, Thượng Lào càng làm cho cục diện chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương chuyển biến mạnh theo chiều hướng có lợi cho quân và dân ta, bất lợi cho thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Hòng đưa cuộc chiến tranh “Ra khỏi con đường hầm không lối thoát”, Chính phủ Pháp một lần nữa lại cải tổ bộ máy chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương và hoạch định một chương trình hành động mới. Người được chọn thay cho tướng Xa-lăng làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương là Hăng-ri Na-va.

Sau khi sang Đông Dương, tháng 5 năm 1953, Na-va ráo riết hoạt động và nhanh chóng thảo ra một chương trình hành động mới. Na-va dự định trong chiến cuộc 1953- 1954 thực hiện phòng ngự chiến lược ở phía bắc vĩ tuyến 18, tránh giao chiến toàn diện. Ngược lại, ở phía nam vĩ tuyến 18, cố gắng thực hiện tiến công nhằm bình định miền Nam và miền Trung Đông Dương, đặc biệt là tiến công chiếm đóng vùng tự do Liên khu 5. Sau khi nắm trong tay ưu thế về lực lượng cơ động, từ mùa thu 1954 sẽ chuyển lên tiến công ở phía bắc Hoành Sơn, tạo nên một cục diện quân sự khiến Pháp có được một giải pháp chính trị cho cuộc chiến tranh1 (Hen-ri Na va. Thời điểm của những sự thật. Bản dịch của Viện Lịch sử quân sự Việt nam. Nhà xuất bản Công an nhân dân. Hà Nội, 1994, trang 78-97).

Kế hoạch Na-va được Chính phủ Pháp và Mỹ đánh giá rất cao, "Nó cho phép hy vọng đủ mọi điều"2 (Tiếng sấm Điện Biên Phủ. Nhà xuất bản QĐND, Hà Nội, 1984, trang 61).

Về phía ta, Bộ Chính trị xác định chủ trương tác chiến trong Đông - Xuân 1953-1954 là: Sử dụng một bộ phận chủ lực mở những cuộc tiến công vào những hướng địch sơ hở; tranh thủ cơ hội tiêu diệt địch lrong vận động ở những hướng địch có thể đánh sâu vào vùng tự do của ta. Đồng thời đẩy mạnh chiến tranh du kích ở khắp các chiến trường sau lưng địch và tích cực tiến hành mọi sự chuẩn bị cần thiết trong nhân dân và bộ đội địa phương, dân quân du kích các vùng tự do để cho chủ lực rảnh tay làm nhiệm vụ.

Căn cứ vào chủ trương tác chiến trên đây, Bộ Tổng tham mưu đã lập kế hoạch tổ chức, xây dựng và sử dụng lực lượng; Tổng quân uỷ ra nghị quyết chỉnh quân chính trị.

Đại đoàn 351 vừa chỉnh quân chính trị, vừa tiến hành chấn chỉnh tổ chức, biên chế. Đồng chí Doãn Tuế, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 675 được bổ nhiệm kiêm Quyền tham mưu trưởng đại đoàn. Đồng chí Nguyễn Đình Ước Quyền chính uỷ trung đoàn. Đồng chí Bùi Xuân Đăng, Trung đoàn phó kiêm Tham mưu trưởng trung đoàn. Trung đoàn 675 tổ chức thêm 2 đại đội (đại đội 115 cối 120 mm và đại đội 114 hỗn hợp cối 120 mm và sơn pháo 75 mm) cho tiểu đoàn 83 trực thuộc đại đoàn.

Tháng 7 năm 1953, cán bộ cấp tiếu đoàn trở lên được về Bộ dự lớp tập huấn tác chiên hiệp đồng đánh địch trong công sự vững chắc của tập đoàn cứ điểm. Cán bộ cấp đại đội trở xuống do đại đoàn tập huấn theo nói dung của Bộ hướng dẫn.

Sau các lớp tập huấn của Bộ và của đại đoàn, Trung đoàn 675 bước vào đợt huấn luyện đánh tập đoàn cứ điểm và đánh vận động lớn. Nội dung huấn luyện cua trung đoàn là tập hành quân chiếm lĩnh trận địa trên các loại địa hình phức tạp; ôn kỹ thuật ngắm bắn trực tiếp cả ban ngày và ban đêm ở các cự ly.

Đợt huấn luyện chính trị, quân sự đã góp phần nâng cao ý chí chiến đau, rèn luyện năng lực tổ chức chỉ huy, trình độ kỹ, chiến thuật của cán bộ, chiến sĩ pháo binh. Đây là bước chuẩn bị quan trọng và rất cần thiết đối với trung đoàn trước khi bước vào thực hiện nhiệm vụ Đông Xuân 1953- 1954.

Hè Thu 1953, sau khi tăng cường lực lượng cho chiến trường Đông Dương, Na-va mở hàng chục cuộc hành quân càn quét, bình định vùng đồng bằng Bắc Bộ, Bình - Trị - Thiên, Nam Bộ; tung hàng nghìn thổ phỉ vào Lào Cai, Sơn La, Lai Châu; tập kích thị xã Lạng Sơn; rút lực lượng ở Nà Sản về tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ để phá các hoại động chuẩn bị tiến công của ta.

Thực hiện kế hoạch tác chiến chiến lược Đông Xuân 1953- 1954 của Tổng quân uỷ, trung tuần tháng 11 năm 1953, bộ đội chủ lực của ta tiến lên Tây Bắc, chuẩn bị mở chiến dịch Lai Châu. Các đại đội sơn pháo 752, 753, 756 của Trung đoàn 675 cùng Đại đoàn 308 vượt sông Thao, sông Đà tiến vào Tây Bắc. Pháo, đạn được xe vận tải của Tổng cục Cung cấp vận chuyển; cán bộ, chiến sĩ đi bộ từ Ngòi Khê (Tuyên Quang) qua Âu Lạc, Ba Khe, Lũng Lô, Quang Huy, Tạ Khẳn, Cò Nòi, Nà Sản.

Phát hiện bộ đội ta tiến lên phía tây, ngày 20 tháng 11 năm 1953, địch mở cuộc hành quân Ca-xtô đánh chiếm Điện Biên Phủ. Sau khi cho 6 tiểu đoàn nhảy dù xuống khu vực lòng chảo Điện Biên, địch nhanh chóng thành lập các trung tâm đề kháng quanh sân bay Mường Thanh và các điểm cao phía đông sông Nậm Rộm. Với ý định xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, ngày 3 tháng 12 năm 1953, Na-va quyết định bỏ Lai Châu, co lực lượng về Điện Biên Phủ; đồng thời gấp rút tăng cường lực lượng, phương tiện chiến tranh.

Cho đến khi ta nổ súng mở màn chiến dịch, quân địch ở Điện Biên Phủ đã lên đến 12 tiểu đoàn bộ binh và dù, 4 đại đội súng cối 120 mm, 2 tiểu đoàn lựu pháo 105 mm, 1 đại đội trọng pháo 155 mm, 1 tiểu đoàn công binh, 1 tiểu đoàn xe tăng nhẹ; 1 đại đội xe vận tải, 6 máy bay khu trục và máy bay thám thính. Tổng quân số của địch lúc đầu là 11.800 tên, chủ yếu là lính dù và Âu-phi tinh nhuệ, đặt dưới quyền chỉ huy của đại tá Đờ Cát-xtơ-ri.

Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ có 49 cứ điểm, mỗi cứ điểm đều có hệ thống công sự, hàng rào vật cản và hoả lực để độc lập chiến đấu.

Những cứ điểm gần nhau được tổ chức thành cụm cứ điểm (trung tâm đề kháng). Tập đoàn cứ điểm được chia thành 3 phân khu: Phân khu trung tâm là phân khu quan trọng nhất gồm 5 trung tâm đề kháng bao bọc Sở chỉ huy của tập đoàn; phân khu Bắc gồm 2 trung tâm đề kháng phòng ngự ở hướng Bắc và phân khu Nam (phân khu Hồng Cúm) có nhiệm vụ ngăn chặn quân ta tiến công từ phía nam lên.

Sau khi xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh, các tướng tá Pháp mong đợi một cuộc giao chiến với ta với "Hy vọng tràn trề chúng ta sẽ thắng trong cuc chiến tranh Đông Dương ở mặt trận Điện Biên Phủ1 (Hen-ri Na-va. Sđd, trang 200).

Trong khi đó, ta cũng cơ bản dự thảo xong phương án tiến công Điện Biên Phủ và tích cực xúc tiến các mặt công tác chuẩn bị cho chiến dịch. Đại tướng Võ Nguyên Giáp được chỉ định làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng uỷ chiến dịch Điện Biên Phủ (mang mật danh chiến dịch Trần Đình).

Ngày 14 tháng 1 năm 1954, tại hang Thẩm Púa (km 15 đường Tuần Giáo - Điện Biên), Đảng uỷ và Bộ chỉ huy chiến dịch mở hội nghị cán bộ, phổ biến kế hoạch tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Nhận thấy lúc này đối phương ở Điện Biên Phủ còn nhiều sơ hở, Đảng uỷ và Bộ chỉ huy chiến dịch chủ trung vận dụng phương châm “Đánh nhanh, thắng nhanh", nhưng nếu tình hình thay đổi, ta cũng có thể vận dụng phương châm "Đánh chắc, tiến chắc”. Để đánh nhanh, thắng nhanh, ta chủ trương Tập trung tuyệt đối ưu thế binh hỏa lực từ phía tây đột phá, đánh nhanh vào trung tâm Mường Thanh, đồng thời từ phía đông giáp công"2 (Báo cáo kế hoạch tác chiến ... sđd, trang 35). Về thời gian mở màn chiến dịch, ta dự kiến 16 giờ ngày 20 tháng 1 năm 1954. Tuy nhiên thời gian nổ súng còn phụ thuộc vào việc kéo pháo vào chiếm lĩnh trận địa.

Để giữ bí mật, bảo đảm yếu tố bất ngờ, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định dùng sức người kéo pháo vào chiếm lĩnh trận địa. Đại đoàn 308, Trung đoàn 675 và Trung đoàn 151 (công binh) mở đường kéo pháo từ Nà Nham qua đỉnh Pha Sông (cao 1450m) xuống Bản Tấu, đến Bản Nghịu (tây bắc Mường Thanh). Con đường kéo pháo hoàn loàn luồn lách trong rừng rậm, núi cao, đường dài 15 km, rộng 3 mét; mở đến đâu phải nguỵ trang ngay đến đó.

Để tổ chức kéo pháo vào trận địa, Bộ chỉ huy chiến dịch thành lập Bộ chỉ huy kéo pháo do đồng chí Đại đoàn trưởng Đại đoàn 312 làm chỉ huy trưởng; chỉ huy phó gồm các đồng chí Chính uỷ Đại đoàn 351, Cục trưởng Cục Bảo vệ (Tổng cục Chính trị). Các đồng chí Chính uỷ Đại đoàn 312, Trung đoàn trưởng các Trung đoàn 141, 45, 675 và 151 làm uỷ viên. Lực lượng kéo pháo gồm Đại đoàn 312 và Đại đoàn 351. Trung đoàn công binh 151 đặc trách nguỵ trang toàn tuyến đường và thiết bị tời kéo pháo.

Trưa ngày 16 tháng 1 năm 1954, các đơn vị bắt đầu kéo pháo vào trận địa. Theo kế hoạch, sau 3 ngày ta sẽ noãn thành việc kéo pháo tới Bản Nghịu. Nhưng đến chiều ngày 25, một nửa số pháo vẫn đang ở trên đèo Pha Sông. Giữa lúc đó, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định thay đổi phương châm, chuyển từ “Đánh nhanh, thắng nhanh" sang “Đánh chắc, tiên chắc và ra lệnh chuyển pháo ra khỏi trận địa lâm thời, rút về vị trí an toàn. Ngày 5 tháng 2, bộ đội ta hoàn thành nhiệm vụ kéo pháo ra.

Đồng thời với việc tiến hành công tác chuẩn bị trên hướng Điện Biên Phủ, Bộ chỉ huy chiến dịch sử dụng một bộ phận pháo mang vác cùng bộ binh tiến sang Thượng Lào thực hiện nghi binh, phân tán sự chú ý của địch.

Đại đội sơn pháo 756 và 2 đại đội súng cối chi viện Đại đoàn 308 đánh sang Mường Sàng. Ngày 30 tháng 1 năm 1954, bộ đội ta gặp địch ở Mường Khoa, diệt gọn một tiểu đoàn rồi đuổi chúng đến sát Luông Pha Băng. Một mũi khác đánh ngược lên phía bắc, giải phóng toàn tỉnh Phông Xa Lý. Ngày 5 tháng 2, đại đội 756 và đại đội 113 pháo kích sân bay Mường Sài; phá huỷ một máy bay trinh sát, một trận địa súng cối của địch.

Bị đánh ở Thượng Lào, Na-va buộc phải điều 11 tiểu đoàn trong khối cơ động chiến lược lên thiết lập 2 tập đoàn cứ điểm Mường Sài và Luông Pha Băng.

Ngày 6 tháng 3, bộ phận đánh sang Thượng Lào quay về bao vây phía tây Điện Biên Phủ.

Trên hướng Điện Biên, đại đội sơn pháo 757 khối thuộc Đại đoàn 316 bố trí trên điển cao 781 làm nhiệm vụ kiềm chế sân bay Mường Thanh. Lúc 10 giờ ngày 1 tháng 2 năm 1954, đại đội 757 được lệnh bắn vào những chiếc máy bay Da-cô-ta đậu trên đường băng. Do ước lượng cự ly sai và chọn đạn không đúng chủng loại nên không viên nào trúng mục tiêu. Rút kinh nghiệm, 11 giờ ngày 3 tháng 2, đại đội nhằm chiếc máy bay trinh sát Mo-ran vừa hạ cánh xuống đường băng, bắn 12 viên tiêu diệt chiếc máy bay này.

Những ngày sau đó, đại đội 757 liên tục trụ bám trên 2 cao điểm 781 và 531, củng cố trận địa, đánh kiềm chế sân bay địch. Máy bay, đại bác của địch đánh trả quyết liệt vào trận địa của đại đội 757; hầu như tất cả các khẩu đội đều bị trúng bom, sập hầm, có chiến sĩ bắn nhiều, tai bị chảy máu, bị điếc. Vượt lên trên tất cả mọi hiểm nguy của bom đạn kẻ thù, cán bộ, chiến sĩ đại đội 757 vần kiên cường bám trận địa. Đồng chí Nguyền Xuân Nhị chuyên làm nhiệm vụ nổ bộc phá, đốt khói nghi binh thu hút hoả lực của địch về phía trận địa giả. Khẩu đội trưởng Lê Văn Đạt bắn một viên đạn diệt 2 máy bay địch trên đường băng. Khẩu đội 3 bắn ba viên diệt 1 chiếc máy bay và chiếc ô tô đang kéo máy bay vào hầm ẩn nấp. Đại đội 757 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phân cùng các đơn vị bạn hoàn thành công tác chuẩn bị chiến dịch.

Phối hợp với chiến trường Bắc Bộ, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Liên khu uỷ Liên khu 5 mở chiến dịch Tây Nguyên nhằm buộc địch phải phân tán hơn nữa khối chủ lực cơ động của chúng. Giữa lúc Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp đang lo đối phó với các cuộc tiến công mạnh mẽ của ta và bạn Lào ở Tây Nguyên và thượng Lào thì một đòn tiến công mới của ta lại nổ ra ở Hạ Lào. Ở các mặt trận sau lưng địch, từ Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Bình - Trị - Thiên đến đồng bằng Bắc Bộ, quân và dân ta cũng đẩy mạnh cuộc đấu tranh toàn diện và tiến công địch bằng những lối đánh táo bạo của chiến tranh du kích, khiến cho địch càng thêm bối rối và bị động.

Ngày 11 tháng 3 năm 1954, trong lúc toàn mặt trận Điện Biên Phủ đang khẩn trương hoàn tất công tác chuẩn bị để kịp giờ G nổ súng mở màn chiến dịch thì cán bộ, chiến sĩ mặt trận nhận được thư động viên của Bác Hồ:

Các chú sắp ra trận. Nhiệm vụ các chú lần này rất to lớn khó, khăn, nhưng rất vinh quang. Các chú vừa được chỉnh quân chính trị và chỉnh huấn quân sự đã thu được nhiều thắng lợi về tư tưởng và chiến thuật, kỹ thuật. Nhiều đơn vị cũng đã đánh thắng trên cáực mặt trận. Bác tin chắc rằng các chú sẽ phát huy thắng lợi vừa qua, quyết tâm vượt mọi khó khăn gian khổ để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang sắp tới1 (Hồ sơ 106. Phòng Quân ủy. Lưu trữ Bộ Quốc phòng).

Thực hiện kế hoạch tác chiến chiến dịch đã được xác định, ngày 13 tháng 3 năm 1954, quân ta nổ súng tiến công trung tâm đề kháng Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ. Đại đoàn 351 được giao nhiệm vụ tập trung toàn bộ hỏa lực pháo binh trực tiếp yêm hộ, chi viện bộ binh diệt các cứ điểm, kiềm chế pháo binh địch, tập kích Sở chỉ huy, kho tàng và sân bay của chúng. Trung đoàn 45 tổ chức thành cụm pháo binh chiến dịch. Trung đoàn 675 sử dụng 2 đại đội sơn pháo 752, 753, 2 đại đội 114 và 115 cối 120 mm, 2 đại đội 202 và 203 cối 82 mm cùng pháo trong biên chế của 2 Đại đoàn 3 2 và 308 hình thành các cụm pháo binh đại đoàn. Đại đội 756 cùng Đại đội 112 cối 120 mm kiềm chế pháo binh địch ở Hồng Cúm, đại đội 757 và đại đội 113 phối thuộc Đại đoàn 316 đánh nghi binh ở đồi A và kiềm chế sân bay Mường Thanh.

Sáng 13 tháng 3, đồng chí chỉ huy trưởng mặt trận kiểm tra lần cuối khả năng chiến đấu của pháo binh trước giờ mở màn chiến dịch. Trong khi đó, vào lúc 8 giờ và 11 giờ, 2 đại đội sơn pháo 756 và 757 và Đại đội 113 cối 120 mm bắn cháy 2 máy bay Đa-cô-ta tại sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm.

17 giờ 5 phút, 2 đại đội sơn pháo và 2 đại đội súng cối của Trung đoàn 675 cùng 6 đại đội lựu pháo của Trung đoàn 45 mở đầu trận tập kích hoả lực “Sấm rền”, bắn cấp tập vào Him Lam, phân khu trung tâm, các sân bay, trận địa pháo và kho tàng của địch. Nhiều hầm hào, công sự địch bị phá huỷ. Trận địa pháo của địch ở Mường Thanh bị tê liệt, 5 máy bay địch bị phá huỷ, kho xăng bị bắn cháy.

Trong khi pháo bắn chuẩn bị, các đại đội sơn pháo, súng cối chi viện trực tiếp các Trung đoàn 141 và 209 (Đại đoàn 312) xuất kích chiếm lĩnh trận địa tiến công.

18 giờ 30 phút, đại đội 756 phối thuộc tiểu đoàn 11 (Trung đoàn 141), đại đội 752 phối thuộc tiểu đoàn 428 trung đoàn 141) và 2 đại đội 114, 115 phối hợp nổ súng diệt các hỏa điểm tiền duyên, lô cốt địch ở cứ điểm 101 và 102.

Đại đội sơn pháo 752 đặt trận địa ở bắc Him Lam diệt lô cốt “6 tiểu liên" của địch trên cứ điểm 2. Đại đội 753 trong 10 phút đầu diệt được 4 hoả điểm vòng ngoài cứ điểm 1 Him Lam. 5 khẩu cối 120 mm của 2 đại đội 114 và 115 và 2 khẩu sơn pháo của Trung đoàn 675 bắn 20 loạt đạn vào giữa 2 cứ điểm 1 và 2, sau đó bắn đạn nổ chậm từ cứ điểm đến bờ sông Nậm Rộm.

Sau những phút hoảng loạn lúc đầu, địch dần dần lấy lại tinh thần, tổ chức phản kích quyết liệt cả bằng bộ binh, không quân, pháo binh và xe tăng. Pháo binh ta được lệnh phải chế áp pháo địch có hiệu quả hơn nữa. Các đài quan sát đã giúp các khẩu đội sửa bắn chính xác. Đến 22 giờ 30 phút ngày 13 tháng 3, ta tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm Him Lam.

Ngày 14 tháng 3 năm 1954, Trung đoàn 165 (Đại đoàn 312), Trung đoàn 88 (Đại đoàn 308) cùng một số đơn vị sơn pháo, súng cối tiến công cứ điểm Độc Lập.

Để nổ súng đúng kế hoạch, Trung đoàn 88 chủ công của trận đánh cử 1 đại đội ngược lên đèo Pu-ya-tao giúp các đơn vị sơn pháo, cối vượt đèo vào chiếm lĩnh trận địa. Nhưng do đường khó đi, các đơn vị pháo vẫn đến chậm. Đến giờ ngày 15 tháng 3, các đơn vị sơn pháo, súng cối mới bắt đầu đồng loạt bắn vào cứ điểm Độc Lập. 6 giờ 30 phút, mũi tiến công của Trung đoàn 88 và Trung đoàn 165 xung phong, diệt và bắt sống toàn bộ tiểu đoàn địch ở cứ điểm, thu nhiều vũ khí, đạn dược.

Trưa ngày 17 tháng 3, quân ta bức hàng tiểu đoàn ngụy Thái ở cứ điểm Bản Kéo, kết thúc đợt 1 chiến dịch, mở tung cửa ngõ phía bắc vào trung tâm tập đoàn cứ điểm của địch.

Trong đợt 1, cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 675 được Tổng cục Chính trị biểu dương vì đã “Nêu cao tinh thần anh dũng chiến đấu, chị đựng gian khổ 15 ngày đêm liền không ngủ, đánh hai trận liền, kỹ thuật bắn giỏi, một khẩu đội đã bắn trúng máy bay giặc (Đại đội 757)”1 (Lịch sứ Pháo binh QĐND Việt Nam. Sđd. trang 11), góp phần xứng đáng vào phần thưởng cờ luân lưu “Quyết chiến, quyết thắng" của Hồ Chủ tịch tặng Đại đoàn 351.

Đợt 2 chiến dịch bắt đầu từ ngày 30 tháng 3 đến 30 tháng 4 năm 1954, nhiệm vụ chủ yếu của ta là đánh chiếm các khu vực phòng ngự then chốt trên các điểm cao phía đông, mở cửa thọc sâu vào tập đoàn cứ điểm.

Toàn mặt trận khẩn trương chuẩn bị chiến đấu. Trung đoàn 675 tổ chức gấp đại đội 116 bổ sung cho tiểu đoàn 83. Đại đội 755 phối thuộc Trung đoàn 9 (Đại đoàn 304) được lệnh hành quân ngay từ Đồn Vàng (Phú Thọ) lên Điện Biên Phủ.

Ngày 25 tháng 3, Bộ chỉ huy chiến dịch giao nhiệm vụ cho Đại đoàn 35 1 chi viện bộ binh tiến công tiêu diệt các cứ điểm thuộc phân khu trung tâm là A, C1 , C2, D1, D2, E. Trung đoàn 675 điều 4 đại đội 752, 753, 755, 757 sơn pháo; 3 đại đội 113, 114, 116 cối 120 và 3 đại đội cối 82 mm phối thuộc 3 Trung đoàn 98, 174 (Đại đoàn 316) và 209 (Đại đoàn 312).

17 giờ ngày 30 tháng 3 năm 1954, bộ đội ta nổ súng mở đầu đợt 2 chiến dịch. 5 đại đội lựu pháo bắn cấp tập 15 phút vào Sở chỉ huy và các trận địa pháo địch ở Mường Thạnh, sau đó chuyển sang bắn chế áp kéo dài. Đại đội 756, 805 (lựu pháo 105 mm) và các đại đội 11, 203 (cối 120 và 82 mm) tập kích hoa lực vào căn cứ pháo địch ở Hồng Cúm.

Trên hướng dông bắc, đại đội 753 chi viện Đại đoàn 312 hoàn thành nhiệm vụ đánh chiếm đồi E, D1, tiếp lục tiến công sang D2. Trên hướng đông, Trung đoàn 98 (Đại đoàn 316) được đại đội 752 chi viện, sau 45 phút tiến công làm chủ C1, thừa thắng tiến công sang C2 nhưng không thành công. Đại đội 752 bị tổn thất nặng nề, phải tạm giải thể, bổ sung sang Đại đội 755 trên đồi E. Khó khăn nhất là mũi tiến công cứ điểm A1. Đại đội 757 và đại đội 113 chi viện tích cực Trung đoàn 174 chiến đấu quyết liệt suốt dêm 30 tháng 3 chỉ chiếm được một phần A1. Tối 31 tháng 3, Trung đoàn 102 (Đại đoàn 308) vào thay Trung đoàn 174 tiếp lục tiến công A1, cho đến ngày 4 tháng 4 cũng chỉ làm chủ được một phần ba đồi A1. Ngày 4 tháng 4, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định tạm ngừng cuộc tiến công để củng cố lực lượng, giữ vững trận địa và liếp tục chuẩn bị đợt tiến công mới.

Sau khi tạm ngừng đợt tiến công, Bộ chỉ huy chiến dịch tổ chức rút kinh nghiệm, đồng thời hạ quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ đề ra cho đợt tiến công mới là chiếm thêm một số vị trí có lợi; đưa trận địa tiến công và bao vây vào gần địch hơn nữa, thắt chặt thêm vòng vây, đánh chiếm sân bay, diệt đường tiếp tế và tăng viện của địch.

Ngày 19 tháng 4, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra nghị quyết chỉ rõ những thắng lợi và những khuyết điểm của bộ đội ta qua đợt một và đầu đợt 2 chiến dịch. Đồng thời kêu gọi toàn thể cán bộ, chiến sĩ sửa chữa khuyết điểm, vượt mọi khó khăn gian khổ, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chiến dịch.

Quán triệt nghị quyết của Bộ Chính trị, Đảng uỷ mặt trận triển khai đợt sinh hoạt chính trị, đấu tranh chống các biểu hiện hữu khuynh, tiêu cực. Trung đoàn 675 tiến hành kiểm điểm, nêu rõ những mặt mạnh qua hai đợt chiến đấu; đồng thời thẳng thắn chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm như khi nhận nhiệm vụ thiếu tích cực, chủ động; khỉ bộ đội yêu cầu bắn, có biểu hiện sợ phi pháo địch; ngại lên đài quan sát, bắn nhanh cho hết đạn để lui về trung tuyến... Một số ít cán bộ sa sút ý chí, thiếu trách nhiệm đã bị cảnh cáo hoặc đình chỉ công tác để giữ nghiêm kỷ luật chiến trường.

Đồng thời với sinh hoạt chính trị, các đơn vị tích cực củng cố hầm hào, xây dựng trận địa tiến công, chấn chỉnh lực lượng... Trung đoàn 675 xây dựng gấp tại mặt trận 1 tiểu đoàn ĐKZ 75 mm do đồng chí Mai Sơn làm tiểu đoàn trưởng và Tiểu đoàn H6, tiểu đoàn pháo hoả tiễn đầu tiên của quân đội ta, do đồng chí Cao Sơn làm tiểu đoàn trưởng.

Đêm 22 tháng 4 năm 1954, đại đội 803 chi viện Trung đoàn 36 diệt cứ điểm 206, cách sở chỉ huy của Đờ Cát khoảng 400 mét. Lúc 8 giờ sáng ngày 23 tháng 4, quân địch đưa 4 khẩu pháo 105 mm ra khỏi hầm, quay nòng bắn dồn dập lên đồi E. Đồng chí Phùng Văn Khẩu vừa làm khẩu đội trưởng, vừa làm số là số 2, phối hợp với pháo thủ Pao giật cò và chính trị viên đại đội Huy Trang bắn 15 viên, diệt cả 4 khẩu pháo của địch trong 10 phút. Sau đó 1 giờ, máy bay địch bắn phá dữ dội cứ điểm 206. Hai tiểu đoàn địch có xe tăng dẫn đầu tổ chức phản kích vào cứ điểm 206. Hỏa lực pháo, súng cối của ta đã chuẩn bị sẵn, chi viện kịp thời Trung đoàn 36 đẩy lùi 3 đợt phản kích của địch.

Những ngày tiếp theo, các đơn vị pháo binh tiếp tục tổ chức các trận tập kích hỏa lực diệt pháo binh, xe tăng địch. Trưa ngày 30 tháng 4, ba xe tăng địch dẫn đầu hai đại đội bộ binh phản kích ở cứ điểm 311A, Đại đội 754 nhanh chóng diệt hai xe tăng, đẩy lùi cuộc phản kích. Trong trận này, đại đội bị hỏng một khẩu pháo, khẩu đội trưởng Võ Mai và pháo thủ Điền hy sinh.

Kết thúc đợt 2 chiến dịch, vòng vây của ta đã siết chặt khu vực lòng chảo. Phạm vi của địch mỗi bề còn lại chi từ 1,3 đến 1,7 km; lực lượng không quá 37 đại đội. Việc thả dù tiếp tế của chúng cũng rất khó khăn, lương thực, đạn dược cạn dần; binh lính địch đã thực sự lâm vào tình trạng bị “Bóp nghẹt”.

Về phía ta, mọi việc chuẩn bị cho đợt 3 đã cơ bản hoàn thành. Đêm ngày 1 tháng 5 năm 1954, bộ đội ta bước vào đợt 3 chiến dịch; đánh những điểm cao cuối cùng ở phía đông, thực hành tổng công kích, tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ.

Nhiệm vụ của pháo binh là chi viện cho bộ binh diệt các cứ điểm C1, C2, A1, A2, 505, 506 bên phía đông và 311A, 3 11B bên phía tây sân bay Mường Thanh. Đại đội 752 từ bên đồi D bắn chéo sang C1, diệt trận địa đại liên địch bố trí giữa đỉnh đồi ngay từ phút đầu, tạo điều kiện cho bộ binh xông lên chiếm các vị trí thuận lợi.

Đêm 2 tháng 5, đại đội 754 đi cùng với bộ binh vào sát cứ điểm 311B, đặt pháo cách hàng rào dây thép gai 50 mét. Ngay những phút đầu, pháo địch bắn trúng trận địa của đại đội 754, khẩu đội trưởng Hứa Văn Chỉnh hy sinh; cả hai trung đội tiếp tục chiến đấu dưới sự chỉ huy trực tiếp của trung đội trưởng Trần Ngự. Sau 50 phút tiến công, ta hoàn toàn làm chủ cứ điểm.

Ngày 6 tháng 5 năm 1954, tiểu đoàn H6 được lệnh vào chiếm lĩnh trận địa, sẵn sàng bắn vào khu trung tâm Mường Thanh. Lúc 19 giờ 30 phút, tiểu đoàn bắn loạt đạn đầu tiên vào khu trung tâm Mường Thanh. Sau đó 1 giờ sau, Tiểu đoàn bắn tiếp loạt thứ hai. Đến 21 giờ, khối bộc phá 1.000 kg nổ tung trong lòng điểm cao A1. Từ các vị trí xuất phát, bộ đội ta đồng loạt tiến lên các cứ điểm A1, C2, 506, 507 làm chủ các mục tiêu.

Ngày 7 tháng 5, Bộ chỉ huy chiến dịch ra lệnh cho các mũi tiếp tục phát triển tiến cóng. Trong các vị trí địch ở nam sân bay xuất hiện cờ trắng, vải trắng vẫy vẫy bên miệng hào. Đồng chí Chính uỷ Đại đoàn 351 lệnh cho các đơn vị pháo không được bắn vào hàng binh địch.

16 giờ ngày 7 tháng 5 năm 1954, mũi thọc sâu của Trung đoàn 209 đánh chiếm các vị trí 507, 508, 509, vượt qua cầu Mường Thanh, tiến thẳng vào Sở chỉ huy tập đoàn cứ điểm của địch. 17 giờ 15 phút, Đờ-cát-xtơ-ri cùng toàn bộ Bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm địch bị bắt sống. Lá cờ quyết chiến quyết thắng của quân đội ta được cắm lên nóc hầm sở chỉ huy địch. Binh lính địch ở các cứ điểm còn lại xung quanh lũ lượt kéo cờ trắng ra hàng. Ở khu vực Hồng Cúm, Đại đoàn 304 dùng loa kêu gọi địch ra hàng, chúng lợi dụng trời tối tháo chạy; ta truy kích đến 24 giờ bắt sống toàn bộ bọn này.

Sau 55 ngày đêm chiến đấu liên tục, kể từ ngày 13 tháng 3 đến ngày 7 tháng 5 năm 1954, quân ta đã tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, tạo điều kiện thuận lợi cho đấu tranh ngoại giao kết thúc chiêíl tranh, lập lại hoà bình lên bán đảo Đông Dương.

Với chiến thắng Điện Biên Phủ, cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ sau 9 năm phấn đấu đầy hy sinh gian khổ. được sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết thúc thắng lợi. Lần đầu tiên sau gần 100 năm thực dân Pháp đô hộ, trên phần nửa đất nước ta sạch bóng quân thù, mở ra triển vọng cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc tiếp tục đi đến thắng lợi hoàn toàn. Thắng lợi của nhân dân Việt Nam còn giáng một đòn nặng vào chủ nghĩa đế quốc mở đầu quá trình sụp đổ của chu nghĩa thực dân cũ ở khắp các nước Á, Phi, Mỹ La tinh. Với ý nghĩa đó, Điện Biên Phủ đã trở thành “Một cái mốc trong lịch sử thể giới".

Trong những năm tháng gian khổ, ác liệt của cuộc kháng chiến, Trung đoàn 675 đã được tôi luyện và từng bước trương thành, góp những chiến công nhỏ bé vào thắng lợi to lớn của dân tộc. Dấu chân người lính Trung đoàn 675 in khắp các nẻo đường từ sông Lô, sông Thao, sông Đà, sông Chảy đến Nậm Mạ, Nậm Rốm, từ đường số 4 đến đường số 6, số 7, 18...

Những chặng đường vẻ vang ấy với những địa danh lịch sử như Đông Khê, Ba Huyên, Mạo Khê, Yên Mô Thượng, Lạc Song, Pú Chạng, Sầm Nưa, Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam ... đã thắm đượm bao máu xương của các cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 675. Nhiều người đã hy sinh cả tuổi xuân, tinh mạng của mình cho ngày chiến thắng vẻ vang. Tiếp bước các đơn vị tiền thân, lớp lớp cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 675 đã ghi thêm những trang chói lọ trong sổ vàng truyền thống của “ĐOÀN PHÁO BINH ANH DŨNG".

 

Trích: Lịch sử Đoàn Pháo binh Anh Dũng-Lữ đoàn pháo 675-1950-2000

NXB Quân đội Nhân dân 2000

"Mobilis in Mobile" ― Jules Verne


   
flash001, Hóng hớt, U Cay and 2 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
(@big-bang)
Trung niên
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 27421.49
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3636
 

Cháu thêm cái bản đồ cho các Cụ dễ hình dung.

Screenshot 20240322 105318 Chrome

Маруся идет в школу


   
flash001, Hóng hớt, U Cay and 4 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
Trang 5 / 16
Chia sẻ: