70 năm chiến thắng ...
 
Notifications
Clear all

70 năm chiến thắng Điên Biên Phủ

234 Bài viết
20 Thành viên
1041 Reactions
10.8 K Lượt xem
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31900.7
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3386
Topic starter  
image
image

Trục thứ nhất do Đại đoàn 312 đảm nhiệm đã tiến từ đồi Độc Lập sẽ nối liền với trục giao thông hào của Đại đoàn 308. Một nhánh của trục giao thông hào vượt qua sông Nậm Rốm tiến về phía Dominique 4 (Dominique - cụm cứ điểm đông sân bay, tả ngạn sông Nậm Rốm) và đường băng sân bay.

Trục thứ hai tạo thành một đường cánh cung rộng trên những cánh đồng phía tây rồi ngoặt xuống phía nam tới khu Trung tâm và cụm cứ điểm Isabelle (Hồng Cúm), và cũng tỏa ra nhiều hướng ôm lấy các cụm cứ điểm Huguette (D, E) và Claudine (nam sân bay Mường Thanh đến hữu ngạn sông Nậm Rốm), hình thành một mạng lưới bao vây địch ở Điện Biên Phủ.

Gần sáng ngày 22/3/1954, hai đường hào trục này đã nối liền với nhau. Trong quá trình bộ đội đào giao thông hào, địch cho máy bay ném bom, bắn phá và sử dụng các đội tuần tiễu bắn vào bộ đội ta, mỗi mét chiến hào được đổi bằng mồ hôi và cả máu của các chiến sĩ Điện Biên.

image

7 giờ 30 phút sáng 22/3, một đội tuần tiễu của địch đã phát hiện thấy một nhánh đường hào ngăn cản đường tiến quân của Pháp từ cụm cứ điểm Isabelle (Hồng Cúm) tới bản Kho Lai. Chúng cho Tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn bộ binh lê dương có xe tăng yểm trợ tiến ra lấp hào. Ở phía bắc, địch sử dụng một tiểu đoàn nữa cũng có xe tăng yểm trợ, huy động tiến ra chặn ta. Cuộc chiến đấu bảo vệ giao thông hào diễn ra gần 1 ngày, đến 16 giờ chiều mới kết thúc, ban đêm địch rút, bộ đội ta tiếp tục đào hào giao thông.

 

Phía địch:

Tại hầm Chỉ huy của Đờ Cát-xtơ-ri ở Điện Biên Phủ và Sở Chỉ huy của Cônhi ở Hà Nội, các chuyên viên và trợ lý sắp xếp lại các bức ảnh chụp hằng ngày từ máy bay trinh sát để theo dõi những tiến triển của các hệ thống hào giao thông của ta, giống như “sợi thòng lọng” đang bắt đầu thắt quanh Điện Biên Phủ.

Cônhi ra lệnh cho Đờ Cát-xtơ-ri chuẩn bị tiến hành “cuộc chiến đấu trong hầm hào”. Nhưng Đờ Cát-xtơ-ri trả lời rằng ông ta thiếu những người có chuyên môn cũng như các trang bị công binh về loại hình chiến tranh này (chiến đấu trong giao thông hào), yêu cầu Cônhi gửi cho ông ta tài liệu về quy tắc tổ chức trận địa giao thông hào, về chiến tranh hầm hào để thực hiện.

- Tại Mỹ, Ngoại trưởng Mỹ Dulles vẫn tuyên bố một cách lạc quan về kế hoạch Nava. Trong thời gian ở Mỹ, Ely được gặp Tổng thống Mỹ, làm việc với Ngoại trưởng Mỹ, Giám đốc CIA, chủ tịch Hội đồng liên quân và đặc biệt tham dự một cuộc họp của Hội đồng tham mưu trưởng Hoa Kỳ vốn không dành cho sĩ quan nước ngoài. Ely đã nói rõ tình hình bế tắc ở Điện Biên Phủ. Các tướng tá Mỹ đều chăm chú lắng nghe nhưng không đưa ra bất cứ lời hứa hẹn nào cụ thể. Ely cố vớt vát bằng cách mô tả sức mạnh ghê gớm của pháo cao xạ do Trung Quốc và Liên Xô viện trợ cho Việt Minh ở Điện Biên Phủ.

Cũng trong ngày 22/3, máy bay vận tải C-119 của Mỹ hạ cánh xuống sân bay Cát Bi mang theo 20 tấn thiết bị quân sự viện trợ cho Pháp.

Trên các chiến trường phối hợp:

- Tại Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), Tiểu đoàn 79 do đồng chí Đinh Văn Tuy chỉ huy, tiến công một đoàn xe trên đoạn đường từ Ninh Sở đến Chùa Trầm (Chương Mỹ), phá hủy 58 xe của địch. Tiếp đó một bộ phận của Đại đội 2 và Đại đội 47 thuộc Tiểu đoàn 79 diệt đơn vị địa phương quân ở Tiên Lữ (Chương Mỹ) và Do Lộ (Quốc Oai), từ đây khu du kích phía bắc Chương Mỹ được mở rộng nối liền khu du kích huyện Quốc Oai-Thạch Thất và khu du kích nam Chương Mỹ. Tuyến phòng thủ của địch trên đường 6A và tuyến phòng thủ sông Đáy bị uy hiếp nghiêm trọng.

- Quân và dân Đường số 5 tiến công hệ thống đường sắt của thực dân Pháp làm tê liệt 70km. Trên tuyến Đường 5 không ngày nào là không có xe địch bị trúng mìn của bộ đội địa phương và dân quân du kích. Để bảo vệ và mở thông Đường số 5, Cônhi tập trung 3 binh đoàn cơ động, ba tiểu đoàn khinh quân, một đơn vị công binh để mở cuộc hành quân giải tỏa. Tại Hưng Yên, Tiểu đoàn 653 tỉnh phối hợp bộ đội địa phương các huyện Mỹ Hào, Ân Thi phục kích tại Lương Xá diệt 72 tên địch, bắt 26 tên, phá hủy 7 xe quân sự.

image

Các chiến sĩ xung kích của ta đang cắt các hàng rào dây thép gai bắt đầu cuộc tấn công. Ảnh: TTXVN

 

- Tại Liên khu 5, Bộ Tư lệnh Liên khu 5 chủ trương tập trung lực lượng đánh bại các cuộc hành quân của địch trong Chiến dịch Át-lăng (Atlante) giai đoạn 2.  Trên hướng Phú Yên, Trung đoàn 803, sử dụng lực lượng tiêu diệt vị trí Plei Tàu, cắt đứt Đường 41. Lo ngại về sự xuất hiện của bộ đội ta phía sau lưng, Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Pháp điều Binh đoàn cơ động số 100 đến chống đỡ, tại Play Rinh chúng bị Trung đoàn 803 tập kích tiêu diệt một phần tư lực lượng cùng nhiều xe quân sự. Bị tổn thất nặng, binh đoàn cơ động số 100 buộc phải lui về Pleiku củng cố. Chúng liên tiếp đưa ba tiểu đoàn khác đến tăng cường bảo vệ khu vực ngã ba đường số 7 và 14.

image

Ngày xuất bản: 22/3/2024
Nội dung: ThS NGUYỄN THỊ THẢO - Viện Lịch sử quân sự, MAI THU NGỌC
Trình bày: DUY LONG
Ảnh: TTXVN


   
CarlVinson, Hóng hớt, Leo77 and 2 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
(@big-bang)
Trung niên
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 27421.49
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3636
 

70 năm Điện Biên Phủ: Người Pháp bất ngờ về sức mạnh hậu phương của Việt Nam

Với quyết tâm “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng” quân và dân ta đã gấp rút chuẩn bị cho Chiến dịch Điện Biên Phủ. Các đơn vị bộ đội chủ lực nhanh chóng tập kết, ngày đêm bạt rừng, xẻ núi mở đường, kéo pháo, xây dựng trận địa, sẵn sàng tiến công địch. Trên 26 vạn dân công với trên 10 triệu ngày công đã tham gia phục vụ cho chiến dịch. Hàng vạn thanh niên xung phong phối hợp với bộ đội công binh mở đường ra mặt trận dưới mưa bom bão đạn của địch. Chỉ trong một thời gian ngắn, hàng nghìn km đường được xây dựng và sửa chữa để phục vụ cho Chiến dịch. Bộ đội ta từ các hướng tiến về để thắt chặt vòng vây vào Điện Biên Phủ

Tính tổng hợp, từ giai đoạn chuẩn bị cho đến lúc kết thúc chiến dịch, Hội đồng cung cấp mặt trận  đã huy động được hơn 25.000 tấn gạo, khoảng 1.800 tấn thịt và thực phẩm khô. Riêng hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh, dân công các loại huy động được gần 215.000 người với 14.500.000 ngày công. Mỗi chiếc xe đạp thổ được từ 165kg lên 215kg rồi 250kg, sau đó lên 320kg. Trong đợt tiến công thứ III, Thanh Hoá huy động tới mức kỉ lục: 120.000 người (25.000 nữ), 10.075 xe đạp thổ…Chính người Pháp cũng đã phải thừa nhận sự bất ngờ của họ về sức mạnh của hậu phương Việt Nam và khả năng tổ chức chi viện tiền tuyến sáng tạo, hiệu quả của Việt Nam. (1)

https://m.soha.vn/70-nam-dien-bien-phu-nguoi-phap-bat-ngo-ve-suc-manh-hau-phuong-cua-viet-nam-198240322072637937.htm

Маруся идет в школу


   
flash001, CarlVinson, Hóng hớt and 3 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
(@big-bang)
Trung niên
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 27421.49
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3636
 

Có một vấn đề cháu nghĩ cần nhấn mạnh để thế hệ sau này sáng tỏ.

Chính người Mỹ đã giúp Pháp duy trì sự xâm lược của họ trên mảnh đất Việt nam. Khi Pháp thất thế thì Mỹ thế chân. Không có cái gọi là giữ gìn hòa bình, không có cái gọi là ngăn chặn Chũ nghĩa Cộng sản.

Маруся идет в школу


   
CyborgX, flash001, CarlVinson and 3 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31900.7
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3386
Topic starter  
image

Các đồng chí! 

Trong lúc Đảng ta đang lãnh đạo cuộc cải cách ruộng đất to lớn này, để giải phóng hàng triệu nông dân ở hậu phương chúng ta.

Trong lúc bọn đế quốc chủ nghĩa Mỹ-Anh-Pháp ngoan cố không chịu giải quyết những vấn đề xung đột trên thế giới một cách hòa bình, làm cho tình hình quốc tế bớt căng thẳng theo đề nghị của Liên Xô. 

Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng quyết định tập trung lực lượng tiêu diệt quân địch ở XX và giao nhiệm vụ vinh quang đó cho chúng ta. 

Các đồng chí! 

Chiến dịch này là một chiến dịch to lớn từ xưa đến nay trong lịch sử chiến tranh giải phóng của nước ta, trong lịch sử chiến đấu của quân đội nhân dân chúng ta. 

Chiến dịch này nhằm đánh bại kế hoạch quân sự của Na-va đưa chúng vào một tình thế khủng hoảng lâu dài, giữ vững quyền chủ động của quân ta, tạo ra nhiều thắng lợi mới của quân ta từ đây về sau trên các chiến trường toàn quốc. 

Chiến dịch này thắng lợi là một cống hiến to lớn của nhân dân ta cho sự nghiệp đấu tranh chống bọn đế quốc gây chiến, bảo vệ hòa bình và dân chủ thế giới. 

Chiến dịch này thắng lợi sẽ là một sự ủng hộ trực tiếp và mạnh mẽ cho cuộc đấu tranh giành ruộng đất của hàng triệu nông dân của nước ta, bảo đảm cho cuộc cải cách ruộng đất được thành công.

Các đồng chí! 

Ý nghĩa của chiến dịch này là như vậy. 

Để thực hiện quyết nghị của Trung ương. 

  • Tổng quân ủy kêu gọi toàn thể các đồng chí hãy phát huy đến cùng tác dụng lãnh đạo của Đảng đặc biệt là của chi bộ đại đội, hãy phát huy đến cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, dũng cảm và kiên quyết đến cùng dẫn đầu quần chúng binh sĩ đông đảo của chúng ta trong chiến dịch to lớn và vẻ vang này để giành lấy thắng lợi hoàn toàn cho chiến dịch. 
  • Tổng quân ủy kêu gọi toàn thể các đồng chí phải có một quyết tâm cao độ, luôn luôn làm gương trong những giờ phút khó khăn gay go, không sợ hy sinh gian khổ, kiên quyết chiến đấu và chiến đấu liên tục, làm gương kiên quyết chấp hành mệnh lệnh, để hoàn thành cho bằng được quyết nghị của Trung ương Đảng chúng ta là tiêu diệt quân địch ở XX. 
  • Tổng quân ủy mong rằng toàn thể các đồng chí hãy hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang và anh dũng do Đảng giao cho, hoàn thành cho bằng được chỉ thị của Hồ Chủ tịch trong Đông Xuân năm nay là: "Làm cho mùa Xuân năm nay là một mùa xuân đại thắng lợi". 

Toàn thể các đồng chí hãy dũng cảm tiến lên! 

Chào thân ái và quyết thắng.

TM TỔNG QUÂN ỦY 

Bí thư  

VÕ NGUYÊN GIÁP

image

Đại tướng Võ Nguyên Giáp chung vui cùng các chiến sĩ trong lễ mừng Chiến thắng Điện Biên Phủ tổ chức tại chỉ huy sở Mường Phăng. (Ảnh: TTXVN)

 

Nguồn: Sách Một số văn kiện chỉ đạo chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ, NXB Quân đội nhân dân, 2004, tr. 294-tr.296
Trình bày: Duy Vũ
Ảnh: TTXVN, Nhân Dân


   
Big bang, flash001, CarlVinson and 2 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
(@payroll)
Công dân
Được ưa thích
Trung lưu
Tài sản: 10745.85
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 860
 

Đăng bởi: @phuongminha6

Đăng bởi: @coco

Trích hồi ký “Thời điểm của những sự thật” (Le temps des vérités) của Henri Navarre, đoạn những ngày sau đợt tấn công đầu tiên của Quân đội Việt Nam vào Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (từ ngày 13/3 đến 17/3/1954).

“Trong những ngày tiếp theo, có nhiều biếu hiện hoang mang dao động trong hàng ngũ chúng tôi ở Điện Biên Phủ.

Đại tá chỉ huy pháo binh của tập đoàn cứ điểm, một sỹ quan cao cấp rất thạo việc và tự trọng, thấy những dự đoán về sử dụng pháo binh của mình bỗng đổ vỡ, và không thể chịu đựng được sự nhục nhã mà ông cho là thuộc phần trách nhiệm của mình, đã tự vẫn.

Nhiều vụ đào ngũ đã xảy ra ở nhiều đơn vị: Bắc Phi, Việt Nam và đặc biệt là Thái. Những kẻ đào ngũ trốn vào những căn hầm tự đào lấy ở dọc sông Nậm Rốm. Đến cuối trận đánh, nơi ấy đã biến thành một "khu dân cư" với vài trăm "cư dân", sống bằng những thứ cướp đoạt được. Người ta gọi chúng là "những con chuột sông Nậm Rốm".

Trong những đơn vị chất lượng trung bình hoặc chỉ huy lỏng lẻo, nhất là những đơn vị đông lính Việt Nam, tinh thần tỏ ra tồi tệ. Chỉ trong ít ngày, hai tiếu đoàn Thái đã bỏ chạy. Ở Isabelle (tức Phân khu Nam - Hồng Cúm) vào cuối trận đánh, xảy ra hiện tượng kháng lệnh ở ngay một tiểu đoàn Algeri. Sau nhờ sự kiên quyết kết hợp với sự mềm dẻo của chỉ huy cụm cứ điểm là Trung tá Lalande, mà sự việc đã được giải quyết và không gây hậu quả nghiêm trọng, song hiện tượng xấu này đã nhiều người biết.”

 

Chuột Nậm Rốm không phải vài trăm hay 1 nghìn như sách nói. 

Trong các ghi nhận, hồi ký của quân đội Việt Minh thì số chuột Nậm Rốm này lên đến hàng nghìn. Cả cuộc chiến, Pháp ném vào ĐBP hơn 2 vạn quân, vậy mà đến lúc kết thúc có 1.62 vạn quân bị bắt làm tù binh. Trong số 1,62 vạn tù binh này thì số chuột Nậm Rốm đóng góp khá nhiều. Chứ với ngần đấy quân mà ko đầu hàng thì trận ĐBP còn phải kéo dài

 

Thế trận bị sụp đổ, đạn, lương thực, thuốc men hết, hậu cần bị cắt. Hàng còn hy vọng giữ được mạng lính. Đánh nhau làm sao được nữa

 


   
Big bang, flash001, CarlVinson and 3 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31900.7
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3386
Topic starter  
image

Theo kế hoạch cũ thì lúc ấy chỉ còn khoảng 6 hay 7 tiếng đồng hồ nữa là đến giờ ta nổ súng đánh Điện Biên. Bộ binh đang gấp rút chuẩn bị để xuất kích. Còn các “binh chủng” cung cấp hỏa tuyến của chúng tôi thì cũng đã sắp xếp đâu vào đấy, đang chờ lệnh đi làm nhiệm vụ...

Đột nhiên, anh Văn gọi điện xuống bảo tôi lên nhận ngay công tác mới.
Đồng chí Nĩu, phó ban quân nhu chiến dịch, lo lắng:
- Hay có chuyện gì rồi, anh?
Tôi gạt đi:
- Chuyện gì! Chắc các anh lại gọi lên động viên thêm để làm nhiệm vụ cho tốt thôi. Anh Thản đâu?
- Anh ấy đến chỗ dân công...
Tôi vội đi ngay. Lên chỗ Bộ chỉ huy chiến dịch đóng, tự nhiên tôi cảm thấy không khí có cái gì khác khác thật. Mấy cán bộ đeo xà cột đi lại, dáng điệu vội vã, nét mặt đăm chiêu. Đồng chí chủ nhiệm cung cấp tiền phương đang ngồi bóp trán mải suy nghĩ chuyện gì xem bộ lung lắm.

Thấy tôi, anh nói ngay:
- Bộ chỉ huy vừa họp xong. Kế hoạch tác chiến thay đổi rồi. Tối nay chưa nổ súng đâu...
Tôi ngơ ngác:
- Thế là thế nào, anh?
Anh nắm tay tôi kéo đi:
- Sang bên kia anh Văn sẽ nói cụ thể.
Tôi gỡ tay anh ra:
- Thế thì cho tôi gọi điện về nhà “ách” cái chuyện này lại đã.

Tôi quay máy báo cho anh Thản khoan hãy động viên dân công xuất phát và dặn: “Cũng chưa biết đầu đuôi ra sao cả, có gì tối nay thức đợi tôi về, ta sẽ bàn thêm”.

Một lát sau, chúng tôi đã đến chỗ anh Văn.

Anh Văn nói:
- Thế nào? Tuyến cung cấp của anh đã sẵn sàng chưa?
Tôi nói:
- Báo cáo, sẵn sàng rồi.
Anh Văn hơi mỉm cười:
- Có chắc không?
- Chắc chứ ạ.
- Hơi chắc hay là chắc hoàn toàn?

image

Các đơn vị tham gia chiến dịch nghiên cứu các vị trí đánh địch trên sa bàn trước khi vào chiến dịch. (Ảnh: TTXVN)

 

Tôi hơi lúng túng. Lúc đó hỏa tuyến do tôi phụ trách là từ cây số 62 đổ vào. Từ ngã ba Nà Tấu này có ba con đường vận chuyển nối liền với hậu phương và các đơn vị tham chiến. Đường đi vào phía đông Điện Biên (tôi thường gọi là cánh tay trái) tương đối trơn tru. Chỉ có đường đi sang phía tây thì đang gay go. Có sao, tôi cứ đúng thế mà nói.

- Báo cáo anh, đại để cho đến nay tình hình là như vậy đấy. Cánh tay phải của tôi quả là hơi... yếu, chuẩn bị chưa được thật kỹ lắm. Phục vụ cho đơn vị đóng sâu tít trong Hồng Lếch, bình thường còn được, chứ nếu gay go thì...

Anh Văn ngắt lời:

- Thế nghĩa là chưa chắc, chưa sẵn sàng chứ gì? - Anh lại cười - Các anh báo cáo thế thì Bộ Chỉ huy cũng chịu không biết đâu mà hạ quyết tâm.

Nói đoạn, anh trải rộng tấm bản đồ ra trước chúng tôi, chậm rãi nói:

- Thôi chưa chắc thì ta chuẩn bị lại cho thật chắc rồi sẽ đánh.

Anh Văn bắt đầu phân tích tình hình mặt trận lúc đó. Về phía địch, chúng tăng cường hơn trước. Còn ta thì chuẩn bị chưa được thật đầy đủ. Để bảo đảm thắng lợi ít tổn thất nhất, phải làm thêm công tác chuẩn bị, phải thay đổi phương châm “Đánh nhanh giải quyết nhanh” bằng “Đánh chắc tiến chắc”. Tất nhiên, trong khi làm những việc đó, ta không để cho địch rảnh tay. Một đơn vị sẽ cấp tốc hành quân đi tiêu diệt những cánh quân của giặc đang thập thò ở phía tây, đẩy Điện Biên vào thế hoàn toàn bị cô lập, tạo điều kiện cho ta càng dễ dàng tiêu diệt chúng sau này.

Đồng chí chủ nhiệm cung cấp tiền phương ngồi bên đồng chí Văn vừa nghe, vừa đưa mắt nhìn tôi khẽ gật gật đầu như có ý bảo: “Đã thấy gay chưa?”.

Tôi rất thông cảm nỗi lo lắng của đồng chí. Có nhiều khi hai anh em ngồi tán với nhau, vẫn thường nói đùa:

- Chỉ cần ông quân sự trở đầu gậy chỉ bản đồ một cái là anh cung cấp tha hồ mà chạy!

Đằng này, lại thay đổi phương châm tác chiến thì càng không biết bao nhiêu là việc đặt ra phải giải quyết. Kho tàng phục vụ “Đánh nhanh giải quyết nhanh” thì chỉ cần lợp sơ sơ, dựng lên theo kiểu dã chiến cũng gọi là được rồi, nay “Đánh chắc tiến chắc”, “mùa mưa cũng đánh, đánh bao giờ thắng mới thôi” thì phải sửa lại hết. Hay như trước kia, quân nhu chạy được một ít mắm kem, thịt ướp - thế là yên trí, nhưng nay thì không ổn đâu... Đánh nhau dài ngày mà quanh đi quẩn lại chỉ có thức ăn khô, bộ đội nuốt sao được, vân vân và vân vân...

Anh Văn vuốt vuốt tấm bản đồ, nói:

- Tôi đã bàn kỹ rồi. Anh Bình sẽ đuổi theo đơn vị đi làm nhiệm vụ ở phía tây. Họ ở cách ta một ngày đường và sẽ đi ngay đêm nay. Cho nên đuổi kịp được cũng vất vả đấy.

Giao nhiệm vụ xong, anh Văn bảo tôi báo cáo lại một lần nữa tình hình kho tàng phía đó. Rồi anh cười, hỏi:

- Có nhớ Khâu Vác không đấy?

Không cần đồng chí Đại tướng nhắc thì cán bộ cung cấp, nhất là tôi, vẫn còn cứ là nhớ đời. Chẳng thế mà hồi còn sống, anh Trần Đăng Ninh vẫn thường gọi đùa là “Hận Khâu Vác”.

... Bấy giờ là chiến dịch Tây Bắc. Anh Ninh thì ở bên kia sông Hồng đốc gạo lên, còn tôi thì đi trước. Lúc ấy, kinh nghiệm tổ chức dân công của mình còn xoàng lắm, đã vậy lại chẳng có phương tiện chỉ huy gì. Chúng tôi cũng có vạch ra được một kế hoạch chở gạo. Đại khái: dân công chia làm mấy bộ phận; bộ phận thứ nhất chuyển đến đâu, xong đi đâu; bộ phận thứ hai nhận và chuyển thế nào... Ai ngờ sự việc lại không diễn ra như kế hoạch. Trời thì mưa, đèo thì cao, đường hành quân cứ trơn như đổ mỡ. Đến đỉnh đèo Khâu Vác thì ùn cả lại. Bộ binh, pháo binh, dân công xen vào nhau. Thế là quân của tôi mất liên lạc lung tung; cán bộ chịu không nắm được nữa.

Tôi thì lại đi theo anh Văn trên đường khác, sắp đến Sài Lương, anh Văn quay lại hỏi:

- Gạo của anh đâu?

Nào tôi có nắm được gì hơn! Chẳng qua cũng liên lạc với chỗ bộ phận phụ trách dân công bằng đường điện thoại của Bộ. Thành thử, trong hoàn cảnh khó khăn cung cấp chưa có đường dây riêng, cái mà tôi nắm được thì các anh cũng đã biết trước cả rồi. Anh Vân giục quá, tôi có bao nhiêu quân, tung đi nắm tình hình hết. Người nãy mới đi, một lúc không thấy về báo cáo, sốt ruột, lại tung người khác đi. Đến khi đánh Sài Lương, anh Văn lại hỏi:

- Gạo của anh đến đâu rồi?

Bí quá, tôi phải bứt đi trước, chạy nháo sang bên kia xem gạo thóc ra sao. Bấy giờ mới vỡ lẽ. Kết quả quân ta chiến thắng mà phải chịu đói. Bộ đội bên anh Bằng Giang tiếp tục truy kích, chỉ được phát tiền, đi được nửa đường hết gạo, phải dừng lại.

Thế là vì cung cấp làm ăn thiếu chu đáo mà ảnh hưởng đến tác chiến! Nhưng có dại rồi mới có khôn; từ chiến dịch Tây Bắc trở đi, chúng tôi rút được kinh nghiệm. Anh Trần Đăng Ninh thường hay dặn anh em:

- Cung cấp ta phải tìm cách giành được chủ động trong bị động.

Rồi từ đó, chúng tôi không phải là tham mưu nhưng cứ ngồi dự kiến với nhau, tình hình như thế như thế, sẽ đánh chiến trường nào, cứ dự kiến hết. Xong rồi, tung cán bộ đi chuẩn bị, nắm khả năng có thể huy động, đặt quan hệ với địa phương, chuẩn bị kho tàng trước... Như vậy đỡ bị động rất nhiều. Cho nên, trong chiến dịch này, ở phía tây Điện Biên, chúng tôi cũng đã làm như vậy. Ở đó, chúng tôi đã cử cán bộ đến từ trước và đã có được một ít cơ sở. Mới đây, nghe tin giặc càn xuống, đốt phá hết, chưa biết thực hư ra sao...

Anh Văn cười:

- Nghĩ ngợi gì mà lâu thế? Ý kiến anh thế nào?

Tôi nói:

Bộ chỉ huy đã giao việc thì chúng tôi xin hết sức cố gắng, còn tình hình thế nào, tôi sẽ báo cáo về hằng ngày bằng điện đài để xin chỉ thị.

Bàn bạc công việc xong thì cơm vừa dọn ra. Chúng tôi tranh thủ lúc ăn tán một chút cho vui vẻ rồi chia tay. Chúng tôi đi về sở chỉ huy cung cấp tiền phương, vừa đi vừa nói chuyện.

Tôi hỏi:

- Trên này có gì lạ không anh?

Đồng chí chủ nhiệm nói:

- Mình vừa được một cái tin không để đâu cho hết mừng...
- Tin gì thế?
- Bọn này đang khổ sở vì ô-tô. Phụ tùng, xăm lốp hỏng không có cái thay, cứ phải cắt đầu cá vá đầu tôm, tháo cái này, lắp vào cái kia cho xe chạy. Nguy nhất là các bình điện sắp cạn một loạt. Đang chưa biết tính thế nào thì có người báo cho biết trên Lai Châu địch rút đi bỏ lại một thùng axít tướng. Sướng nhá! Vội cho xe đi chở. Đánh đùng một cái có tin về ô-tô bị bom. Thôi! Cứ thế là tôi buồn xỉu đi, buồn lắm. Chợt lại có điện báo về không phải thế, ô-tô chở axít đang trên đường về. Mừng ơi là mừng...

Hai anh em tỉ tê tâm sự một lát nữa rồi mới đi vào bàn bạc công việc. Cũng chỉ mới phác qua được những nét lớn thôi.

Đồng chí chủ nhiệm cung cấp tiền phương mở hòm, trao cho tôi một bó bạc, nói:

- Nhiệm vụ của anh phức tạp lắm đấy. Nhất là nếu kho tàng bị nó đốt thật rồi. Anh cần bao nhiêu người, cứ lấy đi. Ở nhà, Tổng cục sẽ vươn ra hỏa tuyến, giúp anh em. Bây giờ, không chỉ axít mà còn thiếu nhiều thứ. Nhưng anh cứ yên tâm mà đi. Lúc về, nhất định anh sẽ thấy nhiều cái khác. Tình hình vận chuyển, cung cấp sẽ tốt hơn, tiến bộ hơn cho mà xem.

Tôi về đến nhà thấy anh Thản vẫn đang thức đợi. Tôi phổ biến tóm tắt tình hình và chủ trương của Bộ chỉ huy rồi hối hả giục anh em bắt tay chuẩn bị để đi được ngay. Anh em báo cáo là đơn vị làm nhiệm vụ lúc ra đi chỉ có hai, ba ngày gạo toòng teeng trên vai.

Chúng tôi cả thảy có mười người đi vòng xuống phía nam. Tại đây, cũng có một bộ phận làm nhiệm vụ “đóng chốt” ở Pom Lót trên đường Điện Biên đi Tây Trang. Khi chúng tôi đến thì bộ phận này cũng đã đi rồi. Chúng tôi vội vã tập hợp dân công, thu thập gạo thóc rồi ba chân bốn cẳng đuổi theo bộ đội.

Phải nói rằng dân công trong chiến dịch Điện Biên anh dũng lắm và được tổ chức khá chặt chẽ. Nhiều anh chị em ở quê nhà đang tham gia phát động quần chúng, nghe tin mở chiến dịch, tranh nhau xung phong, phải bình bầu và đề nghị mãi mới được đi. Cho nên tinh thần họ rất khá. Nghe nói được đi làm nhiệm vụ đặc biệt, anh chị em bật dậy ngay tất cả. Đoàn quân của chúng tôi nhiều “binh chủng” là thế nhưng hành quân rất gọn, tư thế chững chạc, nhất là khi tiến càng sâu vào phía tây.

Trong lòng mọi người, một tình cảm cao thượng cộng với lòng tự hào chính đáng đã được khơi lên.

Mấy ngày liền cứ hết lên dốc rồi lại xuống dốc, có hôm lội suối suốt ngày, hai bàn chân trắng bệch ra. Vùng này địch đã đi qua nên chỗ nào cũng có dấu vết tàn phá. Nhiều bản bị đốt trụi. Có bản còn xác nhà nhưng dân đã chạy vào rừng hết, rất vắng lặng, không một tiếng gà gáy hay chó sủa. Thỉnh thoảng, chúng tôi cũng gặp những gốc đào vẫn đứng gan góc mà nở hoa rực rỡ giữa những đồi cỏ gianh đã bị bom đạn cầy lên hoặc đốt cháy. Quang cảnh đó nhắc tôi nhớ Tết nhất sắp đến nơi và cũng gợi lên trong tôi một cái gì mâu thuẫn và cũng thật hào hùng khó tả.

Một hôm, chúng tôi đang băng rừng đi, chợt thấy có một đồng chí từ xa chống gậy đi lại, dáng điệu hớt hải. Đến gần, hóa ra đồng chí cán bộ quân nhu được phái đi trước điều tra tình hình kho tàng. Thấy tôi, đồng chí chạy ngay lại:

- Báo cáo anh, đúng là nó đốt cháy hết kho rồi, chẳng còn lấy một hột gạo nào nữa.

Tuy trong bụng đã có dự kiến nhưng thoạt đầu tôi cũng suy nghĩ mất một lúc.

image

Bộ đội cùng đồng bào các dân tộc Tây Bắc xẻ núi, làm đường vào trận địa. Ảnh: TTXVN

 

Anh em quây lại, xôn xao, nỗi lo lắng hiện lên trên mọi nét mặt:
- Gay go quá, lại như Khâu Vác thì chết!
Quả tình, bao nhiêu dự trữ mất hết, lại hoạt động trên một chiến trường xa như thế này thì khó khăn lắm đây. Nhưng sau giây lát, tôi vẫn rất tin và nói:
- Cứ bình tĩnh các đồng chí ạ. Chúng ta chiến đấu vì chính nghĩa, vì nhân dân thì hễ còn dân là còn có cái nuôi được bộ đội. Cái chính là biết dựa vào dân, dựa vào cán bộ địa phương, sẽ gỡ dần được hết.

Chiều ba mươi Tết chúng tôi bỏ đường bộ, xuống thuyền. Lênh đênh suốt một đêm, chả có gì đón giao thừa nhưng anh em vẫn vui, vẫn hát. Sáng mồng một thì đuổi kịp bộ phận anh Nĩu đã đi với bộ đội trước chúng tôi một ngày. Tôi mừng quá, túm lấy áo anh Nĩu:
- Bộ đội đâu?
Anh Nĩu lau mồ hôi trán, chỉ lên những đỉnh núi cao vút phía trước mặt:
- Đang truy kích phía đó...
Tôi lại hỏi:
- Bộ phận dưới này được mấy ngày gạo
Anh Nĩu nói:
- Hơn Hồng Lếch một chút thôi, có năm ngày ăn.

Tôi ngẫm nghĩ một lát rồi quyết định:
- ... Thôi được, tìm cái gì cho anh em ăn lấy sức rồi ta bôn luôn một lẻo.
May làm sao lại gặp được một cái bản còn có dân. Mọi người thở phào nhẹ nhõm, nói như reo:
- Có dân là có ăn rồi'

Hôm sau, đi suốt ngày đường chỉ toàn dốc xuống. Đi một quãng, thấy chỗ nào cũng có nương thuốc phiện đang nở hoa sặc sỡ. Đi một hồi nữa lại thấy từng đàn ngựa đông có đến hàng mấy trăm con đang thong dong gặm cỏ, đỏ ối cả sườn đồi. Tiếp đến là ruộng, ruộng bát ngát, vừa mới gặt xong, chỗ nào cũng có thóc đánh đống như đống rơm.

Tôi buột miệng khen:
- Trù phú thật!
Anh Nĩu cũng hoan hỉ:
- Không lo nữa rồi, thế nào cũng có gạo cho bộ đội ăn.
Chúng tôi đi vào bản. Nhà nào cũng cao ráo, khang trang, gà, vịt, lợn đầy sân.
Ở bản này, chúng tôi tóm được cái 'đuôi" của bộ đội và sau đó theo anh em chỉ, tìm được đến chỗ anh X. và cơ quan đoàn bộ đóng.

Vừa trông thấy tôi, anh X. đứng phắt dậy reo lên: - A! Đây rồi. Thế nào "cụ"?

Tôi ngồi xuống sàn đỡ lấy chén nước trong tay anh X.

- Các kho gạo ta bố trí từ trước bị nó đốt cháy hết cả rồi...

Anh X. lo lắng, ngắt lời:

- Chết! Làm sao có gạo cho bộ đội tiếp tục truy kích bây giờ?

Tôi cười:

- Yên trí! Nằm trên kho lương thực mà lại lo à? Không có nhiều thì cũng có ít cho các anh... Nhưng hượm, để tôi đi bắt liên lạc với địa phương cái đã.

Sáng sau, tôi và anh Nĩu đi loanh quanh mất một lúc mới tìm được các đồng chí lãnh đạo địa phương. Không đợi chúng tôi trình bày lâu, các đồng chí đã sốt sắng hứa thế nào cũng có đủ gạo cho bộ đội ăn. Và ngay tối hôm ấy, cán bộ cơ sở các nơi đã nhận được công văn về họp đông đủ.

Hội nghị họp trên một căn nhà sàn rộng. Cán bộ cơ sở lần lượt kéo lên, tốp thì quây ngay lấy chúng tôi, tốp thì chụm lại chuyện trò líu ríu, tốp thì sà xuống quanh bếp chuyền tay nhau rít thuốc lào nghe nhộn nhịp, ấm cúng lạ.

Các đồng chí lãnh đạo bắt đầu nói chuyện bằng tiếng địa phương. Tôi để ý nhìn thấy vẻ mặt người nghe cứ rạng rỡ mãi lên, thỉnh thoảng, anh em lại vỗ tay ran như pháo cắt ngang, khiến người nói cứ phải xua xua tay mới giữ được trật tự.

Anh Nĩu rỉ tai tôi:

- Đúng quá, có dân, sẽ có hết. Tình hình này có lẽ không đến nỗi quá khó khăn như ta dự kiến, anh ạ...

Trong bụng, tôi cũng tin là như thế.

Sáng ra, anh em cán bộ cơ sở chia tay nhau, người thì cấp tốc chạy đuổi theo các đơn vị đang trên đường truy kích, một số khác thì xuống các đơn vị đang đóng ở đây, hướng dẫn cán bộ ta đi huy động gạo...

Chất phác, thật thà như nhân dân vùng này quả là rất quý. Nhiều người chạy tít vào trong rừng sâu, nghe tin có bộ đội đến, rủ nhau kéo về. Chúng tôi hỏi mua thóc gạo, bà con chỉ ra đong, bảo cứ đến chỗ ấy, chỗ nọ mà xúc. Bộ đội cứ việc gánh, còn định giá, trả tiền, đã có cán bộ cơ sở.

Chúng tôi trao tiền cho các đồng chí, cứ dặn đi dặn lại mãi:

- Đáng thế nào các đồng chí liệu mà trả. Dân càng tốt, bộ đội càng phải sòng phẳng, chớ có để cho ai thiệt, dù chỉ là một đồng hay một hào...

Chỉ trong một ngày, ta đã huy động được hàng trăm tấn thóc. Cái gay bây giờ là làm thế nào cho ra gạo. Bà con địa phương cứ quen ăn đến đâu, giã đến đó. Mỗi nhà có mỗi cái cối con con với mấy cái chầy tay. Giỏi lắm cũng chỉ có cái cối nước cót ca cót két suốt ngày mới được mẻ gạo. Với những loại công cụ thô sơ như vậy, làm sao bảo đảm được đủ gạo ăn cho bộ đội bây giờ?

Tôi về bàn với anh X.:

- Gạo không có, nhưng thóc thì huy động được nhiều đấy... Bây giờ phải nghĩ cách làm thế nào mà xay, giã hả anh?

Anh X. sốt sắng:

- Được thóc là quý rồi. Còn xay, giã các anh cứ để đấy chúng tôi bảo đảm cho. Bộ đội ta làm được hết...

Quả nhiên, khi tôi ở chỗ các đồng chí cán bộ địa phương về đã thấy nơi thì anh em đang vác dao vào rừng chặt cây, đẵn tre, nơi thì đang cưa gỗ xoèn xoẹt. Ngoảnh đi ngoảnh lại đã thấy các đơn vị đóng xong cối xay, cối giã, lại đan được cả giần, sàng, nong, nia nữa...

image

Cối xay gạo trong Chiến dịch Điện Biên Phủ.

 

Bộ đội thì mấy khi được ăn gạo mới, lại tự tay mình làm lấy nên đơn vị nào cũng giã trắng xanh lên. Xôi đồ chín dỡ ra thơm phưng phức mấy gian nhà, chẳng thịt, chẳng cá cũng đã thấy ngon rồi.

Mấy hôm sau, anh Từ Giấy đi với một cánh quân truy kích địch từ trước, vòng về báo cáo tình hình.
Bác sĩ quân y nhìn mâm xôi, có ý kiến ngay:

- Gạo giã thế này thì mất hết cám!

Tôi đến, anh Từ Giây lại kỳ kèo anh Nĩu:

- Gạo trắng để được lâu. Nhưng ta có yêu cầu để lâu đâu.
Giã trắng quá thì hao, lại thiếu vitamin, nhỡ bộ đội làm sao thì ảnh hưởng đến chiến đấu to.

Anh Nĩu cười trừ:

- Khốn chết một nỗi là đơn vị nào cũng ưng thế kia... Mà thóc thì đã giao cho anh em rồi.

Anh Từ Giấy vẫn không chịu:

- Thế thì phải quy định. Chỉ được giã tám trăm hay nhiều lắm là nghìn chầy thôi.

Tôi nghe nói phải, hôm sau ra quy định luôn. Và bộ đội cũng chấp hành ngay. Bấy giờ, đồng chí nào cũng lo, nếu vì một lý do gì mà không được tiếp tục chiến đấu trên chiến trường này thì thật ân hận.

Ngoài thóc ra, dân còn đem lợn, rau đến bán cho chúng tôi, muốn mua mấy cũng có. Mà lợn ở vùng này thì tuyệt! Con nào cũng một tạ trở lên, lông mượt bóng, khổ mỡ dày có đến hàng tấc nhưng thịt ăn lại không ngấy. Thành thử, ăn ở đây còn tươi gấp mấy lần trong Điện Biên.

Thế nhưng đó mới là ăn. Ăn ngon mà để bộ đội bệnh tật thì cũng hóa như không. Cho nên, ngay khi vừa lên đường, đang tối mắt tối mũi chạy gạo, tôi vẫn không quên nắm tình hình vệ sinh phòng bệnh. Được cái công việc này, anh Từ Giấy làm đã lâu, rất quen, nên tôi cũng yên tâm.

Anh Từ Giấy nói:

- Phấn khởi lắm anh Bình ạ. Bộ đội ta truy kích dài ngày như thế mà hầu như không có ai tụt lại sau phải thu dung. Nền nếp ăn tốt, đi tốt, ngủ tốt, ta hành quân khẩn trương là thế, mà vẫn giữ được rất vững. Tôi nhớ có một buổi trưa, nắng to lắm, người nào cũng khát khô cả cổ. Thế mà khi bộ đội qua sông, tôi để ý nhìn, không thấy đồng chí nào uống nước lã cả. Mới hay ý thức giữ gìn sức khỏe để chiến đấu của bộ đội ta tốt lắm.

image

Không quản ngày đêm, dân công chuyển tải lương thực bằng đôi chân ra mặt trận. Ảnh: Tư liệu TTXVN.

 

(Sau này anh Từ Giấy còn kể cho tôi nghe một mẩu chuyện khá thú vị như sau:

... Trong hội nghị của Ủy ban liên hiệp đình chiến họp ở Trung Giã, một tên quan tư thầy thuốc ở Điện Biên hỏi anh Từ Giấy thế này:

- Tôi rất lấy làm lạ là tại sao sống kham khổ hàng mấy tháng ròng như thế mà các anh vẫn giữ vững được quân số. Trong những ngày chúng tôi bị bao vây, chúng tôi vẫn nuôi một hy vọng sẽ có một trận dịch lớn lan ra cho các đơn vị ông Võ Nguyên Giáp. Và như thế thì sẽ cứu chúng tôi. Anh nhớ là tôi ở Đông Dương này hai mươi năm rồi nhé. Tôi biết người Việt Nam lắm. Muốn họ đi tiêm chủng, phải có culít đến tận nhà bắt đi...

Anh Từ Giấy nghe nó nói chỉ nhếch mép cười, về anh có viết một bài báo, trong đó có nhắc đến công tác vệ sinh phòng bệnh chúng tôi tiến hành trong các đơn vị đang làm nhiệm vụ truy kích ở phía này).

Còn về thương binh thì bấy giờ chúng tôi không gặp khó khăn mấy. Địch đang mất tinh thần, chạm phải ta là cắm cổ chạy. Thương binh rất ít. Bà con địa phương đầy lòng yêu thương, quý mến bộ đội, đã giúp quân y rửa ráy, nâng giấc cho thương binh không nề hà gì cả.

Bộ đội ta truy kích ngày càng gấp rút. Việc tiếp tế gạo cho bộ đội gặp nhiều khó khăn. Bộ phận anh Nĩu phân tán đi theo các mũi gần hết. Địch chạy trước, nên khi ta đến thì dân đã chạy hết hoặc nếu có ở nhà thì cũng đã bị cướp bóc sạch. Tình hình gay go như thế, giá không có các cán bộ địa phương đi theo giúp đỡ thì thật lôi thôi to. Bộ đội dừng lại trú quân là cán bộ cơ sở vội vã đi tìm dân ngay, họp dân lại, giải thích những yêu cầu và những chính sách cụ thể. Cuối cùng, dân hiểu, lại dẫn ta vào rừng lấy thóc về.

image

Từng đoàn xe thồ, từng đoàn dân công vận chuyển lương thực, vũ khí, đạn dược phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ. Ảnh: Tư liệu TTXVN

 

Để đỡ vất vả cho các đồng chí cán bộ cơ sở, tôi bàn với anh Nĩu chia nhỏ bộ phận cung cấp ra làm nhiều tốp. Tốp thứ nhất theo đơn vị đi đầu, đến nơi, huy động được gạo, tổ chức phát luôn, nếu còn thừa thì giao lại cho tốp sau. Tốp sau phát còn thừa thì tổ chức chuyển đi theo. Cứ thế...
Nhưng cũng có hôm qua bản nào cũng thấy vừa bị đốt hết.

Đang chưa biết tính sao thì lại thấy dân ở các bản xung quanh, có khi cách hàng ngày đường, cũng đưa gạo, đánh hàng đàn bò đến tiếp tế cho bộ đội. Chúng tôi lại phải nói mãi bà con mới nhận tiền.

... Thế là những lực lượng địch thập thò ở phía tây đã bị quét sạch. Điện Biên hoàn toàn bị cô lập, đứng chơ vơ như một hòn đảo nhỏ giữa đại dương hậu phương mênh mông của ta. Bộ đội anh X. nhận được lệnh trở về nhận nhiệm vụ mới.

Chuyến đi này cũng rất vất vả nhưng không lo đói nữa (trước khi lui quân, chúng tôi còn thừa hàng chục tấn gạo giao lại cho địa phương).

Đoàn chúng tôi khi về lại có thêm anh Từ Giấy, một tay kể chuyện có duyên và lặn cũng tài. Hôm nào, hết cái ăn, lại dừng lại tìm chỗ kiếm cá. Tôi lóng ngóng chỉ tóm được những con gần bờ thôi. Còn dưới sâu lại phải đến tay anh Từ Giấy. Bác sĩ chỉ ngụp mấy hơi là đã tóm được hàng yến cá rồi.

Một hôm, đi qua một cái bản cheo leo trên sườn núi có khoảng vài ba chục nóc nhà. Anh Nĩu nhận ra, bảo:
- Tôi nhớ rồi... Lần trước ta đi qua đây, dân trông thấy bộ đội chạy hết. Chả biết lần này thì thế nào...
Nói chưa dứt thì chợt có tiếng người kêu rên từ giữa bản vẳng ra. “Dân có nhà”. - Tôi nghĩ thế.

Đến đầu bản, gặp một cụ già. Xem ý, ông cụ đứng đó chờ chúng tôi đã lâu, có lẽ đã trông thấy chúng tôi khi còn ở dưới chân núi.

Lát sau, chúng tôi theo ông cụ bước lên một căn nhà sàn lụp xụp. Một người đàn ông nằm mọp trên sạp, hai tay ôm lấy chân rên rỉ, thỉnh thoảng lại kêu thét lên.

Anh Từ Giấy nói:

- Anh ta lên bắp chuối. Phải chích. Thế nhưng đồng chí phẫu thuật lại đi với bộ đội mất rồi... Còn ta thì lại đang phải đi gấp...

Tôi hỏi:

- Anh có dụng cụ gì không?

- Dụng cụ không đủ nhưng dùng tạm cũng được.

Tôi giục:

- Thế thì chích cho anh ấy đi. Xong, anh em mình chịu khó rảo bước hơn một chút vậy.

Nửa giờ sau, được băng bó xong, anh ấy thiêm thiêp nằm yên. Còn ờ dưới sân thì dân bản kéo đến đông lắm, người mang trứng, người mang mía. Bà con đi theo chúng tôi lên đỉnh dốc, lưu luyến mãi mới chịu chia tay, mang quà trở lại.

Về đến gần Điện Biên, đã thấy quang cảnh đổi khác. Đường ô tô đã vươn vào được đến tận đây, to và bề thế lắm. Hôm đó, có sương mù nên mãi đến chín, mười giờ, ôtô vẫn kìn kìn chở gạo, chở đạn vào. Dân công, bộ đội thì cứ đi lại như mắc cửi, xế lên trên ít nữa bản nào cũng có vườn rau mới trồng để cung cấp cho bộ đội

- 'Chu đáo quá, Quy mô quá!” - Tôi thầm lẩm nhẩm như vậy, vừa nhớ lại chuyện thiếu axít và những lời đồng chí chủ nhiệm cung cấp nói lúc chia tay. Xem ý ra công tác chuẩn bị đã sắp kết thúc” - Tôi đoán thầm. Quả nhiên, chỉ mấy hôm sau tiếng súng tấn công Him Lam, Độc Lập - hai cánh cửa của Điện Biên Phủ, đã nổ ran, mở màn cho chiến dịch đại thắng của quân dân ta.

 

THIẾU TƯỚNG NGUYỄN THANH BÌNH (Hoàng Hà ghi)
Nguồn: "Sách Điện Biên Phủ - Trận thắng thế kỷ", (NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, năm 2004) - trang 383
Ảnh: TTXVN
Trình bày: DUY LONG

 

 


   
silverstar0211, flash001, is3 and 3 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
phuongminha6
(@phuongminha6)
Trung niên
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 38104.19
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 5799
 

Quân ta đổi bắt đầu bằng chiến thuật đánh nhanh thắng nhanh cũng có lý do của nó và về sau đổi thành đánh chắc tiến chắc cũng do nhiều điều kiện thực tế thay đổi

 

Đăng bởi: @friendship2k

image

Theo kế hoạch cũ thì lúc ấy chỉ còn khoảng 6 hay 7 tiếng đồng hồ nữa là đến giờ ta nổ súng đánh Điện Biên. Bộ binh đang gấp rút chuẩn bị để xuất kích. Còn các “binh chủng” cung cấp hỏa tuyến của chúng tôi thì cũng đã sắp xếp đâu vào đấy, đang chờ lệnh đi làm nhiệm vụ...

Đột nhiên, anh Văn gọi điện xuống bảo tôi lên nhận ngay công tác mới.
Đồng chí Nĩu, phó ban quân nhu chiến dịch, lo lắng:
- Hay có chuyện gì rồi, anh?
Tôi gạt đi:
- Chuyện gì! Chắc các anh lại gọi lên động viên thêm để làm nhiệm vụ cho tốt thôi. Anh Thản đâu?
- Anh ấy đến chỗ dân công...
Tôi vội đi ngay. Lên chỗ Bộ chỉ huy chiến dịch đóng, tự nhiên tôi cảm thấy không khí có cái gì khác khác thật. Mấy cán bộ đeo xà cột đi lại, dáng điệu vội vã, nét mặt đăm chiêu. Đồng chí chủ nhiệm cung cấp tiền phương đang ngồi bóp trán mải suy nghĩ chuyện gì xem bộ lung lắm.

Thấy tôi, anh nói ngay:
- Bộ chỉ huy vừa họp xong. Kế hoạch tác chiến thay đổi rồi. Tối nay chưa nổ súng đâu...
Tôi ngơ ngác:
- Thế là thế nào, anh?
Anh nắm tay tôi kéo đi:
- Sang bên kia anh Văn sẽ nói cụ thể.
Tôi gỡ tay anh ra:
- Thế thì cho tôi gọi điện về nhà “ách” cái chuyện này lại đã.

Tôi quay máy báo cho anh Thản khoan hãy động viên dân công xuất phát và dặn: “Cũng chưa biết đầu đuôi ra sao cả, có gì tối nay thức đợi tôi về, ta sẽ bàn thêm”.

Một lát sau, chúng tôi đã đến chỗ anh Văn.

Anh Văn nói:
- Thế nào? Tuyến cung cấp của anh đã sẵn sàng chưa?
Tôi nói:
- Báo cáo, sẵn sàng rồi.
Anh Văn hơi mỉm cười:
- Có chắc không?
- Chắc chứ ạ.
- Hơi chắc hay là chắc hoàn toàn?

image

Các đơn vị tham gia chiến dịch nghiên cứu các vị trí đánh địch trên sa bàn trước khi vào chiến dịch. (Ảnh: TTXVN)

 

Tôi hơi lúng túng. Lúc đó hỏa tuyến do tôi phụ trách là từ cây số 62 đổ vào. Từ ngã ba Nà Tấu này có ba con đường vận chuyển nối liền với hậu phương và các đơn vị tham chiến. Đường đi vào phía đông Điện Biên (tôi thường gọi là cánh tay trái) tương đối trơn tru. Chỉ có đường đi sang phía tây thì đang gay go. Có sao, tôi cứ đúng thế mà nói.

- Báo cáo anh, đại để cho đến nay tình hình là như vậy đấy. Cánh tay phải của tôi quả là hơi... yếu, chuẩn bị chưa được thật kỹ lắm. Phục vụ cho đơn vị đóng sâu tít trong Hồng Lếch, bình thường còn được, chứ nếu gay go thì...

Anh Văn ngắt lời:

- Thế nghĩa là chưa chắc, chưa sẵn sàng chứ gì? - Anh lại cười - Các anh báo cáo thế thì Bộ Chỉ huy cũng chịu không biết đâu mà hạ quyết tâm.

Nói đoạn, anh trải rộng tấm bản đồ ra trước chúng tôi, chậm rãi nói:

- Thôi chưa chắc thì ta chuẩn bị lại cho thật chắc rồi sẽ đánh.

Anh Văn bắt đầu phân tích tình hình mặt trận lúc đó. Về phía địch, chúng tăng cường hơn trước. Còn ta thì chuẩn bị chưa được thật đầy đủ. Để bảo đảm thắng lợi ít tổn thất nhất, phải làm thêm công tác chuẩn bị, phải thay đổi phương châm “Đánh nhanh giải quyết nhanh” bằng “Đánh chắc tiến chắc”. Tất nhiên, trong khi làm những việc đó, ta không để cho địch rảnh tay. Một đơn vị sẽ cấp tốc hành quân đi tiêu diệt những cánh quân của giặc đang thập thò ở phía tây, đẩy Điện Biên vào thế hoàn toàn bị cô lập, tạo điều kiện cho ta càng dễ dàng tiêu diệt chúng sau này.

Đồng chí chủ nhiệm cung cấp tiền phương ngồi bên đồng chí Văn vừa nghe, vừa đưa mắt nhìn tôi khẽ gật gật đầu như có ý bảo: “Đã thấy gay chưa?”.

Tôi rất thông cảm nỗi lo lắng của đồng chí. Có nhiều khi hai anh em ngồi tán với nhau, vẫn thường nói đùa:

- Chỉ cần ông quân sự trở đầu gậy chỉ bản đồ một cái là anh cung cấp tha hồ mà chạy!

Đằng này, lại thay đổi phương châm tác chiến thì càng không biết bao nhiêu là việc đặt ra phải giải quyết. Kho tàng phục vụ “Đánh nhanh giải quyết nhanh” thì chỉ cần lợp sơ sơ, dựng lên theo kiểu dã chiến cũng gọi là được rồi, nay “Đánh chắc tiến chắc”, “mùa mưa cũng đánh, đánh bao giờ thắng mới thôi” thì phải sửa lại hết. Hay như trước kia, quân nhu chạy được một ít mắm kem, thịt ướp - thế là yên trí, nhưng nay thì không ổn đâu... Đánh nhau dài ngày mà quanh đi quẩn lại chỉ có thức ăn khô, bộ đội nuốt sao được, vân vân và vân vân...

Anh Văn vuốt vuốt tấm bản đồ, nói:

- Tôi đã bàn kỹ rồi. Anh Bình sẽ đuổi theo đơn vị đi làm nhiệm vụ ở phía tây. Họ ở cách ta một ngày đường và sẽ đi ngay đêm nay. Cho nên đuổi kịp được cũng vất vả đấy.

Giao nhiệm vụ xong, anh Văn bảo tôi báo cáo lại một lần nữa tình hình kho tàng phía đó. Rồi anh cười, hỏi:

- Có nhớ Khâu Vác không đấy?

Không cần đồng chí Đại tướng nhắc thì cán bộ cung cấp, nhất là tôi, vẫn còn cứ là nhớ đời. Chẳng thế mà hồi còn sống, anh Trần Đăng Ninh vẫn thường gọi đùa là “Hận Khâu Vác”.

... Bấy giờ là chiến dịch Tây Bắc. Anh Ninh thì ở bên kia sông Hồng đốc gạo lên, còn tôi thì đi trước. Lúc ấy, kinh nghiệm tổ chức dân công của mình còn xoàng lắm, đã vậy lại chẳng có phương tiện chỉ huy gì. Chúng tôi cũng có vạch ra được một kế hoạch chở gạo. Đại khái: dân công chia làm mấy bộ phận; bộ phận thứ nhất chuyển đến đâu, xong đi đâu; bộ phận thứ hai nhận và chuyển thế nào... Ai ngờ sự việc lại không diễn ra như kế hoạch. Trời thì mưa, đèo thì cao, đường hành quân cứ trơn như đổ mỡ. Đến đỉnh đèo Khâu Vác thì ùn cả lại. Bộ binh, pháo binh, dân công xen vào nhau. Thế là quân của tôi mất liên lạc lung tung; cán bộ chịu không nắm được nữa.

Tôi thì lại đi theo anh Văn trên đường khác, sắp đến Sài Lương, anh Văn quay lại hỏi:

- Gạo của anh đâu?

Nào tôi có nắm được gì hơn! Chẳng qua cũng liên lạc với chỗ bộ phận phụ trách dân công bằng đường điện thoại của Bộ. Thành thử, trong hoàn cảnh khó khăn cung cấp chưa có đường dây riêng, cái mà tôi nắm được thì các anh cũng đã biết trước cả rồi. Anh Vân giục quá, tôi có bao nhiêu quân, tung đi nắm tình hình hết. Người nãy mới đi, một lúc không thấy về báo cáo, sốt ruột, lại tung người khác đi. Đến khi đánh Sài Lương, anh Văn lại hỏi:

- Gạo của anh đến đâu rồi?

Bí quá, tôi phải bứt đi trước, chạy nháo sang bên kia xem gạo thóc ra sao. Bấy giờ mới vỡ lẽ. Kết quả quân ta chiến thắng mà phải chịu đói. Bộ đội bên anh Bằng Giang tiếp tục truy kích, chỉ được phát tiền, đi được nửa đường hết gạo, phải dừng lại.

Thế là vì cung cấp làm ăn thiếu chu đáo mà ảnh hưởng đến tác chiến! Nhưng có dại rồi mới có khôn; từ chiến dịch Tây Bắc trở đi, chúng tôi rút được kinh nghiệm. Anh Trần Đăng Ninh thường hay dặn anh em:

- Cung cấp ta phải tìm cách giành được chủ động trong bị động.

Rồi từ đó, chúng tôi không phải là tham mưu nhưng cứ ngồi dự kiến với nhau, tình hình như thế như thế, sẽ đánh chiến trường nào, cứ dự kiến hết. Xong rồi, tung cán bộ đi chuẩn bị, nắm khả năng có thể huy động, đặt quan hệ với địa phương, chuẩn bị kho tàng trước... Như vậy đỡ bị động rất nhiều. Cho nên, trong chiến dịch này, ở phía tây Điện Biên, chúng tôi cũng đã làm như vậy. Ở đó, chúng tôi đã cử cán bộ đến từ trước và đã có được một ít cơ sở. Mới đây, nghe tin giặc càn xuống, đốt phá hết, chưa biết thực hư ra sao...

Anh Văn cười:

- Nghĩ ngợi gì mà lâu thế? Ý kiến anh thế nào?

Tôi nói:

Bộ chỉ huy đã giao việc thì chúng tôi xin hết sức cố gắng, còn tình hình thế nào, tôi sẽ báo cáo về hằng ngày bằng điện đài để xin chỉ thị.

Bàn bạc công việc xong thì cơm vừa dọn ra. Chúng tôi tranh thủ lúc ăn tán một chút cho vui vẻ rồi chia tay. Chúng tôi đi về sở chỉ huy cung cấp tiền phương, vừa đi vừa nói chuyện.

Tôi hỏi:

- Trên này có gì lạ không anh?

Đồng chí chủ nhiệm nói:

- Mình vừa được một cái tin không để đâu cho hết mừng...
- Tin gì thế?
- Bọn này đang khổ sở vì ô-tô. Phụ tùng, xăm lốp hỏng không có cái thay, cứ phải cắt đầu cá vá đầu tôm, tháo cái này, lắp vào cái kia cho xe chạy. Nguy nhất là các bình điện sắp cạn một loạt. Đang chưa biết tính thế nào thì có người báo cho biết trên Lai Châu địch rút đi bỏ lại một thùng axít tướng. Sướng nhá! Vội cho xe đi chở. Đánh đùng một cái có tin về ô-tô bị bom. Thôi! Cứ thế là tôi buồn xỉu đi, buồn lắm. Chợt lại có điện báo về không phải thế, ô-tô chở axít đang trên đường về. Mừng ơi là mừng...

Hai anh em tỉ tê tâm sự một lát nữa rồi mới đi vào bàn bạc công việc. Cũng chỉ mới phác qua được những nét lớn thôi.

Đồng chí chủ nhiệm cung cấp tiền phương mở hòm, trao cho tôi một bó bạc, nói:

- Nhiệm vụ của anh phức tạp lắm đấy. Nhất là nếu kho tàng bị nó đốt thật rồi. Anh cần bao nhiêu người, cứ lấy đi. Ở nhà, Tổng cục sẽ vươn ra hỏa tuyến, giúp anh em. Bây giờ, không chỉ axít mà còn thiếu nhiều thứ. Nhưng anh cứ yên tâm mà đi. Lúc về, nhất định anh sẽ thấy nhiều cái khác. Tình hình vận chuyển, cung cấp sẽ tốt hơn, tiến bộ hơn cho mà xem.

Tôi về đến nhà thấy anh Thản vẫn đang thức đợi. Tôi phổ biến tóm tắt tình hình và chủ trương của Bộ chỉ huy rồi hối hả giục anh em bắt tay chuẩn bị để đi được ngay. Anh em báo cáo là đơn vị làm nhiệm vụ lúc ra đi chỉ có hai, ba ngày gạo toòng teeng trên vai.

Chúng tôi cả thảy có mười người đi vòng xuống phía nam. Tại đây, cũng có một bộ phận làm nhiệm vụ “đóng chốt” ở Pom Lót trên đường Điện Biên đi Tây Trang. Khi chúng tôi đến thì bộ phận này cũng đã đi rồi. Chúng tôi vội vã tập hợp dân công, thu thập gạo thóc rồi ba chân bốn cẳng đuổi theo bộ đội.

Phải nói rằng dân công trong chiến dịch Điện Biên anh dũng lắm và được tổ chức khá chặt chẽ. Nhiều anh chị em ở quê nhà đang tham gia phát động quần chúng, nghe tin mở chiến dịch, tranh nhau xung phong, phải bình bầu và đề nghị mãi mới được đi. Cho nên tinh thần họ rất khá. Nghe nói được đi làm nhiệm vụ đặc biệt, anh chị em bật dậy ngay tất cả. Đoàn quân của chúng tôi nhiều “binh chủng” là thế nhưng hành quân rất gọn, tư thế chững chạc, nhất là khi tiến càng sâu vào phía tây.

Trong lòng mọi người, một tình cảm cao thượng cộng với lòng tự hào chính đáng đã được khơi lên.

Mấy ngày liền cứ hết lên dốc rồi lại xuống dốc, có hôm lội suối suốt ngày, hai bàn chân trắng bệch ra. Vùng này địch đã đi qua nên chỗ nào cũng có dấu vết tàn phá. Nhiều bản bị đốt trụi. Có bản còn xác nhà nhưng dân đã chạy vào rừng hết, rất vắng lặng, không một tiếng gà gáy hay chó sủa. Thỉnh thoảng, chúng tôi cũng gặp những gốc đào vẫn đứng gan góc mà nở hoa rực rỡ giữa những đồi cỏ gianh đã bị bom đạn cầy lên hoặc đốt cháy. Quang cảnh đó nhắc tôi nhớ Tết nhất sắp đến nơi và cũng gợi lên trong tôi một cái gì mâu thuẫn và cũng thật hào hùng khó tả.

Một hôm, chúng tôi đang băng rừng đi, chợt thấy có một đồng chí từ xa chống gậy đi lại, dáng điệu hớt hải. Đến gần, hóa ra đồng chí cán bộ quân nhu được phái đi trước điều tra tình hình kho tàng. Thấy tôi, đồng chí chạy ngay lại:

- Báo cáo anh, đúng là nó đốt cháy hết kho rồi, chẳng còn lấy một hột gạo nào nữa.

Tuy trong bụng đã có dự kiến nhưng thoạt đầu tôi cũng suy nghĩ mất một lúc.

image

Bộ đội cùng đồng bào các dân tộc Tây Bắc xẻ núi, làm đường vào trận địa. Ảnh: TTXVN

 

Anh em quây lại, xôn xao, nỗi lo lắng hiện lên trên mọi nét mặt:
- Gay go quá, lại như Khâu Vác thì chết!
Quả tình, bao nhiêu dự trữ mất hết, lại hoạt động trên một chiến trường xa như thế này thì khó khăn lắm đây. Nhưng sau giây lát, tôi vẫn rất tin và nói:
- Cứ bình tĩnh các đồng chí ạ. Chúng ta chiến đấu vì chính nghĩa, vì nhân dân thì hễ còn dân là còn có cái nuôi được bộ đội. Cái chính là biết dựa vào dân, dựa vào cán bộ địa phương, sẽ gỡ dần được hết.

Chiều ba mươi Tết chúng tôi bỏ đường bộ, xuống thuyền. Lênh đênh suốt một đêm, chả có gì đón giao thừa nhưng anh em vẫn vui, vẫn hát. Sáng mồng một thì đuổi kịp bộ phận anh Nĩu đã đi với bộ đội trước chúng tôi một ngày. Tôi mừng quá, túm lấy áo anh Nĩu:
- Bộ đội đâu?
Anh Nĩu lau mồ hôi trán, chỉ lên những đỉnh núi cao vút phía trước mặt:
- Đang truy kích phía đó...
Tôi lại hỏi:
- Bộ phận dưới này được mấy ngày gạo
Anh Nĩu nói:
- Hơn Hồng Lếch một chút thôi, có năm ngày ăn.

Tôi ngẫm nghĩ một lát rồi quyết định:
- ... Thôi được, tìm cái gì cho anh em ăn lấy sức rồi ta bôn luôn một lẻo.
May làm sao lại gặp được một cái bản còn có dân. Mọi người thở phào nhẹ nhõm, nói như reo:
- Có dân là có ăn rồi'

Hôm sau, đi suốt ngày đường chỉ toàn dốc xuống. Đi một quãng, thấy chỗ nào cũng có nương thuốc phiện đang nở hoa sặc sỡ. Đi một hồi nữa lại thấy từng đàn ngựa đông có đến hàng mấy trăm con đang thong dong gặm cỏ, đỏ ối cả sườn đồi. Tiếp đến là ruộng, ruộng bát ngát, vừa mới gặt xong, chỗ nào cũng có thóc đánh đống như đống rơm.

Tôi buột miệng khen:
- Trù phú thật!
Anh Nĩu cũng hoan hỉ:
- Không lo nữa rồi, thế nào cũng có gạo cho bộ đội ăn.
Chúng tôi đi vào bản. Nhà nào cũng cao ráo, khang trang, gà, vịt, lợn đầy sân.
Ở bản này, chúng tôi tóm được cái 'đuôi" của bộ đội và sau đó theo anh em chỉ, tìm được đến chỗ anh X. và cơ quan đoàn bộ đóng.

Vừa trông thấy tôi, anh X. đứng phắt dậy reo lên: - A! Đây rồi. Thế nào "cụ"?

Tôi ngồi xuống sàn đỡ lấy chén nước trong tay anh X.

- Các kho gạo ta bố trí từ trước bị nó đốt cháy hết cả rồi...

Anh X. lo lắng, ngắt lời:

- Chết! Làm sao có gạo cho bộ đội tiếp tục truy kích bây giờ?

Tôi cười:

- Yên trí! Nằm trên kho lương thực mà lại lo à? Không có nhiều thì cũng có ít cho các anh... Nhưng hượm, để tôi đi bắt liên lạc với địa phương cái đã.

Sáng sau, tôi và anh Nĩu đi loanh quanh mất một lúc mới tìm được các đồng chí lãnh đạo địa phương. Không đợi chúng tôi trình bày lâu, các đồng chí đã sốt sắng hứa thế nào cũng có đủ gạo cho bộ đội ăn. Và ngay tối hôm ấy, cán bộ cơ sở các nơi đã nhận được công văn về họp đông đủ.

Hội nghị họp trên một căn nhà sàn rộng. Cán bộ cơ sở lần lượt kéo lên, tốp thì quây ngay lấy chúng tôi, tốp thì chụm lại chuyện trò líu ríu, tốp thì sà xuống quanh bếp chuyền tay nhau rít thuốc lào nghe nhộn nhịp, ấm cúng lạ.

Các đồng chí lãnh đạo bắt đầu nói chuyện bằng tiếng địa phương. Tôi để ý nhìn thấy vẻ mặt người nghe cứ rạng rỡ mãi lên, thỉnh thoảng, anh em lại vỗ tay ran như pháo cắt ngang, khiến người nói cứ phải xua xua tay mới giữ được trật tự.

Anh Nĩu rỉ tai tôi:

- Đúng quá, có dân, sẽ có hết. Tình hình này có lẽ không đến nỗi quá khó khăn như ta dự kiến, anh ạ...

Trong bụng, tôi cũng tin là như thế.

Sáng ra, anh em cán bộ cơ sở chia tay nhau, người thì cấp tốc chạy đuổi theo các đơn vị đang trên đường truy kích, một số khác thì xuống các đơn vị đang đóng ở đây, hướng dẫn cán bộ ta đi huy động gạo...

Chất phác, thật thà như nhân dân vùng này quả là rất quý. Nhiều người chạy tít vào trong rừng sâu, nghe tin có bộ đội đến, rủ nhau kéo về. Chúng tôi hỏi mua thóc gạo, bà con chỉ ra đong, bảo cứ đến chỗ ấy, chỗ nọ mà xúc. Bộ đội cứ việc gánh, còn định giá, trả tiền, đã có cán bộ cơ sở.

Chúng tôi trao tiền cho các đồng chí, cứ dặn đi dặn lại mãi:

- Đáng thế nào các đồng chí liệu mà trả. Dân càng tốt, bộ đội càng phải sòng phẳng, chớ có để cho ai thiệt, dù chỉ là một đồng hay một hào...

Chỉ trong một ngày, ta đã huy động được hàng trăm tấn thóc. Cái gay bây giờ là làm thế nào cho ra gạo. Bà con địa phương cứ quen ăn đến đâu, giã đến đó. Mỗi nhà có mỗi cái cối con con với mấy cái chầy tay. Giỏi lắm cũng chỉ có cái cối nước cót ca cót két suốt ngày mới được mẻ gạo. Với những loại công cụ thô sơ như vậy, làm sao bảo đảm được đủ gạo ăn cho bộ đội bây giờ?

Tôi về bàn với anh X.:

- Gạo không có, nhưng thóc thì huy động được nhiều đấy... Bây giờ phải nghĩ cách làm thế nào mà xay, giã hả anh?

Anh X. sốt sắng:

- Được thóc là quý rồi. Còn xay, giã các anh cứ để đấy chúng tôi bảo đảm cho. Bộ đội ta làm được hết...

Quả nhiên, khi tôi ở chỗ các đồng chí cán bộ địa phương về đã thấy nơi thì anh em đang vác dao vào rừng chặt cây, đẵn tre, nơi thì đang cưa gỗ xoèn xoẹt. Ngoảnh đi ngoảnh lại đã thấy các đơn vị đóng xong cối xay, cối giã, lại đan được cả giần, sàng, nong, nia nữa...

image

Cối xay gạo trong Chiến dịch Điện Biên Phủ.

 

Bộ đội thì mấy khi được ăn gạo mới, lại tự tay mình làm lấy nên đơn vị nào cũng giã trắng xanh lên. Xôi đồ chín dỡ ra thơm phưng phức mấy gian nhà, chẳng thịt, chẳng cá cũng đã thấy ngon rồi.

Mấy hôm sau, anh Từ Giấy đi với một cánh quân truy kích địch từ trước, vòng về báo cáo tình hình.
Bác sĩ quân y nhìn mâm xôi, có ý kiến ngay:

- Gạo giã thế này thì mất hết cám!

Tôi đến, anh Từ Giây lại kỳ kèo anh Nĩu:

- Gạo trắng để được lâu. Nhưng ta có yêu cầu để lâu đâu.
Giã trắng quá thì hao, lại thiếu vitamin, nhỡ bộ đội làm sao thì ảnh hưởng đến chiến đấu to.

Anh Nĩu cười trừ:

- Khốn chết một nỗi là đơn vị nào cũng ưng thế kia... Mà thóc thì đã giao cho anh em rồi.

Anh Từ Giấy vẫn không chịu:

- Thế thì phải quy định. Chỉ được giã tám trăm hay nhiều lắm là nghìn chầy thôi.

Tôi nghe nói phải, hôm sau ra quy định luôn. Và bộ đội cũng chấp hành ngay. Bấy giờ, đồng chí nào cũng lo, nếu vì một lý do gì mà không được tiếp tục chiến đấu trên chiến trường này thì thật ân hận.

Ngoài thóc ra, dân còn đem lợn, rau đến bán cho chúng tôi, muốn mua mấy cũng có. Mà lợn ở vùng này thì tuyệt! Con nào cũng một tạ trở lên, lông mượt bóng, khổ mỡ dày có đến hàng tấc nhưng thịt ăn lại không ngấy. Thành thử, ăn ở đây còn tươi gấp mấy lần trong Điện Biên.

Thế nhưng đó mới là ăn. Ăn ngon mà để bộ đội bệnh tật thì cũng hóa như không. Cho nên, ngay khi vừa lên đường, đang tối mắt tối mũi chạy gạo, tôi vẫn không quên nắm tình hình vệ sinh phòng bệnh. Được cái công việc này, anh Từ Giấy làm đã lâu, rất quen, nên tôi cũng yên tâm.

Anh Từ Giấy nói:

- Phấn khởi lắm anh Bình ạ. Bộ đội ta truy kích dài ngày như thế mà hầu như không có ai tụt lại sau phải thu dung. Nền nếp ăn tốt, đi tốt, ngủ tốt, ta hành quân khẩn trương là thế, mà vẫn giữ được rất vững. Tôi nhớ có một buổi trưa, nắng to lắm, người nào cũng khát khô cả cổ. Thế mà khi bộ đội qua sông, tôi để ý nhìn, không thấy đồng chí nào uống nước lã cả. Mới hay ý thức giữ gìn sức khỏe để chiến đấu của bộ đội ta tốt lắm.

image

Không quản ngày đêm, dân công chuyển tải lương thực bằng đôi chân ra mặt trận. Ảnh: Tư liệu TTXVN.

 

(Sau này anh Từ Giấy còn kể cho tôi nghe một mẩu chuyện khá thú vị như sau:

... Trong hội nghị của Ủy ban liên hiệp đình chiến họp ở Trung Giã, một tên quan tư thầy thuốc ở Điện Biên hỏi anh Từ Giấy thế này:

- Tôi rất lấy làm lạ là tại sao sống kham khổ hàng mấy tháng ròng như thế mà các anh vẫn giữ vững được quân số. Trong những ngày chúng tôi bị bao vây, chúng tôi vẫn nuôi một hy vọng sẽ có một trận dịch lớn lan ra cho các đơn vị ông Võ Nguyên Giáp. Và như thế thì sẽ cứu chúng tôi. Anh nhớ là tôi ở Đông Dương này hai mươi năm rồi nhé. Tôi biết người Việt Nam lắm. Muốn họ đi tiêm chủng, phải có culít đến tận nhà bắt đi...

Anh Từ Giấy nghe nó nói chỉ nhếch mép cười, về anh có viết một bài báo, trong đó có nhắc đến công tác vệ sinh phòng bệnh chúng tôi tiến hành trong các đơn vị đang làm nhiệm vụ truy kích ở phía này).

Còn về thương binh thì bấy giờ chúng tôi không gặp khó khăn mấy. Địch đang mất tinh thần, chạm phải ta là cắm cổ chạy. Thương binh rất ít. Bà con địa phương đầy lòng yêu thương, quý mến bộ đội, đã giúp quân y rửa ráy, nâng giấc cho thương binh không nề hà gì cả.

Bộ đội ta truy kích ngày càng gấp rút. Việc tiếp tế gạo cho bộ đội gặp nhiều khó khăn. Bộ phận anh Nĩu phân tán đi theo các mũi gần hết. Địch chạy trước, nên khi ta đến thì dân đã chạy hết hoặc nếu có ở nhà thì cũng đã bị cướp bóc sạch. Tình hình gay go như thế, giá không có các cán bộ địa phương đi theo giúp đỡ thì thật lôi thôi to. Bộ đội dừng lại trú quân là cán bộ cơ sở vội vã đi tìm dân ngay, họp dân lại, giải thích những yêu cầu và những chính sách cụ thể. Cuối cùng, dân hiểu, lại dẫn ta vào rừng lấy thóc về.

image

Từng đoàn xe thồ, từng đoàn dân công vận chuyển lương thực, vũ khí, đạn dược phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ. Ảnh: Tư liệu TTXVN

 

Để đỡ vất vả cho các đồng chí cán bộ cơ sở, tôi bàn với anh Nĩu chia nhỏ bộ phận cung cấp ra làm nhiều tốp. Tốp thứ nhất theo đơn vị đi đầu, đến nơi, huy động được gạo, tổ chức phát luôn, nếu còn thừa thì giao lại cho tốp sau. Tốp sau phát còn thừa thì tổ chức chuyển đi theo. Cứ thế...
Nhưng cũng có hôm qua bản nào cũng thấy vừa bị đốt hết.

Đang chưa biết tính sao thì lại thấy dân ở các bản xung quanh, có khi cách hàng ngày đường, cũng đưa gạo, đánh hàng đàn bò đến tiếp tế cho bộ đội. Chúng tôi lại phải nói mãi bà con mới nhận tiền.

... Thế là những lực lượng địch thập thò ở phía tây đã bị quét sạch. Điện Biên hoàn toàn bị cô lập, đứng chơ vơ như một hòn đảo nhỏ giữa đại dương hậu phương mênh mông của ta. Bộ đội anh X. nhận được lệnh trở về nhận nhiệm vụ mới.

Chuyến đi này cũng rất vất vả nhưng không lo đói nữa (trước khi lui quân, chúng tôi còn thừa hàng chục tấn gạo giao lại cho địa phương).

Đoàn chúng tôi khi về lại có thêm anh Từ Giấy, một tay kể chuyện có duyên và lặn cũng tài. Hôm nào, hết cái ăn, lại dừng lại tìm chỗ kiếm cá. Tôi lóng ngóng chỉ tóm được những con gần bờ thôi. Còn dưới sâu lại phải đến tay anh Từ Giấy. Bác sĩ chỉ ngụp mấy hơi là đã tóm được hàng yến cá rồi.

Một hôm, đi qua một cái bản cheo leo trên sườn núi có khoảng vài ba chục nóc nhà. Anh Nĩu nhận ra, bảo:
- Tôi nhớ rồi... Lần trước ta đi qua đây, dân trông thấy bộ đội chạy hết. Chả biết lần này thì thế nào...
Nói chưa dứt thì chợt có tiếng người kêu rên từ giữa bản vẳng ra. “Dân có nhà”. - Tôi nghĩ thế.

Đến đầu bản, gặp một cụ già. Xem ý, ông cụ đứng đó chờ chúng tôi đã lâu, có lẽ đã trông thấy chúng tôi khi còn ở dưới chân núi.

Lát sau, chúng tôi theo ông cụ bước lên một căn nhà sàn lụp xụp. Một người đàn ông nằm mọp trên sạp, hai tay ôm lấy chân rên rỉ, thỉnh thoảng lại kêu thét lên.

Anh Từ Giấy nói:

- Anh ta lên bắp chuối. Phải chích. Thế nhưng đồng chí phẫu thuật lại đi với bộ đội mất rồi... Còn ta thì lại đang phải đi gấp...

Tôi hỏi:

- Anh có dụng cụ gì không?

- Dụng cụ không đủ nhưng dùng tạm cũng được.

Tôi giục:

- Thế thì chích cho anh ấy đi. Xong, anh em mình chịu khó rảo bước hơn một chút vậy.

Nửa giờ sau, được băng bó xong, anh ấy thiêm thiêp nằm yên. Còn ờ dưới sân thì dân bản kéo đến đông lắm, người mang trứng, người mang mía. Bà con đi theo chúng tôi lên đỉnh dốc, lưu luyến mãi mới chịu chia tay, mang quà trở lại.

Về đến gần Điện Biên, đã thấy quang cảnh đổi khác. Đường ô tô đã vươn vào được đến tận đây, to và bề thế lắm. Hôm đó, có sương mù nên mãi đến chín, mười giờ, ôtô vẫn kìn kìn chở gạo, chở đạn vào. Dân công, bộ đội thì cứ đi lại như mắc cửi, xế lên trên ít nữa bản nào cũng có vườn rau mới trồng để cung cấp cho bộ đội

- 'Chu đáo quá, Quy mô quá!” - Tôi thầm lẩm nhẩm như vậy, vừa nhớ lại chuyện thiếu axít và những lời đồng chí chủ nhiệm cung cấp nói lúc chia tay. Xem ý ra công tác chuẩn bị đã sắp kết thúc” - Tôi đoán thầm. Quả nhiên, chỉ mấy hôm sau tiếng súng tấn công Him Lam, Độc Lập - hai cánh cửa của Điện Biên Phủ, đã nổ ran, mở màn cho chiến dịch đại thắng của quân dân ta.

 

THIẾU TƯỚNG NGUYỄN THANH BÌNH (Hoàng Hà ghi)
Nguồn: "Sách Điện Biên Phủ - Trận thắng thế kỷ", (NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, năm 2004) - trang 383
Ảnh: TTXVN
Trình bày: DUY LONG

 

 

 

Mời các cụ ghé trang trại nhà em :
https://otonet.fun/forums/postid/7861/


   
CarlVinson, U Cay, friendship2k and 1 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31900.7
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3386
Topic starter  
image

Cùng thời gian bộ đội ta tiếp tục xây dựng trận địa chiến hào, quân địch cũng ráo riết tranh thủ củng cố lại hệ thống trận địa phòng ngự, đặt thêm vật cản, đào thêm nhiều hầm hào và xây dựng thêm một số điểm tựa mới trên hướng đông-bắc của tập đoàn cứ điểm.

Trong bản Huấn thị số 44/CAB, ngày 23/3/1954, Cônhi chỉ thị cho Đờ Cát-xtơ-ri phải gấp rút chuẩn bị tiến hành một cuộc chiến đấu trong những hầm hào và gợi ý nên mở rộng khu vực phòng thủ phía đông, chuyển trọng điểm của trận địa trung tâm sang bên bờ phía đông sông Nậm Rốm trước mùa mưa lũ. Để củng cố lại lực lượng của binh đoàn tác chiến Tây Bắc (GONO), trong thời gian này, ngoài hai tiểu dù hoàn chỉnh, Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Bắc Bộ còn đưa lên Điện Biên Phủ một số sĩ quan và binh lính bổ sung cho các đơn vị bị tổn thất, số pháo địch bị ta bắn hỏng cũng đã được chúng thay thế, đạn dược được bổ sung đầy đủ. Việc bảo đảm cung cấp tiếp tế cho quân đồn trú được tăng cường.

Tại Mỹ, trong buổi tiếp Ely, Ngoại trưởng Dulles cũng nói rằng, ông không thấy có lý do nào để từ bỏ kế hoạch Nava, một kế hoạch đang dự báo thành công và thậm chí là thắng lợi cho chiến dịch tiếp theo, hay nói cách khác là cho cả năm sau nữa. Tuy nhiên, điều Ely cần truyền đạt cho tướng tá và chính khách Mỹ là không nên có thái độ lạc quan như hiện tại, rằng thực tế ở Điện Biên Phủ đang diễn biến xấu. Đến lúc này thì bộ máy chính phủ và chính quyền Mỹ mới tỉnh ra: Nước Pháp đang đứng trước một tình thế là phải chuẩn bị để bước vào thương lượng với những điều kiện xấu nhất nếu như không có sự giúp đỡ ồ ạt của Mỹ. Lúc này các nhà lãnh đạo Mỹ mới thấy rõ là họ phải đưa nước Mỹ cam kết sâu hơn vào cuộc chiến.

Trên thực tế để giúp Pháp thực hiện kế hoạch Nava, viện trợ Mỹ đã tăng từ 269 tỷ lên 420 tỷ phơ-răng, chiếm 75% chi phí chiến tranh ở Đông Dương. Tổng thống Mỹ Eishenhower đã chỉ thị thành lập Ủy ban đặc biệt, gồm Thứ trưởng Quốc phòng, các thành viên Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, và Giám đốc CIA để nghiên cứu những biện pháp mới nhằm yểm hộ cho kế hoạch Nava... Nhưng lúc này Mỹ vừa ra khỏi chiến tranh Triều Tiên nên thấy cần cân nhắc đối với một cuộc phiêu lưu mới ở Đông Dương nếu chưa có chuẩn bị. Do đó, sau khi Ely quay về Paris thì Mỹ thay đổi thái độ.

image

Trên chiến trường phối hợp

Sau một loạt chiến công của quân và dân đồng bằng Bắc Bộ, đặc biệt là chiến công của quân và dân Đường số 5, Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi Điện khen các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích trên Đường số 5”       

Điện khen đã nêu lại thành tích chiến đấu của quân và dân Đường 5 từ tháng 1, tháng 2/1954; đặc biệt, một cuộc tiến công mạnh trong tháng 3 vào hệ thống phòng thủ của địch ở Đường số 5, tiêu diệt nhiều vị trí và tháp canh, tiêu diệt nhiều đội quân tiếp viện của địch, đặc biệt đã phá hủy nhiều cầu cống và nhiều đoạn đường sắt, mấy lần cắt đứt con đường chiến lược quan trọng bậc nhất của địch ở chiến trường Bắc Bộ.

 Chiến thắng Đường số 5 đánh vào đường giao thông huyết mạch của địch, đã tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, thu quét bộ đội cơ động của chúng, nhất là đã làm gián đoạn sự vận chuyển bom đạn của Mỹ từ Hải Phòng lên Hà Nội và đi các mặt trận. Việc đó đã có tác dụng phối hợp chặt chẽ với cuộc chiến đấu của quân ta ở Điện Biên Phủ và ở các chiến trường khác.

Cùng với chiến thắng trong trận tập kích vào sân bay Gia Lâm và sân bay Cát Bi, các trận chiến thắng trên Đường số 5 đã nêu cao tinh thần bất khuất của quân và dân ta trong vùng sau lưng địch, đồng thời đã chứng tỏ sự thất bại của địch trong âm mưu “bình định” vùng địch hậu ở đồng bằng Bắc Bộ.         

Mặc dầu quy mô và trình độ chiến thuật, kỹ thuật có khác nhau, tinh thần chiến đấu anh dũng của các đồng chí không kém tinh thần quyết chiến quyết thắng của cán bộ và chiến sĩ ta trên Mặt trận Điện Biên Phủ.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp mong muốn các đơn vị, các đồng chí đang chiến đấu trên mặt trận đường 5 tiếp tục ra sức củng cố và khuếch trương thắng lợi, đẩy mạnh chiến tranh du kích, tích cực giúp dân chống giặc, đề phòng chủ quan khinh địch, tiếp tục phối hợp chặt chẽ với cuộc vây hãm địch của quân ta ở Điện Biên Phủ.

 

Để chăm sóc cho bộ đội, thương bệnh binh, công tác hậu cần được đặt lên hàng đầu. Nhà văn Hữu Mai ghi lại hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong cuốn “Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử”, NXB Quân đội nhân dân (2000): Muốn cải thiện đời sống của bộ đội ở chiến hào còn phải giải quyết nhu cầu về thực phẩm và nhu yếu phẩm. Những vấn đề này không thể chỉ trông nhờ vào Hội đồng Cung cấp mặt trận và Hậu cần chiến lược, chiến dịch vốn đã "quá tải". Hậu cần đại đoàn tổ chức chuyên chở bằng xe đạp thồ từ hậu cứ của đơn vị ở trung du, đồng bằng lên mặt trận thịt, rau muối, đường sữa, thuốc lào, thuốc lá,… thồ từ hậu cứ của đơn vị ở trung du, đồng bằng, lên mặt trận thịt muối, rau muối, đường sữa, thuốc lào, thuốc lá...

Hậu cần trung đoàn tổ chức các đội tiếp tế đi sâu vào các bản trên rẻo cao khai thác rau, nhất là rau cải của đồng bào Mèo thường trồng xen kẽ với cây anh túc. Bộ đội vào rừng đào củ mài, tìm kiếm rau rừng ở ven suối. Cán bộ trung đoàn, tiểu đoàn được phép ký giấy biên nhận mua trâu của đồng bào, bộ đội sẽ thanh toán sau chiến dịch.

Một cuộc vận động "Ba tốt" (ăn tốt, ngủ tốt, đánh tốt) được triển khai trên toàn mặt trận. Cán bộ chính trị, quân y tới những nơi sinh hoạt bộ đội gặp khó khăn nhất, nghiên cứu tạo mọi điều kiện ăn, ở, giải trí sao cho bộ đội giữ gìn được sức khỏe, sinh hoạt thoải mái bảo đảm chiến đấu lâu dài. Hầm hào đã được mở rộng, củng cố hạn chế sự đe dọa của bom đạn. Những "đường phố" sạch xuất hiện tại trận địa. Mỗi "căn nhà" hầm của tổ ba người có hai "giường" bằng đất, căng vải dù, nằm ngồi thoải mái.

… Tại các đội điều trị, dù chiến lợi phẩm được đưa tới làm chăn đắp cho thương binh. Khi vào hầm mổ, có cảm giác như vào một bệnh viện hiện đại. Tường rất phẳng, góc rất vuông căng vải trắng tinh. Sàn hầm lát bằng những thân cây sậy phủ một lớp vải dù. Không khí dịu mát, phảng phất mùi ête thơm thơm. Những bác sĩ phẫu thuật áo choàng trắng toát, làm việc dưới ánh sáng "đèn điện" mà máy phát là một bình điện xe đạp quay bằng tay.

image

Nguồn: Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.

 

Ngày xuất bản: 23/3/2024
Nội dung: ThS NGUYỄN THỊ THẢO - Viện Lịch sử quân sự, MAI THU NGỌC
Trình bày: HÙNG HIẾU
Ảnh: TTXVN, Báo Nhân Dân, Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ

 

   
Hóng hớt, flash001, is3 and 2 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31900.7
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3386
Topic starter  
image

Trong đội ngũ chiến sĩ, có lẽ không có ai lại không biết bài hát “Hành quân xa”. Và chắc ít người biết rằng ca khúc này ra đời rất mau lẹ, được tác giả hoàn thành trong vòng chỉ một tiếng đồng hồ. Dạo ấy là chiến dịch Đông Xuân 1953-1954. Trước đòi hỏi của bộ đội, nhạc sĩ Đỗ Nhuận từ lâu đã ấp ủ ý định sáng tác một bài thể hành khúc cho chiến sĩ vừa hành quân vừa hát. Nhưng dự định mãi vẫn chưa viết ra được.

image

Nhạc sĩ Đỗ Nhuận. (Ảnh: TTXVN phát)

 

Trong một khóa học chính trị, được gặp Bác, Đỗ Nhuận bày tỏ băn khoăn với Bác về việc sáng tác hành khúc. Người đã trao đổi với nhạc sĩ:

Thế bấy nay chú viết ra sao? Theo Bác thì chú cứ sáng tác thế nào cho đông đảo cán bộ, chiến   nhân dân thích  được.

Câu nói hết sức giản dị của Bác đã có sức gợi mở lớn đối với Đỗ Nhuận. Một lần, ông cùng một tốp cán bộ hành quân đi bộ từ Đại Từ (Thái Nguyên) qua đèo Khế, đến Thượng Bàng La (Yên Bái). Đi vậy chứ thực ra mấy anh em cũng không biết sẽ tập kết ở đâu. Họ cùng nhau bàn luận, phán đoán ý đồ tác chiến của cấp trên. Bỗng một người trong tốp nói: “Thôi, khỏi cần biết, đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi mà”. Thế là câu nói tình cờ ấy trở thành cái tứ văn học để Đỗ Nhuận phát triển thành “Hành quân xa”. Và bài hành khúc nổi tiếng này đã xoáy vào cái ý đó, đã tập trung làm nổi rõ chủ đề tư tưởng “đời chúng ta, đâu có giặc là ta cứ đi”. Có thể nói đây là một sáng tác mẫu mực cho thể hành khúc. Bài hát được viết ở thể 1 đoạn gồm 4 câu nhạc rất cân đối, vuông vức. Âm vực toàn bài được khống chế trong vòng một quãng 8 là quãng lý tưởng đối với quảng đại quần chúng vì dễ hát. Tuy vậy, do cách sắp đặt các vòng hòa âm và giai điệu có sự biến động ít nhiều về tiết tấu mà bài hát giản dị nhưng vẫn phong phú về màu sắc, không bị đơn điệu. Khác với “Du kích ca” trước đó, Đỗ Nhuận đã xử lý “Hành quân xa” hoàn toàn dựa trên cấu trúc của điệu thức dân tộc. Nó xứng đáng là một bài hành khúc tiêu biểu của bộ đội Việt Nam với đặc điểm là đại bộ phận chiến sĩ đều xuất thân từ ruộng đồng, là những người nông dân mặc áo lính.

image

Và một bài hát đã được ông sáng tác ngay tại trận địa, giữa bề bộn ngổn ngang xác xe pháo và quân thù, trong mùi khói khét lẹt của đạn bom: “Hôm qua, đánh trận Điện Biên, chiến hào xuất kích, đồi Him Lam ta tiến vào, đột phá tiêm dao tiến đánh vào”... Đó là bài “Trên đồi Him Lam” – một ca khúc hừng hực khí thế chiến đấu, sôi sục lòng căm thù giặc, nồng nàn tình yêu quê hương đất nước và tình đồng đội. Bài hát cũng được tác giả cấu trúc ở thể 1 đoạn gồm 4 câu nhạc nhưng mỗi câu đều được mở rộng, khá dài, vì đây là bài ông nhằm viết cho hát đơn ca. Đến nay, mỗi khi nghe lại “Trên đồi Him Lam”, ta như được sống lại bối cảnh hào hùng, quyết liệt của những ngày đầu tiên, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ.

Nếu ai đã có dịp chiến đấu ở Điện Biên Phủ chắc không thể quên một công việc rất đỗi nặng nhọc nhưng sôi nổi hào hứng. Đó là kéo pháo vào trận địa. Lúc ấy để bảo đảm yếu tố bí mật, bất ngờ, ta chủ trương dùng sức người để kéo pháo. Hơn ở đâu, công việc này đòi hỏi sự hiệp đồng chặt chẽ, sự đồng tâm nhất trí cao. “Hai ba nào! Hai ba nào!”. Những tiếng hô vang – tín hiệu của sức mạnh và niềm tin. Nhạc sĩ Hoàng Vân có mặt ở Điện Biên Phủ và đã từng tham gia kéo pháo cùng các chiến sĩ. Ông đã mục kích sự hy sinh anh dũng của Tô Vĩnh Diện lấy thân mình chèn để cứu pháo. Nhạc sĩ suy nghĩ nhiều đến một bài hát mang tính tập thể, có xướng, có xô. Ông nghĩ đến một bài hò đang được bộ đội hát nhiều lúc ấy: “Hò dô ta, lặng mà nghe, mà nghe câu hò” nhưng cảm thấy âm điệu rất cổ, gợi lên dáng dấp sinh hoạt của một thời xa xưa. Một bài hò hiện đại đang được nhạc sĩ hình thành. Ông kể là đã ngồi ghi nhạc trong một lán nhỏ, phải chùm chăn kín chân vì muỗi vàng đốt như ong châm. Cảnh lao động hùng vĩ giữa núi rừng hiểm trở được tác giả ghi bằng những âm điệu gẫy khúc và nhảy quãng liên tục. Chưa bao giờ, đối với ông, những hợp âm 3 bị lãng quên; vậy mà ở đây, lần này, trong ông không hề vang lên âm điệu của những hòa âm quãng 3. “Hò kéo pháo” đã ra đời mang dáng dấp một bài hò hiện đại, vừa có xướng, vừa có xô, rất phù hợp với không khí kéo pháo khẩn trương sôi động, gian khổ, vất vả nhưng thoải mái, hân hoan: “Hò dô ta nào! Kéo pháo ta vượt qua đèo. Hò dô ta nào! Kéo pháo ta vượt qua núi. Dốc núi cao cao, nhưng lòng quyết tâm còn cao hơn núi. Vực sâu thăm thẳm, vực nào sâu bằng chí căm thù...”.

image

Hò dô ta nào! Kéo pháo ta vượt qua đèo! (Ảnh: TTXVN)

 

“Hò kéo pháo” có miêu tả, kể lể nhưng vẫn thiên về biểu hiện, cảm xúc của người lao động là chính, và với sự phát triển, nới rộng một cách phóng túng các tiết nhạc, câu nhạc, bài hò đã mang dáng dấp rất hiện đại và nó chỉ có thể cất lên được ở những người biết “tin chắc thắng, tin tưởng ở trên”.

Toàn bộ chiến dịch Điện Biên Phủ được khép lại bằng một tấm màn nhung rực rỡ chói lọi của máu và hoa chiến thắng. 56 ngày đêm vẫn mãi mãi là một cơn ác mộng khủng khiếp đối với quân thù. Biểu hiện chiến thắng này như một sự kế tiếp của Chương Dương, Hàm Tử, Đống Đa trước đây. Đỗ Nhuận đã tìm được một ngôn ngữ âm nhạc giàu hình tượng và có hiệu quả nhất. Sự pha trộn giữa chất liệu dân ca Tây Bắc và làn điệu chèo “Sắp qua cầu” của dân ca đồng bằng Bắc Bộ là một dụng ý của tác giả: cuộc chiến đấu ở Điện Biên là một cuộc chiến tranh nhân dân, đã có sự hiện diện của rất nhiều dân tộc trên đất nước ta, người miền núi cũng như người miền xuôi. Với một tiết tấu vui nhộn nhưng gần với chất xòe Thái, bài hát “Chiến thắng Điện Biên” được mở đầu như một tiếng reo vui sảng khoái, nô nức: “Giải phóng Điện Biên, bộ đội ta tiến quân trở về giữa mùa hoa nở, miền Tây Bắc tưng bừng vui”. Hàng loạt những nốt móc đơn chấm đôi tiếp sang móc kép và các nốt luyến láy liên tiếp tạo cho giai điệu có không khí tưng bừng một ngày hội. Đây là một bài hát hay. Sự pha trộn nhiều chất liệu dân ca rất khác nhau trong một bài nhưng vẫn không bị méo mó, khiên cưỡng, nghe vẫn ngọt ngào, nhuần nhuyễn. Ở “Chiến thắng Điện Biên Phủ”, Đỗ Nhuận tỏ rõ sở trường trong việc dựng những bức tranh sinh động bằng âm thanh, mang tính đại chúng rộng rãi.

Thời gian đã trôi qua khá lâu. Giờ đây nghe lại những sáng tác ra đời trước và trong chiến dịch Điện Biên, chúng ta được sống lại cả một quá khứ anh hùng. Những chi tiết, thậm chí những sự kiện lịch sử, đến một lúc nào đó, người ta có thể quên, nhưng những bài ca hay, thấm vào lòng người dễ khiến các thế hệ truyền tụng và nhớ mãi. Đó là vinh quang cao quý nhất thuộc về những người sáng tác.

 

Bài: Nhạc sĩ Nguyễn Đình San
Báo Quân đội nhân dân cuối tuần, ngày 6/5/2001
Điện Biên Phủ qua những trang hồi ức, NXB Quân đội nhân dân
Trình bày: Ngọc Toàn


   
Hóng hớt, CyborgX, flash001 and 3 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31900.7
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3386
Topic starter  

Hơn 3.000 người tập diễu binh kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ

 

image

Buổi diễn tập tại Trung tâm Huấn luyện quân sự Quốc gia 4 với hơn 3.000 người, thuộc nhiều lực lượng quân đội như Khối nữ Quân nhạc, khối sĩ quan Lục quân, Hải quân, Phòng không - Không quân, Biên phòng, Cảnh sát biển, nữ sĩ quan Quân y...

image

Xe mang hình Quốc kỳ dẫn đầu đoàn diễu hành qua lễ đài.

Dự kiến, lễ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ được tổ chức sáng 7/5 tại sân vận động tỉnh Điện Biên, với sự tham gia của lực lượng Pháo lễ; Không quân; lực lượng diễu binh, diễu hành; lực lượng làm nền trên sân; lực lượng xếp hình, xếp chữ.

image

Khối lực lượng đặc công tham gia hợp luyện.

Có mặt tại buổi huấn luyện, Thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Tân Cương nhấn mạnh việc luyện tập vừa chuẩn bị cho lễ kỷ niệm, vừa chuẩn bị cho các sự kiện trọng đại khác như kỷ niệm 50 năm ngày thống nhất đất nước; 80 năm thành lập nước.

image

Các chiến sĩ Điện Biên bồng súng bước qua lễ đài.

Việc huấn luyện từng người, từng tổ, từng hàng đạt yêu cầu với động tác "đúng, đều, mạnh, đẹp, thống nhất".

image

92 cô gái của khối nữ Du kích miền Nam trong trang phục bà ba và chiếc khăn rằn đã xuất quân từ TP HCM ra Hà Nội tập luyện từ 14/3.

image

Khối nữ Đoàn Nghi lễ quân đội tham gia hợp luyện. Đây là lần đầu tiên khối xuất hiện trong lễ diễu binh, diễu hành. Một số nữ chiến sĩ phải mang các nhạc cụ như kèn nặng 14-18 kg.

image

Khối Phòng không Không quân tiến vào lễ đài.

 

Thông tin đầy đủ mời CCCM xem tại đây :

https://vnexpress.net/hon-3-000-nguoi-tap-dieu-binh-ky-niem-70-nam-chien-thang-dien-bien-phu-4725428.html

 


   
Hóng hớt, flash001, CarlVinson and 1 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31900.7
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3386
Topic starter  

Máy bay, đại bác tham gia lễ kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ

 

12 máy bay và 18 khẩu pháo đại bác sẽ mở màn lễ diễu binh kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ sáng 7/5 tại sân vận động tỉnh Điện Biên.

Bộ Quốc phòng vừa phê duyệt Đề án tổ chức diễu binh, diễu hành kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954). Bốn lực lượng được huy động tham gia, gồm: Pháo lễ; không quân bay chào mừng; diễu binh diễu hành và đội đứng trên sân, tổng số 12.000 người.

image

Quân đội diễu binh qua lễ đài dịp kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, tháng 5/2014 tại tỉnh Điện Biên. Ảnh: Quý Đoàn

 

18 khẩu lựu pháo 105 mm mở màn lễ diễu binh bằng 21 loạt pháo trên nền Quốc thiều nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Tiếp đến là phần trình diễn của 9 máy bay trực thăng mang cờ Đảng, cờ Tổ quốc bay qua lễ đài.

Lực lượng diễu binh gồm 4 khối nghi trượng, 24 khối quân đội, dân quân tự vệ, công an. Khối diễu hành gồm 9 khối cựu chiến binh, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến, công nhân, nông dân, tri thức, thanh niên, phụ nữ, khối các dân tộc Tây Bắc và sau cùng là khối nghệ thuật.

Lần gần nhất Việt Nam tổ chức lễ diễu binh diễu hành mừng chiến thắng Điện Biên Phủ là năm 2014 tại tỉnh Điện Biên - nơi ghi dấu trận đánh "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu".

image

Các lực lượng diễu hành trên đường phố Điện Biên, tháng 5/2014. Ảnh: Quý Đoàn

 

Chiều 7/5/1954, lá cờ của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries, kết thúc chiến dịch 55 ngày đêm "khoét núi ngủ hầm", đánh sập cứ điểm Điện Biên Phủ của Pháp ở Đông Dương, góp phần kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp kéo dài 9 năm.

Một ngày sau thất thủ ở Điện Biên Phủ, 8/5/1954, Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán tại Hội nghị Geneva bàn về vấn đề Đông Dương. Sau hội nghị, Pháp công nhận quyền tự do, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương, trong đó có Việt Nam và chấm dứt chế độ thực dân ở các nước này.

Trận Điện Biên Phủ được nhiều chuyên gia quân sự nhận định là một trong những trận đánh vĩ đại nhất thế kỷ 20, khởi nguồn cho cuộc đấu tranh giành độc lập của nhiều dân tộc trên thế giới.

Phương Hà

Theo VnExpress.net

https://vnexpress.net/may-bay-dai-bac-tham-gia-le-ky-niem-chien-thang-dien-bien-phu-4723686.html

 


   
Hóng hớt, flash001, CarlVinson and 1 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31900.7
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3386
Topic starter  
image

Trong những ngày ác liệt nhất của Đợt 2 chiến dịch Điện Biên Phủ, tôi cùng đồng đội tham gia chiến đấu bảo vệ Đồi E. Đó là khoảng thời gian đầy gian khổ, ác liệt, hy sinh nhưng rất đỗi tự hào. 65 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về 36 ngày đêm chiến đấu trên Đồi E vẫn vẹn nguyên trong tôi.

Tôi sinh ra trong một gia đình nông dân thuộc dân tộc Nùng tại xã Đức Hùng, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Cuối năm 1946, theo lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Bác Hồ, tôi trốn khỏi nhà chủ nợ, về gặp cha xin phép đi theo Việt Minh. Được sự động viên, khích lệ của cha, tôi cùng với 3 thanh niên khác trong bản rời quê hương Trùng Khánh đến thị xã Cao Bằng tìm gặp bộ đội cách mạng. Sau khi đăng tuyển nhập ngũ, tôi xin vào bộ đội Pháo binh vì nghĩ đơn giản “bộ binh có súng nhỏ bắn một phát chỉ được một thằng Pháp thôi, còn pháo binh bắn một phát nhưng diệt được nhiều thằng Pháp, đất nước sẽ mau hết giặc và sớm được giải phóng”. Tuy nhiên, lúc đó do thể hình thấp bé, nhẹ cân, sức vóc có hạn, không khiêng vác được các bộ phận của pháo, từ giữa năm 1947 đến 1950, tôi được giao nhiệm vụ nuôi quân với công việc chính là quản lý bếp ăn và tiếp phẩm. Luôn cố gắng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tôi được tuyên dương trước toàn đại đội, được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba và vinh dự đứng trong hàng ngũ của Đảng ngày 8/4/1950.

image

Đại tá Phùng Văn Khầu - Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Khẩu đội trưởng sơn pháo 75mm, Đại đoàn công pháo 351 trong trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Ảnh: TTXVN

image

Ngay sau đó, tôi được trên tin tưởng giao nhiệm vụ đi học làm pháo thủ để ra mặt trận chiến đấu. Tôi rất vui mừng, phấn khởi, vì mặc dù luôn hoàn thành xuất sắc vai trò “anh nuôi”, song tôi luôn mơ ước trở thành chiến sĩ pháo binh, được trực tiếp chiến đấu giết giặc ngoài mặt trận. Chính vì vậy, những ngày đầu huấn luyện rất gian nan, vất vả, nhưng tôi luôn cố gắng vượt qua, nắm chắc kỹ năng sử dụng pháo một cách thuần thục nhất. Không biết chữ, không biết sử dụng máy ngắm, tôi chỉ còn cách dùng phương pháp “kinh điển” chưa từng có là ngắm bắn trực tiếp qua nòng pháo, dùng mắt thường để ước lượng tầm và hướng bắn. Sau nhiều lần điều chỉnh rút kinh nghiệm, cuối cùng tôi cũng quen, ngắm qua nòng pháo cũng chính xác không thua gì ngắm máy. Cứ như vậy tôi từ một “anh nuôi” trở thành một trong những pháo thủ của Binh chủng Pháo binh. Kết thúc khóa huấn luyện cấp tốc, tôi được phân công nhiệm vụ là Khẩu đội phó kiêm pháo thủ số 2 (ngắm bắn) thuộc Đại đội 755, Tiểu đoàn 275, Trung đoàn 675, Đại đoàn 351.

Khi Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra, đại đội tôi đang được phối thuộc cho Trung đoàn 9, Đại đoàn 304 đóng ở Đồn Vàng (Phú Thọ), làm lực lượng dự bị của Chiến dịch Điện Biên Phủ và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ hậu phương. Cuộc chiến đấu trên chiến trường Điện Biên Phủ ngày càng bước vào giai đoạn căng thẳng và ác liệt, mỗi lần nghe tin từ chiến trường báo về, tôi cùng đồng đội luôn cảm thấy xốn xang, bứt rứt, đứng ngồi không yên, chỉ mong nhanh chóng được ra trận chiến đấu.

Kết thúc đợt 1 của Chiến dịch (từ ngày 13/3 đến ngày 17/3/1954), bộ đội ta đã tiêu diệt cứ điểm Him Lam và Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ cửa ngõ phía Bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, uy hiếp sân bay Mường Thanh. Ngày 18/3/1954, chúng tôi được lệnh hành quân gấp lên Điện Biên Phủ tham gia đợt tiến công thứ 2 của Chiến dịch. Nhận được mệnh lệnh, ai nấy cũng vui mừng hò reo, vậy là chúng tôi đã có cơ hội ra trận, sát cánh cùng đồng đội chiến đấu giải phóng quê hương. Ngày 19/3, đại đội tôi hành quân với 7 xe ô-tô, 3 khẩu sơn pháo và 90 viên đạn. Quân số của đại đội có 42 người, gồm 3 cán bộ đại đội, 3 cán bộ trung đội, 2 liên lạc, 24 pháo thủ, 10 anh nuôi, quản lý. Lúc đó, tôi được đề bạt làm Khẩu đội trưởng. Như vậy, tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ mỗi khẩu đội sơn pháo 75 mm của chúng tôi chỉ biên chế 9 người, kể cả trung đội trưởng. Số còn lại của đại đội nhận súng bộ binh ở lại làm nhiệm vụ khác. Mất gần một tuần hành quân bằng cơ giới, đại đội tôi tới gần Him Lam, cách chừng 2 cây số thì dừng lại. Đơn vị được lệnh đưa pháo xuống xe. Để bảo đảm an toàn và bí mật, ban ngày chúng tôi phải giấu pháo trong rừng, khẩu pháo được tháo rời và để trong một hầm riêng.

image

Từ ngày 25 đến ngày 27/3, Đại đội vào vị trí tập kết. Khu vực Điện Biên Phủ bắt đầu mưa, đường và giao thông hào rất trơn và lầy lội. Tám pháo thủ trong mỗi khẩu đội phải khiêng pháo với trọng lượng 500kg tháo rời ra 9 bộ phận lớn nhỏ. Theo biên chế thì 4 bộ phận lớn, mỗi bộ phận phải 4 người khiêng, 5 bộ phận còn lại mỗi bộ phận phải 2 người khiêng. Nhưng vì không đủ người nên đành phải khắc phục: bộ phận khiêng 4 người nay chỉ còn 2 người khiêng, bộ phận khiêng 2 người nay phải vác, đi dọc trong giao thông hào đầy bùn nước, dài 2,5 cây số. Thời gian này, các đồng chí đại đội trưởng, chính trị viên đại đội và trung đội trưởng đi chuẩn bị trận địa bắn. Chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ đào công sự pháo trong hai đêm 28 và 29/3.

Ngày 30/3, ngay từ buổi trưa, khẩu đội tôi cùng 2 khẩu đội trong đại đội được lệnh chiếm lĩnh trận địa ban ngày. Trận địa pháo của ta bố trí gần lô-cốt địch, đại đội trưởng và trung đội trưởng ước lượng cự ly bắn khoảng 150m. Sườn đồi bị bom đạn cày xới nên hầu như không có một vạt cây, rất dễ bị lộ. Chúng tôi phải bò và dùng dây buộc vào các bộ phận pháo để kéo lên chiếm lĩnh. Nhiệm vụ đưa pháo chiếm lĩnh trận địa được hoàn thành và địch không phát hiện được.

17 giờ ngày 30/3/1954, bộ đội ta nổ súng mở màn Đợt tiến công thứ hai của chiến dịch. Khẩu đội sơn pháo của tôi được giao nhiệm vụ tiêu diệt 4 lô cốt địch, chi viện cho bộ binh mở cửa mở và xung phong đánh chiếm đồi E, với số đạn được bắn là 30 viên, tiết kiệm thì được khen thưởng, bắn quá số đạn thì phải chịu kỷ luật. Được lệnh bắn, tôi ngắm bắn phát đầu tiên vào lỗ châu mai của lô-cốt thứ nhất. Đạn gần, không trúng mục tiêu. Tôi quan sát thấy đạn nổ còn cách lỗ châu mai khoảng 10m. Tôi đề nghị được tăng thước tầm 160m và thay đổi điểm ngắm. Tôi bắn phát thứ 2, viên đạn chui thẳng vào lỗ châu mai, khói đen cuộn lên ngùn ngụt, lô-cốt 1 bị tiêu diệt, các pháo thủ ôm chầm lấy nhau sung sướng. Được lệnh, tôi chuyển sang bắn lô cốt 2, 3, 4. Rút kinh nghiệm, sau đó 20 phát bắn đạn đều đi trúng đích, góp phần tiêu diệt sinh lực địch, chi viện đắc lực cho đơn vị bộ binh của Trung đoàn 209 hoàn thành nhiệm vụ đánh chiếm đồi E sau gần 1 giờ chiến đấu. Kết thúc trận đánh mở màn, Đại đội 755 hoàn thành mục tiêu diệt 4 lô-cốt, một kho đạn và hàng trăm tên địch. Khẩu đội 1 của tôi tiết kiệm được 8 viên đạn được biểu dương tập thể, cá nhân tôi vinh dự được tặng Huy hiệu Bác Hồ và Huân chương Chiến công hạng Ba.

Những ngày tiếp theo là quãng thời gian khó khăn nhất, quyết liệt và gay go nhất. Đêm mồng 2/4/1954, ba khẩu đội pháo của Đại đội 755 chúng tôi được lệnh lên đưa pháo lên Đồi E đều chuyển sang phòng ngự. Toàn đơn vị đã khẩn trương, tích cực đào đắp công sự, bố trí đội hình bảo vệ Đồi E. Quân số của đại đội lúc này chỉ có 30 người. Nhiệm vụ của sơn pháo 75mm là ngắm bắn trực tiếp diệt pháo, xe tăng và bộ binh địch tăng viện phản kích. Các khẩu đội được bố trí trong công sự có nắp, kín đáo, địch không thể phát hiện được kể cả ban ngày khi ta chưa nổ súng.

Từ ngày 5 đến 17/4, Khẩu đội 1 của tôi được lệnh hàng ngày phải thực hiện bắn thăm dò xem nơi địch bố trí hỏa lực để khi có thời cơ thì tiêu diệt. Sau 12 ngày đêm, khẩu đội tôi chỉ còn lại 4 đồng chí, 5 đồng chí khác đã bị thương vong. Các khẩu đội 2 và 3, quân số còn nguyên (9 đồng chí) vì 2 khẩu đội đó chưa được lệnh chiến đấu, vẫn giữ bí mật lực lượng.

Thời gian này, các đơn vị bộ binh, công binh ngày đêm chiến đấu, làm việc quên mình đào chiến hào và hầm chia cắt bao vây, siết chặt phạm vi đóng quân của địch; đồng thời, kiên quyết đánh lui các cuộc phản kích của chúng. Cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra vô cùng ác liệt, một vài anh em có biểu hiện dao động, tôi có lúc tưởng chừng không sống nổi. Được sự giáo dục, động viên kịp thời của cán bộ cấp trên và đồng đội, chúng tôi kiên cường bám trụ, vượt qua khó khăn gian khổ, củng cố lực lượng và tinh thần, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, góp phần giành toàn thắng cho chiến dịch.

image

12 giờ ngày 23/4/1954, địch mở đợt phản công quy mô lớn bằng bộ binh có xe tăng và pháo 105mm yểm trợ, hòng chiếm lại Đồi E và các điểm cao chiến thuật lân cận. Trận địa pháo của địch nằm bên cạnh sông Nậm Rốm, cách khẩu đội tôi khoảng 250m. Lúc đó, pháo địch kéo ra ngoài công sự. Sau khi chuẩn bị xong, khẩu đội 2 và khẩu đội 3 mở lỗ châu mai (miệng hầm pháo). Xe tăng địch phát hiện thấy và tập trung bắn vào hai khẩu đội. Cả hai khẩu đội 2 và 3 pháo đều bị hỏng, không chiến đấu được. Các pháo thủ của hai khẩu đội đều bị thương vong (7 đồng chí hy sinh, 11 đồng chí bị thương). Lúc này, Khẩu đội 1 của tôi chỉ còn 4 đồng chí. Chỉ huy đại đội gọi tôi lên hầm giao nhiệm vụ và thông báo cho tôi biết tổn thất của đại đội. Nghe tin này, tôi đã khóc vì căm thù bọn giặc Pháp, vì thương tiếc đồng đội và hứa với Đại đội trưởng, với Chính trị viên đại đội quyết tâm trả thù cho đồng đội, sẽ chiến đấu đến giọt máu cuối cùng. Tôi tự nhủ phải biến hai dòng nước mắt thành hành động cách mạng, phải giữ vững ý chí của người đảng viên cộng sản, quyết tiêu diệt bằng được 4 khẩu pháo của địch. Tôi ngắm khẩu thứ nhất của địch, bắn 3 phát, trúng cả 3 viên. Khẩu 1 của địch bị diệt gọn. Địch phát hiện được khẩu đội tôi, tập trung hỏa lực bắn sập miệng cửa hầm pháo, khiến cho khẩu đội tôi không bắn được nữa. Tôi thoát ra khỏi công sự mở lại cửa hầm pháo (lỗ châu mai), sau 10 phút, pháo ta lại có thể bắn được.

image

Pháo cao xạ Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)

Tôi ngắm bắn khẩu thứ 2 của địch. Phát 1 không trúng pháo mà trúng hầm đạn nên gây cháy nổ lớn. Phát thứ 2 và thứ 3 bắn trúng, tiêu diệt khẩu pháo thứ 2. Đại liên của địch bắn như vãi đạn về phía chúng tôi. Một đồng chí trong khẩu đội tôi bị thương gãy tay. Tôi cử đồng chí Chài dìu đồng chí bị thương về phía sau chân đồi E. Tôi quay nòng pháo bắn trúng 2 khẩu đại liên của địch. Tôi giục Khẩu đội phó kiêm pháo thủ nạp đạn Lý Văn Pao chạy theo đồng chí bị thương, báo tin đại liên của địch đã bị tiêu diệt cho anh em mừng và yên tâm.

Còn một mình với khẩu pháo, tôi vẫn kiên quyết đánh địch. Thông thường, để điều khiển pháo phải có tới bảy người làm nhiệm vụ, nhưng giờ chỉ còn mình tôi. Với tình thế cấp bách, tôi tự nhủ trước mắt có khẩu pháo to như thế mà không dùng thì thật lãng phí nên đã tìm cách xoay xở. Tôi ngắm khẩu thứ 3 của địch, một mình vừa làm pháo thủ ngắm bắn, nạp đạn, vừa quan sát mục tiêu, điểm nổ để điều chỉnh và bắn liền 3 phát. Khẩu pháo thứ 3 của địch đã bị tiêu diệt hoàn toàn.

Đồng chí Pao quay lại, báo tin cho tôi là đồng chí Chài bị thương gãy xương. Tôi nói với đồng chí Pao: “Ta là 2 đảng viên, phải chiến đấu đến giọt máu cuối cùng. Địch còn một khẩu nữa thôi...”.

Xe tăng của địch bắn nhiều phát gần trúng vào lỗ châu mai. Tôi hô Pao lui ra khỏi công sự đồng thời lấy bao tải đất bịt vào lỗ châu mai. Tôi lấp được bao thứ 5 thì địch bắn trúng 5 tải đất, sức ép của đạn pháo địch làm tôi bất tỉnh. Tôi được cán bộ đại đội và Pao cấp cứu. Một lúc sau tỉnh lại, tôi hỏi Pao và đại đội là pháo có bị hỏng không? Tự nhiên tôi khỏe lên. Nhìn xuống thấy địch đang kéo khẩu pháo thứ 4 vào trong hầm. Tôi báo cáo đại đội và lệnh đồng chí Pao vào vị trí chiến đấu. Tôi bắn 1 phát trúng ngay khẩu pháo thứ 4 của địch. Như vậy, tôi và Lý Văn Pao bắn l5 viên đạn tiêu diệt được 4 khẩu pháo 105mm; 2 khẩu đại liên của địch, tiết kiệm được l5 viên đạn.

Đại đội trưởng ra lệnh cho 2 chúng tôi: tháo pháo ra, phân tán vào hầm ếch trong giao thông hào rồi lấy tất cả bao tải đất bịt kín lỗ châu mai. Tôi và Pao đang kéo khẩu sơn pháo lui nòng vào trong công sự thì xe tăng địch bắn trúng nắp bên phải công sự. Đồng chí Pao bị cắt mất đi bàn chân trái phải đi quân y điều trị. Từ ngày 26/4 trở đi, ở trên đồi E chỉ còn có Đại đội trưởng, Chính trị viên đại đội và tôi cùng khẩu sơn pháo 75mm tiếp tục chiến đấu chi viện đắc lực cho bộ binh cho đến khi chiến dịch hoàn toàn thắng lợi.

Như vậy, sau 36 ngày đêm chiến đấu trên Đồi E, khẩu đội tôi đã chiến đấu dũng cảm, tiêu diệt 4 lô cốt, 5 khẩu pháo 105mm, 6 khẩu đại liên, 1 kho đạn và nhiều sinh lực địch. Kết quả này đã góp phần vào thắng lợi trong Đợt 2 cũng như thắng lợi của toàn bộ Chiến dịch Điện Biên Phủ. Nhờ sự dũng cảm và những thành tích trong chiến đấu, tôi được tặng thưởng 3 Huân chương Chiến công (2 hạng Ba, 1 hạng Hai). Ngày 31/8/1955, tôi vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

Kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tôi tiếp tục tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong quá trình đó, tôi đã trải qua nhiều trận đánh lớn như Tà Cơn, Khe Sanh, Hạ Lào, Quảng Trị, rồi đến Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968... Bản lĩnh, kinh nghiệm của người chiến sĩ Điện Biên luôn được tôi giữ gìn, phát huy, giúp tôi vượt qua mọi khó khăn, thử thách ác liệt của những năm tháng chống Mỹ. Tôi luôn tâm niệm một điều, phải sống, chiến đấu sao cho xứng đáng với sự tin tưởng của Đảng, của Bác Hồ kính yêu và xứng đáng với những đồng đội đã khuất. Ngoài mặt trận, đối diện với hiểm nguy, nhưng nhìn thấy đồng đội bị thương vong, nhìn vào tấm Huy hiệu Bác Hồ trên ngực, tôi vẫn luôn bình tĩnh chiến đấu. Cho dù một mình một pháo cũng đánh. Đó là niềm tin luôn trong tôi khi tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ và kháng chiến chống Mỹ. Khi mình còn sống nghĩa là còn có cơ hội tiêu diệt thêm quân thù, mang lại hòa bình, tự do cho Tổ quốc, đồng bào.

image

65 năm đã trôi qua kể từ cuộc chiến đấu ác liệt trên Đồi E trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, song những ký ức về đồng chí, đồng đội đã cùng sát cánh trong những ngày “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt” vẫn vẹn nguyên trong tôi. Đó là những giây phút vào sinh ra tử, trải qua thử thách của chiến tranh, đối diện với kẻ thù, đối diện với cái chết mà không hề nao núng, khiếp sợ. Nhiều đồng đội của tôi đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường để chúng ta có cuộc sống tự do, hạnh phúc. Nay dù đã tuổi cao, sức yếu, song tinh thần của người lính Cụ Hồ, tinh thần của người chiến sĩ Điện Biên vẫn luôn cháy mãi trong tôi, nhắc nhở tôi phải tiếp tục cố gắng xứng đáng với những người đã khuất. Kỷ niệm 65 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, xin gửi tới đồng chí, đồng đội những lời tri ân, tưởng nhớ. Lịch sử sẽ mãi khắc ghi những người đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.

Kỷ niệm 65 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, xin gửi tới đồng chí, đồng đội những lời tri ân, tưởng nhớ. Lịch sử sẽ mãi khắc ghi những người đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.

 

Bài: Đại tá Phùng Văn Khầu - Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Khẩu đội trưởng sơn pháo 75mm, Đại đoàn công pháo 351 trong trong Chiến dịch Điện Biên Phủ
Trình bày: Ngọc Toàn
Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Chiến thắng Điện Biên Phủ - Giá trị lịch sử và hiện thực (07/5/1954 - 07/5/2019)”

 


   
Hóng hớt, U Cay, flash001 and 3 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31900.7
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3386
Topic starter  
image
image

Lúc này, vòng vây trận địa chiến hào hình thành đã khiến quân Pháp không còn khả năng rút lui cũng như khó đưa thêm một số lớn quân tăng viện. Quân địch đứng trước sự thất bại chắc chắn, vì sớm muộn con đường tiếp tế bằng máy bay cũng bị cắt đứt. Trận địa chiến hào của ta đã phá vỡ cấu trúc cơ bản của tập đoàn cứ điểm, tách hoàn toàn phân khu Hồng Cúm (Isabelle) khỏi khu trung tâm. Bắt đầu từ đây, Đờ Cát-xtơ-ri không thể trông chờ sự cứu viện của những tiểu đoàn đóng ở phía nam cánh đồng Mường Thanh được nữa.

image

Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị xung kích, các chiến sĩ cao xạ pháo đang đánh trả quyết liệt máy bay địch ở Điện Biên Phủ. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

 

Phía địch:

Máy bay vận tải C-119 của Mỹ do phi công Pháp lái bắt đầu chuyển sang ném bom napan xuống các vị trí quân ta ở chung quanh Điện Biên Phủ.

image

Cảnh lính Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ ngày 23/3/1954 khi chiến dịch Điện Biên Phủ đẫm máu kéo dài 55 ngày đêm bắt đầu. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

 

Tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 đụng độ với lực lượng ta ở khu vực giữa cụm cứ điểm nam sân bay Mường Thanh, hữu ngạn sông Nậm Rốm (Claudine) trên dãy đồi phía đông với Hồng Cúm thuộc phân khu Nam. 7 giờ 30 phút, Trung tá Kele, thuộc Bộ Tham mưu của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải lên máy bay về Hà Nội để điều trị vấn đề về thần kinh.

image

Máy bay B26 của Pháp tại mặt trận Điện Biên Phủ bị lực lượng pháo phòng không 37mm của quân ta bắn rơi. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

 

Những sĩ quan chỉ huy không quân Pháp trong tình trạng hoang mang tột độ, đại tá Nico, chỉ huy không quân vận tải ở Hà Nội điện than phiền với tướng Logrin, Tư lệnh không lực Viễn Đông rằng tuy các máy bay ở Điện Biên Phủ đã bay cao nhưng vẫn bị cao xạ Việt Minh bắn rơi.

Trên các chiến trường phối hợp:

Cùng với tin vui thắng trận từng ngày ở chiến trường Điện Biên Phủ, ở Tây Nguyên và Nam Trung Bộ, quân và dân ta liên tiếp giành được thắng lợi trên các mặt trận, góp phần cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân và dân cả nước, chia lửa với chiến trường chính Điện Biên Phủ.

Tại Bình Định, bộ đội địa phương và du kích đào hầm “độn thổ” ngay bên lề đường chờ địch đến mới nổ mìn, xông ra diệt địch. Một bộ phận đặc công đào hầm bí mật, nằm lại trong vùng địch khi chúng tràn qua quân địch đánh chiếm Bình Định ta diệt và bắt 800 tên.

Trên Đường số 5, quân ta phục kích đánh 2 đại đội thuộc GM3, một trung đội công binh địch đang mở đường, diệt 85 tên bắt 65 tên, phá hủy 2 xe tăng, 3 xe thiết giáp, 13 xe vận tải.

 

ThS NGUYỄN THỊ THẢO – Viện Lịch sử quân sự.
Ảnh: nhandan.vnTTXVN
Trình bày: VŨ HẢI


   
Hóng hớt, U Cay, flash001 and 4 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
 is3
(@is3)
Thiếu niên
Cư dân
Tài sản: 3031.2
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 190
 

Đăng bởi: @friendship2k

 THIẾU TƯỚNG NGUYỄN THANH BÌNH (Hoàng Hà ghi)

Nguồn: "Sách Điện Biên Phủ - Trận thắng thế kỷ", (NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, năm 2004) - trang 383
Ảnh: TTXVN
Trình bày: DUY LONG

Cảm ơn cụ, cuốn này em chưa sưu tầm, chả biết còn không.

Lâu nay cứ máy tính, điện thoại, ipad... mất cả thói quen cầm sách đọc ạ.

 


   
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31900.7
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3386
Topic starter  

Đăng bởi: @is3

Đăng bởi: @friendship2k

 THIẾU TƯỚNG NGUYỄN THANH BÌNH (Hoàng Hà ghi)

Nguồn: "Sách Điện Biên Phủ - Trận thắng thế kỷ", (NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, năm 2004) - trang 383
Ảnh: TTXVN
Trình bày: DUY LONG

Cảm ơn cụ, cuốn này em chưa sưu tầm, chả biết còn không.

Lâu nay cứ máy tính, điện thoại, ipad... mất cả thói quen cầm sách đọc ạ.

 

Em chỉ là người chuyển tin thôi ạ.

Thông tin em post lên đây chủ yếu lấy từ nguồn báo Nhân Dân điện tử, chuyên trang Kỷ niệm 70 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. 

Link thì có ở post trên Trang 1. Em cửu một số bài em thấy hay về đây để CCCM đọc cho tiện, còn đầy đủ hơn mời CCCM xem trực tiếp tại trang này :

https://dienbienphu.nhandan.vn/

 

 


   
Hóng hớt, U Cay and is3 reacted
Trả lờiTrích dẫn
Trang 6 / 16
Chia sẻ: