Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 đã làm thất bại hoàn toàn kế hoạch Nava, buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ, thừa nhận nền độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân 3 nước Đông Dương, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Thắng lợi đó là sự kết tinh của nhiều nhân tố, trước hết, đó là thắng lợi của thế trận chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc, dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó còn là thắng lợi của sự phát huy cao độ truyền thống đại đoàn kết, ý chí quyết chiến, quyết thắng của toàn thể dân tộc Việt Nam trong lịch sử dựng nước và giữ nước.
Tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai, Đảng ta xác định đây là cuộc kháng chiến: “Toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh”, ngay trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “…bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc hễ là người Việt Nam thì đều phải đứng lên đánh đuổi giặc Pháp, cứu Tổ quốc”1. Hưởng ứng lời kêu gọi của Người, toàn dân, toàn quân ta từ Bắc chí Nam, từ rừng núi, nông thôn đồng bằng đến đô thị, đâu đâu cũng đứng lên đoàn kết chiến đấu, cùng các lực lượng vũ trang càng đánh càng mạnh, từng bước giành lại quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính, đẩy quân địch vào thế sa lầy, bị động. Lời kêu gọi ấy có sức mạnh lan tỏa, hiệu triệu nhân dân khắp nơi nô nức tòng quân tham gia phối hợp với chủ lực chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ đã có hàng vạn dân công tham gia tải thương, gùi lương thực, thực phẩm, vũ khí, trang bị vào phục vụ chiến trường; xẻ núi, bạt đèo cho bộ đội ta kéo pháo vào trận địa, đóng góp nhiều nhất của cải và tài sản của mình làm cách mạng. Chưa bao giờ khí thế lại trào dâng mãnh liệt đến như vậy, thế trận chiến tranh nhân dân ấy đã trở thành bức thành đồng vững chắc nhấn chìm bè lũ bán nước và cướp nước. Thế trận ấy vì một mục tiêu duy nhất: chiến đấu vì độc lập tự do của dân tộc, tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng. Chỉ tính riêng nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã đưa ra tiền tuyến 9.000 tấn gạo, nhân dân tỉnh Lai Châu đóng góp cho Điện biên Phủ 2.666 tấn gạo, 226 tấn thịt; 210 tấn rau xanh, huy động 16.972 dân công, tham gia 517,210 ngày công; 348 ngựa thồ, 58 thuyền mảng, đóng góp 25.070 cây gỗ để làm đường2. Nhân dân Liên khu 5 trong 4 năm từ 1951-1954 đã đóng góp 1.322.600 tấn thóc và số tiền tương đương 1.500.000 tấn. Nhân dân cả nước đóng góp 25.056 tấn gạo, góp 26 vạn người đi dân công hỏa tuyến, riêng tuyến hậu cần chiến dịch đã sử dụng lực lượng khoảng 33.500 người phục vụ với hơn 30.000 ngày công. Trong 4 năm từ 1950-1954, ta khôi phục và mở rộng 3.670km đường cũ, làm 505km đường mới, trong đó đường vận tải chiến lược dài 2.080km3.
Thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, Hồ Chủ Tịch trực tiếp giao nhiệm vụ cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp nghiên cứu kế hoạch tác chiến và mở chiến dịch Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Cùng với hoạt động tác chiến của các lực lượng quân sự, công tác hoạt động bảo đảm phục vụ cho chiến dịch cũng được tiến hành rất khẩn trương. Hàng đêm có tới 200 xe tải, xe kéo pháo ra vào trận địa, hàng trăm xe đạp thồ vận chuyển gạo, đạn, nhu yếu phẩm phục vụ chiến đấu, mỗi xe bằng nhiều sáng kiến thồ được từ 200-300kg. Công tác vận chuyển đường sông cũng được chú trọng, để bảo đảm cho công tác vận chuyển được thuận lợi, 103 thác dữ ở Nậm Na được khắc phục làm cho dòng sông trở nên dịu hiền, nhiều tấm gương phá thác dữ như đồng chí Phan Tư được tặng thưởng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang. Công tác bảo đảm được thực hiện với nhiều cách sáng tạo để vận chuyển thuốc nổ như: hơ nóng lá chuối tươi cho mềm rồi gói thuốc nổ, rồi dùng cơm nếp giã nhuyễn để bịt ngòi nổ rồi buộc chặt vào đầu cây dài đưa xuống sâu lòng thác để phá thác…
Công tác tổ chức hậu cần cũng được hoàn thiện dần cùng với các hoạt động tác chiến, kết hợp tổ chức hậu cần địa phương với Hội đồng cung cấp từ Trung ương tới liên khu, tới tỉnh, hình thành mạng lưới cung cấp, huy động nhân, vật lực ở các địa phương, kết hợp nguồn trên cấp, nguồn địa phương và nguồn khai thác tại chỗ, phát huy hậu cần nhân dân bảo đảm cho chiến dịch giành thắng lợi. Thế trận hậu cần đó chỉ có thể có được từ thế trận chiến tranh nhân dân mà thôi4.
Để làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, lập thế trận chiến tranh nhân dân, trước hết ta tổ chức các đại đoàn chủ lực và một số binh chủng kỹ thuật. Ngay từ cuối năm 1949 đầu 1950 các đại đoàn nhanh chóng được thành lập: Đại đoàn 308 (28/8/1949), Đại đoàn 304 (10/3/1950), Đại đoàn 325 (5/12/1952)… Đến cuối 1952, ta đã có sáu đại đoàn 304, 308, 312, 316, 320, 325 và Đại đoàn Công - Pháo 351. Cùng với sự lớn mạnh vượt bậc của các đại đoàn chủ lực ta chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, đẩy mạnh chiến tranh du kích tiến lên vận động chiến.
Lịch sử dân tộc đã chứng minh: muốn chống lại một đội quân xâm lược lớn mạnh hơn về lực lượng và phương tiện chiến tranh thì không thể chỉ trông cậy vào đội quân thường trực mà phải huy động toàn dân đánh giặc, kết hợp tác chiến của quân đội chủ lực và vũ trang toàn dân, không giới hạn ở phương thức tác chiến thông thường, mà là thế trận và phương thức của sự nổi dậy của quần chúng tiến hành chiến tranh cách mạng và các đội du kích ở khắp nơi - thế trận chiến tranh nhân dân. Thông qua thực tiễn chiến đấu, ta đã kịp thời rút kinh nghiệm trong toàn quân, toàn dân, tiến hành chỉnh huấn đôn quân, nâng cao bản chất giai cấp của quân đội nhân dân cách mạng, chính qui, hoàn chỉnh tổ chức biên chế, trang bị. Từng bước hình thành phương thức tác chiến tiến công các cứ điểm, cụm cứ điểm phòng ngự trong công sự vững chắc, nâng cao khả năng phối hợp giữa các lực lượng trong tác chiến, giữa tác chiến của các đại đoàn chủ lực cơ động với lực lượng vũ trang địa phương, dân quân du kích, lập thế trận chiến tranh nhân dân trên phạm vi cả nước và trên toàn chiến trường Đông Dương, làm cho địch dần mất thế chủ động. Đó là nghệ thuật tổ chức, chỉ đạo lực lượng vũ trang 3 thứ quân và nghệ thuật tổ chức và động viên nhân dân tham gia kháng chiến kiến quốc bằng mọi thứ vũ khí có trong tay, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang, phát huy sức mạnh vật chất và tinh thần đánh thắng địch.
Lập thế trận chiến tranh nhân dân đánh địch trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao, quân sự bằng sức mạnh tổng hợp. Kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, kinh tế, binh vận và ngoại giao. Để chiến thắng kẻ thù lớn mạnh, có tiềm lực về quân sự, kinh tế… ta không chỉ dựa vào đấu tranh vũ trang, bởi so sánh lực lượng quân sự giữa hai bên giữa ta và địch trong toàn cuộc chiến tranh thường chênh lệch, gây bất lợi cho ta. Nên vừa phải giành thắng lợi trong đấu tranh vũ trang, vừa phải thắng địch trên các mặt đấu tranh khác. Thế trận chiến tranh nhân dân được tiến hành với hai lực lượng quân sự và chính trị, hai hình thức đấu tranh, đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị. Kết hợp chặt chẽ chiến tranh cách mạng và khởi nghĩa vũ trang, giữa tiến công và nổi dậy, làm chủ để tiêu diệt, tiêu diệt để làm chủ theo tiến trình, quy luật của đấu tranh cách mạng ở nước ta. Đó là nghệ thuật kết hợp tiến công đánh thắng địch “bình định” ở Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ và đánh thắng các cuộc hành quân lấn chiếm, bảo vệ vùng giải phóng Bắc Bộ và Liên khu 5, phối hợp chặt chẽ giữa các chiến trường Nam - Bắc và chiến trường Lào, Campuchia, tác chiến bằng hai hình thức chiến tranh chính quy và chiến tranh du kích.
Thế trận chiến tranh nhân dân được tổ chức ngày càng chặt chẽ, tạo thế cài xen giữa ta và địch trên một không gian rộng lớn. Trụ cột vững chắc của thế trận chiến tranh nhân dân là lực lượng vũ trang ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích tạo nên một thế trận chiến lược hiểm hóc, vừa thực hiện được bao vây, chia cắt, kìm hãm địch, vừa tạo ra thế chủ động tiến công địch rộng khắp trên cả ba vùng chiến lược.
Bộ đội cùng đồng bào các dân tộc Tây Bắc xẻ núi, làm đường vào trận địa. (Ảnh: TTXVN)
Bằng nghệ thuật tổ chức lực lượng cả nước đánh giặc, sử dụng hai hình thức đấu tranh cơ bản (đấu tranh quân sự kết hợp đấu tranh chính trị), hai phương thức tác chiến chủ yếu (tác chiến tập trung và tác chiến du kích), ta đã xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân tạo ra “thiên la địa võng” đối với quân thù. Thế trận chiến lược đó cho phép chúng ta thực hiện phối hợp tác chiến giữa lực lượng tại chỗ với lực lượng cơ động của bộ đội chủ lực; kết hợp đánh du kích với tập trung, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa, với đánh lớn. Thế trận chiến lược đó cho phép chúng ta có thể mở cuộc tiến công chiến lược ở bất cứ nơi nào có địch, đánh cả trước mặt, sau lưng, trong lòng địch; căng địch ra mà đánh, đánh mọi lúc, mọi nơi. Thế trận đó được giữ vững và ngày càng phát triển bởi hệ thống căn cứ địa, làng xã chiến đấu mọc lên khắp nơi, tạo thành thế bao vây, áp sát quân thù; đồng thời là chỗ đứng chân, là bàn đạp tiến công vững chắc của các lực lượng, bảo đảm cho quân và dân ta luôn đánh địch ở thế chủ động, càng đánh càng mạnh. Đó là nghệ thuật tổ chức thế trận chiến tranh nhân dân có tính khoa học, thống nhất và chặt chẽ cao, làm cho toàn dân ta triệu người như một, tạo thành lực lượng to lớn có một sức mạnh vô song để đánh địch và thắng địch.
Thế trận chiến tranh nhân dân là tổng thể các biện pháp tổ chức, bố trí, triển khai lực lượng và thiết bị chiến trường nhằm tạo thế có lợi và phát huy cao nhất sức mạnh chiến đấu của các lực lượng tham chiến để giành thắng lợi trong tác chiến. Thế trận chiến tranh nhân dân được Bộ Tổng Tư lệnh chủ động hoạch định sớm, tổ chức tiến hành bằng nhiều biện pháp sáng tạo, phù hợp với từng chiến trường, từng giai đoạn. Đặc biệt, thế trận chiến tranh nhân dân ta đã được cụ thể hóa bằng việc thực hiện tốt mưu kế chiến lược “căng địch ra mà đánh - trói địch lại mà diệt,… thế trận như một trận đồ bát quái, đánh địch cả ở đằng trước mặt và đằng sau địch, đánh địch ở các chiều, các hướng”5. Sa vào thế trận đó, các đội quân xâm lược buộc phải phân tán lực lượng với tỷ lệ ngày càng cao, khiến cho chúng đông mà hóa ít, mạnh hóa yếu, không phát huy được ưu thế vũ khí, càng đánh càng bộc lộ sơ hở, càng đánh càng bị dồn vào thế bất lợi. Dựa trên nền thế trận chiến tranh nhân dân tạo ra, tích cực tạo lập thế trận chiến tranh nhân dân cho trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ. Căn cứ vào so sánh thế và lực giữa ta và địch cũng như yêu cầu của nhiệm vụ chiến lược, lợi dụng triệt để yếu tố địa hình, những đặc điểm ảnh hưởng cơ bản ở các chiến trường chính và phối hợp, ta đã bố trí, triển khai các lực lượng và thiết bị chiến trường một cách thích hợp nhất để thực hành thắng lợi trận then chốt, then chốt quyết định, hoàn thành toàn bộ nhiệm vụ trận quyết chiến chiến lược.
Mưu kế “căng địch ra mà đánh - trói địch lại mà diệt,…” đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Bộ Tổng Tư lệnh triển khai rất thành công trong việc phát huy sức mạnh tổng hợp của thế và lực trên khắp các chiến trường. Từ nghiên cứu kỹ lưỡng về địch, Bộ Tổng Tư lệnh triển khai lực lượng trên các chiến trường chủ yếu như sau: Trên chiến trường Tây Bắc và Thượng Lào: bố trí Đại đoàn 316 và Trung đoàn 148. Trên chiến trường đồng bằng Bắc Bộ: ta bố trí 2-3 đại đoàn và và lực lượng trong vùng địch hậu. Trên chiến trường Trung, Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia: bố trí 2-3 đại đoàn và bộ đội địa phương. Trên chiến trường Tây Nguyên ta bố trí các trung đoàn chủ lực Liên khu 5 và lực lượng vũ trang địa phương. Từ thế bố trí lực lượng ban đầu, ta đã tạo ra thế trận chiến tranh nhân dân kìm giữ địch trên các chiến trường trọng điểm để tạo ra bước chuyển chiến lược mới, phá vỡ một mảng quan trọng hậu phương và phá thế đứng chân của địch, phá thế tập trung khối chủ lực của địch, phân tán dàn mỏng lực lượng cơ động chiến lược của địch. Đồng thời, ta lập thế trận tổ chức đánh địch trên khắp chiến trường Đông Dương, làm cho hơn 80% lực lượng cơ động của quân Pháp đã bị phân chia ra các chiến trường, tạo thế trận có lợi để ta tiêu diệt địch ở chiến trường Điện Biên Phủ.
Thực hành tác chiến tạo thế, triển khai nhanh thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp đánh địch trên nhiều chiến trường, bảo vệ vùng giải phóng Bắc Bộ và Liên khu 5. Chủ trương của ta là sử dụng một bộ phận chủ lực hợp lý kết hợp với các lực lượng vũ trang địa phương đẩy mạnh các hoạt động tác chiến tiến công địch ở đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Tây Nguyên; phối hợp với bạn tiến công địch ở Thượng, Trung, Hạ Lào mở rộng vùng giải phóng, tạo thế vững chắc cho hậu phương chiến lược và vùng địch hậu. Đẩy mạnh chiến tranh du kích ở Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ, Bắc Bộ để bảo vệ vùng giải phóng Liên khu 5.
Ngay khi Bộ Tổng Tư lệnh điều động lực lượng chủ lực của ta đến Tây Bắc và Trung Lào, Nava đã vội vàng cho lực lượng cơ động chiến lược tăng cường cho Điện Biên Phủ và Trung Lào vừa ngăn chặn ta tiến quân lên Tây Bắc vừa để bảo vệ vùng Thượng Lào. Từ động thái trên, sau khi phân tích kỹ lưỡng tình hình, Bộ Tổng Tư lệnh nhận định: ta có thể giam chân các lực lượng cơ động của địch ở các chiến trường lựa chọn và chọn mục tiêu Điện Biên Phủ để mở chiến dịch. Để thực hiện ý định trên, ta tiến hành nghi binh và tác chiến tạo thế chiến dịch. Sử dụng lực lượng tiến công Lai Châu, giải phóng thị xã và toàn tỉnh Lai Châu, cắt đứt trục đường huyết mạch Lai Châu - Điện Biên Phủ, bao vây Nam Điện Biên Phủ. Phối hợp với Pathet Lào tiến công Trung Lào, giải phóng Khăm Muộn và thị xã Thà Khẹt. Nava lại phải vội vã điều động 6 tiểu đoàn cơ động chiến lược ở chiến trường Bắc Bộ lên Trung Lào, tập trung 13 tiểu đoàn ở Sênô thành tập đoàn cứ điểm lớn ở đây. Lực lượng ta phát triển chiến đấu về hướng Đường 9 và Hạ Lào, giải phóng thị xã Attapư và vùng cao nguyên Bôlôven, truy kích địch ở Pắcxế, buộc địch tăng viện cho khu vực này.
Trên chiến trường Liên khu 5, ta chỉ để một lực lượng thích hợp ở hướng chính diện để nghi binh, kìm chân địch, lực lượng chủ yếu cơ động về Bắc Tây Nguyên, tiến công giải phóng Kon Tum và một phần tỉnh Gia Lai, phát triển chiến đấu xuống sát Đường 19, địch vội vàng bỏ cuộc hành binh Át-lăng ở Phú Yên đưa phần lớn lực lượng về ứng cứu cho Tây Nguyên. Ở Thượng Lào, liên quân Việt-Lào mở cuộc tiến công đập vỡ phòng tuyến của địch vùng hạ lưu sông Nậm Hu ở Thượng Lào (1/2/1954), diệt 3 tiểu đoàn và 11 đại đội địch với khoảng 2.200 tên, phát triển chiến đấu lên hướng Bắc, giải phóng một phần tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Phong Xa Lỳ với diện tích khoảng 35.000km2 và hơn 300.000 dân, nối liền Sầm Nưa của Lào với vùng Tây Bắc của ta, tiến sát và trực tiếp uy hiếp Luông Pha Băng, buộc Nava phải điều động tăng cường lực lượng lên khu vực này, hình thành cứ điểm mới ở Luông Pha Băng và Mường Sài. Ta đã mở rộng chiến trường hậu phương và chiến trường sau lưng địch ở cả Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ tạo ra thế trận vững chắc trên các chiến trường tạo điều kiện cho cuộc kháng chiến ở Việt Nam và các nước Đông Dương phát triển. Nava lại vội vàng điều động hai tiểu đoàn tăng viện cho Mường Sài. Trên chiến trường Bắc Bộ, tháng 10/1953, địch mở cuộc hành quân Hải Âu, đánh ra Nho Quan, đánh vào Thanh Hóa, uy hiếp vùng tự do Phú Thọ, Hòa Bình. Sau khi đánh lui cuộc hành quân, diệt khoảng 1.500 tên địch, ta thực hiện Kế hoạch tác chiến Đông-Xuân 1953-1954, phá tan kế hoạch Nava của địch.
Tại Điện Biên Phủ ta tiến hành bao vây, tiêu hao và kiềm chế địch, chuẩn bị mọi mặt cho trận quyết chiến chiến lược. Địch phải tăng cường lực lượng ở Điện Biên Phủ lên đến 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 phi đội máy bay với quân số lên đến 11.800 tên, phần lớn là lính Âu Phi tinh nhuệ (trong quá trình chiến dịch được tăng viện 4 tiểu đoàn và 2 đại đội dù), tổ chức phòng ngự thành 3 phân khu, 8 trung tâm đề kháng, gồm 49 cứ điểm được trang bị hỏa lực mạnh, có 2 căn cứ hỏa lực và 2 sân bay ở Mường Thanh và Hồng Cúm. Ý định của địch là xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh “một quả đấm thép mạnh” có thể đập vỡ các đại đoàn chủ lực của ta, điều chưa từng có ở chiến trường Đông Dương. Ngoài ra, địch còn có lực lượng cơ động chiến lược (84 tiểu đoàn) để tổ chức các cuộc hành quân nhằm tiêu diệt, tiêu hao lực lượng chủ lực của ta, đánh chiếm đất đai, mở rộng các vùng chiếm đóng.
Để tạo lập thế trận chiến tranh nhân dân đánh thắng địch trong trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, ta có nhiều sáng tạo trong việc lợi dụng thế có lợi của địa hình để bày trận. Ở Điện Biên Phủ, địch có lực lượng mạnh và tổ chức phòng ngự chặt chẽ, nhưng chúng gặp một số bất lợi về mặt địa hình; ta đã lợi dụng địa hình vùng núi cao bao quanh lòng chảo Điện Biên Phủ để xây dựng thế trận, khống chế, bao vây chặt quân địch; ta cũng đã giải quyết thành công vấn đề nghi binh, lừa địch, giữ bí mật ý định, hành động tác chiến, nhất là chủ động cắt đứt nguồn tăng viện, tiếp tế bằng đường không của địch, triệt phá hậu cần địch… đó là những thành công lớn và cũng là nghệ thuật nổi bật lập thế trận chiến tranh nhân dân của ta trong trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ.
Căn cứ vào tình hình địch, sau khi khảo sát chiến trường, phân tích kỹ lưỡng tình hình các mặt, ngày 26/1, Bộ Tổng Tư lệnh đã quyết định chuyển phương án tác chiến từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Các đơn vị thực hiện xây dựng hệ thống chiến hào, nối liền các trận địa với nhau, thực hiện “vây, lấn, tấn, diệt”, từng bước cô lập, xiết chặt vòng vây, chia cắt thế liên hoàn của các cụm cứ điểm, các phân khu trong toàn bộ tập đoàn cứ điểm của địch. Sử dụng lực lượng, vũ khí trang bị tập trung ưu thế, vận dụng phương pháp tác chiến, thủ đoạn chiến đấu hiểm hóc, linh hoạt, phát huy uy lực vũ khí, sở trường của bộ đội, thực hiện đánh bóc vỏ các cứ điểm vòng ngoài, cô lập và đánh chiếm và làm chủ phân khu phía Bắc, đánh trả không quân, pháo binh địch. Tiếp tục xiết chặt vòng vây, thực hiện từng bước chia cắt phân khu trung tâm và phân khu phía Nam, tiến tới đánh chiếm phân khu phía Đông, khống chế sân bay, hạn chế tiếp viện của không quân địch, khoét sâu chỗ yếu của địch. Đánh chiếm đồi A1, chọc thủng phân khu phía Nam, chớp đúng thời cơ thực hiện tiến công từ nhiều hướng, ra đòn quyết định giành thắng lợi.
Thắng lợi Điện Biên Phủ là thắng lợi của nghệ thuật lập thế trận chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, về tổ chức chỉ đạo xây dựng và phát triển thế trận chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tạo sức mạnh vô song của dân tộc… Ngày nay, thế trận chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện là sự kế thừa và phát triển truyền thống toàn dân đánh giặc của dân tộc Việt Nam trong chiến tranh giải phóng tạo nên sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới. Để đánh thắng những đội quân xâm lược lớn, Đảng ta không chỉ dựa vào lực lượng vũ trang nhân dân và đấu tranh vũ trang, mà còn dựa vào sức mạnh của toàn dân, tiến hành chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, tạo sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa./.
Bài:Đại tá, TS Nguyễn Văn Lượng – Trưởng phòng Quản lý khoa học, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam Trình bày:Ngọc Toàn Nguồn:Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Chiến thắng Điện Biên Phủ - Giá trị lịch sử và hiện thực (07/5/1954-07/5/2019)”
Friedrich Engels, nhà lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản nhận định: “Chiến tranh du kích là phương thức duy nhất nhờ đó mà một dân tộc nhỏ có thể chiến thắng được một dân tộc lớn, mà một quân đội ít mạnh hơn có thể đối lập với một quân đội mạnh hơn và có tổ chức hơn”1. Vận dụng quan điểm trên, kết hợp với truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định “Huy động toàn dân nổi dậy đánh du kích khắp nơi, làm cho lực lượng địch bị phân tán, mệt mỏi, khiến cho quân chủ lực ta bất thần đánh tiêu diệt địch từng bộ phận”2, tiến tới đánh bại hoàn toàn quân xâm lược.
Từ cuối năm 1951, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khóa II xác định: “Trong vùng tạm bị chiếm và vùng du kích ở Bắc Bộ cũng như trên các chiến trường Trung và Nam thì phảigiữ vững và phát triển chiến tranh du kích,để thực hiện việc kiềm chế địch và phối hợp với chiến trường chính có hiệu quả hơn. Phải làm cho chiến tranh du kích giúp vào việc xây dựng và giữ vững cơ sở chính trị và kinh tế của ta, giúp vào việc tranh thủ nhân dân. Phải làm cho chiến tranh du kích kết hợp với toàn bộ cuộc đấu tranh của nhân dân trong vùng địch. Chiến tranh du kích phải thực hiện những nhiệm vụ và phương châm công tác trong vùng tạm bị chiếm và vùng du kích”3.
Trước khi bước vào chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, chiến tranh du kích đã góp phần quan trọng trong thế trận chiến tranh nhân dân, “toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính”, biến hậu phương địch thành hậu phương ta đã làm thay đổi cục diện chiến trường, tạo ra thế cài răng lược giữa ta và địch. Nhiều nơi trước đây vắng tiếng súng, nhưvùng hẻo lánh ở Tây Bắc, Đông Bắc, nay đã không còn là phía sau an toàn của địch. Nhận định về vấn đề này, trong Báo cáo quân sự tại Đại hội lần thứ II của Đảng (1951) nêu rõ: “Năm 1948 là năm thành công của du kích chiến tranh, là năm chúng ta đã biến hậu phương của địch thành hậu phương của ta”4.
Về phía thực dân Pháp, sau những thất bại trong các chiến dịch Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào, tướng Hăngri Nava được cử sang thay cho XaLăng; nhanh chóng tìm hiểu tình hình và đề ra một kế hoạch tổng thể cả về chính trị và quân sự hòng giành lại quyền chủ động chiến trường bằng cách đánh một đòn quyết định trước khi bước vào đàm phán trên thế mạnh với ta để kết thúc chiến tranh. Kế hoạch của Nava về quân sự dự kiến chia làm hai bước: Từ Thu Đông năm 1953 đến Xuân Hè 1954 tránh giao chiến với chủ lực của ta, tập trung xây dựng khối cơ động chiến lược ở miền Bắc, tiến hành bình định miền Nam và các tỉnh tự do Liên khu 5... Tuy nhiên, đến tháng 11 năm 1953, Nava quyết định mở cuộc hành quân Ca-xtơ đánh chiếm Điện Biên Phủ và xây dựng thành tập đoàn cứ điểm mạnh. Pháp cho rằng “sẽ tương kế tựu kế, biến Điện Biên Phủ thành một pháo đài vững chắc, vừa là một cái chốt, vừa là một là một cái bẫy hay một cái máy nghiền, sẵn sàng nghiền nát các sư đoàn thép của đối phương, đồng thời vẫn bảo vệ được nước Lào, ngăn chặn các cuộc tiến công lớn của đối phương...”.
Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam bàn kế hoạch tác chiến Đông-Xuân (1953-1954). (Ảnh: TTXVN)
Trước âm mưu và hành động của địch, ngày 6 tháng 12 năm 1953, sau khi nghe Tổng Quân ủy báo cáo, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, thông qua lần cuối phương án tác chiến Đông Xuân 1953-1954 và chỉ rõ Điện Biên Phủ sẽ là một tập đoàn cứ điểm mạnh, nhưng có cái yếu là cơ bản bị cô lập, mọi việc tiếp viện, tiếp tế đều phải phụ thuộc vào đường không… Để phối hợp với chiến trường chính Điện Biên Phủ, các chiến trường đã tích cực đẩy mạnh chiến tranh du kích vào vùng địch tạm chiến, nhằm tiêu hao, tiêu diệt, phân tán lực lượng của địch, góp phần vào thắng lợi chung của cả nước.
Trên chiến trường Việt Bắc, trong quá trình chuẩn bị cho Chiến dịch Điện Biên Phủ và suốt thời gian thực hiện bao vây tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ, các lực lượng du kích địa phương thuộc Liên khu Việt Bắc tiếp tục nổ súng đánh địch ở một số nơi như Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc để chống địch càn quét, cầm chân tiêu hao, tiêu diệt địch không cho chúng tập trung quân vào chiến trường chính. Các lực lượng vũ trang Việt Bắc đã nắm chắc thời cơ chủ động mở các đợt hoạt động đánh mạnh vào các vùng địch còn chiếm đóng, phá các cuộc càn quét nhỏ của địch, đánh 754 trận lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu 9.765 tên địch, làm bị thương 2.500 tên, bắt sống và gọi hàng 2.094 tên5. Bằng cách phối hợp các lực lượng, các mũi tiến công, nhiều địa phương thực hiện “tổng phá tề” thắng lợi. Bước sang đầu năm 1954, hầu hết các địa phương ở Việt Bắc được giải phóng, đã trở thành hậu phương trực tiếp cho chiến dịch.
Đẩy mạnh chiến tranh du kích ở Việt Bắc trong giai đoạn này góp phần đánh bại các cuộc càn quét, gây phỉ, biệt kích, phản động của địch bảo vệ vững chắc căn cứ địa hậu phương chiến lược của cả nước. Đóng góp cao nhất sức người, sức của phục vụ cho các chiến dịch, nhất là Chiến dịch Điện Biên Phủ giành thắng lợi.
Bộ chỉ huy chiến dịch dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đang bàn kế hoạch tác chiến cho từng trận đánh. (Ảnh: TTXVN)
Ở chiến trường đồng bằng Liên khu 3, trước khi chiến dịch mở màn, ngày 26 tháng 2 năm 1954, lực lượng vũ trang Liên khu tiến hành một đợt đánh phá giao thông vận chuyển chiến lược của địch, trọng điểm là đường sắt, đường 5, sân bay, kho tàng. Mở đầu đợt hoạt động, đêm ngày 4 tháng 3 năm 1954, lực lượng vũ trang Hà Nội tập kích sân bay Gia Lâm phá hủy 18 máy bay, tiếp đó đêm ngày 7 tháng 3 lực lượng vũ trang Kiến An tập kích phá hủy 59 máy bay ở sân bay Cát Bi. Sau chiến thắng trên, quân và dân Quân khu Tả Ngạn mở nhiều đợt tổng công kích đường 5 và các tuyến vận tải chiến lược của địch, liên tiếp tập kích, phục kích, công đồn diệt viện, chống càn giành nhiều thắng lợi. Quân dân Quân khu Hữu Ngạn cũng liên tiếp tiến công đập tan phòng tuyến sông Đáy của địch, đánh điểm diệt viện, đánh phá giao thông, liên tiếp đánh bại các cuộc hành quân giải tỏa của địch mở rộng nhiều vùng căn cứ6... gây cho địch nhiều khó khăn trong việc ứng cứu, chi viện cho các mặt trận, nhất là Điện Biên Phủ.
Trong giai đoạn này ở đồng bằng Liên khu 3, chiến tranh du kích đã đứng vững trong thế trận toàn dân đánh giặc ở địa phương, đánh bại các cuộc càn lớn của địch góp phần rất quan trọng đánh bại âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của địch, cùng cả nước giành thắng lợi cuối cùng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Trên chiến trường Tây Nguyên, ngày 27 tháng 1 năm 1954, phối hợp với cuộc tiến công lên Tây Nguyên của bộ đội chủ lực, trên hướng chính Bắc Kon Tum, du kích và bộ đội địa phương mở đường, bảo vệ hành lang, diệt một cứ điểm, đồn bốt, phá tan các ổ GOUM7,truy bắt, gọi hàng làm tan rã toàn bộ lực lượng của địch. Trên hướng thứ yếu của chiến dịch, lực lượng vũ trang địa phương phối hợp với một tiểu đoàn chủ lực, tiến công tiêu diệt và bức rút 5 cứ điểm làm chủ đoạn đường 19 đoạn Đông-Tây đèo Mang Giang, uy hiếp thị xã Pleiku; ngày 7 tháng 2 năm 1954, quân Pháp ở thị xã Kon Tum bỏ chạy, du kích cùng bộ đội địa phương và nhân dân truy lùng, bắt, gọi hàng gần 1.000 ngụy quân, ngụy quyền, tề điệp, nhanh chóng ổn định tình hình vùng giải phóng8. Ở Đắc Lắc, đầu năm 1954, dân quân du kích cùng bộ đội địa phương liên tục đánh vào các bàn đạp và kho hậu cần dự trữ của địch, từ Tây Nguyên đánh xuống Phú Yên, sau đó tiếp tục tập kích các cuộc vận chuyển quân tiếp tế của địch trên các đường số 7 và 21, đồng thời đánh sâu lên đường 14, gây mất ổn định phía sau lưng địch. Du kích vùng Đắc Bằng - Suối Trai bố trí trận địa chông và thò ngăn chặn một tiểu đoàn Âu Phi đang hành quân càn quét làm chết và bị thương 50 tên địch, số còn lại hốt hoảng tháo chạy.
Cũng trong những tháng đầu năm 1954, du kích cùng với bộ đội địa phương và chủ lực ở Lâm Đồng kết hợp đấu tranh chính trị ở Đà Lạt, đánh tiêu diệt nhỏ ở nông thôn, phát triển chiến tranh du kích mở thế chiến trường. Tiếp đó, đầu tháng 4 năm 1954, du kích phối hợp với các lực lượng đã tiêu diệt ba cứ điểm nằm ở vùng giáp ranh giữa hai tỉnh Bình Thuận và Lâm Đồng, giải phóng một vùng rộng lớn, giải tán một số GOUM, biến 52 buôn từ vùng địch tạm chiếm thành vùng du kích, giải phóng 1/3 tỉnh Đồng Nai Thượng với gần 10.000 dân trong khu vực B’Lao và Di Linh9.
Bộ tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam nghiên cứu kế hoạch tác chiến. (Ảnh: TTXVN)
Trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, để thực hiện kế hoạch Nava, Pháp đã đưa nhiều đơn vị tinh nhuệ ra chiến trường Bắc Bộ và Lào, chỉ để lại ba tiểu đoàn Âu Phi thiếu quân số và vũ khí trang bị. Để bù đắp thiếu hụt lực lượng, chúng gấp rút thành lập thêm nhiều đơn vị ngụy binh ở miền Đông lên đến 12 tiểu đoàn, phần lớn là tân binh. Với lực lượng còn lại như vậy chúng không thể dàn trải mà chủ yếu tập trung bố trí quanh các đô thị, dọc các tuyến giao thông quan trọng, trong các đồn điền cao su và ven khu căn cứ địa của ta. Bước vào cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954. Với chiến trường Nam Bộ, Bộ Chính trị chủ trương tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh du kích, lợi dụng điều kiện thuận lợi mới do quân địch phải tập trung lực lượng cho các hướng khác mà tăng cường lực lượng đánh những trận nhỏ, nhằm tiêu hao tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch... mở rộng căn cứ du kích và khu du kích. Với phương châm “Du kích chiến là chính, học tập đánh vận động khi có điều kiện thuận lợi”, du kích và chủ lực toàn chiến trường tổ chức thành từng phân đội nhỏ, đẩy mạnh tác chiến tiêu hao địch trên diện rộng, tại các tỉnh Thủ Biên, Bà Chợ, Gia Ninh, Mỹ Tân Gò, Long Châu Sa. Đầu năm 1954, từ ngày 22 tháng 2 đến 29 tháng 2, du kích cùng với nhân dân và bộ đội địa phương Gò Công đã diệt và bức hàng 75 tháp canh, bức rút 30 đồn, tháp canh, trụ sở tề ngụy khác, chiến 50% tổng số đồn bốt trên địa bàn huyện, diệt 275 tên, bắt sống 175 tên, thả tại chỗ 600 tên, binh vận làm rã ngũ 1.500 tên, thu 7.000 súng các loại, giải phóng 30 trong tổng số 41 xã toàn huyện. Du kích cùng bộ đội địa phương và Tiểu đoàn 300 tiến công tiêu diệt đồn Hàng Dương, phá nhiều khu dồn dân của địch ở Bà Chợ. Từ cuối năm 1953 đến tháng 5 năm 1954, các lực lượng vũ trang Phân Liên khu miền Đông đã “đánh 2.133 trận lớn nhỏ, hầu hết ở các vùng du kích và tạm bị chiếm, diệt bức hàng 197 đồn bốt, tháp canh. Riêng 5 tháng đầu năm 1954 ta đã diệt 61 đồn bốt, 102 tháp canh, bức rút 398 đồn bốt tháp canh khác, giết và làm bị thương, bắt sống 9.699 tên, trong đó có 150 sĩ quan (125 tên chết); 7 đại đội bị tiêu diệt, 7 đại đội thiệt hại nặng. Đánh chìm 73 tàu, phá hủy 65 xe cơ giới, 28 kho bom đạn (10.000 tấn), bắn rơi 1 máy bay. Ta thu 2.632 súng các loại, 8.411 lựu đạn, súng cối. Đặc biệt trong 6 trận chống càn vào căn cứ, ta đều diệt gọn từng đại đội quân địch, có trận diệt 2 đại đội”10. Kết quả hoạt động của du kích cùng với các lực lượng tại chiến trường miền Đông Nam Bộ đã góp phần trong thế trận chung của lực lượng kháng chiến cả nước, vươn lên giành thế chủ động ở một chiến trường du kích chiến tranh phát triển ở một trình độ cao.
Phối hợp với chiến trường chính trong Đông Xuân 1953-1954, Bộ Tư lệnh Phân liên khu miền Tây phát động đẩy mạnh tiến công phối hợp. Phương châm hoạt động lúc này là, tập trung sức đánh sâu đánh mạnh vào vùng địch hậu, tiêu hao tiêu diệt nhiều sinh lực địch, phá hoại cơ sở kinh tế, cơ sở hậu cần, buộc địch phải đối phó ngay tại sào huyệt của chúng, đồng thời phải có kế hoạch đề phòng địch càn quét vào vùng căn cứ, nhưng không được phân tán lực lượng.
Từ cuối năm 1953, các tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, du kích phối hợp với các lực lượng bao vây, uy hiếp, bức rút, bức hàng, tiêu diệt... Tiêu biểu như tại Cần Thơ, ta bao vây, uy hiếp 40 đồn theo trục lộ Rạch Sỏi-Minh Lương và lộ Bến Nhứt-Giồng Riềng, đánh bại tiểu đoàn cơ động 14, 15 địch; du kích phối hợp hoạt động với Tiểu đoàn 307, 3 lần đột nhập thị xã Rạch Giá, 5 lần tiến công vào thị trấn Rạch Sỏi, diệt căn cứ lính thủy Cao Đài và các vị trí đóng quân của chúng; ở Ô Môn ta bao vây hầu hết các đồn bốt ở tả ngạn và hữu ngạn sông Cần Thơ, diệt đồn Cả Lay xã Giai Xuân, cùng với đó vận động 5 lô cốt xung quanh đồn làm binh biến, 80 binh sĩ cùng với 75 súng về với kháng chiến. Tại Bạc Liêu, huyện Giá Rai và Vĩnh Lợi, du kích cùng lực lượng vũ trang huyện luồn sâu vào vùng địch hậu tuyên truyền, bắn tỉa, bao vây đồn bốt, đánh phá giao thông, đánh 47 trận, bức hàng 3 đồn, loại khỏi vòng chiến đấu 100 tên11... Tại Sóc Trăng, Vĩnh Trà, Bến Tre, Long Châu Hà, chiến tranh du kích phát triển mạnh, góp phần giành thắng lợi quan trọng trên chiến trường đồng bằng sông Cửu Long.
Có thể khẳng định rằng, trên các chiến trường trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 đã liên tục phối hợp với chiến trường chính. Bằng lực lượng du kích, đẩy mạnh chiến tranh du kích trong vùng địch tạm chiếm, căng kéo, tiêu hao, tiêu diệt làm cho kẻ địch phân tán lực lượng, bị động, không tập trung được toàn lực cho chiến trường chính, tạo điều kiện thuận lợi cho ta giành thắng lợi quyết định trong Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, đập tan ý chí xâm lược của thực dân Pháp lần thứ hai có sự giúp sức của Mỹ. Chiến thắng vĩ đại Điện Biên phủ như một bản hùng ca của cuộc chiến tranh nhân dân thần kỳ nhất “được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc”12.
Như vậy, chiến tranh du kích là phương thức tác chiến từ lâu đời trong lịch sử dựng nước và giữa nước của dân tộc Việt Nam; chiến tranh du kích đã được Đảng ta mà trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng phát triển lên một tầm cao mới; là một trong những nhân tố quan trọng, góp phần quyết định đến thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược; là cơ sở lý luận và thực tiễn, bước đầu cho sự phát triển chiến tranh du kích đến đỉnh cao trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước./.
Bài:-Thiếu tá, ThS Nguyễn Trọng Thành, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Thiếu tá, ThS Trần Minh Tú, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam Trình bày:Ngọc Toàn Nguồn:Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Chiến thắng Điện Biên Phủ - Giá trị lịch sử và hiện thực (07/5/1954 - 07/5/2019)”
Cảnh sát luyện diễu binh mừng chiến thắng Điện Biên Phủ
HÀ NỘI_7 khối diễu binh thuộc Bộ Công an gấp rút tập luyện đội hình đội ngũ tại Sơn Tây, chuẩn bị cho lễ kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ vào sáng 7/5.
Trong những ngày ác liệt nhất của Đợt 2 chiến dịch Điện Biên Phủ, tôi cùng đồng đội tham gia chiến đấu bảo vệ Đồi E. Đó là khoảng thời gian đầy gian khổ, ác liệt, hy sinh nhưng rất đỗi tự hào. 65 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về 36 ngày đêm chiến đấu trên Đồi E vẫn vẹn nguyên trong tôi.
Tôi sinh ra trong một gia đình nông dân thuộc dân tộc Nùng tại xã Đức Hùng, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Cuối năm 1946, theo lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Bác Hồ, tôi trốn khỏi nhà chủ nợ, về gặp cha xin phép đi theo Việt Minh. Được sự động viên, khích lệ của cha, tôi cùng với 3 thanh niên khác trong bản rời quê hương Trùng Khánh đến thị xã Cao Bằng tìm gặp bộ đội cách mạng. Sau khi đăng tuyển nhập ngũ, tôi xin vào bộ đội Pháo binh vì nghĩ đơn giản “bộ binh có súng nhỏ bắn một phát chỉ được một thằng Pháp thôi, còn pháo binh bắn một phát nhưng diệt được nhiều thằng Pháp, đất nước sẽ mau hết giặc và sớm được giải phóng”. Tuy nhiên, lúc đó do thể hình thấp bé, nhẹ cân, sức vóc có hạn, không khiêng vác được các bộ phận của pháo, từ giữa năm 1947 đến 1950, tôi được giao nhiệm vụ nuôi quân với công việc chính là quản lý bếp ăn và tiếp phẩm. Luôn cố gắng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tôi được tuyên dương trước toàn đại đội, được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba và vinh dự đứng trong hàng ngũ của Đảng ngày 8/4/1950.
Đại tá Phùng Văn Khầu - Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Khẩu đội trưởng sơn pháo 75mm, Đại đoàn công pháo 351 trong trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Ảnh: TTXVN
Ngay sau đó, tôi được trên tin tưởng giao nhiệm vụ đi học làm pháo thủ để ra mặt trận chiến đấu. Tôi rất vui mừng, phấn khởi, vì mặc dù luôn hoàn thành xuất sắc vai trò “anh nuôi”, song tôi luôn mơ ước trở thành chiến sĩ pháo binh, được trực tiếp chiến đấu giết giặc ngoài mặt trận. Chính vì vậy, những ngày đầu huấn luyện rất gian nan, vất vả, nhưng tôi luôn cố gắng vượt qua, nắm chắc kỹ năng sử dụng pháo một cách thuần thục nhất. Không biết chữ, không biết sử dụng máy ngắm, tôi chỉ còn cách dùng phương pháp “kinh điển” chưa từng có là ngắm bắn trực tiếp qua nòng pháo, dùng mắt thường để ước lượng tầm và hướng bắn. Sau nhiều lần điều chỉnh rút kinh nghiệm, cuối cùng tôi cũng quen, ngắm qua nòng pháo cũng chính xác không thua gì ngắm máy. Cứ như vậy tôi từ một “anh nuôi” trở thành một trong những pháo thủ của Binh chủng Pháo binh. Kết thúc khóa huấn luyện cấp tốc, tôi được phân công nhiệm vụ là Khẩu đội phó kiêm pháo thủ số 2 (ngắm bắn) thuộc Đại đội 755, Tiểu đoàn 275, Trung đoàn 675, Đại đoàn 351.
Khi Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra, đại đội tôi đang được phối thuộc cho Trung đoàn 9, Đại đoàn 304 đóng ở Đồn Vàng (Phú Thọ), làm lực lượng dự bị của Chiến dịch Điện Biên Phủ và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ hậu phương. Cuộc chiến đấu trên chiến trường Điện Biên Phủ ngày càng bước vào giai đoạn căng thẳng và ác liệt, mỗi lần nghe tin từ chiến trường báo về, tôi cùng đồng đội luôn cảm thấy xốn xang, bứt rứt, đứng ngồi không yên, chỉ mong nhanh chóng được ra trận chiến đấu.
Kết thúc đợt 1 của Chiến dịch (từ ngày 13/3 đến ngày 17/3/1954), bộ đội ta đã tiêu diệt cứ điểm Him Lam và Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ cửa ngõ phía Bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, uy hiếp sân bay Mường Thanh. Ngày 18/3/1954, chúng tôi được lệnh hành quân gấp lên Điện Biên Phủ tham gia đợt tiến công thứ 2 của Chiến dịch. Nhận được mệnh lệnh, ai nấy cũng vui mừng hò reo, vậy là chúng tôi đã có cơ hội ra trận, sát cánh cùng đồng đội chiến đấu giải phóng quê hương. Ngày 19/3, đại đội tôi hành quân với 7 xe ô-tô, 3 khẩu sơn pháo và 90 viên đạn. Quân số của đại đội có 42 người, gồm 3 cán bộ đại đội, 3 cán bộ trung đội, 2 liên lạc, 24 pháo thủ, 10 anh nuôi, quản lý. Lúc đó, tôi được đề bạt làm Khẩu đội trưởng. Như vậy, tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ mỗi khẩu đội sơn pháo 75 mm của chúng tôi chỉ biên chế 9 người, kể cả trung đội trưởng. Số còn lại của đại đội nhận súng bộ binh ở lại làm nhiệm vụ khác. Mất gần một tuần hành quân bằng cơ giới, đại đội tôi tới gần Him Lam, cách chừng 2 cây số thì dừng lại. Đơn vị được lệnh đưa pháo xuống xe. Để bảo đảm an toàn và bí mật, ban ngày chúng tôi phải giấu pháo trong rừng, khẩu pháo được tháo rời và để trong một hầm riêng.
Từ ngày 25 đến ngày 27/3, Đại đội vào vị trí tập kết. Khu vực Điện Biên Phủ bắt đầu mưa, đường và giao thông hào rất trơn và lầy lội. Tám pháo thủ trong mỗi khẩu đội phải khiêng pháo với trọng lượng 500kg tháo rời ra 9 bộ phận lớn nhỏ. Theo biên chế thì 4 bộ phận lớn, mỗi bộ phận phải 4 người khiêng, 5 bộ phận còn lại mỗi bộ phận phải 2 người khiêng. Nhưng vì không đủ người nên đành phải khắc phục: bộ phận khiêng 4 người nay chỉ còn 2 người khiêng, bộ phận khiêng 2 người nay phải vác, đi dọc trong giao thông hào đầy bùn nước, dài 2,5 cây số. Thời gian này, các đồng chí đại đội trưởng, chính trị viên đại đội và trung đội trưởng đi chuẩn bị trận địa bắn. Chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ đào công sự pháo trong hai đêm 28 và 29/3.
Ngày 30/3, ngay từ buổi trưa, khẩu đội tôi cùng 2 khẩu đội trong đại đội được lệnh chiếm lĩnh trận địa ban ngày. Trận địa pháo của ta bố trí gần lô-cốt địch, đại đội trưởng và trung đội trưởng ước lượng cự ly bắn khoảng 150m. Sườn đồi bị bom đạn cày xới nên hầu như không có một vạt cây, rất dễ bị lộ. Chúng tôi phải bò và dùng dây buộc vào các bộ phận pháo để kéo lên chiếm lĩnh. Nhiệm vụ đưa pháo chiếm lĩnh trận địa được hoàn thành và địch không phát hiện được.
17 giờ ngày 30/3/1954, bộ đội ta nổ súng mở màn Đợt tiến công thứ hai của chiến dịch. Khẩu đội sơn pháo của tôi được giao nhiệm vụ tiêu diệt 4 lô cốt địch, chi viện cho bộ binh mở cửa mở và xung phong đánh chiếm đồi E, với số đạn được bắn là 30 viên, tiết kiệm thì được khen thưởng, bắn quá số đạn thì phải chịu kỷ luật. Được lệnh bắn, tôi ngắm bắn phát đầu tiên vào lỗ châu mai của lô-cốt thứ nhất. Đạn gần, không trúng mục tiêu. Tôi quan sát thấy đạn nổ còn cách lỗ châu mai khoảng 10m. Tôi đề nghị được tăng thước tầm 160m và thay đổi điểm ngắm. Tôi bắn phát thứ 2, viên đạn chui thẳng vào lỗ châu mai, khói đen cuộn lên ngùn ngụt, lô-cốt 1 bị tiêu diệt, các pháo thủ ôm chầm lấy nhau sung sướng. Được lệnh, tôi chuyển sang bắn lô cốt 2, 3, 4. Rút kinh nghiệm, sau đó 20 phát bắn đạn đều đi trúng đích, góp phần tiêu diệt sinh lực địch, chi viện đắc lực cho đơn vị bộ binh của Trung đoàn 209 hoàn thành nhiệm vụ đánh chiếm đồi E sau gần 1 giờ chiến đấu. Kết thúc trận đánh mở màn, Đại đội 755 hoàn thành mục tiêu diệt 4 lô-cốt, một kho đạn và hàng trăm tên địch. Khẩu đội 1 của tôi tiết kiệm được 8 viên đạn được biểu dương tập thể, cá nhân tôi vinh dự được tặng Huy hiệu Bác Hồ và Huân chương Chiến công hạng Ba.
Những ngày tiếp theo là quãng thời gian khó khăn nhất, quyết liệt và gay go nhất. Đêm mồng 2/4/1954, ba khẩu đội pháo của Đại đội 755 chúng tôi được lệnh lên đưa pháo lên Đồi E đều chuyển sang phòng ngự. Toàn đơn vị đã khẩn trương, tích cực đào đắp công sự, bố trí đội hình bảo vệ Đồi E. Quân số của đại đội lúc này chỉ có 30 người. Nhiệm vụ của sơn pháo 75mm là ngắm bắn trực tiếp diệt pháo, xe tăng và bộ binh địch tăng viện phản kích. Các khẩu đội được bố trí trong công sự có nắp, kín đáo, địch không thể phát hiện được kể cả ban ngày khi ta chưa nổ súng.
Từ ngày 5 đến 17/4, Khẩu đội 1 của tôi được lệnh hàng ngày phải thực hiện bắn thăm dò xem nơi địch bố trí hỏa lực để khi có thời cơ thì tiêu diệt. Sau 12 ngày đêm, khẩu đội tôi chỉ còn lại 4 đồng chí, 5 đồng chí khác đã bị thương vong. Các khẩu đội 2 và 3, quân số còn nguyên (9 đồng chí) vì 2 khẩu đội đó chưa được lệnh chiến đấu, vẫn giữ bí mật lực lượng.
Thời gian này, các đơn vị bộ binh, công binh ngày đêm chiến đấu, làm việc quên mình đào chiến hào và hầm chia cắt bao vây, siết chặt phạm vi đóng quân của địch; đồng thời, kiên quyết đánh lui các cuộc phản kích của chúng. Cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra vô cùng ác liệt, một vài anh em có biểu hiện dao động, tôi có lúc tưởng chừng không sống nổi. Được sự giáo dục, động viên kịp thời của cán bộ cấp trên và đồng đội, chúng tôi kiên cường bám trụ, vượt qua khó khăn gian khổ, củng cố lực lượng và tinh thần, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, góp phần giành toàn thắng cho chiến dịch.
12 giờ ngày 23/4/1954, địch mở đợt phản công quy mô lớn bằng bộ binh có xe tăng và pháo 105mm yểm trợ, hòng chiếm lại Đồi E và các điểm cao chiến thuật lân cận. Trận địa pháo của địch nằm bên cạnh sông Nậm Rốm, cách khẩu đội tôi khoảng 250m. Lúc đó, pháo địch kéo ra ngoài công sự. Sau khi chuẩn bị xong, khẩu đội 2 và khẩu đội 3 mở lỗ châu mai (miệng hầm pháo). Xe tăng địch phát hiện thấy và tập trung bắn vào hai khẩu đội. Cả hai khẩu đội 2 và 3 pháo đều bị hỏng, không chiến đấu được. Các pháo thủ của hai khẩu đội đều bị thương vong (7 đồng chí hy sinh, 11 đồng chí bị thương). Lúc này, Khẩu đội 1 của tôi chỉ còn 4 đồng chí. Chỉ huy đại đội gọi tôi lên hầm giao nhiệm vụ và thông báo cho tôi biết tổn thất của đại đội. Nghe tin này, tôi đã khóc vì căm thù bọn giặc Pháp, vì thương tiếc đồng đội và hứa với Đại đội trưởng, với Chính trị viên đại đội quyết tâm trả thù cho đồng đội, sẽ chiến đấu đến giọt máu cuối cùng. Tôi tự nhủ phải biến hai dòng nước mắt thành hành động cách mạng, phải giữ vững ý chí của người đảng viên cộng sản, quyết tiêu diệt bằng được 4 khẩu pháo của địch. Tôi ngắm khẩu thứ nhất của địch, bắn 3 phát, trúng cả 3 viên. Khẩu 1 của địch bị diệt gọn. Địch phát hiện được khẩu đội tôi, tập trung hỏa lực bắn sập miệng cửa hầm pháo, khiến cho khẩu đội tôi không bắn được nữa. Tôi thoát ra khỏi công sự mở lại cửa hầm pháo (lỗ châu mai), sau 10 phút, pháo ta lại có thể bắn được.
Pháo cao xạ Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Tôi ngắm bắn khẩu thứ 2 của địch. Phát 1 không trúng pháo mà trúng hầm đạn nên gây cháy nổ lớn. Phát thứ 2 và thứ 3 bắn trúng, tiêu diệt khẩu pháo thứ 2. Đại liên của địch bắn như vãi đạn về phía chúng tôi. Một đồng chí trong khẩu đội tôi bị thương gãy tay. Tôi cử đồng chí Chài dìu đồng chí bị thương về phía sau chân đồi E. Tôi quay nòng pháo bắn trúng 2 khẩu đại liên của địch. Tôi giục Khẩu đội phó kiêm pháo thủ nạp đạn Lý Văn Pao chạy theo đồng chí bị thương, báo tin đại liên của địch đã bị tiêu diệt cho anh em mừng và yên tâm.
Còn một mình với khẩu pháo, tôi vẫn kiên quyết đánh địch. Thông thường, để điều khiển pháo phải có tới bảy người làm nhiệm vụ, nhưng giờ chỉ còn mình tôi. Với tình thế cấp bách, tôi tự nhủ trước mắt có khẩu pháo to như thế mà không dùng thì thật lãng phí nên đã tìm cách xoay xở. Tôi ngắm khẩu thứ 3 của địch, một mình vừa làm pháo thủ ngắm bắn, nạp đạn, vừa quan sát mục tiêu, điểm nổ để điều chỉnh và bắn liền 3 phát. Khẩu pháo thứ 3 của địch đã bị tiêu diệt hoàn toàn.
Đồng chí Pao quay lại, báo tin cho tôi là đồng chí Chài bị thương gãy xương. Tôi nói với đồng chí Pao: “Ta là 2 đảng viên, phải chiến đấu đến giọt máu cuối cùng. Địch còn một khẩu nữa thôi...”.
Xe tăng của địch bắn nhiều phát gần trúng vào lỗ châu mai. Tôi hô Pao lui ra khỏi công sự đồng thời lấy bao tải đất bịt vào lỗ châu mai. Tôi lấp được bao thứ 5 thì địch bắn trúng 5 tải đất, sức ép của đạn pháo địch làm tôi bất tỉnh. Tôi được cán bộ đại đội và Pao cấp cứu. Một lúc sau tỉnh lại, tôi hỏi Pao và đại đội là pháo có bị hỏng không? Tự nhiên tôi khỏe lên. Nhìn xuống thấy địch đang kéo khẩu pháo thứ 4 vào trong hầm. Tôi báo cáo đại đội và lệnh đồng chí Pao vào vị trí chiến đấu. Tôi bắn 1 phát trúng ngay khẩu pháo thứ 4 của địch. Như vậy, tôi và Lý Văn Pao bắn l5 viên đạn tiêu diệt được 4 khẩu pháo 105mm; 2 khẩu đại liên của địch, tiết kiệm được l5 viên đạn.
Đại đội trưởng ra lệnh cho 2 chúng tôi: tháo pháo ra, phân tán vào hầm ếch trong giao thông hào rồi lấy tất cả bao tải đất bịt kín lỗ châu mai. Tôi và Pao đang kéo khẩu sơn pháo lui nòng vào trong công sự thì xe tăng địch bắn trúngnắp bên phải công sự. Đồng chí Pao bị cắt mất đi bàn chân trái phải đi quân y điều trị. Từ ngày 26/4 trở đi, ở trên đồi E chỉ còn có Đại đội trưởng, Chính trị viên đại đội và tôi cùng khẩu sơn pháo 75mm tiếp tục chiến đấu chi viện đắc lực cho bộ binh cho đến khi chiến dịch hoàn toàn thắng lợi.
Như vậy, sau 36 ngày đêm chiến đấu trên Đồi E, khẩu đội tôi đã chiến đấu dũng cảm, tiêu diệt 4 lô cốt, 5 khẩu pháo 105mm, 6 khẩu đại liên, 1 kho đạn và nhiều sinh lực địch. Kết quả này đã góp phần vào thắng lợi trong Đợt 2 cũng như thắng lợi của toàn bộ Chiến dịch Điện Biên Phủ. Nhờ sự dũng cảm và những thành tích trong chiến đấu, tôi được tặng thưởng 3 Huân chương Chiến công (2 hạng Ba, 1 hạng Hai). Ngày 31/8/1955, tôi vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tôi tiếp tục tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong quá trình đó, tôi đã trải qua nhiều trận đánh lớn như Tà Cơn, Khe Sanh, Hạ Lào, Quảng Trị, rồi đến Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968... Bản lĩnh, kinh nghiệm của người chiến sĩ Điện Biên luôn được tôi giữ gìn, phát huy, giúp tôi vượt qua mọi khó khăn, thử thách ác liệt của những năm tháng chống Mỹ. Tôi luôn tâm niệm một điều, phải sống, chiến đấu sao cho xứng đáng với sự tin tưởng của Đảng, của Bác Hồ kính yêu và xứng đáng với những đồng đội đã khuất. Ngoài mặt trận, đối diện với hiểm nguy, nhưng nhìn thấy đồng đội bị thương vong, nhìn vào tấm Huy hiệu Bác Hồ trên ngực, tôi vẫn luôn bình tĩnh chiến đấu. Cho dù một mình một pháo cũng đánh. Đó là niềm tin luôn trong tôi khi tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ và kháng chiến chống Mỹ. Khi mình còn sống nghĩa là còn có cơ hội tiêu diệt thêm quân thù, mang lại hòa bình, tự do cho Tổ quốc, đồng bào.
65 năm đã trôi qua kể từ cuộc chiến đấu ác liệt trên Đồi E trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, song những ký ức về đồng chí, đồng đội đã cùng sát cánh trong những ngày “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt” vẫn vẹn nguyên trong tôi. Đó là những giây phút vào sinh ra tử, trải qua thử thách của chiến tranh, đối diện với kẻ thù, đối diện với cái chết mà không hề nao núng, khiếp sợ. Nhiều đồng đội của tôi đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường để chúng ta có cuộc sống tự do, hạnh phúc. Nay dù đã tuổi cao, sức yếu, song tinh thần của người lính Cụ Hồ, tinh thần của người chiến sĩ Điện Biên vẫn luôn cháy mãi trong tôi, nhắc nhở tôi phải tiếp tục cố gắng xứng đáng với những người đã khuất. Kỷ niệm 65 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, xin gửi tới đồng chí, đồng đội những lời tri ân, tưởng nhớ. Lịch sử sẽ mãi khắc ghi những người đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
Kỷ niệm 65 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, xin gửi tới đồng chí, đồng đội những lời tri ân, tưởng nhớ. Lịch sử sẽ mãi khắc ghi những người đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
Bài:Đại tá Phùng Văn Khầu - Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Khẩu đội trưởng sơn pháo 75mm, Đại đoàn công pháo 351 trong trong Chiến dịch Điện Biên Phủ Trình bày:Ngọc Toàn Nguồn:Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Chiến thắng Điện Biên Phủ - Giá trị lịch sử và hiện thực (07/5/1954 - 07/5/2019)”
Các bài trước đều nói Đại đoàn Công Pháo 351 có 1 trung đoàn 105mm, 1 trung đoàn sơn pháo 75mm và 1 trung đoàn 367 pháo 37mm. Pháo lựu 105 là đồ TQ viện trợ từ chiến lợi phẩm nguồn pháo Mỹ và ta thu được của Pháp. Pháo phòng không 37mm (hồi đó gọi là cao xạ) là đồ viện trợ của LX/TQ. Cả 2 pháo 105mm và 37mm trên đều có hình ảnh.
Riêng sơn pháo 75mm thi không có ảnh nên khó hình dung.
Đọc bài này mới thấy rõ là đơn vị sơn pháo 75mm của Ông Phùng Văn Khẩu khi cơ động có thể tháo rời thành 9 phần đề người khiêng vác, trèo đèo lội suối, luồn rừng... bí mật tiếp cận mục tiêu địch.
Trong những ngày ác liệt nhất của Đợt 2 chiến dịch Điện Biên Phủ, tôi cùng đồng đội tham gia chiến đấu bảo vệ Đồi E. Đó là khoảng thời gian đầy gian khổ, ác liệt, hy sinh nhưng rất đỗi tự hào. 65 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về 36 ngày đêm chiến đấu trên Đồi E vẫn vẹn nguyên trong tôi.
Tôi sinh ra trong một gia đình nông dân thuộc dân tộc Nùng tại xã Đức Hùng, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Cuối năm 1946, theo lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Bác Hồ, tôi trốn khỏi nhà chủ nợ, về gặp cha xin phép đi theo Việt Minh. Được sự động viên, khích lệ của cha, tôi cùng với 3 thanh niên khác trong bản rời quê hương Trùng Khánh đến thị xã Cao Bằng tìm gặp bộ đội cách mạng. Sau khi đăng tuyển nhập ngũ, tôi xin vào bộ đội Pháo binh vì nghĩ đơn giản “bộ binh có súng nhỏ bắn một phát chỉ được một thằng Pháp thôi, còn pháo binh bắn một phát nhưng diệt được nhiều thằng Pháp, đất nước sẽ mau hết giặc và sớm được giải phóng”. Tuy nhiên, lúc đó do thể hình thấp bé, nhẹ cân, sức vóc có hạn, không khiêng vác được các bộ phận của pháo, từ giữa năm 1947 đến 1950, tôi được giao nhiệm vụ nuôi quân với công việc chính là quản lý bếp ăn và tiếp phẩm. Luôn cố gắng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tôi được tuyên dương trước toàn đại đội, được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba và vinh dự đứng trong hàng ngũ của Đảng ngày 8/4/1950.
Đại tá Phùng Văn Khầu - Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Khẩu đội trưởng sơn pháo 75mm, Đại đoàn công pháo 351 trong trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Ảnh: TTXVN
Ngay sau đó, tôi được trên tin tưởng giao nhiệm vụ đi học làm pháo thủ để ra mặt trận chiến đấu. Tôi rất vui mừng, phấn khởi, vì mặc dù luôn hoàn thành xuất sắc vai trò “anh nuôi”, song tôi luôn mơ ước trở thành chiến sĩ pháo binh, được trực tiếp chiến đấu giết giặc ngoài mặt trận. Chính vì vậy, những ngày đầu huấn luyện rất gian nan, vất vả, nhưng tôi luôn cố gắng vượt qua, nắm chắc kỹ năng sử dụng pháo một cách thuần thục nhất. Không biết chữ, không biết sử dụng máy ngắm, tôi chỉ còn cách dùng phương pháp “kinh điển” chưa từng có là ngắm bắn trực tiếp qua nòng pháo, dùng mắt thường để ước lượng tầm và hướng bắn. Sau nhiều lần điều chỉnh rút kinh nghiệm, cuối cùng tôi cũng quen, ngắm qua nòng pháo cũng chính xác không thua gì ngắm máy. Cứ như vậy tôi từ một “anh nuôi” trở thành một trong những pháo thủ của Binh chủng Pháo binh. Kết thúc khóa huấn luyện cấp tốc, tôi được phân công nhiệm vụ là Khẩu đội phó kiêm pháo thủ số 2 (ngắm bắn) thuộc Đại đội 755, Tiểu đoàn 275, Trung đoàn 675, Đại đoàn 351.
Khi Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra, đại đội tôi đang được phối thuộc cho Trung đoàn 9, Đại đoàn 304 đóng ở Đồn Vàng (Phú Thọ), làm lực lượng dự bị của Chiến dịch Điện Biên Phủ và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ hậu phương. Cuộc chiến đấu trên chiến trường Điện Biên Phủ ngày càng bước vào giai đoạn căng thẳng và ác liệt, mỗi lần nghe tin từ chiến trường báo về, tôi cùng đồng đội luôn cảm thấy xốn xang, bứt rứt, đứng ngồi không yên, chỉ mong nhanh chóng được ra trận chiến đấu.
Kết thúc đợt 1 của Chiến dịch (từ ngày 13/3 đến ngày 17/3/1954), bộ đội ta đã tiêu diệt cứ điểm Him Lam và Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ cửa ngõ phía Bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, uy hiếp sân bay Mường Thanh. Ngày 18/3/1954, chúng tôi được lệnh hành quân gấp lên Điện Biên Phủ tham gia đợt tiến công thứ 2 của Chiến dịch. Nhận được mệnh lệnh, ai nấy cũng vui mừng hò reo, vậy là chúng tôi đã có cơ hội ra trận, sát cánh cùng đồng đội chiến đấu giải phóng quê hương. Ngày 19/3, đại đội tôi hành quân với 7 xe ô-tô, 3 khẩu sơn pháo và 90 viên đạn. Quân số của đại đội có 42 người, gồm 3 cán bộ đại đội, 3 cán bộ trung đội, 2 liên lạc, 24 pháo thủ, 10 anh nuôi, quản lý. Lúc đó, tôi được đề bạt làm Khẩu đội trưởng. Như vậy, tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ mỗi khẩu đội sơn pháo 75 mm của chúng tôi chỉ biên chế 9 người, kể cả trung đội trưởng. Số còn lại của đại đội nhận súng bộ binh ở lại làm nhiệm vụ khác. Mất gần một tuần hành quân bằng cơ giới, đại đội tôi tới gần Him Lam, cách chừng 2 cây số thì dừng lại. Đơn vị được lệnh đưa pháo xuống xe. Để bảo đảm an toàn và bí mật, ban ngày chúng tôi phải giấu pháo trong rừng, khẩu pháo được tháo rời và để trong một hầm riêng.
Từ ngày 25 đến ngày 27/3, Đại đội vào vị trí tập kết. Khu vực Điện Biên Phủ bắt đầu mưa, đường và giao thông hào rất trơn và lầy lội. Tám pháo thủ trong mỗi khẩu đội phải khiêng pháo với trọng lượng 500kg tháo rời ra 9 bộ phận lớn nhỏ. Theo biên chế thì 4 bộ phận lớn, mỗi bộ phận phải 4 người khiêng, 5 bộ phận còn lại mỗi bộ phận phải 2 người khiêng. Nhưng vì không đủ người nên đành phải khắc phục: bộ phận khiêng 4 người nay chỉ còn 2 người khiêng, bộ phận khiêng 2 người nay phải vác, đi dọc trong giao thông hào đầy bùn nước, dài 2,5 cây số. Thời gian này, các đồng chí đại đội trưởng, chính trị viên đại đội và trung đội trưởng đi chuẩn bị trận địa bắn. Chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ đào công sự pháo trong hai đêm 28 và 29/3.
Ngày 30/3, ngay từ buổi trưa, khẩu đội tôi cùng 2 khẩu đội trong đại đội được lệnh chiếm lĩnh trận địa ban ngày. Trận địa pháo của ta bố trí gần lô-cốt địch, đại đội trưởng và trung đội trưởng ước lượng cự ly bắn khoảng 150m. Sườn đồi bị bom đạn cày xới nên hầu như không có một vạt cây, rất dễ bị lộ. Chúng tôi phải bò và dùng dây buộc vào các bộ phận pháo để kéo lên chiếm lĩnh. Nhiệm vụ đưa pháo chiếm lĩnh trận địa được hoàn thành và địch không phát hiện được.
17 giờ ngày 30/3/1954, bộ đội ta nổ súng mở màn Đợt tiến công thứ hai của chiến dịch. Khẩu đội sơn pháo của tôi được giao nhiệm vụ tiêu diệt 4 lô cốt địch, chi viện cho bộ binh mở cửa mở và xung phong đánh chiếm đồi E, với số đạn được bắn là 30 viên, tiết kiệm thì được khen thưởng, bắn quá số đạn thì phải chịu kỷ luật. Được lệnh bắn, tôi ngắm bắn phát đầu tiên vào lỗ châu mai của lô-cốt thứ nhất. Đạn gần, không trúng mục tiêu. Tôi quan sát thấy đạn nổ còn cách lỗ châu mai khoảng 10m. Tôi đề nghị được tăng thước tầm 160m và thay đổi điểm ngắm. Tôi bắn phát thứ 2, viên đạn chui thẳng vào lỗ châu mai, khói đen cuộn lên ngùn ngụt, lô-cốt 1 bị tiêu diệt, các pháo thủ ôm chầm lấy nhau sung sướng. Được lệnh, tôi chuyển sang bắn lô cốt 2, 3, 4. Rút kinh nghiệm, sau đó 20 phát bắn đạn đều đi trúng đích, góp phần tiêu diệt sinh lực địch, chi viện đắc lực cho đơn vị bộ binh của Trung đoàn 209 hoàn thành nhiệm vụ đánh chiếm đồi E sau gần 1 giờ chiến đấu. Kết thúc trận đánh mở màn, Đại đội 755 hoàn thành mục tiêu diệt 4 lô-cốt, một kho đạn và hàng trăm tên địch. Khẩu đội 1 của tôi tiết kiệm được 8 viên đạn được biểu dương tập thể, cá nhân tôi vinh dự được tặng Huy hiệu Bác Hồ và Huân chương Chiến công hạng Ba.
Những ngày tiếp theo là quãng thời gian khó khăn nhất, quyết liệt và gay go nhất. Đêm mồng 2/4/1954, ba khẩu đội pháo của Đại đội 755 chúng tôi được lệnh lên đưa pháo lên Đồi E đều chuyển sang phòng ngự. Toàn đơn vị đã khẩn trương, tích cực đào đắp công sự, bố trí đội hình bảo vệ Đồi E. Quân số của đại đội lúc này chỉ có 30 người. Nhiệm vụ của sơn pháo 75mm là ngắm bắn trực tiếp diệt pháo, xe tăng và bộ binh địch tăng viện phản kích. Các khẩu đội được bố trí trong công sự có nắp, kín đáo, địch không thể phát hiện được kể cả ban ngày khi ta chưa nổ súng.
Từ ngày 5 đến 17/4, Khẩu đội 1 của tôi được lệnh hàng ngày phải thực hiện bắn thăm dò xem nơi địch bố trí hỏa lực để khi có thời cơ thì tiêu diệt. Sau 12 ngày đêm, khẩu đội tôi chỉ còn lại 4 đồng chí, 5 đồng chí khác đã bị thương vong. Các khẩu đội 2 và 3, quân số còn nguyên (9 đồng chí) vì 2 khẩu đội đó chưa được lệnh chiến đấu, vẫn giữ bí mật lực lượng.
Thời gian này, các đơn vị bộ binh, công binh ngày đêm chiến đấu, làm việc quên mình đào chiến hào và hầm chia cắt bao vây, siết chặt phạm vi đóng quân của địch; đồng thời, kiên quyết đánh lui các cuộc phản kích của chúng. Cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra vô cùng ác liệt, một vài anh em có biểu hiện dao động, tôi có lúc tưởng chừng không sống nổi. Được sự giáo dục, động viên kịp thời của cán bộ cấp trên và đồng đội, chúng tôi kiên cường bám trụ, vượt qua khó khăn gian khổ, củng cố lực lượng và tinh thần, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, góp phần giành toàn thắng cho chiến dịch.
12 giờ ngày 23/4/1954, địch mở đợt phản công quy mô lớn bằng bộ binh có xe tăng và pháo 105mm yểm trợ, hòng chiếm lại Đồi E và các điểm cao chiến thuật lân cận. Trận địa pháo của địch nằm bên cạnh sông Nậm Rốm, cách khẩu đội tôi khoảng 250m. Lúc đó, pháo địch kéo ra ngoài công sự. Sau khi chuẩn bị xong, khẩu đội 2 và khẩu đội 3 mở lỗ châu mai (miệng hầm pháo). Xe tăng địch phát hiện thấy và tập trung bắn vào hai khẩu đội. Cả hai khẩu đội 2 và 3 pháo đều bị hỏng, không chiến đấu được. Các pháo thủ của hai khẩu đội đều bị thương vong (7 đồng chí hy sinh, 11 đồng chí bị thương). Lúc này, Khẩu đội 1 của tôi chỉ còn 4 đồng chí. Chỉ huy đại đội gọi tôi lên hầm giao nhiệm vụ và thông báo cho tôi biết tổn thất của đại đội. Nghe tin này, tôi đã khóc vì căm thù bọn giặc Pháp, vì thương tiếc đồng đội và hứa với Đại đội trưởng, với Chính trị viên đại đội quyết tâm trả thù cho đồng đội, sẽ chiến đấu đến giọt máu cuối cùng. Tôi tự nhủ phải biến hai dòng nước mắt thành hành động cách mạng, phải giữ vững ý chí của người đảng viên cộng sản, quyết tiêu diệt bằng được 4 khẩu pháo của địch. Tôi ngắm khẩu thứ nhất của địch, bắn 3 phát, trúng cả 3 viên. Khẩu 1 của địch bị diệt gọn. Địch phát hiện được khẩu đội tôi, tập trung hỏa lực bắn sập miệng cửa hầm pháo, khiến cho khẩu đội tôi không bắn được nữa. Tôi thoát ra khỏi công sự mở lại cửa hầm pháo (lỗ châu mai), sau 10 phút, pháo ta lại có thể bắn được.
Pháo cao xạ Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Tôi ngắm bắn khẩu thứ 2 của địch. Phát 1 không trúng pháo mà trúng hầm đạn nên gây cháy nổ lớn. Phát thứ 2 và thứ 3 bắn trúng, tiêu diệt khẩu pháo thứ 2. Đại liên của địch bắn như vãi đạn về phía chúng tôi. Một đồng chí trong khẩu đội tôi bị thương gãy tay. Tôi cử đồng chí Chài dìu đồng chí bị thương về phía sau chân đồi E. Tôi quay nòng pháo bắn trúng 2 khẩu đại liên của địch. Tôi giục Khẩu đội phó kiêm pháo thủ nạp đạn Lý Văn Pao chạy theo đồng chí bị thương, báo tin đại liên của địch đã bị tiêu diệt cho anh em mừng và yên tâm.
Còn một mình với khẩu pháo, tôi vẫn kiên quyết đánh địch. Thông thường, để điều khiển pháo phải có tới bảy người làm nhiệm vụ, nhưng giờ chỉ còn mình tôi. Với tình thế cấp bách, tôi tự nhủ trước mắt có khẩu pháo to như thế mà không dùng thì thật lãng phí nên đã tìm cách xoay xở. Tôi ngắm khẩu thứ 3 của địch, một mình vừa làm pháo thủ ngắm bắn, nạp đạn, vừa quan sát mục tiêu, điểm nổ để điều chỉnh và bắn liền 3 phát. Khẩu pháo thứ 3 của địch đã bị tiêu diệt hoàn toàn.
Đồng chí Pao quay lại, báo tin cho tôi là đồng chí Chài bị thương gãy xương. Tôi nói với đồng chí Pao: “Ta là 2 đảng viên, phải chiến đấu đến giọt máu cuối cùng. Địch còn một khẩu nữa thôi...”.
Xe tăng của địch bắn nhiều phát gần trúng vào lỗ châu mai. Tôi hô Pao lui ra khỏi công sự đồng thời lấy bao tải đất bịt vào lỗ châu mai. Tôi lấp được bao thứ 5 thì địch bắn trúng 5 tải đất, sức ép của đạn pháo địch làm tôi bất tỉnh. Tôi được cán bộ đại đội và Pao cấp cứu. Một lúc sau tỉnh lại, tôi hỏi Pao và đại đội là pháo có bị hỏng không? Tự nhiên tôi khỏe lên. Nhìn xuống thấy địch đang kéo khẩu pháo thứ 4 vào trong hầm. Tôi báo cáo đại đội và lệnh đồng chí Pao vào vị trí chiến đấu. Tôi bắn 1 phát trúng ngay khẩu pháo thứ 4 của địch. Như vậy, tôi và Lý Văn Pao bắn l5 viên đạn tiêu diệt được 4 khẩu pháo 105mm; 2 khẩu đại liên của địch, tiết kiệm được l5 viên đạn.
Đại đội trưởng ra lệnh cho 2 chúng tôi: tháo pháo ra, phân tán vào hầm ếch trong giao thông hào rồi lấy tất cả bao tải đất bịt kín lỗ châu mai. Tôi và Pao đang kéo khẩu sơn pháo lui nòng vào trong công sự thì xe tăng địch bắn trúngnắp bên phải công sự. Đồng chí Pao bị cắt mất đi bàn chân trái phải đi quân y điều trị. Từ ngày 26/4 trở đi, ở trên đồi E chỉ còn có Đại đội trưởng, Chính trị viên đại đội và tôi cùng khẩu sơn pháo 75mm tiếp tục chiến đấu chi viện đắc lực cho bộ binh cho đến khi chiến dịch hoàn toàn thắng lợi.
Như vậy, sau 36 ngày đêm chiến đấu trên Đồi E, khẩu đội tôi đã chiến đấu dũng cảm, tiêu diệt 4 lô cốt, 5 khẩu pháo 105mm, 6 khẩu đại liên, 1 kho đạn và nhiều sinh lực địch. Kết quả này đã góp phần vào thắng lợi trong Đợt 2 cũng như thắng lợi của toàn bộ Chiến dịch Điện Biên Phủ. Nhờ sự dũng cảm và những thành tích trong chiến đấu, tôi được tặng thưởng 3 Huân chương Chiến công (2 hạng Ba, 1 hạng Hai). Ngày 31/8/1955, tôi vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tôi tiếp tục tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong quá trình đó, tôi đã trải qua nhiều trận đánh lớn như Tà Cơn, Khe Sanh, Hạ Lào, Quảng Trị, rồi đến Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968... Bản lĩnh, kinh nghiệm của người chiến sĩ Điện Biên luôn được tôi giữ gìn, phát huy, giúp tôi vượt qua mọi khó khăn, thử thách ác liệt của những năm tháng chống Mỹ. Tôi luôn tâm niệm một điều, phải sống, chiến đấu sao cho xứng đáng với sự tin tưởng của Đảng, của Bác Hồ kính yêu và xứng đáng với những đồng đội đã khuất. Ngoài mặt trận, đối diện với hiểm nguy, nhưng nhìn thấy đồng đội bị thương vong, nhìn vào tấm Huy hiệu Bác Hồ trên ngực, tôi vẫn luôn bình tĩnh chiến đấu. Cho dù một mình một pháo cũng đánh. Đó là niềm tin luôn trong tôi khi tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ và kháng chiến chống Mỹ. Khi mình còn sống nghĩa là còn có cơ hội tiêu diệt thêm quân thù, mang lại hòa bình, tự do cho Tổ quốc, đồng bào.
65 năm đã trôi qua kể từ cuộc chiến đấu ác liệt trên Đồi E trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, song những ký ức về đồng chí, đồng đội đã cùng sát cánh trong những ngày “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt” vẫn vẹn nguyên trong tôi. Đó là những giây phút vào sinh ra tử, trải qua thử thách của chiến tranh, đối diện với kẻ thù, đối diện với cái chết mà không hề nao núng, khiếp sợ. Nhiều đồng đội của tôi đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường để chúng ta có cuộc sống tự do, hạnh phúc. Nay dù đã tuổi cao, sức yếu, song tinh thần của người lính Cụ Hồ, tinh thần của người chiến sĩ Điện Biên vẫn luôn cháy mãi trong tôi, nhắc nhở tôi phải tiếp tục cố gắng xứng đáng với những người đã khuất. Kỷ niệm 65 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, xin gửi tới đồng chí, đồng đội những lời tri ân, tưởng nhớ. Lịch sử sẽ mãi khắc ghi những người đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
Kỷ niệm 65 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, xin gửi tới đồng chí, đồng đội những lời tri ân, tưởng nhớ. Lịch sử sẽ mãi khắc ghi những người đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
Bài:Đại tá Phùng Văn Khầu - Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Khẩu đội trưởng sơn pháo 75mm, Đại đoàn công pháo 351 trong trong Chiến dịch Điện Biên Phủ Trình bày:Ngọc Toàn Nguồn:Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Chiến thắng Điện Biên Phủ - Giá trị lịch sử và hiện thực (07/5/1954 - 07/5/2019)”
Các bài trước đều nói Đại đoàn Công Pháo 351 có 1 trung đoàn 105mm, 1 trung đoàn sơn pháo 75mm và 1 trung đoàn 367 pháo 37mm. Pháo lựu 105 là đồ TQ viện trợ từ chiến lợi phẩm nguồn pháo Mỹ và ta thu được của Pháp. Pháo phòng không 37mm (hồi đó gọi là cao xạ) là đồ viện trợ của LX/TQ. Cả 2 pháo 105mm và 37mm trên đều có hình ảnh.
Riêng sơn pháo 75mm thi không có ảnh nên khó hình dung.
Đọc bài này mới thấy rõ là đơn vị sơn pháo 75mm của Ông Phùng Văn Khẩu khi cơ động có thể tháo rời thành 9 phần đề người khiêng vác, trèo đèo lội suối, luồn rừng... bí mật tiếp cận mục tiêu địch.
(Tiêp)
Coi tư liệu thấy sơn pháo 75mm của Mỹ và sơn pháo 75mm Nhật đã từng có trong trang bị của quân ta.
Khẩu sơn pháo 75mm Mỹ, khi thiết kế khá nhẹ 575kg, ngoài xe kéo còn có thể tháo rời thành 9 phần để cho lừa, ngựa thồ được, mục đích vận chuyển đường đồi núi, rừng rậm, sông suối.
Khả năng là tại Viện bảo tàng Quân đội có trưng bày khẩu sơn pháo 75mm Mỹ, khẩu mà trung đoàn 675 đánh địch trong chiến dịch Điện Biên Phủ 3.1954.
Các bài trước đều nói Đại đoàn Công Pháo 351 có 1 trung đoàn 105mm, 1 trung đoàn sơn pháo 75mm và 1 trung đoàn 367 pháo 37mm. Pháo lựu 105 là đồ TQ viện trợ từ chiến lợi phẩm nguồn pháo Mỹ và ta thu được của Pháp. Pháo phòng không 37mm (hồi đó gọi là cao xạ) là đồ viện trợ của LX/TQ. Cả 2 pháo 105mm và 37mm trên đều có hình ảnh.
Riêng sơn pháo 75mm thi không có ảnh nên khó hình dung.
Đọc bài này mới thấy rõ là đơn vị sơn pháo 75mm của Ông Phùng Văn Khẩu khi cơ động có thể tháo rời thành 9 phần đề người khiêng vác, trèo đèo lội suối, luồn rừng... bí mật tiếp cận mục tiêu địch.
(Tiêp)
Coi tư liệu thấy sơn pháo 75mm của Mỹ và sơn pháo 75mm Nhật đã từng có trong trang bị của quân ta.
Khẩu sơn pháo 75mm Mỹ, khi thiết kế khá nhẹ 575kg, ngoài xe kéo còn có thể tháo rời thành 9 phần để cho lừa, ngựa thồ được, mục đích vận chuyển đường đồi núi, rừng rậm, sông suối.
Khả năng là tại Viện bảo tàng Quân đội có trưng bày khẩu sơn pháo 75mm Mỹ, khẩu mà trung đoàn 675 đánh địch trong chiến dịch Điện Biên Phủ 3.1954.
Bài viết trên link này có đề cập khẩu 75mm của anh hùng Phùng Văn khẩu, mà hình thì không hiện lên, nên phải copy từ nguồn khác.
Các bài trước đều nói Đại đoàn Công Pháo 351 có 1 trung đoàn 105mm, 1 trung đoàn sơn pháo 75mm và 1 trung đoàn 367 pháo 37mm. Pháo lựu 105 là đồ TQ viện trợ từ chiến lợi phẩm nguồn pháo Mỹ và ta thu được của Pháp. Pháo phòng không 37mm (hồi đó gọi là cao xạ) là đồ viện trợ của LX/TQ. Cả 2 pháo 105mm và 37mm trên đều có hình ảnh.
Riêng sơn pháo 75mm thi không có ảnh nên khó hình dung.
Đọc bài này mới thấy rõ là đơn vị sơn pháo 75mm của Ông Phùng Văn Khẩu khi cơ động có thể tháo rời thành 9 phần đề người khiêng vác, trèo đèo lội suối, luồn rừng... bí mật tiếp cận mục tiêu địch.
(Tiêp)
Coi tư liệu thấy sơn pháo 75mm của Mỹ và sơn pháo 75mm Nhật đã từng có trong trang bị của quân ta.
Khẩu sơn pháo 75mm Mỹ, khi thiết kế khá nhẹ 575kg, ngoài xe kéo còn có thể tháo rời thành 9 phần để cho lừa, ngựa thồ được, mục đích vận chuyển đường đồi núi, rừng rậm, sông suối.
Khả năng là tại Viện bảo tàng Quân đội có trưng bày khẩu sơn pháo 75mm Mỹ, khẩu mà trung đoàn 675 đánh địch trong chiến dịch Điện Biên Phủ 3.1954.
Bài viết trên link này có đề cập khẩu 75mm của anh hùng Phùng Văn khẩu, mà hình thì không hiện lên, nên phải copy từ nguồn khác.
Các bài trước đều nói Đại đoàn Công Pháo 351 có 1 trung đoàn 105mm, 1 trung đoàn sơn pháo 75mm và 1 trung đoàn 367 pháo 37mm. Pháo lựu 105 là đồ TQ viện trợ từ chiến lợi phẩm nguồn pháo Mỹ và ta thu được của Pháp. Pháo phòng không 37mm (hồi đó gọi là cao xạ) là đồ viện trợ của LX/TQ. Cả 2 pháo 105mm và 37mm trên đều có hình ảnh.
Riêng sơn pháo 75mm thi không có ảnh nên khó hình dung.
Đọc bài này mới thấy rõ là đơn vị sơn pháo 75mm của Ông Phùng Văn Khẩu khi cơ động có thể tháo rời thành 9 phần đề người khiêng vác, trèo đèo lội suối, luồn rừng... bí mật tiếp cận mục tiêu địch.
(Tiêp)
Coi tư liệu thấy sơn pháo 75mm của Mỹ và sơn pháo 75mm Nhật đã từng có trong trang bị của quân ta.
Khẩu sơn pháo 75mm Mỹ, khi thiết kế khá nhẹ 575kg, ngoài xe kéo còn có thể tháo rời thành 9 phần để cho lừa, ngựa thồ được, mục đích vận chuyển đường đồi núi, rừng rậm, sông suối.
Khả năng là tại Viện bảo tàng Quân đội có trưng bày khẩu sơn pháo 75mm Mỹ, khẩu mà trung đoàn 675 đánh địch trong chiến dịch Điện Biên Phủ 3.1954.
Bài viết trên link này có đề cập khẩu 75mm của anh hùng Phùng Văn khẩu, mà hình thì không hiện lên, nên phải copy từ nguồn khác.
Tổng Tham mưu trưởng thị sát huấn luyện diễu binh, diễu hành kỷ niệm Chiến thắng Điện Biên Phủ
TPO - Sáng 22/3, tại Trung tâm Huấn luyện quân sự quốc gia 4 ở huyện Mỹ Đức (Hà Nội), Thượng tướng Nguyễn Tân Cương - Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, đã chủ trì kiểm tra huấn luyện diễu binh, diễu hành chuẩn bị cho Lễ kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ.
Hội nghị nhận định: Sau những chiến thắng đầu tiên, các đơn vị tham chiến đã chấn chỉnh xong lực lượng. Gần 100km giao thông hào đã được đào và xây đắp đúng tiêu chuẩn. Nhờ công trình đó mà hiện nay ta đã có điều kiện hạn chế viện binh của địch, làm khó khăn sự tiếp tế của chúng, nhất là phát huy được tất cả các cỡ hỏa lực từ súng cối trở lên để uy hiếp tung thâm của địch. Một thành công của việc xây dựng trận địa là đã làm cho các cuộc oanh tạc dữ dội của địch gần như bị vô hiệu. Nhưng thành công lớn hơn nữa là trận địa đã thực hiện được việc thắt chặt vòng vây và tạo điều kiện để tiếp cận và tiến công quân địch.
Về phía địch, qua đợt đầu bị ta tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng, nhưng do được nhanh chóng bổ sung nên quân số còn đông, hỏa lực phi pháo còn mạnh. Trong hệ thống phòng ngự của tập đoàn cứ điểm hiện nay, phân khu Trung tâm là nơi phòng ngự chủ yếu. Điểm mạnh của phân khu này là những điểm cao phía đông. Nếu ta tiêu diệt được những điểm cao lợi hại này thì phân khu Trung tâm sẽ không đủ sức chống đỡ và tập đoàn cứ điểm sẽ bị uy hiếp nghiêm trọng.
Căn cứ vào những nhiệm vụ này, Bộ Chỉ huy Chiến dịch đã ra nhiệm vụ cho đợt tiến công thứ 2: Đánh chiếm các điểm cao phòng ngự phía đông của phân khu Trung tâm, biến những điểm cao đó thành trận địa của ta, uy hiếp quân địch tại Mường Thanh, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, trong đó có một số đơn vị cơ động, tạo đầy đủ điều kiện để chuyển sang tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Nhiệm vụ cụ thể của các đơn vị được phân công như sau:
- Đại đoàn 312được phối thuộc hai đại đội sơn pháo 75mm, hai đại đội cối 120mm, một đại đội cối 82mm, có nhiệm vụ tiêu diệt các điểm cao E, D1, D2 (thuộc trung tâm đề kháng Dominique - cụm cứ điểm đông sân bay, tả ngạn sông Nậm Rốm) và dùng một số đơn vị thọc sâu đánh vào vị trí của pháo binh địch cùng quân cơ động thuộc tiểu đoàn dù ngụy số 5 ở phía trong.
- Đại đoàn 316(thiếu 1 trung đoàn) được phối thuộc hai đại đội sơn pháo 75mm, hai đại đội cối 120mm, hai trung đội cối 82mm có nhiệm vụ tiêu diệt các điểm cao A1, C1, (thuộc trung tâm đề kháng Elian - cụm cứ điểm phía đông, tả ngạn sông Nậm Rốm, khu vực sở chỉ huy của Đờ Cát-xtơ-ri).
- Đại đoàn 308có nhiệm vụ cho một đơn vị thọc sâu đánh vào tiểu đoàn dù ngụy số 3 và vị trí pháo binh, đồng thời dùng bộ đội nhỏ tích cực quấy rối các cứ điểm 106, 311 và bố trí đánh quân địch nhảy dù xuống phía Tây, chặn quân viện từ Hồng Cúm lên.
Các đơn vị bộ đội băng rừng, lội suối tiến vào chiến trường Điện Biên Phủ.
- Trung đoàn 57 Đại đoàn 304được phối thuộc Tiểu đoàn 888 (Đại đoàn 316), một đại đội lựu pháo 105mm, một đại đội cối 120mm, bốn khẩu cối 82mm, 12 khẩu 12,7mm có nhiệm vụ kiềm chế các trận địa pháo địch ở Hồng Cúm, hạn chế những hoạt động của chúng, chặn viện binh địch từ Hồng Cúm lên Mường Thanh và đánh địch nhảy dù ở phía nam Hồng Cúm.
- Đại đoàn 351dùng toàn bộ hỏa lực yểm hộ bộ binh tiến công các cứ điểm E, D1, D2, C1, C2, A1; đồng thời kiềm chế, phá hủy một phần pháo binh địch tiêu hao quân cơ động của chúng ở trung tâm Mường Thanh. Riêng Trung đoàn pháo cao xạ 367 được tăng cường lực lượng mới từ hậu phương, gây cho địch những đòn bất ngờ, yểm hộ đắc lực cho bộ binh và pháo binh chiến đấu cả ngày lẫn đêm, đến ngày 30 thì nổ súng tiến công.
Tuyến chiến hào của Trung đoàn 57 phát triển cắt đứt hành lang tiếp viện giữa Hồng Cúm và Mường Thanh. Địch điều Tiểu đoàn dù lê dương số 1 ra phản kích đánh bật chốt của Trung đoàn 57, sau đó Trung đoàn 57 khôi phục lại và thực hiện chia cắt địch.
Trên vùng trời Điện Biên Phủ, hai máy bay Pháp bị pháo cao xạ của ta bắn rơi.
Sau cuộc chạm trán với Trung đoàn 57, một binh lính thuộc Tiểu đoàn dù lê dương số 1 đã bộc bạch: Ngày nào cũng như vậy. Chúng tôi phải đi từ nam tới bắc, từ đông sang tây và mỗi ngày lại đi ngắn hơn một chút. Tôi đã nhìn thấy các thành trì như thế nào rồi. Nó không như là Carcassonne hoặc Montlouis mà tôi đã từng học. Ở đây thì lại hoàn toàn khác. Điện Biên Phủ của đối phương cũng có thể là một thành trì pháo đài vì ở đây người ta chỉ xây các đồn canh mà không xây tường... Rồi lại đào cả những hố sâu giữa các vị trí. Điện Biên Phủ của chúng ta không phải là một thành trì không thể xâm phạm.
Cônhi viết thư cho Nava: “Mỗi ngày phải chuyên chở gần 2.000 tấn theo đường sắt từ Hải Phòng lên Hà Nội nhưng Việt Minh liên tiếp đánh đổ các đoàn tàu. Cônhi yêu cầu tăng cường lực lượng cơ động và công binh vì không giải quyết được vấn đề tiếp tế thì phải rút lui cả Hà Nội./.
Nội dung: ThS Nguyễn Thị Thảo – Viện Lịch sử quân sự. Trình bày:Phi Nguyễn Ảnh: TTXVN, Nhân Dân
This post was modified 2 năm trước by friendship2k
Hội nghị của Đảng ủy, Bộ Chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ tiếp tục họp sang ngày thứ 2. Gần 100km đường giao thông hào đã hoàn thành. Để bảo vệ trận địa, các đơn vị bộ đội ta đã lần lượt chuyển từ trên các núi cao xuống ở ngay trong các đường hào vừa được đào đắp. Các chiến sĩ pháo binh cũng tìm mọi cách khắc phục khó khăn đưa pháo từ trên núi cao xuống các mỏm đồi ở sát cánh đồng Điện Biên Phủ.
Lo ngại trước các tuyến hào đang ngày càng siết chặt quanh tập đoàn cứ điểm, Bộ Chỉ huy Pháp đã sử dụng một khối lượng lớn hỏa lực phi pháo đánh phá dữ dội và cho bộ binh xe tăng liên tục tiến ra phản kích. Nhưng các đường hào của ta vẫn ngày càng được nối dài thêm. Đêm đêm, hàng vạn chiến sĩ vẫn tỏa ra trên khắp cánh đồng kiên nhẫn đào hào bất chấp bom đạn, không quản mưa rét. Địch tìm mọi cách ngăn chặn.
Cuộc chiến đấu ác liệt đang diễn ra tại vị trí 206. Ảnh: TTXVN
Ngày 26/3, địch cho một đại đội lê dương có xe tăng yểm hộ tiến ra bên ngoài trung tâm đề kháng Huguette (cụm cứ điểm tây sân bay Mường Thanh, hữu ngạn sông Nậm Rốm) lấp hào của bộ đội ta. Sau đó chúng lại cho 2 tiểu đoàn có 6 xe tăng yểm hộ đánh ra Pe Luông, Hồng Lếch, Noong Pét, Cò Mỵ. Do phần lớn lực lượng của ta sau một đêm lao động mệt nhọc đã rút trở về rừng nghỉ ngơi, chỉ để lại một bộ phận nhỏ bảo vệ trận địa nên bộ binh và xe tăng địch đã phá được một số đoạn hào trục.
Ở Hồng Lếch, Noong Pét các chiến sĩ phòng không hạ nòng súng bắn vào đội hình xung phong của bộ binh và xe tăng địch. Khi đạn hết, các chiến sĩ ta đã dùng tới cả cuốc, xẻng chia nhau trấn giữ từng ngách hào, đánh giáp lá cà diệt địch. Vì thiếu lực lượng bộ binh bảo vệ, bộ đội cao xạ của ta bị một số tổn thất nhưng cuối cùng ta đã đẩy lùi được tất cả các cuộc tiến công bịt hào của địch.
Cuộc chiến đấu ác liệt đang diễn ra tại vị trí 206. Ảnh: TTXVN
Phía địch:
Vị trí 206 bị trúng pháo của ta đang bốc cháy. Ảnh: TTXVN
Pháo cao xạ của ta đã trở thành nỗi kinh hoàng đối với những viên phi công trước đó vẫn coi khoảng không là nơi tuyệt đối an toàn. Các loại máy bay chiến đấu vận tải, kể cả những siêu pháo đài bay của Hoa Kỳ liên tiếp bị bắn rơi trên bầu trời Điện Biên Phủ. Becna Paul gọi đó là “cuộc tàn sát máy bay Pháp” khi 4 chiếc máy bay bị bắn hạ.
Chiều 26/3, một chiếc Dakota do Đại úy Boeglin lái bị bắn hạ ở phía tây Huguette (cụm cứ điểm tây sân bay Mường Thanh, hữu ngạn sông Nậm Rốm) nhưng phi hành đoàn thoát chết. Chiếc máy bay cháy như một ngọn lửa hỏa thiêu khổng lồ trong nhiều giờ.
Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị xung kích, các chiến sĩ cao xạ pháo đang đánh trả quyết liệt máy bay địch ở Điện Biên Phủ. Ảnh: TTXVN
Những binh lính Pháp trên cánh đồng Điện Biên Phủ đã quen với tiếng pháo bắn, tiếng đạn nổ, tiếng rít của những mảnh đạn, mỗi sáng thức dậy, họ lại thấy trận địa bao vây đang tiến gần hơn, siết chặt hơn; và gần như thường lệ, ngày nào các đơn vị ứng cứu như lính dù, lính lê dương, lính thuộc địa đều chạm trán với bộ đội ta ở ngay vành ngoài các cứ điểm, không ngày nào là không có người chết vì bị thương.
Xác máy bay bị quân ta bắn rơi và phá hủy nằm ngổn ngang trên chiến trường Điện Biên Phủ. Ảnh: TTXVN
Tác giả: ThS. NGUYỄN THỊ THẢO – Viện Lịch sử quân sự, MAI THU NGỌC Ảnh: TTXVN Trình bày:VŨ ANH TUẤN
Căn cứ vào chủ trương tác chiến, Tổng Quân ủy giao nhiệm vụ cụ thể cho các đơn vị tham gia đợt tiến công thứ 2 gồm Đại đoàn 312, Đại đoàn 316, Đại đoàn 308, Đại đoàn 304, Đại đoàn công pháo 351, Trung đoàn pháo binh 367 trên các hướng tiến công theo mục tiêu được đảm nhiệm. Để bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, Đảng ủy, Bộ Chỉ huy chiến dịch yêu cầu:
- Các cấp ủy, chỉ huy phải kiên quyết, dũng mãnh, nhanh chóng không để mất một thời cơ nào, tích cực tiêu diệt địch;
- Phối hợp giữa pháo binh và bộ binh phải chặt chẽ và có kế hoạch tỉ mỉ hơn trước;
- Phải có sự chuẩn bị thiết thực về tư tưởng, về tổ chức, về cán bộ để bảo đảm chiến đấu liên tục, liên tục ngay trong từng trận, tiêu diệt địch ở một địa điểm lập tức phát triển tiêu diệt thêm sinh lực của địch.
Đợt tiến công thứ hai là cuộc chiến đấu có tính chất quyết định để chuyển sang tổng công kích, chính vì vậy Hội nghị có ý nghĩa hết sức quan trọng, đề ra phương châm tác chiến, xác định quyết tâm, định hướng tư tưởng cho các lực lượng tham gia chiến dịch, phát huy tinh thần chiến đấu kiên quyết, bền bỉ, hoàn thành mục tiêu đề ra. Bởi vì “Cuộc chiến đấu này thắng lợi sẽ làm cho quân địch bị tổn thất rất nặng, làm cho chúng phải kinh khủng trước tinh thần kiên quyết, dũng mãnh của Quân đội nhân dân Việt Nam, sẽ làm lay chuyển ý chí chống giữ của quân đội chúng ở Điện Biên Phủ”.1
Tại chiến trường Điện Biên Phủ:
Trong thời gian chuẩn bị đợt 2 chiến dịch, quân ta đẩy mạnh các hoạt động nhỏ, đẩy lùi tất cả các đợt phản công của địch từ Mường Thanh ra, ta phá hủy 6 xe, 3 máy bay khu trục, hạ 2 máy bay vận tải, bắn cháy 2 chiếc trên đường băng; 450 tên địch bị chết và bị thương. Từ ngày 27/3 trở đi, sân bay Mường Thanh của địch không dùng được nữa.
Tại Ngọc Chiến (Sơn La) ta diệt thổ phỉ, bắt 307 tên, thu 531 súng các loại.
Các đơn vị pháo binh của ta tiếp tục pháo kích vào các vị trí của địch. Các vị trí của địch bị trúng đạn pháo đang bốc cháy. (Ảnh: TTXVN)
Về địch:
Trong ngày, địch liên tục cho quân ra lấp các chiến hào do bộ đội ta đào lấn bao vây cứ điểm. Ngày 27/3, địch thành lập thêm cứ điểm Opéra ở phía đông sân bay do một đại đội thuộc tiểu đoàn dù xung kích số 8 đóng giữ.
Cảnh đồ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Nguồn: Erwan Bergot, Điện Biên Phủ 170 ngày đêm bị vây hãm, người dịch: Lê Kim, Nxb CAND và Công ty văn hóa Phương Nam phối hợp thực hiện, Hà Nội, 2003
Một máy bay Pháp hạ cánh xuống sân bay Mường Thanh để chở binh sĩ bị thương. Đây là lần cuối cùng máy bay Pháp hạ cánh xuống Điện Biên Phủ vì sau đó sân bay Mường Thanh hoàn toàn bị tê liệt. Bị hỏa lực pháo binh, cao xạ của ta khống chế, không một máy bay nào của địch dám hạ cánh xuống sân bay Mường Thanh. Để bảo đảm tiếp tế, địch phải dựa vào biện pháp duy nhất là thả dù. Tuy nhiên, biện pháp này khá tốn kém và bấp bênh do vấp phải hỏa lực ta đánh chặn quyết liệt.
H. Nava miêu tả một chuyến bay thả dù xuống Điện Biên Phủ trong hồi ký của mình như sau: “Sau một chặng hành trình vô số khó khăn (địa hình, thời tiết, thường là trong đêm tối), phi công phải lượn một vòng chờ đợi, bay vào khu vực được hướng dẫn trước, theo một đường bay cố định, theo hướng không thay đổi, lượn vòng bắt buộc ở một độ cao nhất định, có nghĩa là bốn lần phải xuất hiện trước họng hỏa lực của phòng không đối phương... Việc các khu vực thả dù dần dần bị thu hẹp lại và lực lượng đồn trú không có khả năng thu hồi thường xuyên vật phẩm tiếp tế được thả xuống, đã làm giảm đi hiệu quả của những nỗ lực anh hùng này”.2
Bài viết “Bố trí hậu phương: phương châm, tổ chức vận chuyển ở hỏa tuyến và tại trận địa”trong cuốn“Công tác hậu cần chiến dịch Điện Biên Phủ” do Tổng cục Hậu cần xuất bản năm 1979 miêu tả: ”Để chuẩn bị cho đợt 2, bộ đội ta tiếp tục xây dựng trận địa, đào một hệ thống giao thông hào vòng quanh khu trung tâm Mường Thanh. Ngoài hệ thống giao thông hào chằng chịt, ngày càng tiến sát trung tâm chỉ huy của địch, nhằm hỗ trợ tối ưu nhất cho các chiến sĩ trên mặt trận tiến công, quân ta cũng xây dựng sơ đồ bố trí hậu phương phù hợp.
Căn cứ vào yêu cầu tác chiến, điều kiện địa hình và đường sá, các cơ sở kho tàng của tuyến hậu cần hỏa tuyến bố trí dọc theo hai ven đường vận chuyền từ cây số 52 tới cây số 62. Chỉ huy sở của hậu cần hỏa tuyển đặt tại cây số 61, còn chỉ huy sở của Tổng cục tiền phương, ở sát Bộ chỉ huy chiến dịch ở Mường Phăng.
Từ khu vực hậu cần hỏa tuyến tới hậu phương các đại đoàn có 3 đường vận chuyền chính (sơ đồ 4): Đường Khâu Hu, Bản Tấu sang phía tây cho đại đoàn 308; dọc theo đường 43 vào Na Lợi cho đại đoàn 312; theo đường kéo pháo vào phía đông cho đại đoàn 316.
Để hậu cần đại đoàn có thể bố trí sát trận địa và đi sát các đơn vị dưới nhiều hơn, Tổng cục đề ra nguyên tắc: “Kéo dài tuyến Tổng cục, rút ngắn tuyến đại đoàn” để hướng vào hỏa tuyến, đi sát đơn vị.
Trong đợt đầu, cán bộ hậu cần các đơn vị chưa thấy rõ tính chất công tác hậu cần trong một trận công kiên trận địa, chưa có đầy đủ nhận thức về chỉ huy hậu cần, đồng thời do tư tưởng sợ phi pháo sợ địch đánh thọc ra các cơ sở hậu cần, nên bố trí hậu phương ở trong rừng núi xa trận địa. Trong đợt 1, khu vực hậu phương của đại đoàn thường cách các trung đoàn trên 10 cây số. Trung đoàn cách đại đội có trường hợp tới 7-8 cây số”.
Ngày xuất bản: 27/3/2024 Nội dung: Trung tá, Thạc sĩ Nguyễn Quốc Hùng, Viện Lịch sử quân sự; Ngọc Toản Thu Trình bày: ANH NGỌC Ảnh: TTXVN
1. Quân địch đã bị ta tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng, mất cả Phân khu miền Bắc. Tuy vậy, lực lượng chúng vẫn còn mạnh về số lượng, pháo binh của chúng vẫn tiếp tục hoạt động, không quân của chúng cũng hoạt động ngày càng mạnh mong phá huỷ các trận địa hoả lực của ta và sát thương sinh lực của ta.
2. Về phía ta, sau những chiến thắng đầu tiên, các đơn vị tham chiến đã chấn chỉnh xong lực lượng, toàn thể các đơn vị đều tích cực tham gia vào việc xây dựng trận địa tấn công và bao vây. Gần 100 cây số giao thông hào đã được đào và xây đắp đúng tiêu chuẩn, trừ một vài nơi. Đó là một công trình to lớn của quân ta; nhờ công trình đó mà hiện nay ta đã có điều kiện hạn chế viện binh của địch, làm khó khăn sự tiếp tế của chúng, nhất là phát huy được tất cả các cơ hoả lực từ bức kích pháo trở lên để uy hiếp tung thâm của địch. Một thành công của việc xây dựng trận địa là đã làm cho các cuộc oanh tạc dữ dội của địch gần như vô hiệu quả.
Nhưng thành công lớn hơn nữa là trận địa đó đã thực hiện được việc thắt chặt vòng vây và tạo điều kiện để tiếp cận và tấn công quân địch.
3. Hiện nay, địch chưa tăng viện nhiều cho Điện Biên Phủ ngoài một số đơn vị chưa đủ để bổ sung những tổn thất vừa qua. Đó là vì chúng còn mong đợi kết quả những trận ném bom dữ dội của chúng, đồng thời còn xem thử sức tấn công của quân ta sẽ như thế nào. Nếu hoạt động không quân của chúng phá huỷ được các trận địa hoả lực của ta, nếu rồi đây ta không tiêu diệt được nhiều sinh lực của chúng, thì khi đó chúng sẽ tăng viện để cố thủ Điện Biên Phủ. Ngược lại, nếu các trận địa hoả lực của ta vẫn được bảo toàn do công sự kiên cố và nguy trang chu đáo, nếu rồi đây quân ta tiếp tục tiêu diệt gọn những đơn vị tỉnh nhuệ của địch, thì khi đó quyết tâm cố thủ Điện Biên Phủ của địch nhất định bị lung lay.
Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị xung kích, các chiến sĩ cao xạ pháo đang đánh trả quyết liệt máy bay địch ở Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Căn cứ vào sự phân tích địch, ta nói trên, Tổng Quân ủy chủ trương:
Tập trung ưu thế tuyệt đồi bình hỏa lực, tiêu diệt toàn bộ khu vực miền đông Điện Biên Phủ, nhằm mục đích:
Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực của địch trong đó có một số đơn vị cơ động, Chiếm lĩnh một bộ phận trận địa pháo binh của địch,
Chiếm lĩnh toàn bộ các cao điểm phía đông, biến những cao điểm đó thành trận địa của ta để uy hiếp khu vực Mường Thanh,
Như vậy để tạo điều kiện đầy đủ cho quân ta chuyển sang tổng công kích, tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ.
Đây là một cuộc chiến đấu rất lớn, vì mục đích của nó không phải chỉ tiêu diệt từng tiểu đoàn của địch mà nhằm tiêu diệt mấy tiểu đoàn luôn. Cuộc chiến đấu này lại không đơn giản như hai cuộc chiến đấu đầu tiên mà lại phức tạp hơn, bao gồm cả một loạt công kiên tiêu diệt cứ điểm và những cuộc chiến đấu đánh thọc sâu vào tung thâm của địch. Cuộc chiến đấu này là một cuộc chiến đấu có tính chất quyết định để tạo điều kiện chuyển sang tổng công hích, giành toàn thắng cho chiến dịch.
1. Chúng ta có tuyệt đối ưu thế bình hỏa lực, về bộ binh cũng như về pháo binh (bao gồm cả trọng pháo 105 và các cỡ pháo từ 81 trở lên).
2. Chúng ta có một trận địa bao vây và tấn công vừng chắc, như vậy có thể bảo đảm cho quân ta nắm vững phương châm "đánh chắc, tiến chắc" mà tấn công quân địch. 3. Cán bộ và chiến sĩ của ta qua những cuộc chiến đấu và cuộc xây dựng trận địa vừa qua, đã thêm nhiều kinh nghiệm, nâng cao tin tưởng, do đó quyết tâm diệt địch được vững chắc hơn trước.
4. Tinh thần của địch ở Điện Biên Phủ trải qua mấy tháng bị vây hãm và những thất bại liên tiếp vừa qua, đã giảm sút khá nhiều.
Chúng ta có những khó khăn sau đây cần phải khắc phục.
a) Về tư tưởng, có một số cán bộ và chiến sĩ không nhận rõ tình hình địch ta, do đó dễ sinh chủ quan khinh địch, một số nữa rồi đây nếu không nhận rõ nhiệm vụ rất quan trọng sắp tới và những điều kiện tất thắng của ta thì sẽ không thực tích cực hoàn thành nhiệm vụ mới, không thực quán triệt quyết tâm của trên.
b) Chúng ta lần này không những đánh mấy cứ điểm luôn mà lại phải phát triển nhanh chóng vào tung thăm địch, về cách đánh này bộ đội ta còn ít kinh nghiệm. c) Cuộc chiến đấu không đơn giản như trước, do đó đòi hỏi một sự tổ chức chiến đấu chu đáo, một sự tổ chức chỉ huy tỷ mỷ và khoa học.
Chúng ta khắc phục những khó khăn trên như thế nào?
Bằng cách nắm lấy điểm chính mà giáo dục nhiệm vụ mới cho cán bộ và chiến sĩ, đồng thời khắc phục mọi tư tưởng sai lầm.
Chúng ta phải tăng cường cán bộ, tăng cường động viên, tăng cường tổ chức cho các đơn vị có nhiệm vụ đảnh sâu vào tung thâm. Phải chọn những cán bộ gan góc và linh hoạt mà giao nhiệm vụ đó, có thể biên chế một bộ phận các đội Dũng sĩ vào những đơn vị này.
Các cán bộ chỉ huy các cấp lại cần phải nghiên cứu và kiểm tra việc tổ chức chiến đấu và tổ chức chỉ huy.
Nếu chúng ta làm như trên thì chúng ta nhất định khắc phục được các khó khăn nói trên, bảo đảm cho cuộc chiến đấu này thu được thắng lợi lớn.
Nhiệm vụ cho các đơn vị là:
1) 321 được phối thuộc 2c/75, 2c/120, 1c/82 có nhiệm vụ:
a) Tiêu diệt các cao điểm E (202) D1 (201) D2 (201A), vị trí pháo binh địch ở 210 và quân cơ động thuộc d5 dù ngụy đóng ở đây (hoặc một bộ phận thuộc d6 dù thuộc địa).
b) Sau khi tiêu diệt xong địch, để lại một bộ phận nhỏ, tăng cường hỏa lực, cải tạo công sự, chiếm lĩnh trận địa, không cho địch phản kích chiếm lại, đồng thời tổ chức ngay những trận địa hỏa lực để khống chế và sát thương quân địch ở Mường Thanh.
2) 316 (thiếu 1e) được phối thuộc 2c/75, 2c/120, 2b/82, có nhiệm vụ:
a) Tiêu diệt các cao điểm A1(301), C1(302), C2(304) và phối hợp với đơn vị bạn tiêu diệt tiểu đoàn 6 dù thuộc địa (hoặc một bộ phận thuộc d5 dù ngụy).
b) Sau khi tiêu diệt xong địch, nhiệm vụ như trên.
3) 308 có nhiệm vụ:
a) Tiêu diệt khu vực tung thâm phía Đông gồm tiểu đoàn Thái thứ 2 và vị trí pháo binh ở đó, phối hợp với f316 tiêu diệt d6 dù thuộc địa.
b) Sau khi tiêu diệt xong địch, nhiệm vụ như trên.
c) Dùng hỏa lực kiềm chế địch ở phía Tây Mường Thanh và dùng bộ đội nhỏ dương công tích cực các cứ điểm 106 và 310.
d) Bố trí đánh quân nhảy dù xuống phía tây và tây nam Mường Thanh và chặn viện địch từ Hồng Cúm lên ngày hôm sau.
4) 304 (thiếu 2e) phối thuộc có tiểu đoàn 888/316, 1c/105, 1c/120, 4 khẩu 82, 18 khẩu 12,8 có nhiệm vụ:
a) Kiềm chế đắc lực pháo binh địch ở Hồng Cúm.
b) Chặn địch tiếp viện từ Hồng Cúm lên Mường Thanh.
c) Tiêu hao địch nhảy dù chung quanh và phía nam Hồng Cúm.
5) 351: e45 trực tiếp yếm hộ cho bộ binh tấn công các cứ điểm E, D1, D2, C1, C2, A1.
Chế áp và phá hủy một phần pháo binh địch, sát thương, tiêu hao một bộ phận lực lượng cơ động ở tung thâm phía đông Mường Thanh.
Kiềm chế pháo binh địch ở Mường Thanh và Hồng Cúm.
6) e367: yểm hộ cho bộ binh và pháo binh chiến đấu cả ngày và đêm.
Vâng lệnh Hồ Chủ Tịch, Trung ương Đảng và Chính phủ, các đơn vị bộ đội ta băng rừng, lội suối tiến vào Điện Biên Phủ. Ảnh: TTXVN
1. Trước hết, yêu cầu các cấp chỉ huy phải kiên quyết, dùng mãnh, nhanh chóng, không để mất một thời cơ nào, tích cực tiêu diệt địch.
Mỗi một cán bộ đều phải nhận rõ nhiệm vụ quan trọng của đơn vị mình; tất cả các đơn vị, tất cả các binh chủng đều phải tích cực hoàn thành nhiệm vụ, không được một đơn vị nào coi nhẹ nhiệm vụ của mình vì nếu coi nhẹ, thì không những sẽ ảnh hưởng đến việc hoàn thành nhiệm vụ của bản thân mình mà sẽ ảnh hưởng đến thắng lợi chung.
Tất cả các cán bộ chỉ huy đều có nhiệm vụ tự mình thân ra mặt trận để kiểm tra, đôn đốc, tổ chức chiến đấu, động viên chiến sĩ. Cán bộ nào không đi sát bộ đội, lơ là trong việc kiểm tra đôn đốc thì sẽ bị thi hành kỷ luật.
Quyết tâm cao độ của cán bộ là yêu cầu cơ bản, là mấu chốt để đưa cuộc chiến đấu này đến toàn thắng.
2. Bộ - pháo hợp đồng phải chặt chẽ và có kế hoạch tỷ mỷ hơn trước, vì lần này hoả lực nhiều, pháo các cỡ đều được phát huy, nhiệm vụ của bộ binh và pháo binh cũng phức tạp hơn trước.
3. Có sự chuẩn bị thiết thực về tư tường, về tổ chức, về cán bộ để bảo đảm chiến đấu liên tục, liên tục ngay trong trận này, tiêu diệt được địch ở một địa điểm thì lập tức phát triển tiêu diệt thêm sinh lực của địch.
Công tác tham mưu chú trọng:
a) Kế hoạch hợp đồng bộ - pháo.
b) Tổ chức chỉ huy, nhất là thông tin liên lạc bao gồm điện thoại, vô tuyến điện thoại và vô tuyến điện.
Công tác chính trị chú trọng:
a) Động viên thâm nhập xuống chiến sĩ một cách nhanh chóng, đồng thời căn cứ vào nhiệm vụ cụ thể của từng đơn vị, tình hình tư tưởng của từng đơn vị mà động viên quyết tâm.
b) Công tác địch vận.
Công tác cung cấp cần bảo đảm:
a) Việc cung cấp lương thực đầy đủ cho bộ đội trước, trong và sau cuộc chiến đấu.
b) Việc cung cấp đạn dược. Đây là một vấn đề quan trọng do quy mô của cuộc chiến đấu đặt ra, cần phải làm cho kỳ được.
c) Việc cấp cứu anh em thương binh.
Các đồng chí,
Cuộc chiến đấu to lớn của chúng ta sắp bắt đầu.
Cuộc chiến đấu này, như trên đã nói, có tính chất quyết định để chuyển sang tổng công kích.
Cuộc chiến đấu này thắng lợi sẽ làm cho quân ta tiến bộ một bước vượt bực, từ chỗ tiêu diệt từng tiểu đoàn địch trong công kiên chiến đến chỗ tiêu diệt mấy tiểu đoàn địch trong một trận. Cuộc chiến đấu này thắng lợi sẽ làm cho quân địch bị tổn thất rất nặng, làm cho chúng phải kinh khủng trước tinh thần kiên quyết, dũng mãnh của Quân đội nhân dân Việt Nam, sẽ làm lay chuyển ý chí chống giữ của quân đội chúng ở Điện Biên Phủ.
Toàn quân ta và nhân dân toàn quốc đang chờ đợi tin chiến thắng này.
Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng đang chờ đợi tin chiến thắng này.
Chúng ta hãy kiên quyết tiến ra mặt trận, người người đều làm gương mẫu, bảo đảm cho cuộc chiến đấu to lớn này được toàn thắng.
Các đơn vị xung kích đang tiến vào khu trung tâm. Ảnh: TTXVN
Nguồn: Điện Biên Phủ Văn kiện Đảng, Nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.688-693; Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Báo cáo về kế hoạch tác chiến và tổng kết kinh nghiệm trong các chiến dịch lớn, Tập III: Chiến dịch Điện Biên Phủ, Bộ Tổng Tham mưu xuất bản, tr.107-116. Trình bày: ANH NGỌC Ảnh: TTXVN