Những quyết định xoay chuyển cục diện chiến trường Điện Biên Phủ
Khi trận đã dàn quân, đạn lên nòng, thời điểm khai hỏa đã định, đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định chuyển hướng đánh nhanh sang đánh chắc.
Ngày 27/3, tại Hà Nội, các tướng lĩnh, nhà khoa học quân sự quốc phòng đã tham gia hội thảo Chiến thắng Điện Biên Phủ - Giá trị lịch sử và tầm vóc thời đại. Trong hơn ba tiếng, các đại biểu nêu bật nghệ thuật quân sự cũng như những quyết định lịch sử xoay chuyển cục diện chiến trường 70 năm trước.
https://vnexpress.net/nhung-quyet-dinh-xoay-chuyen-cuc-dien-chien-truong-dien-bien-phu-4727382.html
Ngày 28/3/1954, Bộ Tổng Tư lệnh ra mệnh lệnh số 83-ML/B1, trong đó xác định quyết tâm của Bộ trong đợt tiến công thứ 2 là “Tập trung ưu thế tuyệt đối binh hỏa lực, tiêu diệt toàn bộ khu vực phía đông Mường Thanh, tạo điều kiện đầy đủ cho quân ta chuyển sang tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ”. Chỉ thị giao nhiệm vụ cụ thể cho các đơn vị:
- Đại đoàn 312: Tiêu diệt các cứ điểm 201 (D1), 201A (D2), vị trí pháo binh địch ở 210, bộ phận cơ động của tiểu đoàn dù Việt Nam số 5 hoặc một bộ phận tiểu đoàn dù thuộc địa số 6. Sau khi diệt xong, để lại bộ phận nhỏ binh lực tăng cường hỏa lực, cải tạo công sự, chiếm giữ trận địa, ngăn địch phản kích chiếm lại, đồng thời tổ chức trận địa hỏa lực khống chế sân bay Mường Thanh.
- Đại đoàn 316 (thiếu một trung đoàn): Tiêu diệt các cứ điểm 301 (A1), 302 (C1), 304 (C2), phối hợp với đơn vị bạn tiêu diệt tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 hoặc bộ phận tiểu đoàn dù Việt Nam số 5. Sau khi diệt địch, để lại bộ phận lực lượng cải tạo công sự, ngăn địch phản kích chiếm lại, đồng thời tổ chức trận địa hỏa lực khống chế và sát thương quân địch ở Mường Thanh.
- Đại đoàn 308: Tiêu diệt khu vực tung thâm của địch gồm tiểu đoàn Thái số 2 và vị trí pháo binh địch, phối hợp với Trung đoàn 98 tiêu diệt tiểu đoàn dù thuộc địa số 6; dùng hỏa lực kiềm chế pháo binh địch ở tây Mường Thanh và dùng lực lượng nhỏ kiềm chế các cứ điểm 106 và 310; bố trí lực lượng đánh nhảy dù xuống phía tây và tây nam Mường Thanh, chặn tiếp viện của địch từ Hồng Cúm lên.
- Đại đoàn 304: Kiềm chế đắc lực pháo binh địch ở Hồng Cúm; chặn quân tiếp viện không cho chúng từ Hồng Cúm lên Mường Thanh; tiêu diệt địch nhảy dù xung quanh và phía nam Hồng Cúm.
- Đại đoàn 351: Lựu pháo yểm hộ cho bộ binh tiến công các cứ điểm của địch; chế áp và phá hủy pháo binh địch, tiêu diệt một bộ phận cơ động của địch; kiềm chế pháo binh địch ở Mường Thanh và Hồng Cúm. Pháo cao xạ yểm hộ cho lựu pháo và bộ binh chiến đấu cả ngày lẫn đêm.
Bộ Tổng Tư lệnh yêu cầu:
- Các cấp chỉ huy phải đề cao quyết tâm chiến đấu, kiên quyết, dũng mãnh, không để mất thời cơ diệt địch. Phải tự mình ra mặt trận, kiểm tra đôn đốc, tổ chức chiến đấu, động viên bộ đội.
- Chú trọng tổ chức hỏa lực, tổ chức đội đột phá, tổ chức đội đánh thọc sâu.
- Căn cứ vào chỉ thị hiệp đồng để xây dựng kế hoạch hiệp đồng tỉ mỉ giữa các lực lượng, các đơn vị và xây dựng kế hoạch thông tin liên lạc.
- Chuẩn bị về tư tưởng, tổ chức, cán bộ, bảo đảm chiến đấu liên tục, phát triển liên tục khi có thời cơ.
Đây là sự chỉ đạo kịp thời của Tổng Quân ủy trong lúc các đơn vị đang tích cực, khẩn trương tiến hành công tác chuẩn bị bước vào đợt tiến công thứ 2. Tiếp tục quán triệt vị trí, tầm quan trọng của đợt tiến công này, qua đó xác định trách nhiệm, xây dựng quyết tâm cũng như định hướng tư tưởng, hành động cho lãnh đạo, chỉ huy và cán bộ, chiến sĩ các đơn vị trên toàn Mặt trận.
Cùng ngày, Thiếu tướng Hoàng Văn Thái, Phó Tổng Tham mưu trưởng ra Chỉ thị số 84/A1 về việc tổ chức hỏa lực và hợp đồng bộ pháo trong trận tấn công tiêu diệt quân địch ở khu vực phía đông Mường Thanh.
Chỉ thị đã phân tích kỹ tương quan hỏa lực giữa ta và địch ở khu vực đông Mường Thanh về số lượng thì ta ưu thế hơn địch; chỉ rõ cách thức phân phối hỏa khí, tổ chức hỏa lực, thời cơ tiến nhập trận địa cùng thứ tự xạ kích và bộ phận hiệp đồng; cách thức tổ chức chỉ huy. Đồng chí Phó Tổng Tham mưu trưởng cũng chỉ rõ 5 điểm cần lưu ý:
- Giữ vững việc chế áp trật tự, chú ý tiết kiệm đạn dược.
- Cao xạ pháo phải tổ chức bắn ban đêm, đuổi máy bay địch uy hiếp không phận trận địa.
- Các ký hiệu thông tin liên lạc phải đơn giản, rõ ràng, đồng thời có nhiều phương tiện dự bị, bảo đảm khi bộ binh phát triển vào trung tâm không bị pháo ta bắn nhầm.
- Cán bộ pháo binh chi viện và phối thuộc phải cùng cán bộ bộ binh định kế hoạch hiệp đồng.
- Phải chiếm lĩnh trước giờ công kích như đã quy định để khi phát hỏa chế áp được đồng thời.
Tại chiến trường Điện Biên Phủ:
Chiếc máy bay thứ 43 của quân Pháp bị pháo cao xạ của quân ta bắn hạ. Mặc dù gặp nhiều khó khăn, nhưng bộ đội cao xạ ngày càng trưởng thành và thực hiện tốt nhiệm vụ khống chế chặt chẽ bầu trời.
Các đại đoàn triển khai nhiệm vụ chuẩn bị bước vào đợt tiến công thứ 2.
Các chiến sĩ xung kích của ta đang cắt các hàng rào dây thép gai bắt đầu cuộc tấn công. Ảnh: TTXVN
Về địch:
Các lực lượng của địch mở cuộc hành quân ra phía Tây nhằm tiêu diệt các khẩu pháo cao xạ của ta đặt tại bản Ong Pét và gần bản Pe. Tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 mở đầu cuộc tiến công, tiếp theo là tiểu đoàn dù xung kích số 8, tiểu đoàn bộ binh lê dương số 1 làm nhiệm vụ hỗ trợ khi rút quân trở về. Các xe tăng từ Phân khu Hồng Cúm được huy động để yểm trợ hỏa lực cho bộ binh địch.
Trong những ngày này khi cả đất nước đang chuẩn bị cho kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, chúng tôi tìm gặp lại những chiến sĩ Điện Biên năm xưa tại phường Hoành Bồ, thành phố Hạ Long. Trong số 17 người tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ ngày ấy giờ chỉ còn lại năm người và đều đã ở độ tuổi xưa nay hiếm, trên dưới 90 tuổi.
Trong đôi mắt của những người lính già Đào Xuân Mộc không ngăn được những dòng lệ cảm xúc khi kể về những tháng ngày chiến đấu oanh liệt năm xưa. Ông nguyên là chiến sĩ của Tổng cục hậu cần, phụ trách ban liên lạc gồm 11 người có nhiệm vụ chuyển công văn đi, đến cho Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Đây được coi là một trong những mắt xích quan trọng góp phần làm nên thành công của chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử.
Nguyên là cán bộ tham mưu và vinh dự được phục vụ cho Đại Tướng Võ Nguyên Giáp trong chiến dịch Điện Điện Biên Phủ, năm nay ông hơn 90 tuổi, sức khoẻ đã yếu nhiều. Chỉ cho chúng tôi xem những tấm hình xưa, khi còn là người lính trẻ tình nguyện xin ra chiến trường chống giặc, mang trong mình khát khao giải phóng đất nước, ông Phạm Văn Sắc, nguyên chiến sĩ Đại đoàn 316 (còn gọi là Đại đoàn Bông Lau, nay là Sư đoàn 316) vẫn không giấu được cảm xúc tự hào về những ký ức của tháng ngày trực tiếp tham gia vào trận đánh giữ từng tấc đất trên đồi A1, Điện Biên Phủ, vẫn vẹn nguyên trong tâm trí ông.
Đại đội 54, bộ đội tỉnh Hải Ninh trong kháng chiến chống Pháp. (Ảnh Tư liệu Bảo tàng Quảng Ninh)
Trải qua hàng chục ngày đêm khoét núi, đào hào cùng với đồng đội là những ký ức không thể nào quên đối với ông Sắc. Qua lời kể của ông, những ngày tháng gian khó nhưng vô cùng hào hùng bỗng chốc lại hiện ra sống động, lôi cuốn chúng tôi trở lại những ngày tháng lịch sử, hào hùng của chiến thắng Điện Biên Phủ. Ông Sắc kể lại: Đêm 24/1/1954, sau cuộc họp ở đại bản doanh Mường Phăng do Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp triệu tập, thảo luận về phương án tác chiến mới, chuyển từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”, đơn vị của tôi được giao nhiệm vụ đào hào. Mỗi ngày, tôi cùng đồng đội vừa đào hào, vừa xây dựng trận địa.
Đầu tiên là đào hầm cá nhân để tránh pháo của địch, sau đó là đào hầm nối hầm cá nhân này với hầm cá nhân khác để tạo thành hình những chữ Z nối dài. Đêm 30/3/1954 là đêm diễn ra trận đánh đầu tiên trên đồi A1. Tiếp đó, từ ngày 31/3, quân ta chiếm một nửa quả đồi, địch một nửa quả đồi, khoảng cách gần nhau. Địch phòng thủ còn bộ đội ta quyết tâm chiếm toàn bộ quả đồi, quyết tâm giành chiến thắng. Cứ như vậy, anh em, đồng đội chúng tôi kề vai, sát cánh cùng nhau chiến đấu với quân địch trong suốt mấy chục ngày đêm.
Nguyên chiến sĩ Trung đoàn 102, Sư đoàn 308, ông Đồng Xuân Luật xúc động kể lại: Trưa 6/5, anh nuôi của đơn vị nắm cho mỗi người một nắm cơm và chúng tôi bắt đầu hành quân từ hai giờ chiều, ra đến cửa rừng lúc đó đã là năm giờ chiều. Đến 20 giờ 30 phút ngày 6/5, khối bộc phá nổ trên Đồi A1 báo hiệu ngày tàn của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Dù tổn thất nhiều về lực lượng, nhưng bộ đội ta vẫn hạ quyết tâm chiến đấu đến cùng.
Đến 17 giờ 30 phút ngày 7/5, lá cờ "Quyết chiến - Quyết thắng" của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng Đờ Ca-xtơ-ri, Chỉ huy trưởng Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, đơn vị tôi nhận được tin báo ta đã giành chiến thắng trong chiến dịch này. Kể đến đây giọng ông chợt chùng lại: Để có được chiến thắng này, biết bao đồng chí, đồng đội của tôi đã anh dũng hy sinh. Tôi nhớ mãi hình ảnh, ngọn cờ chiến thắng giương cao, trong màu cờ ấy đã thấm đẫm máu của những đồng đội thân yêu của chúng tôi đã ngã xuống nơi đây. Trước bóng cờ chiến thắng tung bay trên Đồi A1, chúng tôi ôm nhau khóc, khóc vì niềm vui chiến thắng, khóc vì tiếc thương những người đồng đội đã anh dũng ngã xuống cho độc lập, tự do của dân tộc.
Các Cựu chiến binh Điện Biên Phủ phường Hoành Bồ, thành phố Hạ Long (Quảng Ninh) ôn lại kỷ niệm về chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954. (Ảnh: Báo Quảng Ninh chụp năm 2022).
Chiến thắng Điện Biên Phủ đi vào lịch sử của dân tộc Việt Nam và đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, buộc thực dân Pháp phải ngồi vào bàn hội nghị ký Hiệp định Giơnevơ chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược (1945-1954) ở Đông Dương, miền bắc Việt Nam được hoàn toàn giải phóng. Hiệp định Giơnevơ đã tạo được cục diện mới, tạo tiền đề và cơ sở pháp lý rất quan trọng để dân tộc Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975).
Trở về đời thường, những người lính Điện Biên năm xưa vẫn giữ vững và phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, nuôi dạy con cháu trưởng thành. Các cựu chiến binh mãi là tấm gương sáng, mẫu mực để con cháu và thế hệ trẻ hôm nay tiếp tục phát huy tinh thần, hào khí Điện Biên, xây dựng quê hương Quảng Ninh giàu đẹp, văn minh, xứng đáng với những hy sinh của ông cha vì độc lập, tự do của dân tộc.
70 năm đã qua, âm vang chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ vẫn còn vang vọng mãi với những cựu chiến binh Điện Biên Phủ phường Hoành Bồ nói riêng và của Vùng mỏ Quảng Ninh nói chung. Họ mãi là những cuốn lịch sử sống cho thế hệ sau hiểu hơn về những năm tháng hào hùng của dân tộc, để tự hào, ý thức được trách nhiệm xây dựng đất nước ngày càng phát triển và giàu đẹp hơn. Đó là lý tưởng sống mà các thế hệ cha anh đi trước đã lựa chọn, theo đuổi và cũng là hành trang gửi gắm cho thế hệ trẻ hôm nay, dựng xây quê hương, đất nước ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã căn dặn.
Bước vào năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta chuyển sang giai đoạn quyết định, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn. Chấp hành chỉ thị của Liên khu Việt Bắc, Tỉnh ủy các tỉnh Hải Ninh, Quảng Yên và Đặc khu Hồng Gai đã chỉ đạo quân dân các địa phương liên tục đấu tranh, chiến đấu với địch để phối hợp với chiến trường chính Điện Biên Phủ.
Theo Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) – Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội - 1991, khi ấy, tại Hải Ninh, Tỉnh ủy Hải Ninh chủ trương ra sức củng cố vùng tự do, dùng một lực lượng bộ đội hỗ trợ cho cuộc vận động trừ gian, tiễu phỉ, đồng thời tung bộ đội chủ lực về vùng sau lưng địch để giúp các địa phương phát động chiến tranh du kích, kết hợp vận động binh lính địch về với nhân dân.
Khi chiến dịch Biện Biên Phủ bắt đầu, tỉnh đã tổ chức học tập thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh và phát động phong trào thi đua giết giặc lập công, phối hợp với chiến trường chính Điện Biên Phủ. Trong ba tháng chiến đấu liên tục, quân và dân Hải Ninh đã đánh 132 trận, diệt 126 tên địch, làm bị thương 184 tên, tiếp nhận ba xe hàng binh, phá hủy chín xe, đánh sập một cầu, thu 29 súng, 40 lựu đạn và cắt đứt 41 km đường dây điện thoại.
Trên địa bàn Đặc khu Hồng Gai, đầu năm 1954, địch đã rút bớt quân ở Hà Tu, Hà Lầm, Quang Hanh để bổ sung cho chiến trường chính. Thực hiện chủ trương của Đặc khu ủy, ta đã tiến công mạnh vào lực lượng vũ trang phản động do địch xây dựng ở Hoành Bồ. Trong hai tháng, tháng 2 và tháng 4-1954, ta đã đánh 20 trận trên đường 18. Kết hợp tác chiến với địch vận, ta đã buộc địch rút khỏi một số đồn ở Hoành Bồ. Sang tháng 5, khi quân ta mở đợt công kích ở Điện Biên Phủ thì bọn giặc ở Hoành Bồ và Hồng Gai đã co cụm lại hoàn toàn. Lực lượng vũ trang phản động tan rã từng mảng.
Tính ra, trong bảy tháng đầu năm 1954, lực lượng vũ trang Đặc khu Hồng Gai đã chiến đấu 68 trận, diệt 164 tên địch, bắn bị thương 77 tên, thu 35 súng, phá bốn xe, hai phà và làm tan rã hàng trăm tên địch. Cùng khoảng thời gian này, đã có 14 cuộc đấu tranh của công nhân trong khu mỏ đòi chủ mỏ tăng lương, chống đánh đập, cúp phạt và hạ mức khoán sản phẩm...
Tại Quảng Yên, phối hợp với chiến trường Điện Biên Phủ, Tỉnh ủy Quảng Yên chủ trương mạnh bạo đưa bộ đội chủ lực tỉnh vào vùng tạm bị chiếm của Yên Hưng, Thủy Nguyên (nay huyện Thủy Nguyên thuộc Hải Phòng) để tiêu diệt địch và hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang và công tác địch vận trên phạm vi hai huyện này.
Đồng thời, tỉnh cũng chủ trương đẩy mạnh lối đánh địch chủ động, liên tục và rộng khắp của bộ đội huyện và dân quân du kích để hỗ trợ hàng loạt xã ở vùng tạm bị chiếm từ đấu tranh chính trị lên đấu tranh vũ trang, hoặc đấu tranh vũ trang kết hợp đấu tranh chính trị. Để quyết tâm giành các phần thưởng cao quý như cờ Quyết chiến quyết thắng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và cờ “Tiểu đoàn gương mẫu” của Liên khu Việt Bắc, giữa tỉnh Quảng Yên và tỉnh Hải Ninh và giữa tiểu đoàn Bạch Đằng với tiểu đoàn Thiên Đức đã diễn ra cuộc thi đua sôi nổi đầy khí thế cách mạng.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, tổng kết đợt thi đua do Liên khu Việt Bắc phát động để phối hợp với chiến trường Điện Biên Phủ (từ ngày 22/12/1953 đến 19/5/1954), quân và dân Quảng Yên đã đánh gần 400 trận, tiêu diệt và loại khỏi vùng chiến đấu 3.500 tên địch, vận động được 1.195 lính nguỵ đào ngũ và giải ngũ. Với những thành tích đạt được, tỉnh Quảng Yên đã vinh dự được nhận Cờ thi đua Quyết chiến - Quyết thắng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tiểu đoàn Bạch Đằng vinh dự nhận Cờ “Tiểu đoàn gương mẫu” của Liên khu Việt Bắc.
Theo Quảng Ninh - Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội - 1991, trong chín năm kháng chiến chống Pháp, quân và dân Quảng Ninh (Quảng Yên, Đặc khu Hòn Gai, Hải Ninh) đã đánh 3.459 trận, tiêu diệt và làm bị thương 22.100 tên, bắt sống 2.851 tên, thu 8.000 súng và hàng chục tấn quân trang.
Không có thống kê nhưng rõ ràng để có thành tích ấy, đã có rất nhiều cán bộ, chiến sĩ, đồng bào đã ngã xuống hay hy sinh một phần thân thể cho Tổ quốc. Đóng góp vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp nói chung, chiến thắng Điện Biên Phủ nói riêng, Quảng Ninh tự hào có một cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân đó là Nguyễn Văn Thuần. Ông sinh năm 1916, quê ở phường Cộng Hòa (thị xã Quảng Yên), được tuyên dương trong đợt phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân đợt 2 (ngày 31/8/1955) của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Khi được phong tặng danh hiệu anh hùng, ông là Trung đoàn phó Trung đoàn 209, Sư đoàn 312.
Nội dung: LƯƠNG QUANG THỌ
Trình bày: TRẦN LAM
Chuẩn bị bước vào đợt 2 Chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt cho Tổng Quân ủy gửi thư động viên các đồng chí đảng viên ở mặt trận. Bức thư nêu rõ:
"Trận đánh sắp tới là một trận đánh rất lớn có tính chất quyết định để chuyển sang tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ. Các đồng chí hãy nêu cao hơn nữa tinh thần gương mẫu, dũng cảm chiến đấu của những người đảng viên Đảng Lao động, nhất là trong những giờ phút gay go, quyết liệt.
Tất cả các đồng chí chúng ta trong cuộc chiến đấu sắp tới đều phải kiên quyết, dũng cảm, đánh nhanh, giải quyết nhanh, đánh mạnh như vũ bão, không để mất một cơ hội nào để tiêu diệt địch, lãnh đạo toàn thể anh em cán bộ và chiến sĩ hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang Đảng giao cho".
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trao cờ Quyết chiến quyết thắng của Hồ Chủ Tịch tặng các đơn vị lập công.
Cùng ngày, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam cũng có thư động viên toàn thể cán bộ, chiến sĩ trước đợt tiến công lớn vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Bức thư khẳng định 3 mục đích của đợt tiến công thứ 2 là:
Đại tướng nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ: “Tất cả cán bộ chiến sĩ đều phải thấm nhuần quyết tâm của trên, khi ra trận phải kiên quyết, dũng cảm, đánh nhanh, giải quyết nhanh, đánh mạnh như vũ bão, không để mất một cơ hội nào để tiêu diệt địch. Người trước ngã, kẻ sau lên, cán bộ, đảng viên làm gương cho toàn quân, mỗi một chiến sĩ đều là gương trong khi xung phong giết giặc, mọi người đều có một khí thế rất lớn. Không sợ khó khăn, không sợ thương vong, làm cho quân địch thấy bóng quân ta là khiếp sợ...
Đây là cuộc thử thách lớn đối với toàn thể cán bộ cũng như chiến sĩ.
Toàn quân trên các mặt trận, đồng bào ta ở khắp toàn quốc đang mong chờ tin chiến thắng này.
Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch đang mong chờ tin chiến thắng này”.
Về địch: Cứ điểm mới mang tên Eliane 4 (Đồi C2) được thành lập do các đơn vị rút từ tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 và tiểu đoàn dù lính ngụy số 5 cùng chốt giữ.
Ngay sau đợt tấn công thứ nhất của chiến dịch Điện Biên Phủ, để củng cố công tác hậu cần, tiếp viện cho tiền phương, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã gửi thư chỉ rõ nhiệm vụ cho anh em lái xe, phụ xe và dân công vận tải. Trong thư, Đại tướng Võ Nguyên Giáp dặn dò: “Nhiệm vụ giết giặc của bộ đội ngày càng lớn. Nhiệm vụ ngành vận tải ngày càng nặng nề và quan trọng. Để bảo đảm cho bộ đội giết giặc, tất cả các đội viên vận tải, các anh em lái xe, phụ xe, các anh chị em dân công vận tải hãy cố gắng thi đua tăng năng suất, thi đua tranh thủ thời gian, thi đua chuyển cho nhiều hàng, thi đua tiết kiệm xăng dầu, giữ gìn xe cộ, giữ gìn hàng hóa. Muốn được như vậy, các anh chị em cần có quyết tâm vững chắc, cần có tinh thần chịu đựng gian khổ, cần đoàn kết tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Các anh chị em hãy hăng hái giật giải thưởng của Hồ Chủ tịch và Bộ Tổng tư lệnh” (trích cuốn “Chiến thắng Điện Biên Phủ: Sức mạnh Việt Nam và tầm vóc thời đại”, Nhà xuất bản Khoa học xã hội (2014))
Đoàn dân công xe thồ phục vụ tiền tuyến. Ảnh: TTXVN
Bên cạnh đó, Đảng ủy Cung cấp mặt trận cũng ra lời kêu gọi: “Súng ta đã nổ đạn không thể thiếu. Bộ đội ta đã đánh ăn không thể thiếu. Quân ta đã tiến quyết không thể ngừng. Cán bộ, chiến sĩ, dân công hãy dốc toàn lực, phối hợp chặt chẽ, khẩn trương bền bỉ, không ngại gian khổ, khó khăn, mệt nhọc, kiên quyết hoàn thành tốt nhiệm vụ”. (trích cuốn “Chiến thắng Điện Biên Phủ: Sức mạnh Việt Nam và tầm vóc thời đại”, Nhà xuất bản Khoa học xã hội (2014))
Đây chính là liều thuốc tinh thần quý báu, kích thích tinh thần vượt khó, quyết tâm giết giặc cứu nước của quân dân ta trước trận chiến có ý nghĩa sống còn.
Ngày xuất bản : 29/3/2024
Nội dung : Trung tá, Thạc sĩ Nguyễn Quốc Hùng, Viện Lịch sử quân sự; Ngọc Toản Thu
Ảnh: TTXVN
Trình bày: HÙNG HIẾU
Tại cứ điểm C1, cuộc tiến công của Trung đoàn 98 dưới sự chỉ huy của Trung đoàn trưởng Vũ Lăng diễn ra nhanh chóng. Chỉ sau 15 phút, ta đã dọn xong cửa mở qua 7 lần rào thép gai. Chớp thời cơ, quân ta chỉ bằng một đợt xung phong đã chiếm được lô cốt cao nhất, tiểu đội trưởng mũi nhọn Nguyễn Thiện Cải cắm lá cờ “Quyết chiến, quyết thắng” lên nóc sở chỉ huy của địch.
Quân địch bị dồn về các lô cốt phía tây, gọi pháo binh bắn vào trận địa ta.
Các chiến sĩ dũng cảm dùng lưỡi lê, lựu đạn lao lên đánh giáp lá cà, đập tan 3 đợt phản kích của địch.
Chỉ trong vòng 45 phút, trận đánh C1 kết thúc. Ta diệt và bắt toàn bộ một đại đội với 140 tên địch thuộc tiểu đoàn 1, trung đoàn 4 Marốc, ta thương vong 10 người.
Với chiến công đầu, Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi điện khen Trung đoàn 98 và thưởng Huân chương Quân công hạng Ba cho Tiểu đoàn 125.
Các chiến sĩ xung kích của ta đang cắt các hàng rào dây thép gai mở đầu cho cuộc tiến công vào các vị trí địch ở khu đồi C. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Tại cứ điểm E, Trung đoàn 141 nổ súng tiến công trong lúc địch thay quân, lực lượng lộ ra ngoài công sự với đầy đủ trang bị. Quân địch hoảng loạn tháo chạy, xô vào nhau, đại đội cối của địch chưa kịp bắn đã bị pháo binh ta tiêu diệt. Hai mũi tiến công của Tiểu đoàn 16 và tiểu đoàn 428 nhanh chóng mở cửa qua hàng rào thép gai và bãi mìn, xung phong áp đảo quân địch. Sau một giờ chiến đấu, bộ đội ta chiếm toàn bộ cứ điểm. Sau đó tổ chức hỏa lực chi viện cho mũi thọc sâu của Trung đoàn, đồng thời khống chế pháo binh địch ở điểm cao 210.
19 giờ 45 phút, Trung đoàn 141 đã hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt cứ điểm E.
Cuộc chiến đấu ác liệt đang diễn ra trên khu vực Đồi C. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Tại khu vực đồi D1, Trung đoàn 209 tiến công thuận lợi trên hướng chính. Sau khi mở cửa, bộ đội ta nhanh chóng xung phong vào căn cứ, thọc sâu chia cắt đội hình địch để tiêu diệt. Trên hướng phụ, do giao thông hào bị địch lấp, ta gặp lầy, mở cửa chậm, bị hỏa lực địch ngăn chặn, mất gần một giờ mới tiến vào trong đồn.
Đến 20 giờ, Trung đoàn 209 hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt đồi D1.
Cuộc chiến đấu ác liệt đang diễn ra trên khu vực Đồi C. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Tại khu vực đồi A1, cuộc chiến đấu của Trung đoàn 174 (Đại đoàn 316) diễn ra không thuận lợi. Do mất liên lạc với Đại đoàn ngay từ đầu, nên không nhận được lệnh tiến công. Sau khi C1 bị diệt, pháo chuyển làn bắn vào A1, Trung đoàn mới tiến hành mở cửa và mất hơn một giờ mới thông đường tiến. Khi ta xung phong, pháo binh địch bắn dữ dội vào cửa mở; hỏa lực địch dồn về phía lực lượng bộc phá phá hàng rào. Mất hơn nửa giờ hai mũi tiến công mới vượt qua 100m hàng rào và bãi mìn, lọt vào đồn địch.
Các đơn vị xung kích của ta đang tấn công địch trên đồi A1. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Lực lượng ta bị tổn thất nhiều, nhưng với tinh thần dũng cảm vẫn băng lên, tràn vào cứ điểm địch. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt, địch dựa vào công sự chống cự quyết liệt, sau đó rút vào hầm ngầm. Địch dùng pháo binh dồn dập trút xuống đỉnh đồi khiến bộ đội ta thương vong nhiều. Trung đoàn 174 đưa lực lượng dự bị vào chiến đấu, song lúc này địch dồn hỏa lực vào A1, các đợt xung phong của ta vẫn không vượt qua lưới hỏa lực của địch. Cuộc chiến đấu tại A1 tiếp tục giằng co tới sáng ngày 31/3.
Cũng trong chiều và đêm 30/3, Bộ Chỉ huy chiến dịch còn sử dụng lực lượng hình thành 3 mũi thọc sâu với nhiệm vụ tiêu diệt trận địa pháo ở 210 và đánh vào các lực lượng đóng ở vòng trong làm rối loạn trận địa phòng ngự của địch. Tuy nhiên, tình hình diễn ra không thuận lợi, lực lượng thọc sâu phát triển chiến đấu khó khăn. Mặc dù gây cho địch nhiều thiệt hại song không đạt được mục tiêu đề ra. Về khuya, hỏa lực địch càng hoạt động mạnh, chúng tổ chức chống cự quyết liệt. Cuộc chiến đấu của bộ đội ta trên những cao điểm phía đông chững lại.
Các đơn vị xung kích của ta đang tấn công địch trên đồi A1. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, có rất nhiều mệnh lệnh đầy tính nhân văn được đưa ra, thể hiện sự quan tâm của Đảng, của Bộ tư lệnh tới các chiến sĩ, đồng thời cũng như lời hiệu triệu ý chí chiến đấu của bộ đội ta. “Mặc quần áo mới” là một “mệnh lệnh” như vậy.
Cuốn “Chiến thắng Điện Biên Phủ (Ký sự)”, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân có ghi lại mệnh lệnh đặc biệt này với những kiến giải mang tính lịch sử: “Ngày 30/3, phần lớn các chiến sĩ đều mặc quần áo mới. Đối với các chiến sĩ, ngày chiến đấu là một ngày hội đặc biệt. Có nhiều đơn vị đã qua mấy tháng dòng chuẩn bị. Các chiến sĩ đã sống hằng tháng trong những căn hầm chật hẹp tại trận địa. Đêm này sang đêm khác, phải lần mò vào giáp vị trí địch, dầm mình dưới những trận bão thép để tạo nên từng mét đường hào. Hôm nay, giờ chiến đấu đã đến!
Sức khỏe bị giảm sút dần sau những ngày làm việc nặng nhọc và căng thẳng. Họ đã mong đợi từng phút cho thời gian chuẩn bị qua đi.”
Với những chiến sĩ tham gia trận Điện Biên Phủ đầy ác liệt, mỗi trận đánh là một lần bước tới lằn ranh sinh tử, ở đó không có chỗ cho sợ hãi hay đắn đo, mà chỉ có ý chí quyết chiến quyết thắng bất chấp gian khổ, hy sinh. Chính bởi vậy, khi ra trận, các chiến sĩ được mặc bộ quân phục sạch đẹp để sẵn sàng hy sinh cho một chiến thắng đầy vẻ vang của đất nước.
Ngày xuất bản: 30/3/2024
Nội dung: Trung tá, Thạc sĩ NGUYỄN QUỐC HÙNG, Viện Lịch sử quân sự; NGỌC TOẢN THU
Ảnh: TTXVN
Trình bày: VŨ HẢI
Bộ Chỉ huy Chiến dịch quyết định: Các đơn vị khẩn trương tổ chức trận địa phòng ngự trên các cao điểm C1, D1, E, chuẩn bị đánh địch phản kích ban ngày, quyết không để địch chiếm lại. Đại đoàn 308 sử dụng Trung đoàn 102 đưa sang phía đông, tiếp tục tiến công tiêu diệt A1 và phòng ngự tại C1. Đồng chí Vương Thừa Vũ chỉ huy trận đánh tại A1 và C1. Các trung đoàn 88, 36 (Đại đoàn 308) tiến công tiêu diệt các cứ điểm 106 và 311 ở phía tây. Trung đoàn 165 (Đại đoàn 312) tiến công tiêu diệt cứ điểm 105 ở phía bắc, uy hiếp mạnh quân địch, tạo điều kiện cho các đơn vị ở khu đông hoàn thành nhiệm vụ.
Phía địch: Mờ sáng 31/3, Bộ chỉ huy Pháp ở Điện Biên Phủ họp bàn cách đối phó với tình hình. Lănggơle đề nghị tập trung toàn bộ binh đoàn không vận số 2, gồm tiểu đoàn dù số 1, tiểu đoàn dù số 8, một bộ phận của tiểu đoàn dù số 5, cùng với tiểu đoàn lê dương số 3 và xe tăng từ Hồng Cúm tới để tiến hành phản kích. Toàn bộ lực lượng pháo cũng như xe tăng của tập đoàn cứ điểm sẽ được huy động vào cuộc phản kích.
7 giờ 45, tiểu đoàn lê dương số 3 với xe tăng yểm trợ từ Hồng Cúm tiến ra đường 41 đi về phía Mường Thanh. Tới bản Long Nhai, lọt vào trận địa của Trung đoàn 57, lập tức bị bao vây tiến công. Xe tăng trúng đạn DKZ bốc cháy, bộ binh bị hỏa lực dày đặc của ta tiêu diệt.
Gần trưa, pháo của địch phải bắn chặn để tiểu đoàn lê dương số 3 và xe tăng mở đường máu trở lại Hồng Cúm, mang theo 15 xác chết và 50 tên bị thương.
Thời tiết tốt, không quân địch hoạt động trở lại. Các máy bay vận tải C.119 do phi công Mỹ điều khiển thả dù tiếp tế đạn dược, lương thực; các máy bay chiến đấu cũng lao xuống, kết hợp với pháo binh địch bắn phá dữ dội vào các điểm cao C1, D1, E và A1.
Cảnh lính Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ ngày 23/3/1954. Ảnh: TTXVN
Đánh địch phản kích chiếm lại các mục tiêu đã mất và tiến công A1
Tại khu vực đồi D1, lợi dụng khói đại bác, địch bò lên tiếp cận mục tiêu. Do hầu hết chiến sĩ cảnh giới đã tử thương, địch tới gần và nổ súng ta mới biết. Sau khoảng 25 phút địch chiếm lại gần hết đồi D1, dồn lực lượng phòng ngự của ta vào một góc. Chiến sĩ Trần Ngọc Bội thét lớn “Thà chết không bỏ trận địa”, cùng đồng đội vùng lên dùng lựu đạn, lưỡi lê đánh lui những đợt phản kích của địch.
Chiến sĩ công binh cắt hàng rào dây thép gai, mở đường cho chiến sĩ xung kích tấn công tiêu diệt vị trí 206.
Đài quan sát của Trung đoàn phát hiện địch tại D1, lập tức cho pháo binh bắn chặn và điều lực lượng tăng viện. Ta đảo ngược thế trận, tiến lên đánh giáp lá cà với địch.
Sau một giờ chiến đấu, địch buộc phải tháo chạy về Mường Thanh.
Địch không chiếm lại được D1, mà còn phải bỏ luôn cứ điểm D3 do một đại đội Thái bảo vệ và rút trận địa pháo tại 210, do biết các cao điểm này không thể đứng vững nếu mất D1.
Các chiến sĩ xung kích của ta đang tấn công 1 vị trí của địch trên khu đồi C.
Tại C1, vào lúc 13 giờ 30 phút, địch cho hai tiểu đoàn dù số 5 và số 6 tiến lên, có pháo binh, không quân yểm hộ và xe tăng dẫn đường. Đại đội 273 (Trung đoàn 102) cùng lực lượng còn lại của Đại đội 35 (Trung đoàn 98) đánh lui nhiều đợt phản kích của địch từ C2 lên hòng chiếm lại cao điểm này. Địch cho đại bác bắn dữ dội, dùng súng phun lửa và xung phong lên, chiếm được cao điểm Cột Cờ, đẩy quân ta vào thế bất lợi.
Bộ đội phải dùng vải dù trắng buộc lên đầu súng làm chuẩn cho pháo binh xác định vị trí. Trong lúc pháo dồn dập, trung đoàn đưa lực lượng tăng viện, phối hợp với lực lượng phòng ngự tại trận địa đánh bật địch khỏi cao điểm Cột Cờ, khôi phục trận địa.
16 giờ, địch buộc phải rút lui khỏi C1, bị ta tiêu diệt gần 100 tên.
Trong ngày, ta đã đánh lui 7 đợt phản kích của hai tiểu đoàn dù địch tại đây.
Chiến sĩ xung kích của ta cắt các hàng rào giây thép gai mở đầu cho cuộc tấn công vào các vị trí của địch ở khu vực đồi C.
Tại A1, nửa đêm về sáng ngày 31/3, ta tổ chức lực lượng tiến công cứ điểm lần thứ 2. Trung đoàn 102 từ phía tây hành quân theo đường hào băng qua cánh đồng Mường Thanh sang phía đông.
Trưa 31/3, Ban Chỉ huy Trung đoàn 102 nhận bàn giao về địa hình và tình hình chiến đấu tại A1 từ Chỉ huy Trung đoàn 174. Tuy nhiên, quá trình cơ động gặp khó khăn, đến chiều mới có 4 đại đội kịp tới vị trí. Được tăng cường một đại đội của Trung đoàn 174, Trung đoàn 102 quyết định tiếp tục tiến công A1. Ta không dùng pháo bắn phá mà tập trung hỏa lực trợ chiến bắn uy hiếp địch rồi cho bộ đội xung phong, nhanh chóng chiếm được nửa cứ điểm ở phía đông.
Tuy nhiên, tình hình vẫn như đêm hôm trước, ta tổ chức bốn đợt xung phong mà không vượt qua được tuyến ngang trước hầm ngầm. Cuộc chiến đấu tiếp tục diễn ra giằng co quyết liệt, địch chiếm 2 phần 3 cứ điểm, ta bám trụ lại ở 1 phần 3 phía đông đồi A1.
Trên chiến trường phối hợp:
Tại Liên khu 4, ta đánh lật một đoàn tàu, tiêu diệt một đại đội của địch.
Nội dung: Trung tá, ThS Nguyễn Quốc Hùng - Viện Lịch sử quân sự.
Trình bày: Phi Nguyên
Ảnh: TTXVN, Nhân Dân
Mời các cụ ghé trang trại nhà em :
https://otonet.fun/forums/postid/7861/
Đêm 1/4, sau khi được bổ sung đầy đủ lực lượng, Trung đoàn 102 tổ chức đợt tiến công thứ 3 về phía hầm ngầm trên đồi A1. Địch chống cự quyết liệt. Ta đột kích mạnh vào khu hầm ngầm cố thủ, nhưng không tìm được cửa hầm. Do hỏa lực địch chế áp mạnh, ta buộc phải rút về tuyến phòng ngự. Trong những ngày tiếp theo, mỗi bên chiếm giữ một nửa cứ điểm, ta ở nửa phía đông, địch chiếm phần phía tây cứ điểm.
Tiến công tiêu diệt cứ diểm 106
Trong lúc Trung đoàn 102 đang chiến đấu trên đồi A1 thì Trung đoàn 36 cũng nhận được lệnh chuyển từ uy hiếp sang tiến công tiêu diệt cứ điểm 106. Lúc này chiến hào ta chỉ còn cách hàng rào dây thép gai cứ điểm 106 khoảng 50m. 18 giờ 30 phút, cuộc tiến công cứ điểm l06 bắt đầu. Hỏa lực đồng loạt bắn phá mãnh liệt vào cứ điểm, đặc biệt tập trung bắn phá trên hướng tấn công chủ yếu.
Sau một loạt pháo 105mm bắn dồn dập, Tiểu đoàn 80 của Trung đoàn 36 đã vận động tới sát nút hào cuối cùng. Đại đội đi đầu lập tức lao bộc phá mở cửa. Do hệ thống phòng ngự trong cứ điểm suy yếu, đại đội chủ công của Tiểu đoàn 88 xông thẳng vào sở chỉ huy, bắt sống tên Trung úy đồn trưởng. Địch trong khu A rút sang khu B với ý định pháo ta dứt thì quay lại, nhưng Tiểu đoàn 80 chủ công của trung đoàn đã nhanh chóng đánh chiếm khu A và từ đó tiến thẳng sang khu B theo đường hào trong cứ điểm diệt địch, bắt sống được 33 tên.
Các đơn vị xung kích của ta đang tấn công địch trên đồi A1. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Tại khu C, địch dựa vào lô cốt, hầm hào chống cự quyết liệt, nhưng cuối cùng đều bị ta vô hiệu hóa. Trận chiến đấu diễn ra rất nhanh, chỉ trong vòng 30 phút Trung đoàn 36 đã làm chủ hoàn toàn cứ điểm 106, tiêu diệt và bắt sống 160 tên lính Lê dương. Trong trận này, Trung đoàn 36 đã sáng tạo ra chiến thuật bao vây đánh lấn, tiêu diệt nhanh gọn cứ điểm 106. Sáng kiến của Trung đoàn đã được phổ biến ra toàn mặt trận Điện Biên Phủ cùng học tập và vận dụng.
Các đơn vị pháo binh của ta tiếp tục pháo kích vào các vị trí của địch. Các vị trí của địch bị trúng đạn pháo đang bốc cháy. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Phía địch:
Nava quyết định đưa thêm 3 tiểu đoàn dù tăng viện cho Điện Biên Phủ với hy vọng: “Nếu Điện Biên Phủ giữ được 3 ngày nữa, Việt Minh sẽ phải bỏ cuộc”. Máy bay Pháp bắt đầu thả dù ban đêm tăng viện cho Điện Biên Phủ. Nhưng mới thả được 1 trung đội thì phải ngừng vì pháo sáng soi rõ bãi thả, trở thành mục tiêu cho bộ đội ta tiêu diệt.
Giữa lúc bom lửa ác liệt nơi chảo lửa Điện Biên, mùa mưa ập đến như sự thử thách cho quyết tâm vượt khó của chiến sĩ ta. Gian khổ chồng gian khổ, nhưng không gian khổ nào át được tinh thần lao động, ý chí giệt giặc cứu nước của quân và dân ta.
Một phần ký ức đầy xúc động trong những ngày tháng khó quên đó đã được miêu tả thật chân thực và giàu cảm xúc trong cuốn sách “Đại tướng Võ Nguyên Giáp với chiến dịch Điện Biên Phủ”, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân (2014): “Trong đợt hai của chiến dịch, thời tiết đã chuyển vào mùa mưa. Máy bay địch liên tục đánh phá các đường giao thông tiếp tế của ta nhằm cứu nguy cho Điện Biên Phủ. Đường ra mặt trận bị mưa và bị bom đạn địch phá hoại, trở nên sụt lở, lầy lún nghiêm trọng. Việc tiếp tế bị giảm sút, gạo nhập kho có ngày chưa đầy 1.000kg, có khẩu pháo chỉ còn bảy viên đạn. Bảo đảm giao thông vận chuyển trở thành nhiệm vụ cấp bách có ý nghĩa quyết định đối với việc duy trì và phát triển chiến dịch. Để giữ vững hệ thống cầu đường, việc chống lấy lún có khối lượng lớn nhất, nặng nề nhất vì có tới 122km đường bị lầy lún nghiêm trọng.
Ngày 1/4/1954, Trung đoàn công binh 151 được tăng cường 750 dân công, ngày 19.4 thêm 2.000 dân công và ngày 26/4 thêm 2.700 dân công. Sau đó, cứ ba ngày lại có thêm dân công lên mặt đường, nhưng vẫn chưa đủ lực lượng chống lầy lún. Một số đơn vị bộ binh cũng được điều động ra mặt đường. Cán bộ, nhân viên các cơ quan Bộ Chỉ huy mặt trận, các đại đoàn cũng được huy động đi chặt gỗ chống lầy. Hơn một nửa lực lượng của ta ở Điện Biên Phủ ngày đêm bám đường hót bùn, chặt gỗ, đóng cọc, lót cây...
Hàng vạn con người lao động với cường độ rất cao. Ban ngày đi chặt gỗ, phá đá vận chuyển đến gần đường. Ban đêm vừa vét bùn đổ đá, lát cây, vừa hộ tống xe đi, rồi phá bom, lấp hố bom... Trung bình mỗi người làm việc 16 đến 18 giờ trong một ngày và liên tục ngày này sang ngày khác… Tiếng hò, tiếng hát đầy lạc quan hoà vang cùng tiếng đục đá, chặt cây, nổ mìn, tạo thành âm thanh mới của bài ca lao động thắng địch, thắng trời giữa núi rừng Tây Bắc hùng vĩ”.
Ngày xuất bản: 1/4/2024
Nội dung: Trung tá, NGUYỄN QUỐC HÙNG, Viện Lịch sử quân sự, NGỌC TOẢN THU
Ảnh: TTXVN
Trình bày: VŨ HẢI
Trung đoàn 88 nhận nhiệm vụ tiến công tiêu diệt cứ điểm 311. Nhận thấy hai đại đội Thái bảo vệ cứ điểm đang mất tinh thần do cứ điểm 106 bị tiêu diệt, bộ đội chuyển sang kêu gọi làm công tác địch vận.
Ta dùng loa và bắn đạn truyền đơn vào kêu gọi địch đầu hàng: “Hỡi các bạn binh sĩ Thái, hãy bỏ hàng ngũ địch, quay về với kháng chiến, quay về với gia đình!...”.
Ngay chiều ngày 2/4, phần lớn hai đại đội ngụy Thái kéo cờ trắng ra hàng, một số bỏ cứ điểm chạy về Mường Thanh.
Hai đội dũng sĩ của ta thâm nhập vào sân bay, bắt 10 tù binh.
11 giờ, quân địch tăng viện từ Mường Thanh ra phối hợp với lực lượng cố thủ, ra sức mở nhiều đợt phản kích định chiếm lại A1.
Trên trận địa ta chỉ còn lại hơn năm chục người. Dưới sự chỉ huy trực tiếp của Trung đoàn trưởng, cán bộ, chiến sĩ chia thành nhiều tổ phụ trách từng đường hào. Các cán bộ tiểu đoàn, kể cả Trung đoàn trưởng cũng nhiều lần dùng tiểu liên, thủ pháo, bộc phá ống cùng bộ đội đánh địch phản kích, đẩy lui nhiều đợt tiến công của chúng.
Nửa đêm chúng lại tổ chức một đợt tiến công mới nhưng không đạt kết quả.
Anh hùng quân đội Nguyễn Quốc Trị (đầu bên phải) đang cùng các chiến sĩ tấn công sân bay Mường Thanh
Phía địch:
Địch cho tiểu đoàn số 2 thuộc trung đoàn dù thuộc địa số 1 bắt đầu nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, do Bréchignac chỉ huy.
Ban chỉ huy tiểu đoàn đóng tại Eliane 4 (C2).
Lực lượng lính dù ngụy người Việt trong cứ điểm cũng đặt dưới sự chỉ huy của Bréchignac.
Địch mất cứ điểm Huguette 7 (106), cứ điểm Huguette 6 (105) trở thành mục tiêu tiếp theo quân ta tiến công.
Cảnh quân Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ. Ảnh: TTXVN
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ, trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, “Hội đồng cung cấp mặt trận” từ Trung ương đến liên khu, khu, tỉnh cùng với Hậu cần Quân đội, hậu cần địa phương và hậu cần nhân dân phát triển đồng bộ, quan hệ mật thiết và hỗ trợ nhau đã phát huy vai trò huy động nhân lực, vật lực của địa phương bảo đảm ngày càng đầy đủ, kịp thời cho chiến dịch chiến đấu thắng lợi.
Bộ đội cùng đồng bào các dân tộc Tây Bắc xẻ núi, làm đường vào trận địa
Trong bài viết “Hội đồng cung cấp mặt trận - Sự sáng tạo về tổ chức bảo đảm hậu cần cho chiến dịch Điện Biên Phủ”, Đại tá, ThS Ngô Nhật Dương (Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Chiến thắng Điện Biên Phủ - Giá trị lịch sử và hiện thực (7/5/1954-7/5/2019) viết, kết quả “Hội đồng cung cấp mặt trận” các cấp cùng các lực lượng bảo đảm hậu cần đã huy động hơn 260 nghìn dân công, trên 20 nghìn xe đạp thồ, 17 nghìn ngựa thồ, trên 11.800 thuyền bè mảng và 628 xe ô tô phục vụ vận chuyển hàng hóa, vũ khí, đạn dược cho chiến dịch.
Tổng khối lượng vật chất đảm bảo lên tới 20 nghìn tấn, trong đó có 1.200 tấn đạn, 1.783 tấn xăng dầu, 14.950 tấn gạo, 268 tấn muối, 577 tấn thịt, 1.034 tấn thực phẩm và 177 tấn vật chất khác.
Nhờ có sự góp sức của “Hội đồng cung cấp mặt trận” các cấp nên công tác hậu cần đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo đảm cho Chiến dịch Điện Biên Phủ giành thắng lợi lớn.
Đoàn xe đạp thồ trên đường vào chiến dịch Điện Biên Phủ
Ngày xuất bản: 2/4/2024
Nội dung: Trung tá, ThS Nguyễn Quốc Hùng - Viện Lịch sử quân sự, Ngọc Toản Thu
Trình bày: MINH ĐỨC
Ảnh: TTXVN, Báo Nhân Dân
Xin giới thiệu bài viết của Đại tá Trần Trọng Trung được trích trong cuốn Sách Điện Biên Phủ, hợp tuyển công trình khoa học của Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật.
Các cụ xem tại đây sẽ đầy đủ hình ảnh :
https://special.nhandan.vn/cuoc-dau-tri-giua-hai-bo-thong-soai/index.html
Cuộc đấu trí trong năm cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp (và nói chung trong suốt chín năm) là cuộc đấu trí giữa:
Một bên là, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, một đảng mácxít kiên cường lãnh đạo toàn dân Việt Nam tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Giúp Trung ương trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến về mặt quân sự là Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh, và Một bên là, gần hai chục chính phủ kế tiếp nhau của nền Đệ tứ Cộng hòa Pháp. Điều hành "cuộc chiến tranh bẩn thỉu" ở Đông Dương theo đường lối của Pari là các viên cao ủy và tổng chỉ huy đội quân viễn chinh Pháp (C.E.F.E.O). Trong những năm cuối thêm sự can thiệp của đế quốc Mỹ.
Trải qua bảy năm (1945-1952) ta đã liên tiếp làm thất bại từng kế hoạch chiến lược của địch, từ kế hoạch "đánh nhanh, thắng nhanh" của Lơcléc-Valuy, kế hoạch phong tỏa biên giới và "làm chủ vùng đồng bằng có ích" của Bledô-Cácpăngchiê, đến kế hoạch giành lại quyền chủ động chiến lược của Đờ Lát Đờ Tátxinhi-Xalăng. Chính nhờ những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược đó mà "sang năm thứ tám của cuộc kháng chiến, những triển vọng vô cùng tốt đẹp về thắng lợi đã mở ra trước mắt nhân dân ta".
Bước sang năm 1953, nhất là từ mùa Hè, với việc cử tướng Nava sang làm Tổng Chỉ huy quân đội viễn chinh, rõ ràng là địch đang chuẩn bị một âm mưu chiến lược mới. Vấn đề đặt ra với Bộ Thống soái của ta là nắm và đánh giá đúng âm mưu và khả năng sắp tới của địch, có biện pháp chỉ đạo chiến lược sắc bén, kịp thời để giành thắng lợi lớn hơn trong cuộc đấu trí mới, nhằm đánh bại nỗ lực quân sự cao nhất của xâm lược Pháp và can thiệp Mỹ. Thực tế đã chứng minh, cuộc đấu trí trong năm cuối của cuộc chiến tranh đã diễn ra hết sức khẩn trương, phức tạp, bằng những nước cờ liên tục và xen kẽ nhau, từ tháng 5/1953 (khi Nava nhậm chức, kế hoạch chiến lược của địch hình thành) đến tháng 5/1954 (khi ta giành toàn thắng ở Điện Biên Phủ).
1. Hai bộ thống soái xác định phương hướng chiến lược và xây dựng kế hoạch tác chiến chiến lược (từ tháng 5 đến tháng 8/1953)
Đây là bước đấu trí đầu tiên, diễn ra trong trạng thái mà dư luận phương Tây gọi là "thầm lặng". Ta và địch vừa xác định phương hướng chiến lược, xây dựng và hoàn chỉnh kế hoạch tác chiến chiến lược, vừa tìm mọi biện pháp để thăm dò, tìm hiểu, phán đoán ý đồ chiến lược sắp tới của đối phương, đồng thời chuẩn bị các yếu tố cần thiết để biến chủ trương chiến lược thành hiện thực thắng lợi.
Nava sang Đông Dương trong bối cảnh nước Pháp đã thế yếu, lực suy, bối cảnh mà dư luận đánh giá bằng một hình ảnh: con bò cái Pari, già nua và còm cõi, đã bị cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương vắt đến những giọt sữa cuối cùng. Trong khi đó, ở Đông Dương "bù nhìn không làm nổi bù nhìn"; quân đội tay sai chưa bước sang "thời kỳ cai sữa". Mỹ ép Pháp tiếp tục cuộc chiến tranh, còn Pháp thì "đang tìm kiếm một lối thoát danh dự". Thoát như thế nào còn là một ẩn số. Nhưng tất nhiên, với việc "xuất" một viên tướng được coi là "có nhãn quan chiến lược", Pari hy vọng rằng lối thoát danh dự đồng nghĩa với lối thoát bằng một thắng lợi quân sự có tầm chiến lược. Thế là một kế hoạch chiến lược tương đối hoàn chỉnh ra đời, nhằm cải biến tình hình, chuyển bại thành thắng và trong một thời gian tương đối ngắn, giành lấy một thắng lợi có tính chất quyết định.
Qua các nguồn tin công khai và bí mật, Bộ Thống soái của ta bám sát từng bước sự hình thành của kế hoạch Nava. Kế hoạch chiến lược này được Hội đồng Quốc phòng Pháp thông qua ngày 24/7/1953. Chính với niềm tin vào tư tưởng chỉ đạo "tiến công, chủ động tiến công" của kế hoạch Nava mà Pari chấp thuận vét túi gửi quân tăng viện sang Đông Dương, về phía Mỹ, tướng Ô. Đanien cho rằng: với kế hoạch Nava, thắng lợi quân sự của người Pháp đã "ở trong tầm tay". Vì vậy, Oasinhtơn chấp thuận bỏ ra 385 triệu đô-la viện trợ cấp tốc, với hy vọng rằng công thức đô-la Mỹ + máu Pháp sẽ có thêm điều kiện để làm nên chuyện.
Về phía ta, phương hướng chiến lược Thu Đông 1953 đã được xác định sớm, từ tháng 1, tại Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương. Đó là phương hướng "tạm thời "tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu" để phân tán lực lượng địch và tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng tự do". Theo phương hướng đó, "quân đội ta phải đánh địch ở những nơi địch sơ hở, đồng thời phải hoạt động mạnh sau lưng địch. Bất kỳ ở miền núi hay đồng bằng, quân đội ta phải chuẩn bị đánh những lực lượng, những cứ điểm ngày càng mạnh của địch".
Từ sau chiến thắng Sầm Nưa (4/1953), mọi công tác chuẩn bị chiến lược của ta đã được triển khai theo phương hướng đó. Đến tháng 8, sau khi đã nắm được những nét lớn về kế hoạch chiến lược của Nava (nhất là việc tập trung lực lượng ở đồng bằng Bắc Bộ) trong đề án trình Bộ Chính trị ngày 20/8/1953, Tổng Quân ủy đã đề đạt chủ trương chiến lược và phương hướng tác chiến trong Thu Đông nhằm phá âm mưu địch, làm thất bại một bước kế hoạch chiến lược của Nava.
Trên cơ sở nhận định rằng, hiện chưa có điều kiện để tác chiến lớn ở đồng bằng, Tổng Quân ủy đề nghị: nhiệm vụ trước mắt là phải phá âm mưu tập trung binh lực và "bình định" đồng bằng của địch để tạo điều kiện tác chiến tương đối lớn. Cụ thể là:
1. Cần đẩy mạnh cuộc đấu tranh và chiến tranh du kích ở địch hậu.
2. Chủ lực phải dùng phương thức hoạt động thích hợp để tiêu diệt từng bộ phận nhỏ sinh lực địch và giúp địch hậu đẩy mạnh cuộc đấu tranh.
3. Tăng cường lực lượng võ trang và bán võ trang vùng tự do, và có kế hoạch tiêu diệt địch khi chúng đánh ra, bảo vệ vùng tự do.
4. Tăng cường hoạt động ở Thượng Lào và ở các chiến trường khác để phân tán chủ lực của địch.
Đề án của Tổng Quân ủy được hội nghị Bộ Chính trị thông qua. Tây Bắc được chọn làm hướng chính để mở chiến dịch tiến công trong Thu Đông. Hội nghị nhấn mạnh phương châm "tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt". Theo phương châm đó, ta sẽ không bị động chờ đợi mà phải tự mình xoay chuyển tình hình sao cho có lợi cho ta. Ta sẽ sẵn sàng đánh với một kẻ địch như thế này và cũng sẵn sàng đánh với một kẻ địch như thế khác. Kết luận hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "... Hướng chính (Tây Bắc) hiện nay không thay đổi, nhưng trong hoạt động có thể thay đổi. Phép dùng binh là phải thiên biến vạn hóa..." .
Hướng chính (Tây Bắc) hiện nay không thay đổi, nhưng trong hoạt động có thể thay đổi. Phép dùng binh là phải thiên biến vạn hóa...
Chủ tịch Hồ Chí Minh
Thế là chỉ trong bước đầu của cuộc đấu trí giữa ta và địch, đã xuất hiện sự khác biệt rõ rệt trong vấn đề "biết mình, biết người". Trong khi Bộ Thống soái Pháp gấp rút xây dựng lực lượng dự bị chiến lược mạnh và tập trung lực lượng ra chiến trường miền Bắc để giữ vững vùng châu thổ sông Hồng (vì họ đinh ninh rằng ta sẽ chọn đồng bằng Bắc Bộ làm hướng tiến công chiến lược chính trong Thu Đông tới), thì về phía ta, trên cơ sở phân tích tình hình khách quan về so sánh lực lượng và đặc điểm chiến trường, ta chủ trương "tạm thời tránh chỗ mạnh" (đồng bằng Bắc Bộ), tập trung lực lượng mở những chiến dịch tiến công trên chiến trường rừng núi, nơi quân ta có điều kiện thuận lợi hơn để tiêu diệt sinh lực địch và buộc chúng phải bị động phân tán lực lượng để đối phó, tạo điều kiện thuận lợi mới để tiêu diệt thêm từng bộ phận sinh lực quan trọng của chúng.
2. Sự bất lực của Bộ Thống soái Pháp trong những nước cờ đầu tiên (từ tháng 7 đến tháng 11/1953)
Hoạt động của địch trong thời gian này không những mang tính chất thăm dò mà còn nhằm hạn chế khả năng triển khai kế hoạch chiến lược của ta. Ta và địch đều nỗ lực chuẩn bị chiến lược, chạy đua trong việc tạo thế, tạo lực có lợi. Hai bên đều vừa triển khai kế hoạch chiến lược đã được xác định, vừa tiếp tục tìm hiểu để kết luận về ý đồ và khả năng cụ thể của đối phương.
Ngay từ bước đầu thực hiện kế hoạch chiến lược, Nava đứng trước những yêu cầu chiến lược rất lớn do chính kế hoạch đó đặt ra. Một là, phải tập trung lực lượng ở đồng bằng Bắc Bộ, vừa để xây dựng quả đấm chiến lược mạnh, vừa để sẵn sàng bảo vệ vùng đồng bằng đông người, nhiều của. Hai là, làm thế nào để ứng cứu kịp thời vùng Thượng Lào nếu chiến trường này bị uy hiếp. Ba là, tốt nhất làm sao phá được (ngay từ đầu) việc triển khai kế hoạch chiến lược của ta, không cho ta mở những cuộc tiến công lớn vào vùng châu thổ sông Hồng.
Để đáp ứng mấy yêu cầu chiến lược trên đây, Nava quyết ra tay trước. Những hoạt động mà viên Tổng Chỉ huy Pháp gọi là "món ăn đầu bữa" không chỉ nhằm tuyên truyền cho tư tưởng "chủ động tiến công" gây sức ép với Pari và Oasinhtơn để có thêm quân tăng viện và vũ khí viện trợ, mà còn nhằm theo dõi động tĩnh của ta.
Mở đầu là cuộc hành quân Con én (17-20/7/1953) của hai tiểu đoàn dù tập kích chớp nhoáng xuống Lạng Sơn, nơi mà Phòng Nhì cho rằng có kho vũ khí quan trọng của ta. Kết quả: "Hành động kỳ quặc này có tiếng vang về tinh thần hơn là thực tế... Việt Minh tỏ ra không hề lo ngại gì đối với cuộc hành binh đó...". Tiếp đến là cuộc hành binh Camácgơ (28/7- 4/8) của 30 tiểu đoàn các loại, được coi là "một trong những chiến dịch lớn nhất Đông Dương", nhằm bao vây và tiêu diệt Trung đoàn 95 của ta. Kết quả "vì vòng vây quá lỏng" nên Trung đoàn 95 vẫn tồn tại và sẵn sàng hoàn thành các nhiệm vụ chiến đấu khác...
Sau mấy lần xuất quân, không thấy động tĩnh của chủ lực ta, Bộ Thống soái Pháp đi đến kết luận có tính khẳng định: Việt Minh sẽ tập trung toàn bộ nỗ lực của họ đánh vào vùng châu thổ Bắc Kỳ bằng ba lực lượng: các trung đoàn tại chỗ, các đại đoàn từ trung du ép xuống và từ phía nam thọc lên. Phải mau chóng có biện pháp làm giảm nhẹ, tiến tới vô hiệu hóa sức ép đó của đối phương.
Để tăng thêm lực lượng bảo vệ đồng bằng, ngày 8/8/1953, Bộ Thống soái Pháp cho rút quân khỏi Nà Sản "con đê ngăn sóng" của Xalăng đã một thời "nổi tiếng" nay không còn tác dụng nữa vì phía Pháp cho rằng Tây Bắc không còn bị uy hiếp. Giành được bất ngờ trong việc rút khỏi Nà Sản bằng máy bay, Bộ Thống soái Pháp có thêm sáu tiểu đoàn bộ binh và một tiểu đoàn pháo bổ sung vào cái túi cơ động chiến lược ở đồng bằng.
Tiếp đến là cuộc càn quét quy mô lớn, vừa để "xóa những chấm đỏ", bảo đảm cho hậu phương của quân viễn chinh khỏi bị "ruỗng nát nghiêm trọng", vừa để bắt lính và đồng thời tạo điều kiện cho các binh đoàn cơ động dìu dắt và thử sức các tiểu đoàn khinh quân mới lọt lòng. Nhưng rồi, như chính người Pháp sau này (tướng Y. Gra) thú nhận, các cuộc càn quét chỉ thu được những kết quả ít ỏi… Việc thử nghiệm các tiểu đoàn khinh quân mở đầu bằng một thất bại nặng nề.
Cùng trong thời gian này, mặc dù đã phải tập trung chừng 40 tiểu đoàn cơ động ở vùng đồng bằng, nhưng phía Pháp vẫn chưa yên tâm. Các binh đoàn chủ lực của ta vẫn "im lặng đứng chân" trên cả hai hướng bắc và nam vùng châu thổ sông Hồng. Bộ Thống soái Pháp đi đến một quyết định mới: phải đánh chiếm một địa bàn cơ động có thể cùng một lúc đáp ứng mấy yêu cầu: 1. Thu hút bốn sư đoàn chủ lực đối phương (đang tập trung ở vùng trung du) để đỡ gánh nặng cho đồng bằng; 2. Bảo vệ được Thượng Lào, một yêu cầu có ý nghĩa chính trị quan trọng(!); 3. Yểm trợ được cho Lai Châu và vùng Tây Bắc nói chung.
Địa bàn nhạy cảm đầy sức hấp dẫn đó, suy cho cùng, chỉ có thể là Điện Biên Phủ, với mọi ưu thế về vị trí chiến lược quân sự, về chính trị và cả về kinh tế. Từ giữa tháng 9, cơ quan tham mưu Pháp bắt đầu chuẩn bị một kế hoạch hành quân mang tên Chuột biển chiếm đóng Điện Biên Phủ bằng ba lực lượng: từ Thượng Lào sang, từ Lai Châu về và từ trên không nhảy dù xuống cánh đồng Mường Thanh.
Đối với vùng phía nam đồng bằng, sự có mặt của các Sư đoàn 304 và 320 vẫn là một mối nguy cơ đối với hậu phương quân viễn chinh. Phải "chủ động" phá kế hoạch tiến công của hai sư đoàn này. Thế là thêm một cuộc hành binh được thực hiện, cuộc hành binh Hải Âu ngày 15/10-7/11 của 32 tiểu đoàn các loại tiến công ra hướng tây-nam Ninh Bình. Kết quả, như tờ Thế giới (27/10) nhận xét: "Cứ theo đà này thì quân tăng viện (từ Pháp sang) chỉ đủ bù vào số quân bị tổn thất".
Sau khi buộc phải cho Hải Âu lui quân, Bộ Thống soái Pháp vẫn chưa giải đáp được câu hỏi từ lâu đặt ra: Động tĩnh của đối phương thế nào? Các cuộc hành binh đầu tay của Nava chưa tìm ra đáp số. Họ không hề biết rằng mọi công tác chuẩn bị chiến trường của ta trên hướng Tây Bắc đã được triển khai từ mùa Hè và đang trong giai đoạn hoàn thành nhằm phục vụ cho chiến dịch giải phóng Lai Châu. Phòng Nhì Pháp không tìm ra một tin tức gì mới về các binh đoàn chủ lực của ta. Trong khi đó, "chúng ta vẫn bình thản tiếp tục kế hoạch đã định"1, bao gồm cả việc xuất quân của Sư đoàn 516 lên hướng Tây Bắc và việc phố biến kế hoạch tác chiến chiến lược Đông Xuân 1953-1954 tại cơ quan Tổng hành dinh ở Việt Bắc.
Giữa lúc đó, một sự kiện quan trọng đã xảy ra, đánh dấu một bước phát triển mới trong cuộc đấu trí giữa ta và địch. Phát hiện Đại đoàn 316 của ta tiến quân lên Tây Bắc, mặc dù chưa chuẩn bị kịp kế hoạch phối hợp với Lai Châu và Thượng Lào, Bộ Thống soái Pháp vội vã thực hiện cuộc hành binh Chuột biển đơn thuần bằng quân dù ném xuống Điện Biên Phủ (20-22/11/1953). Khối cơ động chiến lược (chưa xây dựng xong) đã bắt đầu bị phân tán. Nava không hề nghĩ rằng việc ném sáu tiểu đoàn xuống lòng chảo Mường Thanh là sự kiện mở đầu thảm hoạ cho cuộc đời binh nghiệp của chính ông ta và cũng là bắt đầu một chương bi thảm nhất trong lịch sử xâm lược của quân viễn chinh Pháp.
Trong hội nghị phổ biến và thảo luận kế hoạch tác chiến Đông Xuân ngày 19-23/11/1953 vấn đề cấp bách đặt ra với ta là tìm hiểu ý đồ chiến lược mới của địch khi chúng chiếm đóng Điện Biên Phủ. Nhiều giả thuyết được đề ra thảo luận tại hội nghị: 1. Địch sẽ giữ cả Lai Châu và Điện Biên Phủ, một nơi chính, một nơi phụ. Điện Biên Phủ có thể là nơi chính; 2. Nếu bị uy hiếp, chúng có thể rút Lai Châu, co về giữ Điện Biên Phủ; 3. Nếu bị uy hiếp mạnh hơn, chúng có thể tăng viện, tổ chức Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm; 4. Chúng cũng có thể rút bỏ cả Lai Châu và Điện Biên Phủ.
Kết luận
1. "Trước sự uy hiếp của ta, địch đã phải bị động đối phó, phải phân tán một bộ phận lực lượng cơ động lên Điện Biên Phủ để yểm hộ cho Tây Bắc, để che chở cho Thượng Lào, để phá kế hoạch tiến công của ta... Vô luận rồi đây địch tình thay đổi thế nào, địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ căn bản là có lợi cho ta. Nó bộc lộ mâu thuẫn của địch giữa chiếm đóng đất đai với tập trung lực lượng, giữa chiếm đóng chiến trường rừng núi với củng cố chiến trường đồng bằng".
2. Ta vẫn chủ động thực hiện kế hoạch tác chiến chiến lược đã định. Hướng chính vẫn là Tây Bắc. "Nhiệm vụ là kiên quyết tiêu diệt sinh lực địch, tranh thủ nhân dân, giải phóng vùng Lai Châu để củng cố và mở rộng căn cứ kháng chiến Tây Bắc uy hiếp Thượng Lào để phân tán địch, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tác chiến sau này".
3. Trung Lào là hướng phụ. Đồng bằng Bắc Bộ và các chiến trường khác là những hướng phối hợp
4. Tiếp tục bám sát hoạt động của địch để xử trí cho mau lẹ, không bỏ lỡ cơ hội diệt địch.
Đại đoàn 316 đang trên hướng hành quân lên Tây Bắc, nhận được lệnh nhanh chóng bao vây Lai Châu, chặn đường địch từ Lai Châu rút chạy về Điện Biên Phủ. Đại đoàn 308 được lệnh nhanh chóng tiến quân lên Tây Bắc, bao vây và bám sát mọi hoạt động của địch ở Điện Biên Phủ, chặn đường Điện Biên Phủ-Mường Khoa (không cho địch rút chạy sang hướng Thượng Lào) và chuẩn bị chiến trường.
Trong phương án tác chiến mùa Xuân 1954 (trình Bộ Chính trị ngày 6/12/1953), Tổng Quân ủy đề đạt: "Tuy hiện nay chưa thể khẳng định nhưng muốn bảo đảm thực hiện được quyết tâm của Trung ương là phối hợp với bạn tiêu diệt địch và giải phóng vùng Lai Châu-Phông Xa Lỳ cho đến Luông Prabăng trong Đông Xuân thì phải nhằm trường hợp (địch) tăng cường (Điện Biên Phủ) thành tập đoàn cứ điểm mà chuẩn bị".
Như vậy là Bộ Thống soái hai bên đã có những thông tin tương đối rõ ràng để chuẩn bị những nước cờ tiếp theo.
Bộ chỉ huy chiến dịch dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đang bàn kế hoạch tác chiến cho từng trận đánh.
3. Bằng những đòn tiến công liên tiếp trên nhiều hướng chiến lược, ta đã buộc Bộ Thống soái Pháp phải phân tán khối cơ động chiến lược của Nava, tạo tiền đề thắng lợi cho đòn quyết chiến chiến lược cuối cùng (12-1953/1/1954)
Ngay từ khi xác định phương hướng chiến lược Đông Xuân, ta đã từng dự kiến: nếu Tây Bắc bị uy hiếp, địch có thể sẽ tăng viện lên hướng này, mặc dù lúc đó (8/1953), ta chưa phán đoán được cụ thể địa điểm và thời gian. Một số đại đoàn chủ lực đứng chân trên địa bàn trung du chính là nhằm sẵn sàng hành động theo phương châm "tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt". Điều đó giải thích vì sao việc địch nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ không hề làm cho kế hoạch tác chiến chiến lược của ta bị đảo lộn, ngay cả trên hướng Tây Bắc. Trong khi Nava tiếp tục nuôi hy vọng đánh chiếm vùng tự do Liên khu V, thì quân ta vẫn chủ động triển khai kế hoạch tiến công chiến lược trên các hướng đã được xác định, kể cả kế hoạch đánh địch khi chúng mở cuộc hành binh Átlăng ở Liên khu V.
Như trên đã nói, yêu cầu đặt ra đối với ta trong việc lập kế hoạch tác chiến chiến lược Đông Xuân 1953-1954 không chỉ nhằm mục đích tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai mà còn nhằm buộc địch phải phân tán lực lượng, làm thất bại âm mưu tập trung khối cơ động chiến lược của chúng, tạo điều kiện cho tác chiến quy mô lớn hơn, tiêu diệt địch ngày càng nhiều hơn.
Bằng đòn chiến lược đầu tiên, ta đã tiêu diệt trên 20 đại đội địch, giải phóng Lai Châu, buộc Nava phải tăng thêm lực lượng lên Điện Biên Phủ (đến cuối tháng 12/1953, lực lượng địch ở đây đã lên tới 10 tiểu đoàn).
Bằng đòn tiến công thứ hai, ta đã diệt bốn tiểu đoàn địch, phối hợp với bạn giải phóng nhiều vùng ở Trung Lào, phá tan "tuyến cấm" của địch ở vĩ tuyến 18, buộc địch phải điều năm tiểu đoàn lên, xây dựng tập đoàn cứ điểm Xênô.
Bằng đòn tiến công thứ ba ở Hạ Lào, ta cùng với bạn giải phóng thị xã Atôpơ và toàn bộ vùng cao nguyên Bôlôven, buộc địch phải điều bốn tiểu đoàn lên xây dựng tập đoàn cứ điểm Pắcxế.
Bằng đòn tiến công thứ tư, ta đã giải phóng Kon Tum và vùng bắc Tây Nguyên, bước đầu làm thất bại cuộc hành quân Átlăng của địch, buộc Nava phải đình chỉ cuộc hành binh này và điều 14 tiểu đoàn đến Tây Nguyên xây dựng hai tập đoàn cứ điểm Plâycu và An Khê, khiến cho lực lượng của địch bị phân tán trên chiến trường Nam Trung Bộ lên tới 30 tiểu đoàn.
Phối hợp với các chiến dịch tiến công ở phía trước, lực lượng vũ trang vùng sau lưng địch, nhất là vùng châu thổ sông Hồng, đã nắm vững thời cơ, đẩy mạnh hoạt động. Hàng loạt vị trí bị tiêu diệt, các đường giao thông lớn bị uy hiếp, nhiều khu du kích và căn cứ du kích không ngừng được mở rộng. Địch buộc phải căng mỏng lực lượng ra để đối phó, khiến cho khả năng tăng viện cho chiến trường Điện Biên Phủ bị hết sức hạn chế.
Như vậy là trong đợt một của chiến cuộc Đông Xuân, ta đã phân tán 50% lực lượng cơ động của địch tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ (23/44 tiểu đoàn). Số quân cơ động còn lại bị căng mỏng và giằng xé trong vùng tạm chiếm ở châu thổ sông Hồng để đối phó với chiến tranh du kích đã phát triển rất sâu rộng. Kế hoạch tập trung lực lượng và kế hoạch "bình định" vùng đồng bằng của địch đều bị phá sản. Địch hầu như không còn lực lượng cơ động để tăng viện cho chiến trường Tây Bắc. Đó chính là thời cơ để quân ta bước vào cuộc đọ sức mới trên chiến trường trọng điểm Điện Biên Phủ.
Về phía địch, thả quân dù xuống chiếm đóng Điện Biên Phủ, lúc đầu Nava hy vọng có thể yểm trợ cho Lai Châu, bảo vệ Thượng Lào đồng thời thu hút chủ lực của ta lên Tây Bắc, đỡ đòn cho đồng bằng. Nhưng ngay sau cuộc hành binh Chuột biển, Bộ Thống soái Pháp ở vào tình thế tiến thoái lưỡng nan, một sự lựa chọn day dứt.
Hạ tuần tháng 11, những tin tức từ Pari cho thấy Hội đồng Quốc phòng không đáp ứng yêu cầu tăng viện mà còn nhắc nhở "hãy điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp với khả năng phương tiện có trong tay", không một lời nói đến nhiệm vụ bảo vệ Thượng Lào. Cũng vào dịp này, tin tức cho thấy không phải chỉ một Đại đoàn 316 mà nhiều binh đoàn của đối phương sắp có mặt ở Tây Bắc trong thời gian tới. Rõ ràng là mấy tiểu đoàn đầu tiên ném xuống Điện Biên Phủ và lực lượng đồn trú ở Lai Châu đều đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt. Để đối phó với nguy cơ đó, Nava cho tổ chức "hành lang chiến lược" gồm sáu tiểu đoàn rải dọc sông Nậm Hu, nối liền Điện Biên Phủ-Mường Khoa-Luông Prabăng, nhằm sẵn sàng thực hiện kế hoạch Xênôphôn, bỏ Điện Biên Phủ chạy sang Thượng Lào khi tình thế bắt buộc.
Nhưng rồi Nava đã trải qua những ngày đắn đo "dùng dằng nửa ở nửa về". Kinh nghiệm Hòa Bình, Cánh Đồng Chum rồi Nà Sản cho thấy, liệu Việt Minh có đủ sức công phá tập đoàn cứ điểm?
Điện Biên Phủ đã thu hút chủ lực đối phương lên đây, sức ép ở đồng bằng đã giảm. Vậy thì tương kế tựu kế, hãy tổ chức Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh, "một siêu Nà Sản", để nghiền nát chủ lực đối phương. Đó là quyết tâm chiến lược quan trọng của Bộ Thống soái Pháp, ngày 3/12. Ngay sau đó, hai tiểu đoàn Âu-Phi rút chạy trót lọt bằng máy bay từ Lai Châu về Điện Biên Phủ. Các loại trang bị được vội vã ném xuống cánh đồng Mường Thanh. Và điều đáng chú ý là tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ càng phình ra bao nhiêu thì khối cơ động của địch ở đồng bằng Bắc Bộ càng teo đi bấy nhiêu. Từ chỗ Điện Biên Phủ không có trong dự kiến ban đầu, cái thung lũng này dần dần trở thành trung tâm của kế hoạch Nava.
Sự cân nhắc của Bộ Thống soái Pháp đã từng được Tổng Quân ủy dự kiến giữa hai khả năng (địch rút hay chiếm đóng Điện Biên Phủ), dần dần Tổng Quân ủy đã khẳng định khả năng thứ hai và từ tháng 12, đã hướng mọi công tác chuẩn bị chiến lược cho khả năng đó. Trung tuần tháng 12, khi cục diện chiến trường đang chuyển biến ngày càng có lợi cho ta (khối cơ động chiến lược của địch đang trong quá trình bị phân tán trên nhiều hướng), Bộ Chính trị đã thông qua quyết tâm của Tổng Quân ủy, chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược.
Như vậy là, nắm vững phương châm "tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt", ta đã "từ tạm thời tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu", đi đến chỗ tranh thủ thời cơ thuận lợi, chọn nơi mạnh nhất của địch là tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ để tiêu diệt.
Đến cuối tháng 12, khi một số đại đoàn của ta đã hình thành thế bao vây, mọi khả năng rút chạy của địch từ Điện Biên Phủ qua Tây Trang-Mường Khoa sang Thượng Lào không còn nữa thì cuộc đọ sức giữa ta và địch trên lòng chảo Mường Thanh rõ ràng là không tránh khỏi. Điện Biên Phủ trở thành tiêu điểm của cuộc đấu trí giữa hai bộ thống soái của ta và của địch.
Bị quân ta tấn công, địch ở các vị trí khu đồi C chạy toán loạn, các chiến sĩ xung kích của ta ở dưới các giao thông hào đang dùng súng trường bắn tỉa.
4. Hai bên dốc sức tập trung mọi yếu tố cần thiết để đánh bại đối phương trên chiến trường trọng điểm Điện Biên Phủ (từ tháng 1 đến 12/3/1954)
Càng củng cố Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh, Bộ Thống soái Pháp và các tướng lĩnh, chính khách Pháp-Mỹ càng tin rằng quân ta nhất định sẽ thất bại nếu "liều lĩnh" mở cuộc tiến công. Họ tin rằng ta không thể khắc phục nổi những khó khăn về mặt tiếp tế và trang bị. Họ tin vào sức mạnh và hiệu quả của hình thức phòng ngự bằng tập đoàn cứ điểm nên quyết tâm xây dựng lòng chảo Mường Thanh thành một căn cứ không quân-lục quân để đọ sức với ta. Mọi yếu tố để giành thắng lợi đã được chuẩn bị ngày càng chu đáo: tăng cường binh lực và phương tiện "bằng mọi giá"; xin thêm không quân để yểm trợ chiến đấu và để tăng cường đánh phá, ngăn chặn tuyến hậu cần của ta, đưa thêm quân dù ra Bắc để sẵn sàng tăng viện cho Điện Biên Phủ.
Khách quan mà xét, Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh, mạnh hơn nhiều so với Nà Sản trước đây. Không những binh lực, hỏa lực mạnh hơn gấp bội mà tổ chức phòng ngự cũng hiện đại hơn. Sai lầm của địch là đã nhấn mạnh một chiều những chỗ mạnh của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ mà không thấy hết chỗ yếu của nó. Từ đó, họ đi đến kết luận: Nếu quân đội ta không đánh được các tập đoàn cứ điểm Hòa Bình (1951) và Nà Sản (1952) thì đương nhiên là không đánh được Điện Biên Phủ. Cách đánh giá cứng đờ máy móc đó là một nguyên nhân dẫn đến thất bại của họ sau này.
Về phía ta, quá trình cân nhắc để hạ quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ là quá trình phân tích khách quan, khoa học tình hình ta và địch, yêu cầu khách quan của cuộc kháng chiến và khả năng chủ quan của quân và dân ta.
Quân đội ta cần phải tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ mới mở ra con đường phát triển của bộ đội, thúc đẩy cuộc kháng chiến tiến lên, làm thất bại kế hoạch Nava và tạo được hậu thuẫn chắc chắn cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta ở Hội nghị Geneva. Quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ là một quyết tâm chiến lược quan trọng, nhằm đáp ứng những yêu cầu chiến lược bức thiết trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến.
Quân đội ta có thể tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ vì quân địch tuy mạnh nhưng chúng bị cô lập trên chiến trường rừng núi, rất xa các căn cứ ở đồng bằng; lực lượng của chúng bố trí tương đối phân tán; vì bộ đội ta đã có những tiến bộ mới về chiến thuật, kỹ thuật, chiến đấu theo một phương châm tác chiến đúng đắn, với binh lực đã được tập trung ưu thế. Mặc dù ta còn những khó khăn về chiến thuật, về bảo đảm hậu cần, song những khó khăn đó đều có thể khắc phục được.
Mặc dù đợt một của chiến cuộc Đông Xuân đã lật ngược thế cờ, lực lượng cơ động của địch đã bị phân tán cao độ trái hẳn với dự kiến của Nava, ta có những điều kiện thuận lợi để giành thắng lợi trong cuộc đọ sức sắp tới, nhưng sau khi đã hạ quyết tâm, một vấn đề quan trọng đặt ra là làm thế nào để bảo đảm đánh chắc thắng, Tổng Quân ủy đã đặc biệt coi trọng việc xác định phương châm chiến dịch, chọn cách đánh thích hợp để tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Để bảo vệ cho sân bay chúng đã cho xe tăng 18 tấn phản công nhưng đã bị pháo ta bắn trúng và đang bốc cháy.
Từ đầu tháng 12/1953, khi quân ta mới bao vây Điện Biên Phủ, lực lượng của địch chưa được tăng cường, bố trí của chúng còn tương đối sơ hở, trận địa phòng ngự chưa được củng cố. Bởi vậy ta chủ trương "đánh nhanh, giải quyết nhanh", nhằm tranh thủ thời gian, lợi dụng những điều kiện sơ hở của một kẻ địch mới lâm thời chiếm lĩnh trận địa để tiêu diệt gọn toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ trong một trận khi quân ta còn đang sung sức. Điều lợi của cách đánh này là ở chỗ cuộc chiến đấu không kéo dài, hạn chế được sự tiêu hao, mệt mỏi và hạn chế được những trở ngại lớn về tiếp tế lương thực, đạn dược. Tuy nhiên, đánh nhanh, giải quyết nhanh cũng đặt quân đội ta trước một thực tế là: mặc dù đã được chuẩn bị về tư tưởng và chiến thuật đánh tập đoàn cứ điểm, nhưng bộ đội chưa có kinh nghiệm thực tế, lần đầu tiên đánh tập đoàn cứ điểm lại gặp một tập đoàn cứ điểm mạnh.
Sau hơn một tháng vừa tiếp tục theo dõi tình hình địch, vừa chuẩn bị theo phương châm "đánh nhanh, giải quyết nhanh", đến cuối tháng 1/1954, ta nhận thấy tình hình địch đã có nhiều thay đổi: Lực lượng của chúng đã được tăng cường, trận địa phòng ngự đã được xây dựng kiên cố, hệ thống phòng ngự đã được tổ chức khá vững chắc. Địch không còn ở vào tình trạng lâm thời chiếm lĩnh trận địa nữa. Nếu "đánh nhanh, giải quyết nhanh" thì không chắc chắn bảo đảm thắng lợi, khi trên một số mặt, công tác chuẩn bị của ta cũng chưa thật đầy đủ.
Trải qua suy nghĩ cân nhắc thận trọng mọi mặt, với quyết tâm và tinh thần trách nhiệm rất cao, Bộ Chỉ huy chiến dịch đã kiên quyết thay đổi phương châm thành "đánh chắc, tiến chắc" và chỉ đạo khẩn trương, chuẩn bị bổ sung đầy đủ về mọi mặt, nhất là nghiên cứu cách đánh cụ thể bảo đảm chắc thắng.
Theo phương châm này, ta sẽ tập trung binh lực, hỏa lực đánh từng bước, giành thắng lợi trong từng trận, vừa đánh vừa rút kinh nghiệm; ta sẽ hoàn toàn chủ động chọn thời gian và mục tiêu tiến công, vừa đánh vừa củng cố lực lượng; ta sẽ có thêm điều kiện khoét sâu khó khăn và nhược điểm của địch về mặt tiếp tế vận tải, dồn địch vào thế không thể kéo dài cuộc chiến đấu. Tuy nhiên, theo phương châm này, ta phải có những biện pháp kiên quyết và tích cực, nhằm khắc phục rất nhiều khó khăn do chiến dịch kéo dài đặt ra: bộ đội tiêu hao mệt mỏi; vấn đề cung cấp vốn đã khó khăn nay càng trở nên khó khăn hơn; thời tiết không thuận lợi, mùa mưa sắp đến... Trong tất cả những khó khăn trên, nổi lên là khó khăn về vận tải tiếp tế, nhằm đáp ứng yêu cầu vật chất tăng gấp nhiều lần so với dự kiến ban đầu.
Với kinh nghiệm phát huy cả ba nguồn cung cấp (chi viện của hậu phương, động viên tại chỗ và lấy của địch đánh địch), ta đã từng bước vượt qua những khó khăn rất lớn về hậu cần, những khó khăn mà Bộ Thống soái Pháp tin rằng ta không thể nào khắc phục nổi.
Phía Pháp phán đoán ta sẽ bắt đầu tiến công vào đầu tháng 1/1954, nhưng đến cuối tháng không những thấy ta không tiến công mà họ còn phát hiện Đại đoàn 308 rút khỏi chiến trường Điện Biên Phủ sang hướng Thượng Lào. Bộ Thống soái địch đinh ninh rằng ta bỏ cuộc. Đúng ngày Tết Nguyên Đán, họ cho máy bay thả truyền đơn thách thức ta tiến công. Họ không ngờ rằng cuộc xuất quân bất ngờ, thần tốc, đánh địch trong hành tiến của Đại đoàn 308 đã đập tan phòng tuyến sông Nậm Hu dài hàng trăm km, nối liền Điện Biên Phủ với Mường Khoa xuống tận Luông Prabăng. Thắng lợi của ta không chỉ ở con số 17 đại đội địch bị tiêu diệt, mà sau khi "hành lang chiến lược" bị phá sập, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ trở nên hoàn toàn bị cô lập. Hơn nữa, do nhận định rằng ta bỏ ý định tiến công Điện Biên Phủ (quay sang uy hiếp Thủ đô Lào), Bộ Thống soái địch vội vã điều một binh đoàn cơ động từ đồng bằng Bắc Bộ sang Luông Prabăng và thiết lập thêm một tập đoàn cứ điểm ở đây. Một lần nữa, lực lượng dự bị chiến lược của Nava càng bị teo lại. Chỉ đến khi được tin Đại đoàn 308 đã quay trở lại Điện Biên Phủ (23/2/1954), Bộ Thống soái Pháp mới rút ra kết luận (quá muộn) là: 1. Đối phương vẫn giữ vững quyết tâm tiến công tập đoàn cứ điểm; 2. Điện Biên Phủ rõ ràng không thể là "cái chìa khóa" chặn đối phương tiến quân sang hướng Thượng Lào.
Ngày 12/3/1954, Nava cố vớt vát bằng đợt hai của Chiến dịch Átlăng (cuộc hành binh Axen, đổ bộ lên Quy Nhơn), Tổng Chỉ huy Pháp không ngờ rằng hôm sau quân ta nổ súng tiến công, mở màn Chiến dịch Điện Biên Phủ.
5. Những nước cờ cuối cùng trong 56 ngày đêm trên chiến trường trọng điểm Điện Biên Phủ (13/3-7-5/1954)
Như trên đã nói, thấy ta chưa nổ súng tiến công, phía Pháp cho rằng ta do dự trước tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Họ không hề biết rằng vào đầu trung tuần tháng 3, chung quanh lòng chảo Điện Biên, mọi công tác chuẩn bị của ta đã hoàn thành, bộ đội đã sẵn sàng nổ súng.
Nhiệm vụ đề ra trong đợt tiến công đầu tiên là tiêu diệt ba cứ điểm Him Lam, Độc Lập và Bản Kéo, "bóc vỏ" tập đoàn cứ điểm, mở cửa tiến xuống cánh đồng Mường Thanh. Để bảo đảm tập trung ưu thế binh hỏa lực hơn hẳn địch, bảo đảm cho "trận đầu phải thắng thật giòn giã", Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định lần lượt tiêu diệt từng vị trí trong từng đêm.
17 giờ ngày 13/3, quân ta nổ súng tiến công, bắt đầu Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.
Sau này ta được biết, trong buổi giao ban cuối cùng (trước khi ta nổ súng), các cấp chỉ huy tập đoàn cứ điểm còn tỏ ra lạc quan: "chờ đợi những trận chiến đấu gay go, đồng thời cũng chờ đợi cả chiến thắng nữa"(Y.Gra). Nhưng rồi ngay từ đợt tiến công đầu tiên, quân ta đã đặt các tướng lĩnh Pháp trước những bất ngờ liên tiếp.
Từ chỗ đánh giá quá thấp khả năng pháo binh của ta họ sớm bị bất ngờ trước tính chính xác của binh chủng hỏa lực trẻ tuổi Việt Nam. Ngay từ những trận đầu, pháo binh của ta đã loại khỏi vòng chiến đấu một loạt sĩ quan chỉ huy các cứ điểm Him Lam, Độc Lập và phân khu trung tâm. Nhiều máy bay trên sân bay trung tâm và một kho xăng bị bốc cháy. Từ chỗ khoác lác "khóa mõm pháo binh Việt Minh ngay từ loạt đạn đầu" đến chỗ viên chỉ huy pháo binh địch bị bất ngờ vì "tỏ ra bất lực trong nhiệm vụ phản pháo". Còn không quân, một phần vấp phải hỏa lực pháo cao xạ của ta, một phần bị lừa bởi các trận địa giả nên dù lồng lộn trên bầu trời, nhưng bom thả đều không trúng đích.
Từ chỗ đánh giá quá cao khả năng đề kháng của các cứ điểm được coi là "vững chắc nhất của tập đoàn cứ điểm" với những "đơn vị kiên cường thiện chiến và có tinh thần chiến đấu rất tốt" đến chỗ bất ngờ và không giải thích nổi vì sao "những đơn vị cự phách này lại có thể bị đè bẹp chỉ trong vòng vài giờ". Từ chỗ quá tin vào khả năng phản kích chiếm lại các cứ điểm đã mất, vậy mà sau khi được tăng viện hai tiểu đoàn "Đờ Cátxtơri vẫn phản ứng rất yếu ớt". Cả hai cứ điểm Him Lam và Độc Lập "không được cứu viện kịp thời... vì các trận phản kích không được dự kiến và chuẩn bị trước... Cuộc phản kích lên hướng cứ điểm Độc Lập của một tiểu đoàn và sáu xe tăng đã nhanh chóng bị đẩy lùi...".
Nava đặt hết lòng tin vào những sĩ quan được trao nhiệm vụ giữ tập đoàn cứ điểm, vậy mà chỉ sau hai tuần, viên đại tá cầm đầu tập đoàn cứ điểm đã "tỏ ra mệt mỏi và lo âu... để cho mình bị chìm đắm trong không khí bi quan và sự kinh hoàng". Còn Tham mưu trưởng Kenle thì "tinh thần nao núng đến mức bị đuổi về Hà Nội"... Tư lệnh pháo binh Pirôt đã "tự sát vì thất vọng, không thực hiện được lời cam kết của mình là làm câm họng pháo binh đối phương"...
Sau khi quân ta nổ súng tiến công Điện Biên Phủ, Nava vẫn đang lúng túng trước nguy cơ thất bại của cuộc hành binh Axen ở Quy Nhơn, còn Cônhi thì lo đối phó với hoạt động mạnh của ta ở đồng bằng sông Hồng. Vậy là Đờ Cátxtơri ở vào tình thế "phải tự mình xoay xở. Hắn ta không có những hoạt động đối phó với những thất bại đầu tiên... khiến người ta có cảm tưởng là hắn trút trách nhiệm chủ yếu của mình cho cấp dưới".
Nếu đối với ta, khi ba cứ điểm phía bắc bị tiêu diệt tức là quân ta mới mở toang cửa của tập đoàn cứ điểm để chuẩn bị tiến xuống cánh đồng thì phía Pháp đã vội cho rằng "trận giao chiến của quân viễn chinh có lẽ sẽ thất bại, trừ phi có một hành động giải tỏa từ bên ngoài tập đoàn cứ điểm". Bởi vậy, trong khi Tham mưu trưởng quân đội Pháp, tướng Êly bay sang Oasinhtơn để cùng những tên diều hâu Mỹ Đalét và Rátpho bàn kế hoạch can thiệp bằng không quân Mỹ vào Điện Biên Phủ (kế hoạch Diều hâu) thì ngày 19/3, Đờ Cátxtơri điện cho Cônhi: "Tôi cho rằng việc mất Điện Biên Phủ, mất phân khu nam Hồng Cúm là không thể tránh được trong một thời gian ngắn. Phải tính đến chuyện cử Lalăngdơ (chỉ huy phân khu nam Hồng Cúm) cố gắng đi tìm con đường sang Lào để rút lui".
Về phía ta, sau đợt tiến công thứ nhất, Bộ Chỉ huy chiến dịch nhận định: quân địch còn rất đông, pháo binh và không quân của chúng vẫn hoạt động mạnh. Trước mặt quân ta lúc này là gần 40 cứ điểm liên kết với nhau chặt chẽ trên cánh đồng bằng phẳng, dưới sự che chở của các vị trí trên các điểm cao chạy dài suốt phía đông. Trong hội nghị ngày 20/3, một vấn đề rất quan trọng được đặt ra để giải quyết là: Trong điều kiện nói trên, làm thế nào để tiếp cận địch và chiến đấu liên tục cả ngày lẫn đêm. Bộ Chỉ huy chiến dịch chủ trương nhanh chóng xây dựng trận địa bao vây và tiến công.
Thế là một quá trình chiến đấu mới bắt đầu. Các chiến hào từ trên các triền núi cao dần dần đổ xuống cánh đồng và không ngừng tỏa lan trên mặt ruộng. Trận địa càng tiến sát vị trí địch, chúng càng ra sức dùng pháo binh, máy bay phá hoại và dùng bộ binh xe tăng phản kích. Mặc dù phải liên tục chiến đấu gian khổ và căng thắng nhưng chỉ sau 10 ngày, vào hạ tuần tháng 3, chiến hào của quân ta đã dài khoảng 100km, vây tròn lấy phân khu trung tâm (Mường Thanh) và khu nam (Hồng Cúm), cắt rời hoàn toàn hai khu này. Một số chiến hào đã bò đến giáp hàng rào của các điểm cao phía đông.
Sau này, chính người Pháp cũng phải thừa nhận rằng quân đội của họ "cố ngăn cản sự phát triển của mạng lưới hầm hào này đang bóp nghẹt Điện Biên Phủ, nhưng cả những loạt đạn pháo nổ trên không, cả những đợt súng cối bắn tập trung ban đêm... cũng không cản nổi các chiến hào của Việt Minh phát triển... Tập đoàn cứ điểm, sớm bị vây hãm từ xa bởi một "tập đoàn cứ điểm" khác đang ngày càng siết chặt chiếc thòng lọng của nó...”. Việc đối phó với sự phát triển các chiến hào của ta đã thu hút lực lượng không quân Pháp đến mức chúng "phải hủy bỏ các cuộc công kích vào đường giao thông... Không một quả bom nào được ném xuống đường trục tiếp tế trong suốt thời kỳ này (nửa cuối tháng 3), thời kỳ mà Việt Minh bổ sung các kho đạn dược của họ...".
Quân Pháp vừa cố ngăn chặn các chiến hào của ta phát triển vừa "lợi dụng tình trạng lắng dịu kéo dài" (giữa hai đợt tiến công của ta) để củng cố công sự, bổ sung trang bị, xây thêm những điểm tựa mới ở đông-bắc khu trung tâm, bổ sung cán bộ chỉ huy.
Nhưng khó khăn của Pháp về tiếp tế đã sớm bộc lộ. Sân bay trung tâm đã hoàn toàn nằm trong tầm hỏa lực của ta, "cầu hàng không được xem như hoàn toàn bị gián đoạn... bắt đầu những cuộc thả dù bấp bênh và tốn kém, làm sai lạc mọi dự kiến về hậu cần... Vì hỏa lực phòng không của Việt Minh trở nên dữ dội đến mức các máy bay phải thả dù từ độ cao lớn hoặc trong những điều kiện rất nguy hiểm...".
Về phía ta, sau đợt một và trong suốt nửa cuối tháng 3, Bộ Chỉ huy chiến dịch vừa củng cố bộ đội, vừa bổ sung trang bị, nghiên cứu kế hoạch tác chiến mới. Đó là kế hoạch mở đợt tiến công thứ hai vào tập đoàn cứ điểm bằng cách tập trung lực lượng tiêu diệt toàn bộ quân địch trên các điểm cao phía đông. Những điểm cao này là khu vực phòng ngự then chốt của cả phân khu trung tâm, quyết định số phận toàn bộ tập đoàn cứ điểm. Tiến công vào khu vực này là một trận công kiên to lớn chưa từng có của quân đội ta.
Ngày 30/3, đợt tiến công thứ hai bắt đầu.
Nếu trong những giờ đầu, quân ta phát triển khá thuận lợi thì sau đó cuộc chiến đấu tiến triển chậm dần lại. Sau khi được tăng viện thêm một tiểu đoàn biệt kích dù, địch dồn toàn bộ lực lượng ứng chiến từ Mường Thanh lên phản kích, ra sức bảo vệ những điểm cao chúng còn chiếm giữ, đặc biệt là quyết tâm bảo vệ vị trí then chốt A1 bằng mọi giá.
Sau bốn ngày chiến đấu, quân ta đã chiếm được bốn trong năm điểm cao phía đông, thu hẹp thêm phạm vi chiếm đóng và không phận của địch ở phía tây và phía bắc vào tới giáp sân bay, nhưng quân ta chưa hoàn thành được đầy đủ nhiệm vụ đề ra cho đợt hai.
Đợt tiến công vừa qua không những đã làm bộc lộ một số nhược điểm của ta trước một cuộc chiến đấu quy mô lớn mà còn chứng tỏ thực lực ta chưa hơn hẳn địch. Chúng vẫn ưu thế tuyệt đối về không quân; hỏa lực của chúng còn khá mạnh, pháo binh của chúng hoạt động ráo riết. Từ ngày 6/4, khi ta tạm ngừng đợt tiến công thứ hai, địch đã tổ chức lại việc phòng thủ.
Mặc dù Bộ Chỉ huy chiến dịch trước sau vẫn giữ quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm, nhưng một vấn đề cấp thiết lại được đặt ra: tiếp tục đánh địch bằng cách nào? Phải tìm ra cách đánh thích hợp với trình độ tác chiến và tình hình sức khỏe (bắt đầu giảm sút) của bộ đội. Phải làm sao khoét sâu thêm nhược điểm của địch, hạn chế sức mạnh của chúng, giảm bớt thương vong của ta và đẩy dần quân địch đến chỗ nhất định bị tiêu diệt.
Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng mọi mặt, Bộ Chỉ huy chiến dịch chủ trương tiếp tục củng cố và phát triển trận địa tiến công và bao vây vào gần địch hơn nữa; tiếp tục đánh chiếm thêm một số vị trí của địch nhằm từng bước thắt chặt thêm vòng vây, tiến tới đánh chiếm sân bay nhằm triệt hẳn tiếp tế và tăng viện của địch, uy hiếp mạnh hơn nữa tung thâm của chúng và tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận quan trọng lực lượng địch.
Trong suốt 20 ngày cuối tháng 4, quân ta đã vận dụng nhiều hình thức hoạt động rất linh hoạt, sáng tạo và có hiệu quả để thực hiện chủ trương trên đây. Cụ thể là:
- Phát triển trận địa tiến công và bao vây vững chắc, ngày càng tiến sát gần địch, hạn chế uy lực máy bay và pháo binh của chúng.
- Phát triển mạnh chiến thuật đánh lấn, lần lượt tiêu diệt các vị trí chung quanh sân bay Mường Thanh, từng bước tiếp cận sân bay và cuối cùng, từ hai hướng đông và tây tiến vào cắt ngang và làm chủ sân bay.
- Tổ chức các đội thiện xạ, dùng hình thức bắn tỉa tiêu diệt bất cứ tên địch nào ló đầu ra khỏi cứ điểm, gây nên một nỗi khủng khiếp từng ngày, từng giờ đối với địch.
- Tìm mọi cách triệt nguồn tiếp tế và tăng viện của địch. Pháo cao xạ hoạt động tích cực và có hiệu quả, buộc máy bay địch phải thả dù tiếp tế ở độ cao lớn, khiến cho ngày càng nhiều dù rơi vào khu vực ta. Ta đã dùng hỏa lực các cỡ ngăn chặn không cho địch ra nhặt dù, đồng thời phát động phong trào đoạt dù của địch, lấy lương thực, đạn được bổ sung một phần cho ta. Như sau này địch thú nhận, máy bay của chúng đã "tiếp tế" cho ta chừng 5.000 viên đạn lựu pháo 105 ly. Về tăng viện, do số quân bị loại khỏi vòng chiến mỗi ngày lên tới 100-120 người, yêu cầu tăng viện thay thế ngày càng lớn. Khu vực nhảy dù đã bị thu lại quá hẹp nên quân dù phải nhảy trực tiếp xuống những khoảng đất đã bị đạn pháo cày xới ngay trong phân khu trung tâm, đầy dây thép gai. Nhiều tên bị bạt ra khu vực của ta.
"Phương pháp vây hãm bằng hệ thống chiến hào cuối cùng hoàn toàn quấn chặt lấy từng điểm tựa, giống như con nhện bắt một côn trùng trong mạng nhện. Vị trí trở nên bị phong tỏa cô lập và nhanh chóng bị bóp nghẹt vì thiếu đạn dược, thực phẩm và nhất là thiếu nước", một tình trạng căng thẳng, khủng khiếp mà sau này (khi đã bị bắt làm tù binh), tướng Đờ Cátxtơri đã phải thú nhận là quân Pháp không còn có thể chịu đựng nổi.
Tuy nhiên, về phía ta, sau đợt hai, chúng ta cũng phải giải quyết nhiều vấn đề quan trọng do chiến dịch kéo dài đặt ra. Ngoài vấn đề cốt yếu là tiếp tục nghiên cứu cách đánh sao cho phù hợp với thế trận và so sánh lực lượng, Bộ Chỉ huy chiến dịch đã tập trung chỉ đạo khắc phục những trở ngại đối với việc giữ vững và phát huy sức mạnh và hiệu quả chiến đấu của bộ đội.
Khó khăn hàng đầu mà Bộ Chỉ huy chiến dịch đặc biệt quan tâm giải quyết là vấn đề tiếp tế. Do những trận mưa đầu mùa và do địch ra sức đánh phá đường tiếp tế cho nên có lúc công tác hậu cần trở nên nóng bỏng (có ngày, có khẩu pháo chỉ còn ba viên đạn; có đêm, gạo nhập kho mặt trận không được đầy một tấn). Trung ương Đảng lãnh đạo và động viên toàn dân dốc sức chi viện cho mặt trận Điện Biên Phủ. Riêng tại mặt trận, cán bộ ngành hậu cần đã phát huy tinh thần khắc phục những khó khăn vượt xa sức của mình. Cuối cùng, vấn đề tiếp tế đã được giải quyết một cách cơ bản trước khi quân ta bước vào đợt tiến công thứ ba.
Về mặt chính trị tư tưởng, sau 5 tháng chuẩn bị và thực hành chiến đấu liên tục và căng thẳng, đúng vào lúc quân ta đang đứng trước một thử thách to lớn để giành thắng lợi hoàn toàn trong nhiệm vụ tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ thì có"một số hiện tượng không bình thường bắt đầu xuất hiện trong việc chấp hành nhiệm vụ chiến đấu của cán bộ". Đảng ủy mặt trận đã kịp thời phát động một đợt học tập nhằm quán triệt quyết tâm của Trung ương, khắc phục mọi tư tưởng mệt mỏi, mọi biểu hiện hữu khuynh tiêu cực, nâng cao tinh thần quyết chiến quyết thắng của cán bộ và bộ đội, hoàn thành nhiệm vụ Đảng giao.
Trải qua chừng ba tuần tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ của đợt hai và chuẩn bị điều kiện bước vào đợt ba, quân ta đã tạo mọi yếu tố thuận lợi cần thiết cho đợt chiến đấu mới.
Như người Pháp sau này thú nhận, đợt tiến công thứ ba của ta bắt đầu vào thời điểm mà quân Pháp trong tập đoàn cứ điểm chỉ còn chừng 3.000 quân đủ sức chiến đấu ở phân khu trung tâm và 1.200 tên ở phân khu nam (trong tổng số gần 10.000 quân còn lại đó), cùng với 3 xe tăng, 19 khẩu pháo 105 ly, 1 khẩu 55 ly, 15 khẩu cối 120 ly, với số đạn đủ cho hai, ba ngày chiến đấu liên tục. Đó là tất cả những gì còn lại sau 48 ngày chiến đấu của 16.200 quân, kể từ khi cuộc tiến công của ta bắt đầu.
Sau khi đợt tiến công thứ hai của ta chấm dứt, Nava chỉ thị cho Bộ Tham mưu Pháp chuẩn bị kế hoạch Chim ưng chừng 8000 quân, do tướng Cônhi trực tiếp chỉ huy, vượt biên giới Việt Lào sang giải vây cho quân Pháp ở Điện Biên Phủ. Tướng Đờ Cátxtơri được thông báo kế hoạch này vào ngày 14/4 khi mà vòng vây của ta đã siết chặt, quân Pháp trong tập đoàn cứ điểm đã ở vào thế "trong không ra được, ngoài không vào được". Kế hoạch đánh tháo không thành, nhưng nhiều sĩ quan Pháp ở Điện Biên Phủ vẫn còn nuôi hy vọng. Người này chờ đợi mùa mưa sẽ chặn đứng cuộc tiến công của ta. Người khác hướng sang Thụy Sĩ, nơi Hội nghị Geneva về Đông Dương sắp họp. Riêng đại tá Lănggle, người nắm thực quyền chỉ huy lúc này, cho rằng "chỉ cần giữ vững một tháng nữa, thậm chí chỉ 20 ngày nữa là thắng". Sự cố gắng kéo dài trận chiến đấu đã trở thành cứu cánh cuối cùng của quân Pháp ở Điện Biên Phủ.
Ngày 6/5/1954, ta mở cuộc tổng công kích vào Điện Biên Phủ. Ảnh: Quả bộc phá 1 tấn thuốc nổ phá tan các lô cốt và hầm ngầm cố thủ của địch trên đồi A1, 1 vị trí quan trọng trong Điện Biên Phủ, ta đã tiêu diệt ở đây 1 tiểu đoàn Âu Phi.
Về phía ta, quyết tâm của Bộ Chỉ huy chiến dịch là tiêu diệt tập đoàn cứ điểm trước mùa mưa, làm cho đế quốc Mỹ không kịp can thiệp, quân Pháp không còn khả năng rút chạy và để kịp phối hợp với cuộc đấu tranh ngoại giao ở Geneva. Cuối tháng 4, mọi công tác chuẩn bị cho đợt tiến công mới đã hoàn tất. Đêm 1/5, đợt ba của chiến dịch bắt đầu.
Ngay trong đêm đó, bốn vị trí địch ở phân khu trung tâm bị diệt. Cứ như thế, từ ngày 2 đến ngày 6, vùng đất và vùng trời của địch không ngừng bị thu hẹp, quân số và tinh thần chiến đấu của chúng bị giảm sút nhanh chóng. Ngày 4/5, thêm một kế hoạch tháo chạy được phổ biến cho tướng Đờ Cátxtơri, kế hoạch Chim biển. Theo kế hoạch này, một tiểu đoàn dự bị chiến lược sẽ được ném xuống Điện Biên Phủ để cùng lực lượng tại chỗ giải vây rút chạy sang hướng Thượng Lào. Chừng sáu tiểu đoàn khác tạo thành một hành lang ở biên giới Việt-Lào để đón quân từ Điện Biên Phủ chạy sang. Nhưng ngày 6/5, tình thế của quân Pháp ở Điện Biên Phủ "đã ở vào đỉnh cao của sự tồi tệ". Chúng bị dồn trong 20 cứ điểm còn lại, dưới sự che chở không còn hiệu lực của vài điểm cao phía đông. Trong khi đó, về phía ta, việc chuẩn bị đường hầm để vào đặt khối thuốc nổ lớn nhằm phá hầm ngầm trong cứ điểm A1 đã hoàn thành. Đêm 6/5, khối bộc phá 1.000kg đã phá sập điểm cao cuối cùng, "chiếc chìa khóa của tập đoàn cứ điểm" đã lọt vào tay quân ta.
Ngày 7/5, từ buổi sáng, nhiều triệu chứng cho thấy quân địch đã rối loạn. Ở một số nơi, đã có những lá cờ trắng xuất hiện. Rõ ràng tinh thần quân địch đã hoàn toàn tan rã. Quân ta được lệnh không chờ đến tối, chuẩn bị nắm ngay thời cơ thuận lợi, lập tức mở cuộc tổng công kích vào tập đoàn cứ điểm. 17 giờ 30 quân ta đánh chiếm Sở Chỉ huy của địch. Đờ Cátxtơri và toàn bộ Bộ Tham mưu của hắn bị bắt sống. Ngay đêm đó, toàn bộ quân địch ở phân khu nam bị bắt trong lúc chúng đang tìm đường rút chạy sang Thượng Lào.
Quân ta đã giành toàn thắng ở Điện Biên Phủ một ngày trước khi Hội nghị Geneva về Đông Dương khai mạc.
Cuộc đấu trí cuối cùng giữa hai bộ thống soái đã dẫn đến kết quả có ý nghĩa quyết định: thắng lợi hoàn toàn thuộc về ta, thất bại hoàn toàn thuộc về địch.
1. Thắng lợi của ta và thất bại của địch trước hết là do phương pháp khác nhau về đánh giá tình hình
Bộ Thống soái địch luôn luôn chủ quan, đánh giá quá cao khả năng "chuyển bại thành thắng" của khối chủ lực mới được xây dựng, tính chất "bất khả xâm phạm" của tập đoàn cứ điểm, sức mạnh của vũ khí, trang bị, công sự kiên cố, khả năng tiếp tế và tăng viện. Họ đánh giá thấp khả năng hoạt động trên nhiều hướng chiến lược cũng như khả năng đánh công sự vững chắc của chủ lực ta, đánh giá sai khả năng khắc phục những khó khăn về vận tải tiếp tế của ta.
Trong khi đó, chúng ta đánh giá khách quan đúng đắn chỗ mạnh, chỗ yếu cả về vật chất và tinh thần của địch, về khả năng của quân và dân ta, để tìm ra biện pháp hạn chế từng bước, tiến tới vô hiệu hóa mặt mạnh, khoét sâu mặt yếu của chúng, phát huy sức mạnh tổng hợp của ta cả ở tiền tuyến và hậu phương, cả trên chiến trường chính và chiến trường phối hợp... nhằm làm thay đổi so sánh lực lượng ngày càng có lợi cho ta để giành thắng lợi cả về chiến lược và chiến dịch.
2. Thắng lợi của ta và thất bại của địch còn là kết quả phán đoán đúng sai chủ trương chiến lược của đối phương
Trong thời gian dài, Bộ Thống soái địch đinh ninh rằng ta mở tiến công chiến lược vào đồng bằng trong khi ta đã sớm xác định chọn hướng chiến lược trên chiến trường rừng núi. Và mở hàng loạt chiến dịch tiến công trên hướng đó, làm cho khối dự bị chiến lược của địch bị chia năm sẻ bảy.
Địch cho rằng ta do dự trước sức mạnh của tập đoàn cứ điểm, nhưng thực ra, từ giữa tháng 12/1953 ta vẫn kiên trì quyết tâm chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược.
Địch muốn "ra tay" trước để thăm dò động tĩnh của ta và buộc ta phải thay đổi kế hoạch chiến lược, nhưng ta vẫn để các binh đoàn chủ lực "ẩn lặng như tờ" không tung lực lượng ra đối phó bị động. Địch định giành bất ngờ chiến lược bằng cuộc hành quân Átlăng mà không hề biết rằng ta đã dự kiến đúng ý đồ chiến lược của chúng và đã có kế hoạch chỉ đạo chủ lực Khu V chủ động mở chiến dịch giải phóng bắc Tây Nguyên, phá kế hoạch tiến công của địch vào vùng tự do.
Tiếp đó, cuộc tiến công của Đại đoàn 308 sang hướng Thượng Lào; sự xuất hiện trọng pháo ở mặt trận Điện Biên Phủ, việc đẩy mạnh chiến tranh du kích trong vùng sau lưng địch làm tê liệt các đơn vị "cơ động" còn lại của chúng ở đồng bằng sông Hồng... là những sự kiện hoàn toàn bất ngờ, ngoài tầm phán đoán của địch.
3. Thắng lợi của ta và thất bại của địch còn do khả năng vận dụng cụ thể nghệ thuật chỉ đạo, chỉ huy tác chiến chiến lược, chiến dịch của mỗi bên.
Với kế hoạch Nava, trước mắt Bộ Thống soái địch nuôi hy vọng xây dựng được khối cơ động chiến lược mạnh, tránh giao chiến với ta trên chiến trường miền Bắc, thực hành tiến công chiến lược ở miền Nam. Nhưng trong thực tế, Nava không thoát khỏi những mâu thuẫn vốn có từ đầu cuộc chiến tranh. Đó là mâu thuẫn giữa quân số ngụy càng tăng thì chất lượng chiến đấu của địch càng giảm, mâu thuẫn giữa rải quân ra chiếm đóng đất đai và tập trung lực lượng, giữa tiến công và phòng ngự chiến lược, giữa củng cố chiến trường đồng bằng với chiếm đóng chiến trường rừng núi, giữa tham vọng lớn của Bộ Thống soái với tinh thần ngày càng bạc nhược của binh lính... Mặc dù rêu rao "tinh thần chủ động tiến công" nhưng khả năng thực tế không cho phép Nava "đảo lộn thế cờ" theo ý muốn.
Trong khi đó, mọi công tác chuẩn bị chiến lược của ta được triển khai rất sớm đều hướng vào mục tiêu "đập tan kế hoạch Nava". Bằng các đòn tiến công liên tục và xen kẽ trên nhiều hướng chiến lược trong đợt một của chiến cuộc Đông Xuân, bằng quyết tâm chọn điểm quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, bằng phương châm chiến dịch đúng đắn và chỉ huy tác chiến chính xác (chọn thời cơ mở màn chiến dịch, cách đánh "bóc vỏ" trong đợt một, cách đánh linh hoạt sáng tạo sau đợt hai, biết chớp thời cơ chuyển sang tổng công kích trước thời gian dự kiến, cũng như sự chỉ đạo các chiến trường phối hợp "chia lửa" với mặt trận chính...), tất cả đều nói lên sự chỉ đạo, chỉ huy sắc sảo của Tổng ủy trong suốt chiến cuộc Đông Xuân cũng như riêng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Nguồn: Sách "50 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ - Điện Biên Phủ: Hợp tuyển công trình khoa học", NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, 2005, trang 195. Trước đó, bài đăng trên Tạp chí Lịch sử quân sự, số tháng 3/1984.
Trình bày: Hạnh Vũ
Ảnh: TTXVN
4 giờ 30 phút ngày 3/4/1954, Trung đoàn 102 (Đại đoàn 308) được lệnh bàn giao lại trận địa ở sườn phía đông A1 cho Trung đoàn 174 (Đại đoàn 316), về tập kết tại rừng Mường Phăng để củng cố lực lượng.
Chiều ngày 3/4, Đại đoàn 312 sử dụng Trung đoàn 165 tiến công Cứ điểm 105 (Huguette 6) nằm không xa Cứ điểm 106 vừa bị tiêu diệt. Cuộc chiến đấu kéo dài tới sáng, ta chiếm được hai phần ba cứ điểm và chỉ tiêu diệt được một bộ phận địch.
Sau 5 ngày chiến đấu của Đợt 2, ta đã thu được thắng lợi quan trọng. Ở phía đông, ta đã chiếm được 4 ngọn đồi hiểm yếu, nhưng địch vẫn giữ được điểm cao A1. Ở phía Tây, ta chiếm thêm được các điểm cao 106, 311.
Phạm vi chiếm đóng của địch bị thu hẹp lại khá nhiều, lực lượng của chúng cũng bị tổn thất lớn, trong đó đã có thêm 3 tiểu đoàn thiện chiến của chúng bị tiêu diệt. Nhưng ta chưa hoàn thành được tất cả các mục tiêu đề ra, đặc biệt là chưa chiếm được A1 - một mục tiêu trọng yếu của đợt tiến công này.
Chiều 3/4, đồng chí Hoàng Văn Thái Tham mưu trưởng Mặt trận tổng hợp tình hình bốn ngày đêm chiến đấu liên tục trên đồi A1, báo cáo lại với Đảng ủy và Bộ Chỉ huy. Sau khi trao đổi ý kiến với tập thể lãnh đạo, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy hạ lệnh cho các đơn vị “Tạm ngừng chiến đấu từ ngày 4/4. Giữ vững vị trí đã chiếm được ở đồi A1 để sau này tiếp tục tiến công khi có lệnh”.
Ta đề nghị với Pháp ngừng bắn một thời gian để hai bên cùng thu dung thương binh vì đã qua 24 giờ chưa ai được đưa ra khỏi Cứ điểm 106 (Huguette 7).
Các đơn vị pháo binh của ta tiếp tục pháo kích vào các vị trí của địch. Các vị trí của địch bị trúng đạn pháo đang bốc cháy. (Ảnh: TTXVN)
Về phía địch
Đơn vị cuối cùng của Tiểu đoàn 2, Trung đoàn dù thuộc địa số 1 nhảy xuống phân khu Trung tâm.
Chiến trường phối hợp
Đêm 3/4/1954, Bộ đội đặc công tỉnh Bình Định hoạt động trong thị xã Quy Nhơn tập kích vào "Trung Hoa hý viện", kết quả loại khỏi vòng chiến đấu hơn 200 tên.
Trong bài viết "Hội đồng cung cấp mặt trận - Sự sáng tạo về tổ chức bảo đảm hậu cần cho chiến dịch Điện Biên Phủ" (Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Chiến thắng Điện Biên Phủ - Giá trị lịch sử và hiện thực (7/5/1954 - 7/5/2019)”, Đại tá, Thạc sĩ Ngô Nhật Dương có viết: Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra trên địa bàn xa hậu phương chiến lược. Trong chiến dịch, nhờ có “Hội đồng cung cấp mặt trận” đã huy động được một nguồn dân công, phương tiện, lương thực, thực phẩm... lớn từ đồng bào các dân tộc Tây Bắc mà không phải vận chuyển từ xa tới.
Cụ thể: Huyện Tuần Giáo do có nhiều khó khăn, lúc đầu “Hội đồng cung cấp mặt trận” dự kiến không huy động, nhưng đồng bào vẫn đóng góp 1.270 tấn gạo, 300 tấn thịt và 100 tấn rau; bình quân mỗi người dân đã góp cho chiến dịch 116kg gạo. Huyện Điện Biên đã có 3.000 người xung phong đi dân công, đóng góp 64.670 ngày công, cung cấp cho chiến dịch 55 tấn gạo, 36 tấn thịt.
Huyện Mường Tè, có nhiều dân tộc ít người, song cũng đóng góp được 76 tấn gạo, 2.700 ngày công và 43 ngựa thồ, 14 thuyền mảng phục vụ chiến dịch. Nhân dân tỉnh Lai Châu đã đóng góp cho chiến dịch 2.666 tấn gạo, 226 tấn thịt, 210 tấn rau xanh, 16.972 dân công được huy động với số ngày công là 517.210 ngày, 348 ngựa thồ, 58 thuyền mảng, 25.070 cây gỗ để chống lầy, làm đường cho xe pháo và bộ đội vượt qua.
Tỉnh Sơn La trong 5 đợt huy động, đồng bào đã đóng góp 3.607,728 tấn gạo; 130,165 tấn thịt lợn; 14,228 tấn thịt trâu, bò; 2,976kg mỡ; 13,730 tấn rau; 21.678 dân công được huy động với số ngày công là 1.075.755 ngày và còn đóng góp nhiều lừa, ngựa thồ, thuyền mảng, các vật liệu làm đường, chống lầy, dựng cầu vượt qua sông, suối.
Số gạo nhân dân Sơn La, Lai Châu đóng góp chiếm khoảng 27% lượng gạo phải huy động và gần 50% gạo sử dụng tại chiến dịch. Tính chung trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đồng bào Tây Bắc đã tiếp tế vượt mức huy động 1.311,389 tấn thịt (bằng 2.100 con trâu hoặc 13.000 con lợn) và 800 tấn rau tươi.
Ngày xuất bản: 3/4/2024
Nội dung: Thiếu tá, ThS Trần Quốc Dũng - Viện Lịch sử quân sự; Ngọc Toản Thu
Trình bày: ANH NGỌC
Ảnh: TTXVN
Bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên là một bài thơ hay, cực kỳ hay của nhà thơ Tố Hữu.
Chợt nhớ trong Chân dung và Đối thoại của nhà thơ Trần Đăng Khoa có bài liên quan đến nhà thơ Tố Hữu và bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên nên cửu về đây để các cụ thẩm, cũng là để làm mềm đi các post thuần túy về chiến dịch ở trên.
I
Tố Hữu là một nhà thơ lớn. Nói đúng hơn, ông là nhà thơ lãng mạn cách mạng. Cả cuộc đời ông gắn bó với cách mạng. Thơ với đời là một. Trước sau đều nhất quán. Tố Hữu nhìn cách mạng bằng con mắt lãng mạn của một thi sĩ. Thơ ông dường như chỉ có một giọng. Đó là giọng hát tưng bừng ca ngợi cách mạng. Đọc ông trong bất cứ hoàn cảnh và tâm trạng nào, ta cũng thấy phấn chấn, náo nức như đi trẩy hội. Đến đâu cũng nghe vang tiếng trống, tiếng kèn. Mà thơ ông đâu chỉ có trống phách linh đình như một đám rước, ông còn bắn cả 21 phát đại bác vang trời. Cho đến nay, chỉ có ông là nhà thơ Việt Nam duy nhất đã bắn đại bác trang trọng như thế. Trong tâm hồn lớn lộng gió của ông không có những góc khuất, những vùng tối, những nẻo đường hiu quạnh, những thành quách nhàn nhạt một màu rêu cô liêu. Nghĩa là không có chỗ nương náu cho những nốt nhạc lạc điệu, xa lạ và trầm buồn. Đôi khi, những nỗi niềm vu vơ có ở thời Từ ấy lại lần theo một con đường riêng nhuốm màu thiên nhiên, chìm lẩn trong tiềm thức mà tìm về với ông, thì ông lại tự xoá đi, để tiếng hát ông chỉ còn một âm hưởng chủ đạo. Âm hưởng vui bất tuyệt.
Nếu mỗi nghệ sĩ là một người thư ký của thời đại, theo quan niệm Balzac, thì Tố Hữu chính là người thư ký của cách mạng. Thơ ông là biên niên sử cách mạng. Có thể lần theo dấu vết thơ ông mà tìm những bước thăng trầm của cách mạng, của kháng chiến. Chính vì thế, trong những ngày cả nước long trọng kỷ niệm 40 năm ngày chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, tôi tìm lại thơ ông, tra cứu thơ ông, như tra cứu một cuốn tự điển cách mạng. Tôi lật trang Điện Biên Phủ và lập tức lại gặp ngay tiếng reo vui tưng bừng quen thuộc của ông: Hoan hô chiến sĩ Điện Biên. Đây là bài thơ khá nổi tiếng của Tố Hữu. Bài thơ cung cấp cho ta nhiều con số và những tư liệu lịch sử. Qua thơ mà ta biết cuộc kháng chiến chống Pháp kéo dài ba ngàn ngày. Chiến dịch Điện Biên Phủ từ lúc mở màn đến khi kết thúc thắng lợi là 56 ngày đêm. Trong thời gian này, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đang ở Việt Bắc. Trên bàn làm việc dã chiến của Người có bản đồ Điện Biên Phủ. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đi hội đàm với Chính phủ Pháp ở Paris. Trưởng phái đoàn ngoại giao của Pháp là Biđôn (Bidault). Trưởng phái đoàn ngoại giao của Mỹ là Smit (Smith). Còn đại tướng Võ Nguyên Giáp thì dàn quân ở giữa trận tiền. Và bạt ngàn bộ đội, dân công đi tiếp lương, tải đạn, kéo pháo, mở đường. Lương thực, đạn được vận chuyển đến Điện Biên bằng hai phương tiện chính: thồ và gánh. Đời sống tinh thần của bộ đội và dân công ta ở cái thời ấy cũng được Tố Hữu ghi chép khá tỉ mỉ: người ta động viên nhau, thúc đẩy nhau bằng tiếng hát. Những điệu hò lơ, hấy lơ vang vọng khắp các triền đèo hiểm trở Lũng Lô, Pha Đin. Như thế, xem ra, việc chuẩn bị chiến đấu vất vả, gian khổ nhưng vui. Rõ ràng đi kháng chiến như đi trẩy hội. Còn khi đã chiến đấu thì thật ác liệt. Có thể nói đó là cuộc chiến đẫm máu. Người khoét núi đặt bộc phá. Người bịt lỗ châu mai. Người lấy thân chèn pháo. Và máu người đã nhuộm đỏ cánh đồng Mường Thanh. Máu trộn với bùn đất. Chỉ một chi tiết này, ta biết chiến dịch mở vào mùa mưa. Đó là một thử thách không nhỏ đối với người lính Điện Biên Phủ. Tất cả những tư liệu lịch sử có tính thông tấn báo chí ấy, đã được Tố Hữu biến thành tình cảm, giai điệu. Và bao phủ lên nó là một bầu không khí hừng hực. Bầu không khí Điện Biên.
Tố Hữu có đi chiến dịch không? Ông viết bài thơ này trong trường hợp nào? Lúc ấy ông ở đâu? Ông đang làm gì, giữ những trọng trách gì? Chiến thắng Điện Biên đến với ông ra sao? Đấy là những câu hỏi mà độc giả hôm nay tò mò muốn được giải đáp. Nhưng ai giải đáp nổi? Chỉ có thể là Tố Hữu. Và chúng tôi được giao một nhiệm vụ rất cụ thể: tìm đến gặp Tố Hữu, rồi lân la hỏi chuyện ông.
II
Chúng tôi tập kích vào nhà Tố Hữu, đúng theo cách tiếp cận của lính Điện Biên Phủ. Ngay lập tức nhà thơ lớn đã bị bốn anh em lính báo bao vây. Ngoài tôi và nhà phê bình Hồng Diệu, còn có thêm Khánh Chi, Trường Giang - hai phóng viên trẻ của báo Đại đoàn kết. Bây giờ thì Tố Hữu đã ngồi gọn giữa mấy anh em chúng tôi. Trông ông trầm tĩnh như một ngọn tháp cổ kính. Mà không, ông như một vị nguyên soái đã giã từ vũ khí, giã từ mọi thứ xiêm áo lỉnh kỉnh mà tạo hoá đã bỡn cợt khoác lên ông, nhiều khi che khuất cả chính ông, để ông chỉ còn lại là một già làng, có phần cô đơn, bé nhỏ, da mồi, mái tóc bạc trắng sương gió, dường như đã quá quen với trận mạc, với mọi biến cố, thăng trầm của cõi đời dâu bể. Lơ lửng ở đâu đó trong khoảng u u minh minh trên mái đầu ngả bạc của ông, hình như vẫn còn lung liêng, vẫn còn chao lắc cái con quay mờ mờ nhân ảnh của ông Trời. ý nghĩ ấy đến với tôi khi tôi đang thành kính ngắm ông như ngắm một viện bảo tàng. Còn ông thì ngồi im lặng. Đôi mắt riu riu nửa thức, nửa ngủ, có lúc lơ đãng vô vi như một người đang nhập thiền, có lúc lại ánh lên, long lanh sáng như mảnh thuỷ tinh vỡ. Vào những giây khắc mong manh đó, tôi chợt thấy ông vẫn còn là một vị tướng soái, với đầy đủ mũ áo cân đai. Còn bây giờ, ông có vẻ như hơi ngỡ ngàng. Ông đưa mắt nhìn lũ chúng tôi là mở chiến dịch rút lui quyết không dây với lũ trẻ ranh.
- Chuyện Điện Biên ấy mà, nói thực là mình biết không nhiều lắm đâu. Cái này các cậu phải đến gặp Hồ Phương, Hữu Mai, hay Từ Bích Hoàng. Các anh ấy đi chiến dịch Điện Biên, các anh ấy biết nhiều chuyện đấy.
- Chuyện Điện Biên thì bạn đọc cũng đã biết rồi, vừa qua mấy anh em làm báo đã sục vào hầm De Castries, còn lặn lội vượt đèo leo suối vào tận sở chỉ huy ta ở Mường Phăng. Anh Lê Lựu đã đến gặp đại tướng Võ Nguyên Giáp. Anh Hồng Diệu đã gặp ba thiếu tướng Hồ Phương, Chu Phác và Dũng Hà. Mấy anh em còn tham khảo cả tài liệu của Pháp nói về Điện Biên. Nghĩa là nhìn Điện Biên ở mọi góc độ khác nhau. Bây giờ, mấy anh em muốn hỏi anh về bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên.
Tố Hữu cười:
- Bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên thì cũng chẳng có gì phải nói thêm nữa. Mình đã viết cả ra rồi. Có gì cũng nói tuột ra hết. Thơ mình là thế, là cứ nói thẳng tuồn tuột, chẳng có gì khuất khúc cả.
- Vâng, bài thơ nói được nhiều điều lắm. Đầy ắp tư liệu thông tin. Nhưng có thông tin mà bạn đọc bây giờ tò mò muốn biết thì bài thơ lại không nói đến. ấy là thông tin về tác giả. Khi viết bài thơ này, anh đang ở đâu?
Tố Hữu ngồi im lặng. ánh mắt bỗng xa vợi. Hình như ông đang lục trong trí nhớ, cố tìm một hình ảnh nào đó, một bóng dáng nào đó của kỷ niệm xa mờ.
- Chịu, không thể nhớ được. - Tố Hữu quay về phía tôi. - Mình già rồi, u mê rồi. Có lẽ các anh ở cục tác chiến, quân bưu, các anh ấy nhớ, chứ mình thì quên mất rồi. Cái bản ấy, nó có cái tên là khau khau gì đấy. Hồi đó, mình là trưởng ban tuyên truyền. Suốt ngày chỉ hong hóng chờ tin tức từ chỗ anh Trường Chinh, hoặc lại chạy sang bên Bộ Tổng, Quân uỷ trung ương, chỗ anh Văn, hỏi xem có đánh nhau ở đâu thì viết bài tuyên truyền. Mà viết xong cũng chẳng biết đưa cho ai nữa. Hồi ấy, phương tiện tuyên truyền của ta còn nghèo lắm, sơ sài lắm, đâu có được phong phú như hồi chống Mỹ. Công cụ tuyên truyền chỉ có mỗi tờ báo Nhân Dân với cái đài 500 oát. Còn thì phần lớn là tuyên truyền mồm quan cánh dân công. Mỗi trận đánh thắng, tự thân nó đã có sức tuyên truyền rồi. Nó lan xa lắm, lan nhanh lắm. Còn chuyện Điện Biên thì sau này mới rầm rộ. Hò kéo pháo. Điện Biên bấy giờ im ắng lắm. Ta âm thầm chuẩn bị lực lượng. Không ai có thể nghĩ được rằng, ta lại có thể đưa được quân, đưa được pháo vào Điện Biên. Thực tế khách quan thì không thể làm được. Đường sá hiểm trở lắm, toàn những đèo dốc, vực thẳm. Gay go nhất là việc vận chuyển lương thực, thực phẩm. Cái này, phải nói là dân mình ghê gớm thật. Chỉ có đôi vai, đôi bồ, khá hơn cái xe đạp tồng tộc, mà rồi từ Thanh Hoá, từ đồng bằng Bắc Bộ mò mò đưa gạo lên. Hạt gạo nặng bằng hạt máu. Phải nói ý chí của dân mình rất ghê gớm. Họ nhịn đói, nhịn khát, ăn lá lảu dọc đường. Dừng nghỉ thì nói chuyện thịt bò, nói chuyện nướng chả, làm thịt cầy, cứ như mình đang liên hoan, đang ăn thịt, mà toàn ăn thịt... mồm.
- Vậy tin toàn thắng đến với anh lúc nào?
- Lúc ấy khoảng 5h30 hay 6h chiều ngày 7-5. Rừng đã nhá nhem tối mới có điện từ chỗ anh Trường Chinh xuống. Mình mừng quá. Cái chuyện Hoả tốc, hoả tốc - Ngựa bay lên dốc ấy là có thật. Đấy là con ngựa của chú liên lạc ở chỗ anh Trường Chinh. Và cũng chỉ có mỗi con ngựa với chú liên lạc, chứ làm gì có Đuốc cháy sáng rừng, với Làng bản đỏ đèn đỏ lửa. Khi viết thì mình viết thế. Viết thế mới tạo được không khí, chứ làm gì có lửa mà đỏ rừng đỏ bản. Thực tế lúc ấy, nhìn ra xung quanh, rừng núi tối mù mù. Chỉ có vài ngôi nhà ở triền núi xa xa có ánh lửa le lói, chắc họ đang nấu cơm hay nướng sắn gì đó. Thế mà mình viết: Đuốc chạy sáng rừng - Loa kêu từng cửa. Cũng chẳng có loa đâu. Mà loa với ai. Dân ở xa. ở gần dân e bị lộ. Nguyên tắc là bí mật tuyệt đối. Cơ quan trung ương ở trong rừng, ở giữa lau tre. Mình ở nhà đất. Anh Trường Chinh cũng ở nhà đất. Chỉ có Bác ở nhà sàn. Ông cụ có đặc tính là thích ở nhà sàn, và ở bên suối. Ông cụ vốn là người yêu sơn thuỷ hữu tình. Cơ quan trung ương cũng đóng dọc bên suối, lán chìm trong cây lá. Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù mà. Bí mật là một nguyên tắc. Vậy thì loa với ai. Thế mà vẫn loa kêu từng cửa. Làng bản đỏ đèn đỏ lửa. Hầy, nghe vui hỉ, nghe cũng rậm rật đấy chứ hỉ - Rồi Tố Hữu quay lại mấy anh em, nheo nheo một bên mắt, vẻ trẻ trung, tinh nghịch - Này xem ra không thể tin cánh văn nghệ được đâu hỉ. Phịa, toàn là phịa. Chỉ có điều là mình phịa như thật, nên người ta cũng tha cho.
Rồi Tố Hữu lại cười. Nụ cười thật hiền hậu. Trông ông lúc này có vẻ của một ông Phật, Hồng Diệu hỏi:
- Thế từ lúc mở màn đến khi kết thúc chiến dịch anh có lên Điện Biên bao giờ không?
- Không! Nào mình có biết Điện Biên ở đâu mà đi. Đi sao được. Mà ai cho đi cơ chứ.
- Tưởng anh là trưởng ban tuyên truyền, anh có thể đi khắp nơi chứ.
- Đâu có. Ông nói thế là nói cái anh tuyên truyền sau này, tuyên truyền bây giờ. Chứ lúc ấy, đi sao được. Mình cứ ngồi im chờ lệnh cụ Trường Chinh.
- Tưởng anh viết Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam...
- À, cái đấy mình hỏi. Mình hỏi mấy chú đã đến Điện Biên rồi. Hỏi xem ở đấy có những cái gì, mới biết mấy cái địa danh như thế đấy chứ, biết cả ở đó có cam, có mơ và rất nhiều hoa mơ. Chỉ mang máng thế thôi. Và rồi những cái mang máng ấy, cũng chẳng biết sẽ để làm gì. Sau này khi viết, mình mới lôi nó ra, đưa vào thơ, cứ nhét bừa vào. Nó mới thành: Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam / Hoa mơ lại trắng vườn cam lạ vàng. Đấy, đơn giản thế đấy.
Rồi Tố Hữu lại cười. Hoá ra ông Phật này cũng thích đùa lắm. Ông nói mà cứ như nói đùa, và tôi nghĩ, phải là người uyên thâm lắm, thông minh và lịch lãm lắm mới có thể nhìn mọi sự đơn giản như thế, mới có thể đùa được như thế. Đùa là một phẩm chất của trí tuệ. Thực tình, hai câu thơ mà Tố Hữu vừa nhắc đến, như nhắc đến một giai thoại vui kia, là hai câu thơ hay, nếu không nói là hay nhất trong bài. Đặt trong cái không khí của toàn bài, nó mới đắc địa, như người ta đang nghe một bản giao hưởng chát chúa toàn những kèn đồng, lại thấy vút lên mảnh mướt một tiếng sáo trúc đồng quê mát mẻ. Câu thơ ghép toàn những địa danh. Đưa địa danh vào thơ đâu có dễ dàng gì. Nhưng Tố Hữu có biệt tài trong cái kỹ nghệ ngày. Địa danh vào thơ ông thường rất nhuần nhuyễn. ở đây, dường như nó không còn là địa danh nữa, nó là kỹ nghệ chơi chữ cao, chơi chữ mà không thấy dấu vết của việc chơi chữ, chỉ có hai câu thơ với tên rừng, tên núi cụ thể mà Tố Hữu đã kết được thành một vòng hoa rực rỡ sáu màu. Đấy là vòng hoa tưởng niệm các liệt sĩ đã hy sinh ở chiến trường Điện Biên lịch sử. Xuân Diệu là người đã có công trong việc phát hiện ra cái vòng hoa thầm lặng đó.
- Sau này, ông Diệu ông ấy có khen tôi. Ông ấy tán ra thế, tôi mới biết nó như thế đấy chứ. Thực ra, đó là mấy cái địa danh có sẵn, địa danh có màu, dưới lại có trắng, có lam, có vàng. Cũng lại là màu nữa. Nó mới thành tấm thảm nhiều màu. Cái này, những anh em lý luận họ gọi là gì hỉ? Là tiềm thức à? Nghĩ cũng có lý hỉ?
Ngừng một lát, Tố Hữu tiếp:
- Bài thơ Điện Biên được viết nhanh lắm. Sau chiến thắng, tôi lên Bác ngay. Lên xin ý kiến Bác xem cần tuyên truyền thế nào. Có điều lạ là Bác rất bình thản. Bác bảo: Đây chỉ là chiến thắng bước đầu thôi. Sao các chú cứ rối lên thế. Ta đánh thì tất nhiên là sẽ thắng. Quân đội ta là quân đội quyết chiến, quyết thắng cơ mà. Bác khen các chú đánh giỏi. Nhưng đừng rối lên. Phải cảnh giác. Hết sức cảnh giác. Chiến tranh chưa kết thúc đâu. Kẻ thù ta bây giờ không phải là Pháp nữa, mà là Mỹ. Không khéo chuyến này, ta phải đánh nhau với Mỹ, còn lâu dài đấy, gian khổ đấy, đừng có tếu. Điều đáng kinh ngạc là Ông Cụ lại nói chuyện ấy ngay trong ngày chiến thắng Điện Biên. Tôi đã đọc một loạt những hồi ký viết về Ông Cụ ở thời điểm này, nhưng không thấy ai nói đến chuyện đó. Cũng trong cuộc gặp ấy, Ông Cụ bảo tôi làm tuyên truyền. Ông Cụ có bảo tôi làm thơ đâu, làm tuyên truyền động viên bộ đội đấy chứ. Tuyên truyền làm sao cho dân vui là được rồi. Tôi về, suốt đêm không ngủ được, cứ vẩn vơ mãi. Tôi nghĩ: tuyên truyền bằng thơ là tốt nhất. Thơ dễ phổ biến, dễ nhớ, dễ thuộc. Mình không nhận ra trận, nhưng cũng nghe lỏm được khối chuyện. Chỉ tội, chẳng biết Điện Biên ra sao. Rồi thì đèo Pha Đin, đèo Lũng Lô cũng chẳng thể hình dung được. Tôi bèn đến hỏi Bác, Bác ngửa cái mũ lá ra: Điện Biên nó như thế này này. Nó là một lòng chảo. Đấy, cũng chỉ mang máng thế thôi. Thế rồi thì tôi viết, viết nhanh lắm, viết không đến hai ngày. Những gì mình nghe được về Điện Biên, mình cho vào thơ hết, cho nó có vần có điệu, vì nhịp thơ nó đi như thế. Lục bát thì còn phải cò cưa ký cưa, chứ ở đây, mình cho nó nổ lung tung lên, chẳng việc gì phải giữ đúng khuôn khổ. Có lẽ đây là bài thơ tự do nhất, viết sảng khoái nhất. Hồi Cách mạng tháng Tám, mình cũng có bài thơ sảng khoái như vậy. Bài thơ nói về cái con chim gì ấy nó hót hót ấy...
- À, đấy là bài Huế tháng 8 - Hồng Diệu chợt như bừng tỉnh - Có con chim nào trong tóc, nhảy nhót hót chơi. Ha! Nó hót cái gì vui vui nghe thiệt ngộ.
- Ờ, đại khái là như vậy.
Tố Hữu cười. Mấy anh em cùng cười. Không khí trong căn phòng thật ấm cúng vui vẻ. Tố Hữu tiếp tục câu chuyện và Hồng Diệu lại làm bà Trần Thị Tuyết minh hoạ thơ cho ông. Phải nói trí nhớ của nhà tầm chương trích cú này cũng đáng hãi thật. Hầu như anh thuộc hết thơ Tố Hữu, kể cả những câu thơ trong quá trình sửa chữa, ông đã vứt rồi, mà Hồng Diệu vẫn còn thuộc. Anh đọc cho Tố Hữu nghe bằng một giọng von vót nửa kim, nửa thổ.Tiếng reo núi vọng sông rền...
- À, cái đó mình cũng phịa đấy. - Tố Hữu cắt ngang giọng đọc đầy hào hứng của Hồng Diệu. - Hồi đó, đang phải bí mật, có ai dám reo hò đâu. Nhưng phải viết thế, phải tạo không khí như thế mới có cớ mà hoan hô chứ. Mình hoan hô chiến sĩ Điện Biên, hoan hô ông Giáp. Lúc ấy, đại tướng võ Nguyên Giáp oanh liệt lắm. Người ra trận cơ mà. Một ông Tổng tư lệnh ra trận...
- Thế sao sau này, trong những tập tái bản gần đây, anh lại cắt câu ấy đi?
- Đâu, mình có cắt đâu - Tố Hữu ngạc nhiên. Mình chẳng biết gì đến chuyện ấy cả. Mình vẫn giữ đấy chứ, mà mình thấy cũng không có gì phải cải chính.
- Bài thơ này khi anh viết xong rồi, Bác Hồ có đọc không?
- Có chứ - Tố Hữu cười - Khi in ra, chắc Ông Cụ có đọc.
- Thế Ông Cụ nói sao?
- Ông Cụ chẳng nói sao cả. Chưa bao giờ Ông Cụ khen thơ tôi. Chỉ có anh Trường Chinh thì có khen, ví tôi với ông này, ông khác, nhưng anh ấy cũng nói tào lao cho vui thế thôi, còn Bác thì chưa bao giờ khen thơ tôi cả. Sau Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, tôi viết tiếp Ta đi tới và Việt Bắc...
Đây là thời kỳ sáng tác sung sức nhất của Tố Hữu. Trong ba bài thơ viết cùng một giai đoạn ấy, Việt Bắc là một kiệt tác, dù còn lẫn mấy câu vè. Hai bài thơ còn lại cũng như phần lớn thơ Tố Hữu, sẽ bất tử nhờ lịch sử. Bởi nó đề cập đến những cái mốc lịch sử. Mỗi bài là một trang biên niên sử. Mà đề cập đến lịch sử, viết về lịch sử thì không ai bằng được ông. Chiến thắng Điện Biên đã qua 40 năm rồi, đã có hàng trăm bài thơ viết về sự kiện này, nhưng cho đến nay, quả thật vẫn chưa có bài thơ nào viết về Điện Biên vượt bài thơ ông. Cái hay của bài thơ không nằm trong câu chữ cụ thể mà nằm trong cái hơi chung của toàn bài.
- À, lại nói về cái tên bài thơ. - Tố Hữu tiếp tục tâm sự - Lúc đầu mình lấy tên là Điện Biên Phủ. Nhưng sau nghĩ thấy không ổn. Điện Biên Phủ chỉ là một cái địa danh. Mình đổi thành Chiến thắng Điện Biên, cũng lại thấy vô duyên. Nghe nó như tên một bài báo. Mình đọc lại bài thơ, thấy có câu Hoan hô chiến sĩ Điện Biên. Thôi, lấy té luôn như thế cho rồi. Cái tên ấy hợp với không khí toàn bài - Tố Hữu nhìn sang tôi, sảng khoái như một người vừa thắng xong một trận đánh hóc hiểm - Thơ Khoa có lẽ chẳng bao giờ có hoan hô đâu nhỉ. Còn tôi thì tôi cứ hoan hô. Tôi còn hô cả khẩu hiệu nữa cơ. Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Muôn năm, muôn năm Mác - Lênin. Đấy, tôi hô khẩu hiệu đấy, tôi chả sợ. Tôi muốn nói rằng: Không có cái gì là không thành thơ được. Tôi cho cả Nguyễn Văn Trỗi hô: Hồ Chí Minh muôn năm. Mà hô những ba lần kia.
Tất nhiên, sau ba câu khẩu hiệu Hồ Chí Minh muôn năm, Tố Hữu đã hạ một câu thơ thật là thần tình: Phút giây thiêng anh gọi Bác ba lần. Và thế là ngay lập tức, mấy câu khẩu hiệu khô khốc trên kia đã không còn là khẩu hiêu nữa, nó đã thành tình cảm, xúc cảm, thành nỗi niềm thiêng liêng của cả một đời người ở cái giây phút hiểm nghèo nhất. Và người đọc bỗng ứa nước mắt. Đấy là tài nghệ của một bút pháp lớn. Bút pháp bậc thầy.
Câu chuyện Điện Biên tạm thời kết thúc. Tố Hữu quay sang hỏi Khánh Chi và tôi, cũng vẫn những chuyện văn chương. Khi chia tay ông, Khánh Chi mới rụt rè đề nghị:
- Bác Tố Hữu ơi, bạn đọc ở báo Đại đoàn kết lại còn có yêu cầu này nữa. Họ muốn có mấy dòng chữ và chữ ký của bác. Bác chép cho một đoạn thơ nào đó trong bài Hoan hô chiến sĩ Điện Biên.
Tố Hữu vui vẻ:
- Ờ thì đưa sổ đây, có bút không?
Nhưng khi đặt cuốn sổ của Khánh Chi lên đầu gối rồi thì Tố Hữu lại lưỡng lự. Hình như ông đang tính xem nên chọn câu thơ nào. Hồng Diệu liền tham mưu:
- Xin anh chép đoạn này: Điện Biên vời vợi nghìn trùng / Mà lòng bốn biển nhịp cùng lòng ta...
- Không, không được. - Tố Hữu lắc đầu - Phải chọn đoạn khác. Cái đoạn nói về huân chương. ờ, mà tại sao bây giờ, người ta lại không thích đeo huân chương nhỉ. Đối với tôi, huân chương bao giờ cũng có ấn tượng rất mạnh.
Rồi ông cúi xuống viết vào cuốn sổ tay của Khánh Chi:
Kháng chiến ba ngàn ngày
Không đêm nào vui bằng đêm nay
Đêm lịch sử. Điện Biên sáng rực
Trên đất nước, như huân chương trên ngực
Dân tộc ta, dân tộc anh hùng...
Tố Hữu chép rõ từng nét chữ. Hồng Diệu đọc cho ông chép. Thỉnh thoảng, ông lại ngẩng lên, âu yếm chờ Hồng Diệu đọc tiếp. Tôi nhìn ông, ngỡ ngàng. Một nhà thơ lớn, nổi tiếng vào loại bậc nhất của nền thơ đương đại Việt Nam ngồi chép lại thơ mình, chép từ trí nhớ của một độc giả. Thật chẳng có gì sung sướng hơn được nhân dân thuộc thơ mình. Đấy chính là tấm huân chương cao quý nhất mà nhân dân đã trao tặng thi sĩ. Hạnh phúc lớn lao ấy, tạo hoá đâu có ban phát cho nhiều người.
Trần Đăng Khoa
(trích Chân dung và đối thoại)
Năm nay lễ diễu binh, diễu hành chào mừng 70 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ sẽ rất hoàng tráng. Mới tập thôi mà đã thấy náo cả cái nức rồi.
CCCM xem đầy đủ hơn ở đây nhé :
Hợp luyện diễu binh, diễu hành Kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ
VOV.VN - Thành phần tham dự diễu binh, diễu hành gồm 5 lực lượng: Lực lượng Pháo lễ; lực lượng Không quân bay chào mừng; lực lượng diễu binh, diễu hành (gồm khối Nghi trượng), lực lượng diễu binh do Bộ Quốc phòng chủ trì phối hợp với Bộ Công an đảm nhiệm.
Sáng 22/3, tại Trung tâm Huấn luyện quân sự quốc gia 4 (huyện Mỹ Đức, Hà Nội), Thượng tướng Nguyễn Tân Cương, Tổng Tham mưu trưởng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng chủ trì kiểm tra huấn luyện diễu binh, diễu hành chuẩn bị cho Lễ kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ. Phần diễu binh của Quân đội, Dân quân tự vệ có sự tham gia của đầy đủ các lực lượng.
Qua theo dõi, kiểm tra hợp luyện, Thượng tướng Nguyễn Tân Cương đánh giá, mặc dù thời gian huấn luyện, luyện tập không dài (khoảng một tháng) trong điều kiện thời tiết gặp nhiều khó khăn, mưa rét ở miền Bắc, tuy còn những tồn tại nhất định song lực lượng của Quân đội, Dân quân tự vệ được tham gia diễu binh, diễu hành đã phát huy tinh thần trách nhiệm, khắc phục khó khăn, bước đầu hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Khối cờ Đảng, Cờ Tổ quốc, cùng khối quân kỳ dẫn đầu đội hình các khối đại điện cho lực lượng vũ trang tiến vào lễ đài.
Khối nữ Quân nhạc Việt Nam cùng những âm thanh hùng tráng, ngân vang trong lễ diễu binh.
Khối chiến sĩ Điện Biên - hình ảnh những chiến sĩ anh hùng đã làm nên Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ gồm các Đại đoàn 308 - Quân Tiên phong; 312 - Chiến thắng; 316 - Bông Lau; Đại đoàn Công Pháo 351 tiến vào lễ đài
....
Nhấn mạnh thời gian từ nay đến ngày diễn ra Lễ kỷ niệm không còn dài (khoảng 6 tuần), Thượng tướng Nguyễn Tân Cương cho rằng, điều kiện gấp rút đòi hỏi các lực lượng phải nỗ lực cao nhất trong huấn luyện, luyện tập.
Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam yêu cầu từng cá nhân tham gia quán triệt sâu sắc vị trí, ý nghĩa của diễu binh, diễu hành trong Lễ kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ.
Thành phần tham dự diễu binh, diễu hành gồm 5 lực lượng: Lực lượng Pháo lễ; lực lượng Không quân bay chào mừng; lực lượng diễu binh, diễu hành (gồm khối Nghi trượng), lực lượng diễu binh do Bộ Quốc phòng chủ trì phối hợp với Bộ Công an đảm nhiệm.
























































