Một hôm, một chiến sĩ Đội Z hốt hoảng chạy đến báo ông Ba: "Anh Tư bắt được Mac rồi". Khi biết Tư Ẩn bắt thằng Mac ở ngoại ô Tual Kốc, đang trên đường đưa về, ông Ba Quốc rất lo lắng: "Thế này họ bắn thằng Ẩn mất". Nhưng khoảng 30 phút sau, Tư Ẩn lái chiếc xe lôi lao vào cửa, hò hét để bảo vệ mở cửa thật nhanh. Ông Ba Quốc bồn chồn chạy ra, rất hiếm khi ông bồn chồn như vậy. Tư Ẩn phanh xe, rút khẩu AK báng gấp giấu dưới ván xe, đập vỡ cái chum trên xe lôi, bên trong là một người nằm thu lu, báo với ông Ba Quốc: "Chú Ba, thằng Mac đây".
Ấy là Tư Ẩn bắt được thằng Mac nhưng biết là mang về không thoát (vì có thể bị quân đội và công an bạn bắn lầm), nên cùng với một đồng đội trói chặt Mac rồi bịt miệng bịt mắt hắn. Đang không biết làm sao đưa về thì thấy một cái xe lôi đi qua, Tư Ẩn rút súng ra lệnh cho xe lôi dừng lại, có bao nhiêu tiền đưa hết cho chủ xe, rồi đặt gọn tên Mac vào cái chum trên xe lái chạy an toàn.
Những chuyện ly kỳ như thế còn rất nhiều. Tướng Nguyễn Chí Vịnh nói mỗi chuyện đều có thể dựng thành phim. Và ước có thời gian để viết một cuốn sách về Tư Ẩn.
Ảnh thời trẻ của đại tá Nguyễn Ngọc Ẩn (Tư Ẩn), Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
T.L
Sau khi làm xong nhiệm vụ quốc tế, người anh hùng Tư Ẩn "rửa tay gác súng" về làm vườn ở Bình Phước. Vào năm 2005, Quân đội tổ chức Đại hội anh hùng và chiến sĩ thi đua toàn quốc, Tư Ẩn được mời dự. Nhưng ông gọi điện cho tướng Vịnh: "Thôi tôi khỏi đi, anh Năm xem có tiền ăn ở đi lại gì thì đưa cho tôi, các anh đỡ mất công tiếp đón". Vậy là đơn vị cấp số kinh phí đó cho Tư Ẩn, ông mời cả đội đi nhậu một bữa thật vui vẻ.
Từ sau những năm 1990, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới trong nội địa và ở các khu vực biên giới trọng điểm, tài năng và kinh nghiệm của ông Ba Quốc lại một lần nữa được thể hiện. Đó là sự ra đời của Đội Đặc nhiệm K, sau đó đổi tên thành Đoàn Đặc nhiệm của Tổng cục II. Lúc đó tướng Nguyễn Chí Vịnh đã làm Cục phó Cục 12, được bổ nhiệm kiêm Đoàn trưởng.
Chỉ sau 3 năm, Đoàn Đặc nhiệm K cũng được phong danh hiệu anh hùng vì những chiến công đặc biệt. Tướng Vịnh kể Đoàn K cũng chính là sản phẩm độc đáo của ông Ba Quốc, là "đặc sản" riêng của ông.
Đó là công lao đặc biệt của ông Ba trên chiến trường Campuchia và trong chiến tranh bảo vệ biên giới. Nhưng công lao của ông Ba Quốc không chỉ có vậy.
Ông Ba Quốc, nhà tình báo đầu tiên phát hiện dã tâm của Khmer Đỏ.
Xin quay thời gian sau năm 1975, khi đất nước vừa thống nhất không bao lâu phải bắt đầu chuẩn bị cho cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở hai đầu của đất nước.
Theo tướng Nguyễn Chí Vịnh, ngay sau ngày giải phóng Sài Gòn, ông Ba Quốc là người được phân công tiếp quản Phủ đặc ủy trung ương tình báo củachính quyền Sài Gòn cũ. Sau đó, ông chuyển từ một điệp viên bí mật sang làm cán bộ tình báo công khai, rồi trở thành người chỉ huy tình báo. Với sự nhạy bén bản năng, ông nhanh chóng tổ chức các điệp viên và kết nối các mối quan hệ, phái người đến những nơi cần đến để bất cứ khi nào cần ông sẽ chỉ thị.
Sớm phát hiện dã tâm của Khmer Đỏ
Vào năm 1977, khi Khmer Đỏ giở trò gây hấn ở biên giới nước ta, ông được phân công làm Cụm trưởng Điệp báo để đối phó với Khmer Đỏ. Làm tình báo quân sự là nhiệm vụ hoàn toàn mới mẻ đối với ông Ba Quốc nhưng ông không bị động. Với các điệp viên được ông cài cắm từ trước, với các mối quan hệ ông thiết lập, cộng với sự nhạy bén chính trị vốn có, ông lấy được bản nghị quyết mật của Khmer Đỏ coi Việt Nam là kẻ thù truyền kiếp và chuẩn bị phát động chiến tranh chống phá nước ta. Ông cũng nhanh chóng phát hiện ai là kẻ đứng đằng sau xúi giục, hậu thuẫn cho Khmer Đỏ.
Ông báo cáo với lãnh đạo Cơ quan Tình báo Quốc phòng, các vị vừa nhất trí với tin tức và nhận định của ông vừa phân vân, vì dù gây hấn ở biên giới nước ta nhưng Khmer Đỏ vẫn mang danh "cộng sản", vẫn là "bạn". Ông đề nghị gửi một báo cáo lên Quân ủy Trung ương và Bộ Chính trị, ông trực tiếp ký bản báo cáo đó. Lãnh đạo đồng ý.
Lúc ấy ông Lê Đức Thọ (Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương) là người trực tiếp phụ trách công tác nghiên cứu chiến lược và an ninh quốc gia. Đọc bản báo cáo, ông Sáu Thọ gọi lãnh đạo tình báo lên. Ai cũng biết uy quyền của ông Sáu Thọ. Ông nói với lãnh đạo tình báo: "Báo cáo này rất đáng quan tâm, nhưng có một điều rất nguy là coi chừng biến bạn thành thù, vì Khmer Đỏ chỉ là "bạn xấu" chứ chưa phải là kẻ thù". Câu nói đó khiến ai cũng phải "run". Ông Ba Quốc lúc đó là trung tá, Cụm trưởng tình báo, bị ông Lê Đức Thọ phán một câu như thế không khỏi cảm thấy lo lắng.
Do đặc biệt quan tâm vấn đề này, sau đó ông Sáu Thọ vào TP.HCM yêu cầu có cuộc họp với Cơ quan Tình báo quân sự. Cuộc họp có mặt lãnh đạo Cục 2 (sau này là Tổng cục 2), lãnh đạo Cơ quan Tình báo phía nam và ông Ba Quốc. Ông Sáu Thọ bảo đây là cuộc họp nội bộ, ai biết gì nói nấy, cứ nói thoải mái, không ai đánh giá cả, nhưng khi có đánh giá thống nhất thì phải thực hiện.
Theo nguyên tắc, tình báo ta không được phép "nắm" bạn, có thể "nắm" địch và thông qua đó để biết bạn thì không sao, nhưng làm tình báo với bạn mà bạn biết thì sẽ ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa hai Đảng, hai nước. Nhưngông Ba Quốcvới tính cách và khí chất bẩm sinh, đã nói thẳng tất cả những gì ông biết và đánh giá về Khmer Đỏ qua những tin tức tình báo được kiểm chứng. Kết thúc cuộc họp, ông Lê Đức Thọ không phản bác, cũng không nhận xét gì, mà chỉ nói một câu: "Đây là vấn đề cần quan tâm. Tình báo cần tích cực nắm thêm ở cấp trung ương của Khmer Đỏ".
Đó là câu nói bật đèn xanh, cho phép tình báo quân sự triển khai các hoạt động tình báo thâm nhập vào đầu não của Khmer Đỏ. Ông Lê Đức Thọ là nhà chiến lược và là nhà tổ chức lỗi lạc, quyết đoán và cẩn trọng. Khi có đủ thông tin, ông đã cùng với ban lãnh đạo cao nhất của đất nước nhanh chóng chuyển hướng chiến lược.
Từ đó, lực lượng Tình báo Quốc phòng triển khai các lưới tình báo bám sát khắp các địa bàn Campuchia, theo dõi mọi hành động của Khmer Đỏ, nắm chắc dã tâm của cơ quan đầu não của chúng.
Đánh sập mạng lưới tình báo Khmer Đỏ, phá chặn đường dây kinh tài
Ông Ba cùng các đồng đội của ông đã tham mưu cho cấp trên đánh sập mạng lưới tình báo của Khmer Đỏ phủ dày đặc ở tất cả các tầng lớp xã hội, phá chặn các đường dây kinh tài do nước ngoài chống lưng tiếp tay cho chúng, cắt đứt các đường dây cung ứng hậu cần cho chúng. Đồng thời, giúp đỡ lực lượng kháng chiến Campuchia phong tỏa, hạn chế hoạt động của Khmer Đỏ.
Công lao đặc biệt của ông Ba Quốc và đồng đội của ông đối với vấn đề Campuchia, bao gồm việc sớm phát hiện dã tâm của Khmer Đỏ, tiếp đó là triển khai mạng lưới tình báo sâu rộng để đập tan và làm vô hiệu hóa các thủ đoạn sâu hiểm của chúng, đã giúp lãnh đạo đất nước kịp thay đổi chiến lược, xác định đúng kẻ thù, tạo tiền đề cho các chiến dịch quân sự bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và tấn công vào tận hang ổ của chúng, giải phóng đất nước Campuchia thoát họa diệt chủng, giúp lực lượng yêu nước Campuchia giành lại chính quyền hồi sinh đất nước.
Nếu không có các hoạt động tình báo hữu hiệu sớm nắm bắt dã tâm của địch, làm thất bại âm mưu, ý đồ chiến lược, cắt đứt hậu cần của chúng thì nhân dân Campuchia càng tang thương hơn nữa và sự tổn thất của đất nước ta, của quân đội ta là rất khó lường.
Giờ thì cả thế giới đều biết sự kinh tởm của chế độ diệt chủng Pol Pot, nhưng khi quân tình nguyện của ta sang cứu nhân dân Campuchia thì các nước phương Tây nhân danh dân chủ nhân quyền đã lên án và thi hành chính sách cấm vận ngặt nghèo đối với nước ta, đẩy nước ta vào tình thế hiểm nghèo, khó khăn chồng chất khó khăn. Họ câu kết với các thế lực phản động quốc tế ủng hộ chế độ diệt chủng và các phe phái đối lập ở Campuchia, kích hoạt mâu thuẫn nội bộ của nước này nhằm gây ảnh hưởng và "đục nước béo cò". Cho đến khi phiên tòa xét xử bọn diệt chủng diễn ra, họ mới "quay xe" mà không hề có một lời xin lỗi với Việt Nam và chính quyền nhân dân Campuchia.
Ngoài việc sớm phát hiện dã tâm của Khmer Đỏ và quan thầy, phát hiện "Ai là tác giả của nạn diệt chủng?", ông Ba Quốc còn phát hiện vấn đề lớn là "nghi binh chiến lược" của các nước lớn đối với Việt Nam, bọn họ kết hợp chiến tranh phá hoại nhiều mặt, đánh kinh tế, làm "chảy máu vàng", "tạo nước cho cá lội" do các lực lượng ngầm thực hiện từ hướng Campuchia về Việt Nam. (còn tiếp)
Tình báo là một nghề luôn gắn liền với lĩnh vực bí mật, với những con người tài giỏi, xuất sắc và những điệp vụ nguy hiểm, gay cấn để viết nên những câu chuyện ly kỳ, hấp dẫn người đọc. Nhưng cũng chính vì yếu tố bí mật nên nhiều điệp vụ, câu chuyện tình báo luôn ở trạng thái “đóng kín”; mặt khác, các cán bộ tình báo luôn khiêm tốn coi thành tích, cống hiến của cá nhân mình chỉ là đóng góp nhỏ bé cho quân đội, đất nước, cho nên ngại chia sẻ, khiến cho việc tiếp cận thông tin của độc giả gặp ít nhiều khó khăn. Tuy nhiên, bằng một phương pháp tiếp cận độc đáo, cuốn sách “Người Thầy” của Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh đã giúp độc giả có cơ hội tìm hiểu và có cái nhìn toàn diện hơn về một trong những cán bộ tình báo xuất sắc của quân đội, đó là Thiếu tướng, Anh hùng LLVTND Đặng Trần Đức.
Một trong những trích đoạn của cuốn sách "Người Thầy" mà cá nhân tôi rất thích khi tác giả nói về Đội Z - đội tình báo hành động của chiến trường K: "Đội Z là tấm gương của một tập thể dũng cảm, liều lĩnh, thông minh, gan góc, trọn tình nghĩa với nhau. Những từ ngữ đó là đầy đủ với họ và họ chỉ biết sự nghiệp chung là hành động theo lệnh ông Ba. Ngoài ra, bảo đi học không đi, khi làm về thì nhậu, cuộc sống của họ không bình thường như các đơn vị Quân đội khác, nhưng chỉ như thế họ mới làm được việc".
Sách "Người Thầy" chính thức phát hành qua kênh bán lẻ từ hôm nay 23/2/2023, tại Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, số 23, Lý Nam Đế, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Hotline: 0966688693.
Không nên vật nhau với l*n vì bạn sẽ bị bẩn người mà con lợn nó lại thích thế
Đại tướng Lê Đức Anh (Sáu Nam) không chỉ là nhà quân sự tài ba mà còn là một chính khách nhìn xa trông rộng. Sau 7 năm làm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia, ông trở về làm Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam trong một thời gian ngắn rồi làm Bộ trưởng Quốc phòng từ tháng 2.1987.
Tình hình thế giới lúc ấy đang diễn biến rất phức tạp. Sau cuộc "cải tổ" của Gorbachev, Liên Xô rơi vào bất ổn nghiêm trọng làm lung lay hệ thống XHCN Đông Âu. Lợi dụng tình hình Campuchia, các cường quốc tiếp tục thực hiện chính sách bao vây cấm vận nước ta. Vào năm 1989, tiên lượng những diễn biến của tình hình quốc tế, tướng Lê Đức Anh đề nghị các nhà tình báo quốc phòng trả lời câu hỏi: "Liệu Liên Xô có đứng vững không?".
Trung táNguyễn Chí Vịnh, sau một thời gian ngắn tập huấn tại Liên Xô, đã báo cáo với ông Lê Đức Anh những gì mắt thấy tai nghe tại nước này. Ông Sáu Nam hỏi ông Ba Quốc. Ông Ba Quốc nói, sự bất ổn của Liên Xô chắc chắn sẽ có biến động lớn, Mỹ và phương Tây sẽ can dự thúc đẩy, nếu Mỹ không làm gì thì không còn là Mỹ nữa. Ông cho rằng sẽ có đảo chính.
Vào thời điểm đó, không ai dám hỏi câu hỏi nói trên, trừ ôngLê Đức Anh, và cũng không ai dám trả lời, trừ ông Ba Quốc.
Ông Sáu Nam giao cho lãnh đạo cơ quan tình báo tổ chức nghiên cứu thật kỹ: Liên Xô có đứng vững hay không, nếu không thì diễn biến sẽ như thế nào, các kịch bản tiếp theo sẽ ra sao?
Do dự lường trước diễn biến của cục diện thế giới, ông Sáu Nam đã nhạy bén tổ chức nghiên cứu để tham mưu giúp Đảng, Nhà nước và Quân đội có chiến lược, sách lược đối phó. Và những gì diễn ra đúng như tướng Lê Đức Anh tiên lượng và đúng như ông Ba Quốc dự báo. 2 năm sau thì Liên Xô sụp đổ. Vì vậy Việt Nam ta không hề lúng túng bị động.
Tầm nhìn đại cục của tướng Lê Đức Anh thật là đáng nể. Ngay sau khi đặt câu hỏi nói trên, vào năm 1990, khi những bất ổn của Liên Xô và Đông Âu gia tăng, ông gọi thầy trò ông Ba Quốc đến đặt câu hỏi: Nếu Liên Xô sụp đổ, thì trang bị vũ khí của chúng ta sẽ dựa vào đâu?
Cần biết, cho đến thời điểm đó, hầu hết vũ khí và trang bị quân sự của quân đội ta đều dựa vào nguồn viện trợ hoàn lại và không hoàn lại từ Liên Xô và một phần từ các nước XHCN Đông Âu. Chúng ta chưa làm chủ được công nghệ vũ khí hiện đại. Theo tướng Vịnh, hồi ấy cán bộ của ta được đưa đi đào tạo ở Liên Xô, dù hai nước rất thân thiết và tin cậy lẫn nhau, nhưng về vũ khí ta chỉ được học về bảo đảm kỹ thuật và khai thác sử dụng, không một kỹ sư Việt Nam nào được học về thiết kế và chế tạo vũ khí. Phải tính bài toán về vũ khí trước khi Liên Xô sụp đổ và cho dù Liên Xô không sụp đổ thì Việt Nam cũng phải tự chủ về vũ khí. Tổng Bí thư Lê Duẩn sinh thời cũng đau đáu vấn đề tự chủ về công nghiệp và quốc phòng giữa cuộc bao vây cấm vận nghiệt ngã sau năm 1975.
Ông Sáu Nam giao Cục 2 (sau này là Tổng cục II) nghiên cứu mảng tình báo công nghiệp và nhấn mạnh ngành tình báo phải chịu trách nhiệm chính trong việc thu thập những bí quyết công nghệ về vũ khí về cho đất nước và quân đội. Ông còn chỉ rõ những trọng điểm mà ngành công nghiệp quốc phòng cần nhất.
Thầy trò ông Ba Quốc lại lao vào tình báo công nghiệp, một lĩnh vực mà ngành tình báo quốc phòng của chúng ta hoàn toàn không có kinh nghiệm, không có cán bộ, không có cơ quan chuyên trách, nói chung là "chưa có ý tưởng gì về việc thu thập công nghệ bằng phương thức tình báo". Còn ông Ba Quốc thì mặc dù rất am hiểu nhưng "chưa bao giờ làm".
Bắt đầu từ đâu? Từ Liên Xô và Đông Âu khi hệ thống này đang bất ổn chứ đâu nữa. Đó vừa là nơi có nền công nghiệp quốc phòng tương thích với nhu cầu của quân đội ta lúc đó, vừa là khu vực khả thi để triển khai công tác tình báo trong bối cảnh Liên Xô và Đông Âu đang hỗn loạn. Nhưng việc đầu tiên phải xác định là ta cần những tin tức bí quyết gì, có nghĩa là yêu cầu cụ thể của nhiệm vụ tình báo là gì. Ông Ba Quốc nói: "Việc xây dựng yêu cầu điều tra là của cấp trên, nhưng cơ quan tình báo phải tham mưu cho cấp trên xác định những nội dung ấy. Nó có 3 yêu cầu: Một là đúng với nhu cầu của các đơn vị trong toàn quân. Hai là phải biết nó ở đâu và làm cách nào để lấy. Ba là phải phù hợp với khả năng của tình báo ta, phải vừa tầm vừa sức, không thiếu không thừa, không cao không thấp so với yêu cầu của quân đội".
Tướng Vịnh nhớ lại: "Tôi lè lưỡi. Việc xây dựng và tham mưu được cho cấp trên về yêu cầu điều tra trong nhiệm vụ này đã là quá khó, chưa nói đến khi đã có yêu cầu điều tra thì biết phải làm sao mà thực hiện". Thầy trò ông lại phân công nhau đến tìm hiểu nhu cầu tại các đơn vị quân đội. Đúng là khó thật, vì trước những câu hỏi, thường nhận được hai kiểu trả lời: Thứ nhất là im lặng, thứ hai là "tất cả các thứ", có nghĩa là chính ta cũng không hiểu ta cần những gì. May mà có lời dặn của ông Sáu Nam, nên cuối cùng cũng xây dựng được một bản yêu cầu điều tra để tham mưu cho cấp trên.
Mặc dù phải vượt qua vô vàn khó khăn trắc trở, bắt đầu từ một nhóm đặc nhiệm tại Đông Âu, rồi mở rộng ra, rồi một tổ chức chuyên trách tình báo công nghiệp và tình báo ngoài nước được hình thành trực thuộc Cục 12 do Cục trưởng Ba Quốc trực tiếp phụ trách. Sau một thời gian, nhiệm vụ "nở" ra quá nhanh, tổ chức chuyên trách này có quy mô lớn, trở thành một đơn vị trực thuộc Tổng cục. Đó là nền móng quan trọng giúp quân đội ta giải quyết bài toán về tự chủ vũ khí. (còn tiếp)