Giảm nhập khẩu khí đốt Nga, nhưng tăng nhập khẩu sản phẩm từ khí đốt từ Nga
NGA TĂNG XUẤT KHẨU PHÂN BÓN SANG EU BẤT CHẤP THUẾ QUAN CAO HƠN
UKRAINSKA PRAVDA
15.11.2025
Trong ba quý đầu năm 2025, xuất khẩu phân bón của Nga sang các nước EU đã tăng 5% so với cùng kỳ năm trước, đạt 1,346 tỷ euro bất chấp thuế quan được áp dụng vào tháng 7. Đây là mức tăng trưởng cao nhất trong chín tháng kể từ năm 2022.
Nguồn: The Moscow Times, một hãng tin độc lập có trụ sở tại Amsterdam
Chi tiết: The Moscow Times đưa tin, trích dẫn dữ liệu từ Eurostat, rằng Ba Lan đã mua phần lớn phân bón của Nga trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 10 năm 2025 (chiếm 37% tổng lượng phân bón nhập khẩu của EU). Ba Lan vẫn giữ vững vị trí dẫn đầu từ năm ngoái, khi lượng phân bón nước này mua trong ba quý đầu năm chiếm tới một phần tư tổng lượng phân bón Nga cung cấp cho EU.
Theo tờ Moscow Times, Đức đứng thứ hai trong số các nước nhập khẩu phân bón Nga (10%), tiếp theo là Romania (9%), Tây Ban Nha (7%) và Pháp (6%).
Bối cảnh:
Vào tháng 5, Nghị viện Châu Âu đã phê duyệt việc tăng đáng kể thuế quan đối với phân bón Nga và Belarus cùng một số sản phẩm nông nghiệp.
Ủy ban Thương mại Quốc tế của Nghị viện Châu Âu đã phê chuẩn việc tăng thuế 50% đối với một số mặt hàng nông sản của Nga và Belarus.
Cũng có thông tin cho rằng Liên minh Châu Âu đã điều chỉnh các tiêu chí đánh giá liệu các nhà tài phiệt Nga có thể được loại khỏi danh sách trừng phạt hay không. Việc thắt chặt này được thúc đẩy bởi những nỗ lực của các cá nhân bị trừng phạt nhằm phản đối các hạn chế này tại Tòa án Công lý EU, cho rằng chúng là không chính đáng.
Trong khi đó, Nga vẫn tiếp tục mua các hóa chất thiết yếu để sản xuất thuốc nổ từ các nhà sản xuất phân bón vốn phần lớn đã tránh được các lệnh trừng phạt quốc tế.
(GS Nông Văn Hải dịch)
Russia increases fertiliser exports to EU despite higher tariffs
15 November, 20:22
Lần đầu tiên kể từ năm 1990, chuyến tàu chở lúa mì từ Nga sang Armenia đã có thể sử dụng lại tuyến đường Baku-Tbilisi, băng qua Azerbaijna, Gruzia trước khi đến Armenia.
Kết quả này diện ra sau khi phía Azerbaijan dỡ bỏ toàn bộ hạn chế di chuyển, vận tải sang Armenia bởi chiến tranh. Phía Armeani đã cảm ơn các đồng nghiệp Nga và Azerbaijan vì tiến triển này.
Hòa bình mang lại rất nhiều cơ hội phát triển cho cả Armenia và Azerbaijan.
First Russian wheat train reaches Armenia via Azerbaijan as Baku-Tbilisi route reopens after decades
November 6, 2025
(Vũ Lê)
Vai trò của dầu khí trong ngân sách Nga
Nhìn từ đỉnh 2011–2014 đến giai đoạn 2023–2025 thì phần dầu khí trong thu ngân sách liên bang Nga đã giảm rất rõ, gần như từ hơn một nửa xuống còn khoảng 30% hoặc ít hơn. Nhưng nó không giảm đều từng năm, mà theo chu kỳ giá dầu + thay đổi luật thuế + trừng phạt. Ở đây có thể nói tắt là tỷ trọng đóng góp dầu trong ngân sách Nga, hay dầu mỏ trong ngân sách Nga, nhưng cần hiểu đó là đóng góp của cả dầu và khí.
Lý do vì người Nga không tách riêng dầu mà thường nói "нефтегазовые доходы" - thu từ dầu + khí (chủ yếu là dầu, phần khí nhỏ hơn). Thống kê chính thức cũng dùng khái niệm này.
Nói cụ thể, từ 2014 đến 2025 tỷ lệ đóng góp dầu mỏ vào ngân sách Nga ngày càng sụt hẳn. Nếu nhìn dài hạn (từ đỉnh 2014 đến kế hoạch 2025), tỷ trong ngân sách trong dầu mỏ
- Từ 50-51% (đỉnh phụ thuộc dầu khí)
- Giảm xuống còn khoảng 27-30% những năm gần đây (2023-2025)
=> Về xu hướng dài hạn thì đúng là "sụt hẳn" - tỷ trọng gần như giảm một nửa.
Dưới đây là bức tranh tương đối đầy đủ, dựa trên chính số liệu của Bộ Tài chính Nga, báo chí Nga (РБК, Ведомости…) và một số nghiên cứu chuyên sâu.
Bài viết được nhiều công cụ AI hỗ trợ tìm kiếm tài liệu. Quá trình tìm kiếm và tổng hợp tài liệu của các công cụ AI mất đến hơn 15 phút. Cách trình bày cũng phức tạp, bài này đã lược đi và cấu trúc lại cho dễ hiểu
1. Những năm 2000–2014: chiếm từ 1/4 ngân sách lên hơn 1/2
Một báo cáo của hãng xếp hạng Nga RAEX về ngành dầu khí năm 2014 tổng hợp số liệu Bộ Tài chính như sau:
Năm 2000: thu dầu khí chiếm 25% thu ngân sách liên bang Nga.
Năm 2009: tỷ trọng này đã lên 40,7%.
Đến 2013–2014, dầu khí đóng góp khoảng 50% thu ngân sách liên bang; báo cáo nói 50,2% và ước tính năm 2014 sẽ khoảng 51,9%.
Một nghiên cứu của Oxford Institute for Energy Studies dùng chuỗi số liệu của Bộ Tài chính Nga và kết luận rằng trong giai đoạn 2011–2014, thu dầu khí chiếm hơn 50% tổng thu ngân sách liên bang, tức là "hơn một nửa ngân sách đến từ dầu khí" là hoàn toàn chính xác - nhưng đó là giai đoạn đầu 2010s chứ không phải đầu 2000s.
Tóm lại giai đoạn:
Đầu 2000s: khoảng 1/4–1/3 thu ngân sách là từ dầu khí.
Cuối 2000s – đầu 2010s: tăng mạnh, tới >50% (đỉnh khoảng 2011–2014).
2. Giai đoạn 2014 - 2020: từ "siêu phụ thuộc" dầu khí rơi xuống 28%
Bài của "Ведомости" (dựa trên dữ liệu Bộ Tài chính) tóm lược khá rõ:
"Tỷ trọng thu dầu khí trong ngân sách đạt kỷ lục 51,3% năm 2014, sau đó giảm hai năm liên tiếp xuống 43% năm 2015 và 36% năm 2016. Năm 2017 tăng lại lên 39,6%, 2018 – 46,4%, rồi lại giảm còn 39,3% năm 2019 và 28% năm 2020."
Nguyên nhân chính của cú rơi sau 2014:
- Giá dầu sụp (cuối 2014 - 2016)
Giá Urals giảm mạnh sau 2014 khiến nguồn thu từ thuế khai thác và thuế xuất khẩu giảm. RAEX ghi nhận năm 2014 ngân sách vẫn còn dựa rất nhiều vào xuất khẩu dầu, và cú giảm giá đánh thẳng vào khoản này.
- Trừng phạt sau Crimea + đồng rúp mất giá
Trừng phạt làm kinh tế chậm lại, nhưng đồng thời rúp yếu lại giúp Nhà nước "chống sốc" - cùng một lượng USD dầu thu về khi đổi sang rúp thì vẫn khá lớn. Điều này khiến thu ngân sách tính bằng rúp được bảo vệ phần nào, dù tỷ trọng dầu khí trong cơ cấu thu giảm.
Follow the Money: Understanding Russia’s oil and gas revenues
- "Quy tắc ngân sách" & cải cách thuế dầu khí ("налоговый манёвр")
+ Nga áp dụng “quy tắc ngân sách”: thu dầu khí vượt mức tính theo giá dầu “cơ sở” (ví dụ 60 USD/thùng) phải đưa vào quỹ dự trữ, chứ không dùng để chi tiêu thường xuyên.
+ Song song là "tax manoeuvre" trong ngành dầu: giảm dần thuế xuất khẩu, tăng thuế khai thác (NDPI), thêm thuế lợi nhuận bổ sung (NDD)… để ổn định thu cho ngân sách và khuyến khích đầu tư, nhưng cũng làm cách tính "thu dầu khí" thay đổi cấu trúc.
Kết quả là, so với đỉnh 2014 (tỷ trọng gần 51%), đến năm 2020 tỷ trọng chỉ còn khoảng 28%, tức là gần như giảm một nửa.
3. Năm 2021 - 2025: tỷ trọng dầu khí trong ngân sách bật lên do giá cao, rồi lại rơi xuống mức thấp kỷ lục
3.1. Năm 2021 - 2023: chiến tranh, giá dầu cao rồi trừng phạt siết dần
2021: dầu khí chiếm 35,8% thu ngân sách liên bang.
2022: nhờ giá dầu/gas cao sau khi Nga tấn công Ukraine, tỷ trọng vọt lên 41,6%.
2023: cả năm còn 30,3% (tức giảm 11 điểm % so với 2022).
Một bài riêng của РБК dẫn số liệu Kiểm toán Nhà nước Nga (Счетная палата) cho thấy 9 tháng đầu 2023 dầu khí chỉ còn chiếm 28,3% thu ngân sách - mức thấp nhất từ 2007, đồng thời thu ngoài dầu khí tăng mạnh.
Kiểm toán viên giải thích việc giảm tỷ trọng doanh thu dầu khí trong ngân sách xuống mức tối thiểu Các biện pháp trừng phạt không phải là yếu tố chính trong động thái này.
Vì sao giảm lại sau 2022?
- Giá Urals giảm từ 83 USD/thùng (12/2021 - 8/2022) xuống 56 USD (12/2022 - 8/2023).
- Lượng xuất khẩu dầu/gas sang châu Âu giảm mạnh do cấm vận, Nga phải bán sang châu Á với chiết khấu lớn.
- "Tax manoeuvre" tiếp tục: thuế xuất khẩu về 0 với dầu và nhiều sản phẩm từ 2024, thay bằng thuế khai thác + cơ chế bù giá (demper), làm thu dầu khí trong thống kê chính thức biến động.
3.2. Năm 2024: quanh mức 30% - thu nhập phi dầu khí (non-oil) đã chiếm 2/3
Theo dữ liệu Bộ Tài chính được Interfax trích lại, năm 2024:
Tổng thu ngân sách liên bang: 36,707 nghìn tỷ rúp.
Thu dầu khí: 11,131 nghìn tỷ rúp (tăng 26,2% so với 2023).
=> Nghĩa là dầu khí chiếm khoảng 30% tổng thu (11,1 / 36,7).
"Ведомости" trích số liệu đến tháng 9/2024: 9 tháng đầu 2024: thu dầu khí chiếm 31,7% thu ngân sách, cao hơn 28,3% cùng kỳ 2023 và hơn mức kế hoạch 31,3% cho cả năm.
Доля нефтегазовых доходов бюджета в 2024 году растет выше плана
Điểm đáng chú ý: thu ngoài dầu khí (VAT, thuế thu nhập DN, thu nội địa khác) đã tăng rất mạnh - năm 2024 là khoảng 25,6 nghìn tỷ rúp, tức gần 70% tổng thu, cho thấy sự đa dạng hóa của nguồn thu
3.3. Năm 2025: kế hoạch đưa tỷ trọng dầu khí xuống mức thấp nhất từ 2006
Khi trình dự toán ngân sách 2025 lên Duma (9/2024), Bộ Tài chính Nga ghi rõ:
Dự kiến tổng thu 2025: 40,3 nghìn tỷ rúp.
Trong đó thu dầu khí dự kiến 10,9 nghìn tỷ rúp.
=> Tỷ trọng dầu khí: 27,1% tổng thu – nếu đạt được sẽ là mức thấp kỷ lục ít nhất từ 2006, thấp hơn cả năm dịch 2020 (28%).
Cùng bài báo đó cũng nói: "Dự báo có sự giảm nhẹ thu dầu khí trong toàn giai đoạn (2025 trở đi), do thay đổi giá năng lượng, cơ cấu khai thác và luật thuế."
Sau đó, trong năm 2025 Bộ Tài chính còn hạ tiếp dự báo thu dầu khí vì nguy cơ giá dầu thấp kéo dài; Reuters ghi nhận Nga giảm dự báo thu dầu khí 2025 xuống 8,32 nghìn tỷ rúp (3,7% GDP), đồng thời nâng dự báo thâm hụt ngân sách.
Nói cách khác: Nếu năm 2014 dầu khí đóng góp khoảng 50-51% thu ngân sách liên bang, thì theo kế hoạch 2025 con số này chỉ còn khoảng 27%, và các điều chỉnh sau đó thậm chí còn hạ thêm dự báo thu dầu khí.
4. Nhìn lại quá trình từ 2014 đến 2025, về lâu dài thì tỷ lệ đóng góp dầu khí vào ngân sách Nga ngày càng sụt hẳn
Nếu nhìn dài hạn (từ đỉnh 2014 đến kế hoạch 2025):
- Từ 50-51% (đỉnh phụ thuộc dầu khí)
- Xuống còn khoảng 27-30% những năm gần đây (2023-2025)
=> Về xu hướng dài hạn thì đúng là "sụt hẳn" - tỷ trọng gần như giảm một nửa.
Nhưng nếu soi kỹ từng năm thì không phải năm sau thấp hơn năm trước theo một đường thẳng:
2014: khoảng 51%
2015 - 2016: tụt mạnh (43 => 36%)
2017 - 2018: bật lại (40 - 46%)
2019 - 2020: lại giảm (39=> 28%)
2021 - 2022: lại bật lên (36 => 41 - 42%) nhờ giá dầu cao & chiến tranh.
2023 - 2025: lại giảm về 30% và dự kiến 27%.
5. Thành phần dầu và khí
Tất cả các số liệu trên là "нефтегазовые доходы" - dầu + khí, không tách riêng dầu. Tuy vậy, trong chính cơ cấu đó:
Năm 2022, khoảng 66,5% thu dầu khí là từ dầu (khai thác + xuất khẩu).
Năm 2023: phần dầu tăng lên 74,6%.
Sau 9 tháng đầu 2024: dầu chiếm 77,7% thu dầu khí.
Tức là trong thực tế, nói "thu từ dầu mỏ" chiếm X% ngân sách thì về cơ bản cũng không sai, vì dầu luôn là phần áp đảo trong "dầu + khí".
6. Kết luận ngắn gọn
Đầu 2000s: thu dầu khí chiếm cỡ 1/4 - 1/3 ngân sách liên bang.
2011 - 2014: phụ thuộc cực cao, trên 50% (có năm 2014 khoảng 51%).
2015 - 2020: giảm mạnh, xuống đáy 28% năm 2020.
2021 - 2022: nhờ giá năng lượng cao, tỷ lệ lại vọt lên khoảng 36-41%.
2023 - 2024: trở lại vùng 30%, với non-oil thu chiếm khoảng 2/3.
Kế hoạch 2025: chỉ 27,1%, dự kiến mức thấp nhất gần 20 năm; các điều chỉnh sau đó còn hạ thêm dự báo thu dầu khí.
7. Một số nguyên nhân
7.1. Ngân sách Nga có đa dạng hóa nguồn thu: Tăng thuế VAT, thuế lợi nhuận, và phát triển các ngành phi dầu khí, là một trong những nguyên nhân chính khiến tỷ trọng dầu khí trong ngân sách Nga giảm, nhất là từ sau 2018.
a. Số liệu cho thấy thu ngoài dầu khí đã phình lên rất mạnh
Bộ Tài chính Nga báo cáo năm 2024:
- Tổng thu ngân sách liên bang: 36,707 nghìn tỷ rúp.
- Thu ngoài dầu khí: 25,576 nghìn tỷ rúp, tăng 26% so với 2023.
- VAT riêng lẻ: 13,523 nghìn tỷ rúp, tăng 16%; chiếm gần 37% toàn bộ thu ngân sách liên bang.
- Thu dầu khí: 11,131 nghìn tỷ rúp (tăng 26,2% nhưng chỉ khoảng 30% tổng thu).
Một bản tin kinh tế của Nga (Bashinform) trích số liệu Bộ Tài chính cho giai đoạn 1-11/2024:
- Tổng thu: 32,65 nghìn tỷ rúp.
- Trong đó 22,3 nghìn tỷ rúp là thu phi dầu khí – tức khoảng 2/3 tổng thu.
- Thu từ các loại thuế lưu thông (turnover taxes) và VAT tăng 16,6% so với cùng kỳ.
TASS và các nguồn khác ghi nhận thu ngoài dầu khí tăng đều:
- Năm 2023: thu ngoài dầu khí của ngân sách hợp nhất tăng 16% (xấp xỉ 28,3 nghìn tỷ rúp).
- Trong 4 tháng đầu 2025: thu ngoài dầu khí tăng 13,5% so với cùng kỳ, lên 8,55 nghìn tỷ rúp.
=> Bức tranh chung: thu phi dầu khí đang chiếm khoảng 2/3 thu ngân sách liên bang và là phần tăng nhanh nhất trong những năm gần đây.
b. Vai trò của VAT, thuế lợi nhuận và thu khác
- VAT tăng thuế suất: từ 18% lên 20% từ 1/1/2019, được Bộ Tài chính ước tính giúp tăng thu khoảng 620 tỷ rúp/năm.
- Đến 2024, VAT một mình chiếm gần 37% thu ngân sách liên bang (xấp xỉ 13,5 nghìn tỷ rúp).
- Trong bối cảnh thu dầu khí suy giảm do giá thấp và trừng phạt, chính phủ Nga liên tục nói đến:
+ Tăng VAT (dự kiến lên 22% từ 2026).
+ Mở rộng cơ sở VAT (hạ ngưỡng miễn VAT cho doanh nghiệp nhỏ, siết ưu đãi).
+ Tăng các loại thuế tiêu dùng khác: rượu, thuốc lá, thiết bị số, phí đăng ký xe, v.v.
Các phân tích độc lập (ví dụ The Bell) chỉ rõ: tăng trưởng thu ngoài dầu khí những năm gần đây chủ yếu đến từ thuế bán hàng/VAT và các thuế trên tiêu dùng – được hỗ trợ bởi tăng chi tiêu trong nước và lạm phát.
c. Vậy đa dạng hóa nguồn thu có phải là nguyên nhân chính?
Phân rã ra hai lớp:
c1. Lớp sốc ngắn hạn (2014–2016, 2020, 2023):
- Tỷ trọng dầu khí rơi mạnh chủ yếu vì bản thân thu dầu khí giảm: Giá Urals rơi sau 2014, rồi cú sốc 2020; sản lượng và xuất khẩu bị cắt giảm theo thỏa thuận OPEC+ và trừng phạt.
- Ở các năm này, hiệu ứng đa dạng hóa chưa phải nguyên nhân chính; chủ yếu là giá dầu và cú sốc ngoại sinh.
c2. Lớp xu hướng dài hạn (từ 2011 - 2014 tỷ trọng khoảng 50% nhưng đến 2023 - 2024 dầu khí chỉ chiếm khoảng 30% dù có lúc giá dầu lại khá cao)
- Dù thu dầu khí có phục hồi (ví dụ 2022, 2024), thu ngoài dầu khí còn tăng nhanh hơn, khiến tỷ trọng dầu khí trong tổng thu không quay lại mức >50% nữa.
- Cụ thể: năm 2024, thu dầu khí tăng 26,2% nhưng thu ngoài dầu khí cũng tăng 26% và về tuyệt đối vẫn lớn gấp xấp xỉ 2,3 lần thu dầu khí.
Từ đây rút ra
- Trong các lý do vì sao tỷ trọng dầu khí trong ngân sách ngày nay chỉ còn xấp xỉ 30% thay vì >50% như 2011–2014, thì việc tăng thu VAT, thuế lợi nhuận và mở rộng nền thu phi dầu khí là một trong những nguyên nhân quan trọng (cùng với việc thu dầu khí yếu đi do giá, sản lượng, thuế dầu khí cải cách lại).
- Còn nếu zoom vào các cú tụt mạnh ngay sau 2014, hay năm 2020, 2023, thì sốc giá dầu và trừng phạt vẫn là yếu tố trực tiếp hơn; việc "đa dạng hóa nguồn thu" là quá trình chậm hơn, thể hiện rõ từ 2018–2025.
7.2. Quy tắc ngân sách (budget rule):
Giới hạn chi tiêu dựa trên giá dầu cơ sở, phần dư chuyển vào Quỹ Phúc lợi Quốc gia cũng là một nguyên nhân khác khiến tỷ trọng dầu khí trong ngân sách Nga giảm.
Chính xác thì Quy tắc ngân sách chủ yếu là công cụ kiểm soát chi tiêu và "giam" bớt tiền dầu vào Quỹ Phúc lợi Quốc gia, nó không trực tiếp làm tỷ trọng dầu khí trong thu ngân sách giảm, nhưng gián tiếp buộc nhà nước phải tăng thu phi dầu khí và giảm thâm hụt phi dầu khí - nên về dài hạn, nó có đóng vai trò trong xu hướng giảm phụ thuộc dầu khí.
a. Quy tắc ngân sách là gì, vận hành thế nào?
Các mô tả kinh điển từ BOFIT (Ngân hàng Trung ương Phần Lan), IMF và báo chí Nga:
- Phiên bản sau 2017: việc chi ngân sách liên bang (trừ lãi nợ) không được vượt quá: thu dầu khí tính với một giá dầu cơ sở + thu ngoài dầu khí + vay ròng tối đa khoảng 1% GDP.
- Phần thu dầu khí tương ứng với giá dầu cao hơn giá cơ sở được chuyển vào Quỹ Phúc lợi Quốc gia (NWF).
Khi giá thị trường < giá cơ sở, ngân sách được rút từ NWF để bù thiếu hụt, nhằm ổn định chi.
Gần đây, Nga còn thông báo hạ dần "giá cắt" từ 60 xuống 55 USD/thùng đến 2030 để "giảm phụ thuộc ngân sách vào dầu khí và tăng tích lũy dự trữ - đây chính là sửa đổi mới nhất của quy tắc ngân sách.
IMF thì nhấn mạnh: điểm mấu chốt của quy tắc là neo chính sách tài khóa vào "thâm hụt phi dầu khí", tức là bây giờ người ta nhìn nhiều vào:
Thâm hụt (hoặc thặng dư) nếu giả sử thu dầu khí = 0.
b. Về mặt kế toán: quy tắc ngân sách không trực tiếp làm giảm tỷ trọng dầu khí trong thu ngân sách
Điểm cần phân biệt:
- Bộ Tài chính Nga vẫn thống kê “thu dầu khí của ngân sách liên bang” (нефтегазовые доходы) trước khi tách phần nào đó sang NWF. Ví dụ số liệu năm 2024:
+ Thu dầu khí: 11,131 nghìn tỷ rúp, trong đó 9,831 là thu cơ sở, 1,3 là thu bổ sung.
+ Khi tính tỷ trọng, họ lấy toàn bộ 11,131 / 36,707 ≈ 30%.
- Việc chuyển phần "thu bổ sung" này sang NWF là nghiệp vụ sử dụng thặng dư (hoặc chuyển khoản) ở bên chi / tài trợ, chứ không làm biến mất thu dầu khí khỏi thống kê.
Nói cách khác, nếu ta định nghĩa: Tỷ trọng dầu khí trong thu ngân sách liên bang = (thu dầu khí)/(tổng thu)
thì quy tắc ngân sách không chỉnh sửa trực tiếp tử số hay mẫu số, nó chỉ quyết định sau khi thu được tiền thì chi tiêu bao nhiêu, tiết kiệm bao nhiêu.
Tỷ trọng giảm từ 50% xuống 30% là hệ quả chính của:
- Thu dầu khí thực tế thấp hơn thời 2011–2014 (do giá, sản lượng, chiết khấu vì trừng phạt, thay đổi thuế dầu khí).
- Thu ngoài dầu khí phình lên (VAT, thuế lợi nhuận, thuế tiêu dùng khác…).
c. Nhưng về mặt chiến lược, quy tắc ngân sách gián tiếp đẩy Nga tới chỗ phải đa dạng hóa thu
IMF, World Bank, chính phủ Nga đều nói khá thẳng:
- Mục tiêu của quy tắc ngân sách là:
Tách chi tiêu công ra khỏi biến động giá dầu, tránh tình trạng "giá dầu lên thì chi bừa, giá xuống thì cắt sốc".
- Để giữ chi tiêu (nhất là chi quân sự, an sinh) mà không phụ thuộc thêm vào dầu khí, và vẫn tuân thủ quy tắc, nhà nước gần như chỉ có vài lựa chọn:
Tăng thu ngoài dầu khí → tăng VAT, siết ưu đãi thuế, mở rộng cơ sở thuế, tăng thuế tiêu dùng.
Kìm hãm tốc độ tăng chi ngoài quốc phòng/xã hội.
Một phần dùng NWF + vay nợ, nhưng cả IMF lẫn Bộ Tài chính đều muốn giữ nợ và dùng quỹ trong giới hạn.
Gần đây, chính Bộ Tài chính Nga khi đề xuất sửa quy tắc (hạ dần cut-off oil price) cũng nói thẳng mục tiêu là “giảm sự phụ thuộc của ngân sách vào thu dầu khí” và đặt mục tiêu đưa tỷ trọng dầu khí trong thu xuống khoảng 22% những năm tới.
Vì vậy có thể nói:
- Về cơ học thống kê: quy tắc ngân sách không phải là lý do trực tiếp làm số % “thu dầu khí / tổng thu” giảm – nó không xóa bớt khoản thu dầu khí khỏi bảng thống kê.
- Về logic chính sách: quy tắc ngân sách là cái khung buộc Bộ Tài chính phải:
Kìm hãm chi theo giá dầu cơ sở bảo thủ,
Tiết kiệm bớt “tiền dầu thừa” vào NWF,
Và để bù, tăng thu phi dầu khí và giảm thâm hụt phi dầu khí.
=> Do đó, quy tắc ngân sách là một trong những động lực thể chế quan trọng đứng sau quá trình đa dạng hóa nguồn thu, nhưng tác động của nó là gián tiếp, thông qua mục tiêu "thâm hụt phi dầu khí" và an toàn tài khóa, chứ không phải "đơn giản chuyển một cục thu dầu khí sang quỹ rồi tỷ trọng tự giảm".
Tài liệu tham khảo:
Развитие нефтегазового комплекса в России за 2014 год
https://www.ra-national.ru/sites/default/files/other/neftegaz_2014.pdf
Follow the Money: Understanding Russia’s oil and gas revenues
https://www.oxfordenergy.org/wpcms/wp-content/uploads/2024/03/Follow-the-Money-Russian-Oil.pdf
Follow the Money: Understanding Russia’s oil and gas revenues
https://www.oxfordenergy.org/wpcms/wp-content/uploads/2024/03/Follow-the-Money-Russian-Oil.pdf
Минфин ждет долю доходов бюджета от продажи нефти и газа в 2022 году выше 40%
Bộ Tài chính dự kiến tỷ trọng thu ngân sách từ bán dầu khí sẽ vượt 40% vào năm 2022.
20/06/2022
https://www.vedomosti.ru/economics/articles/2022/06/20/927599-minfin-byudzheta-prodazhi-nefti
Nghiên cứu của Oxford cũng nói tương tự: >50% trong 2011–2014, 36% năm 2016, 28% năm 2020.
Follow the Money: Understanding Russia’s oil and gas revenues
https://www.oxfordenergy.org/wpcms/wp-content/uploads/2024/03/Follow-the-Money-Russian-Oil.pdf
Доля нефтегазовых доходов бюджета в 2024 году растет выше плана
Tỷ trọng doanh thu từ dầu khí trong ngân sách năm 2024 đang tăng vượt mức kế hoạch.
30/10/2024
https://www.vedomosti.ru/analytics/krupnyy_plan/articles/2024/10/30/1071779-dolya-neftegazovih-dohodov-byudzheta-2024-rastet-vishe-plana
Аудиторы объяснили снижение доли нефтегазовых доходов бюджета до минимума Санкции не стали основным фактором такой динамики
Ngày 23 tháng 11 năm 2023
https://www.rbc.ru/economics/23/11/2023/655dcfa69a79471d752b6f80
Russia closes 2024 with budget deficit of 3.485 trln rubles or 1.7% of GDP - Finance Ministry
21 Jan 2025 09:27
https://interfax.com/newsroom/top-stories/109275/
Власти определили источники роста доходов в бюджете
Chính quyền đã xác định được nguồn tăng trưởng doanh thu trong ngân sách.
Ngày 30 tháng 9 năm 2024
https://www.rbc.ru/economics/30/09/2024/66f7cc7f9a794789d12bfbce
Russia hikes 2025 deficit forecast threefold due to low oil price risks
May 1, 2025
https://www.reuters.com/markets/europe/russia-raises-2025-deficit-forecast-threefold-due-low-oil-price-risks-2025-04-30/
Non-oil and gas revenues account for federal budget majority
https://eng.bashinform.ru/news/economy/2024-12-10/non-oil-and-gas-revenues-account-for-federal-budget-majority-4044990
Russia’s non-oil and gas revenues up 16% in 2023
Share of non-oil and gas revenues in Russia’s consolidated budget rises 5% year on year in 2023, says head of Russian Federal Tax Service
20.03.2024 11:10
https://www.aa.com.tr/en/energy/general/russia-s-non-oil-and-gas-revenues-up-16-in-2023/41085
Non-oil and gas revenues of Russian budget up 13.5% in January-April 2025
7 May, 2025
https://tass.com/economy/1954425
Russia to increase standard VAT rate from 18% to 20% as of 1 January 2019
31 July 2018
https://globaltaxnews.ey.com/news/2018-5923-russia-to-increase-standard-vat-rate-from-18-percent-to-20-percent-as-of-1-january-2019
Russia's Finance Ministry proposes value-added tax hike to boost war-strained budget
September 24, 2025
https://kyivindependent.com/russias-finance-ministry-proposes-value-added-tax-hike-as-economic-pressure-mounts/
A slowing wartime economy pushes the Kremlin to tap consumers for revenue
November 16, 2025
https://apnews.com/article/russia-economy-war-putin-vat-tax-e561969931082a65741f0161dfd946fa
Russia Moves to Raise VAT by 2% as Budget Deficit Swells
Sep. 24, 2025
https://www.themoscowtimes.com/2025/09/24/russia-moves-to-raise-vat-by-2-as-budget-deficit-swells-a90609
Russian Budget Deficit Widens as Growth Stalls and Oil Revenues Fall
Posted on October 10, 2025
https://freepolicybriefs.org/2025/10/10/russian-budget-deficit-widens-as-growth-stalls-and-oil-revenues-fall/
Russia’s surging budget revenues
19 Apr 2024
https://en.thebell.io/russias-surging-budget-revenues/
Russia's 2023 oil and gas revenues falls to three-year low
11 Jan 2024
https://www.spglobal.com/commodity-insights/en/news-research/latest-news/crude-oil/011124-russias-2023-oil-and-gas-revenues-falls-to-three-year-low
Falling oil prices reduce Russia’s budget revenues
Published on 5 May 2025
https://www.bofbulletin.fi/en/blogs/2025/falling-oil-prices-reduce-russia-s-budget-revenues/
BOFIT Weekly Review 29/2017
21 Jul 2017
New Russian budget rule frames government spending; sovereign funds to be combined
https://www.bofit.fi/en/monitoring/weekly/2017/vw201729_1/
https://socialbites.ca/business/russias-budget-rule-and-oil-price-strategy-a-closer-look
Russia announces changes to its budget aimed at decreasing oil revenue dependence
September 18, 2025
https://energynews.oedigital.com/oil-gas/2025/09/18/russia-announces-changes-to-its-budget-aimed-at-decreasing-oil-revenue-dependence
Russian Federation: Selected Issues
Author: International Monetary Fund. European Dept.
Publication Date: 10 Jul 2017
https://www.elibrary.imf.org/view/journals/002/2017/198/article-A002-en.xml
Russian Federation: Selected Issues
Author: International Monetary Fund. European Dept.
Publication Date: 03 Aug 2015
https://www.elibrary.imf.org/view/journals/002/2015/212/article-A001-en.xml
IMF Country Report No. 18/275 RUSSIAN FEDERATION September 2018
https://www.imf.org/en/-/media/files/publications/cr/2018/cr18275.pdf
Giảm dần thâm hụt phi dầu khí (“non-oil and gas deficit”) về mức “bền vững” (quanh 4–5% GDP).
Russian non-oil and gas budget revenues to stand at $378 bln in 2026
29 Sep 2025
https://tass.com/economy/2022821
https://famagusta-gazette.com/russias-non-oil-and-gas-deficit-stands-at-around-7-3-percent-of-gdp/
Russia Budget Deficit Surges as Oil Revenues Fall
Posted on September 1, 2025
https://freepolicybriefs.org/2025/09/01/russian-budget-deficit/
Russia announces changes to its budget aimed at decreasing oil revenue dependence
September 18, 2025
https://energynews.oedigital.com/oil-gas/2025/09/18/russia-announces-changes-to-its-budget-aimed-at-decreasing-oil-revenue-dependence
Putin signals tax hikes to close Russia's budget gap
September 18, 2025
https://www.reuters.com/business/energy/russia-announces-budget-changes-aimed-reducing-oil-revenue-dependency-2025-09-18/
Russia's budget deficit widens to $34.4 bln after late spending spree
January 20, 2025
https://www.reuters.com/markets/europe/russias-budget-deficit-widens-344-bln-after-late-spending-spree-2025-01-20/
IMF Country Report No. 19/329 RUSSIAN FEDERATION October 2019
https://www.imf.org/en/-/media/files/publications/cr/2019/1rusea2019003.pdf
Như đã đưa tin, từ năm 2025, Nga bắt đầu lưu trữ bạc
Trước đó, các ngân hàng trung ương trên thế giới đã ngừng tích trữ bạc từ giữa thế kỷ 19 (khi bản vị bạc bị loại bỏ) và chưa có quốc gia nào coi bạc là tài sản dự trữ chính thức trong hơn 150 năm qua.
Đây là một bước đi mới của Nga trong năm 2025. Theo dự thảo ngân sách liên bang Nga giai đoạn 2025–2027, Nga lần đầu tiên công khai kế hoạch mua bạc cho dự trữ quốc gia, với ngân sách khoảng 535 triệu USD để mua các kim loại quý, bao gồm bạc, vàng, bạch kim và palladium.
Nga tuyên bố đưa bạc vào Quỹ Dự trữ Quốc gia vào cuối tháng 9/2025, đánh dấu lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại một ngân hàng trung ương công khai tích trữ bạc.
Chú ý: Về mặt pháp lý, bạc luôn nằm trong danh mục tài sản mà Quỹ Nhà nước Nga (Gokhran) phải nắm giữ, chứ không phải đến 2025 mới được phép giữ bạc.
Trong giải trình dự thảo ngân sách liên bang 2025-2027, Bộ Tài chính Nga ghi rõ:
- Mỗi năm 2025, 2026, 2027 sẽ chi 51,5 tỷ rúp để mua kim loại & đá quý bổ sung cho Gokhran.
- Số tiền này dùng để mua vàng tinh luyện, bạc tinh luyện, bạch kim, paladium,… nhằm tăng tỷ trọng tài sản rất thanh khoản trong Quỹ Nhà nước.
Hiện tại, không có ngân hàng trung ương nào khác công khai dự trữ bạc. Bạc chủ yếu được lưu trữ bởi:
- Kho lưu ký thương mại và sàn giao dịch như COMEX (Mỹ), LBMA (London), với lượng bạc vật chất hàng nghìn tấn.
- Các quỹ ETF bạc lớn như iShares Silver Trust (SLV) và Sprott Physical Silver Trust (PSLV), mỗi quỹ nắm hàng trăm triệu ounce bạc.
Bạc được dùng rất nhiều nhiều trong công nghiệp, Nga dự trữ nó không chỉ như dự trữ tiền mà còn để phục vụ cho công nghiệp
Khoảng 60% nhu cầu bạc toàn cầu đến từ công nghiệp: năng lượng mặt trời, xe điện, thiết bị điện tử, y tế, và hạ tầng lưới điện thông minh.
Ví dụ: Một tấm pin mặt trời dùng 15-20 g bạc; một xe điện dùng 25-50 g bạc. Khi doanh số xe điện dự kiến vượt 17 triệu chiếc vào năm 2025, nhu cầu bạc cho ngành ô tô có thể đạt 90 triệu ounce/năm. Ngoài ra, các ngành công nghiệp khác cũng cần rất nhiều bạc, ví dụ điện tử - bán dẫn, 5G, data center, AI, Y tế, lọc nước, chất xúc tác công nghiệp, hạ tầng sạc cho ô tô điện, v.v
Rõ ràng Nga muốn đảm bảo nguồn cung chiến lược cho các ngành công nghệ cao và năng lượng tái tạo, đặc biệt trong bối cảnh thế giới chuyển dịch sang kinh tế xanh.
Nga đang trữ bạc vừa như tài sản tài chính, vừa như kim loại chiến lược cho công nghiệp & chiến tranh. Vì bạc vừa là kim loại tiền tệ, vừa là kim loại công nghiệp
Trong các bài tóm tắt từ Interfax/Kitco về tài liệu này, Bộ Tài chính Nga giải thích rằng việc hình thành "dự trữ kim loại quý tinh luyện" sẽ giúp:
- củng cố sự ổn định ngân sách và phát triển kinh tế,
- và đáp ứng nhu cầu công nghiệp của Liên bang Nga trong trường hợp khẩn cấp.
Tức là chính Nga đã nêu thẳng yếu tố "nhu cầu công nghiệp trong tình huống khẩn cấp", không chỉ nói chung chung về "dự trữ tiền tệ".
Nga là nhà sản xuất bạc lớn (khoảng 38,5 triệu ounce/năm - top thế giới) và đang tận dụng sản lượng nội địa đó để xây dựng dự trữ kim loại quý "chống đô" (giảm phụ thuộc USD, EUR trong bối cảnh trừng phạt). Một số nhà phân tích nói thẳng: Nga có thể quan tâm tới bạc như một nguồn cung chiến lược cho công nghiệp, không chỉ vì vai trò "kim loại tiền tệ"
Con số tăng hơn 4 nghìn tấn trong bài dưới đây là tăng trữ lượng mỏ (địa chất), không phải tăng lượng bạc thỏi trong kho nhà nước.
Dự trữ bạc của Nga tăng thêm vào năm 2025 lên tới hơn 4 nghìn tấn.
17/11/2025
Theo báo cáo của Rosnedra, dự trữ bạc của Nga sẽ tăng hơn 4.000 tấn vào năm 2025.
Nhìn chung, 12.140 tấn bạc đã được khai thác tại Nga trong năm năm qua, trong khi mức tăng trưởng dự trữ vượt quá sản lượng, đạt 14.310 tấn. Năm ngoái, nguồn tài nguyên kim loại quý này đã tăng 3.170 tấn.
Theo số liệu sơ bộ, trữ lượng bạc năm 2025 đã tăng 4.140 tấn. Một trong những phát hiện lớn nhất trong năm là mỏ Unkurskoye ở vùng Zabaikalsky, ngoài trữ lượng bạc gần 700 tấn và trữ lượng ngoại cân bằng 295,7 tấn, mỏ này còn chứa 94.300 tấn đồng. Bộ Tài nguyên Thiên nhiên cho biết thêm rằng sự gia tăng đáng kể này là do việc thăm dò bổ sung mỏ Noyon-Tologoy (1.770 tấn) và việc định giá lại mỏ Peschanka (1.290 tấn).
Theo Bộ, các doanh nghiệp dự kiến phân bổ 36,2 tỷ rúp cho hoạt động thăm dò bạc vào năm 2025, tăng so với mức 29 tỷ rúp của năm trước. Năm 2023, con số này là 20,4 tỷ rúp. Hơn nữa, chính phủ đã phân bổ 2,3 tỷ rúp từ ngân sách liên bang trong ba năm cho các khoản đầu tư vào hoạt động thăm dò giai đoạn đầu nhằm bổ sung nguồn tài nguyên khoáng sản bạc thông qua cả quặng bạc và quặng phức hợp chứa bạc.
Dự trữ bạc của Nga, tập trung tại 610 mỏ, tổng cộng là 123.700 tấn. Con số này đứng thứ năm trên thế giới sau Trung Quốc, Mexico, Ba Lan và Peru.
Gần 83% trữ lượng bạc nằm ở Viễn Đông và Siberia. Dẫn đầu không thể tranh cãi là Lãnh thổ Trans-Baikal, nơi chứa hơn một phần tư trữ lượng bạc của cả nước. Tiếp theo là Cộng hòa Sakha (Yakutia), Vùng Krasnoyarsk, Tỉnh Magadan và Cộng hòa Buryatia, hoàn thành năm vị trí dẫn đầu.
Nguyên tố hóa học mới livermorium-288 (nguyên tố 116 trong bản tuần hoàn), được tổng hợp tại JINR Dubna, Nga. Nguyên tố này cũng được Lawrence Berkeley Lab của Mỹ tổng hợp cuối năm 2024.
Từ cuối năm 2023 Nga đã bắt đầu tổng hợp được rồi, theo báo Nga
Livermorium-288 synthesised at FLNR JINR for first time
News, 23 October 2023
Còn báo Nature nghiên cứu khoa học hàng top quốc tế cũng đã đăng tin này từ 2024. Bài báo này nói về phương pháp mới dùng chùm ion titanium để tổng hợp livermorium và mở đường cho nguyên tố 119, 120 do JINR Dubna (Nga) thực hiện.
Atomic smash-ups hold promise of record-breaking elements
25 October 2024
Ngày 19 tháng 11 năm 2025
Tại Nhà máy Nguyên tố Siêu nặng thuộc Phòng thí nghiệm Phản ứng Hạt nhân JINR, các nhà khoa học đã ghi nhận một sự kiện duy nhất tạo ra một đồng vị chưa từng được biết đến trước đây, livermorium-288 (nguyên tố 116 trong Bảng tuần hoàn). Nguyên tử độc đáo này được tạo ra bằng cách kết hợp hạt nhân crom-54 và urani-238 trong một thí nghiệm chuẩn bị cho quá trình tổng hợp nguyên tố 120. Thời gian tồn tại của đồng vị mới được xác định chỉ dưới một mili giây.
Theo lời bình luận của Thư ký khoa học FLNR JINR, Tiến sĩ Vật lý và Toán học Alexander Karpov, mục tiêu chính của Nhà máy nguyên tố siêu nặng ngày nay là tổng hợp các nguyên tố mới trong Bảng tuần hoàn: nguyên tố 119 và 120. Việc tổng hợp nguyên tố 120 được coi là bước đầu tiên và đầy hứa hẹn nhất. Các nguyên tố siêu nặng từ nguyên tố 114 (flerovium) đến nguyên tố 118 (oganesson) đã được tổng hợp tại FLNR JINR trong các phản ứng với chùm 48Ca và các mục tiêu actinide, từ plutonium đến californium. Californium là chất nặng nhất có thể được sản xuất với số lượng đủ để tạo ra một mục tiêu. Californium (nguyên tố 98) kết hợp với canxi (nguyên tố 20) để tạo thành nguyên tố 118 đã biết trong Bảng tuần hoàn: oganesson. Do đó, để thu được các nguyên tố nặng hơn oganesson, cần phải sử dụng không phải hạt nhân đạn canxi-48, mà là các nguyên tố có số hiệu nguyên tử cao hơn. Vì vậy, để thu được nguyên tố 120, người ta đang xem xét phản ứng của crom-54 (nguyên tố 24) với mục tiêu curium (nguyên tố 96).
Và ở đây, các nhà khoa học phải đối mặt với những thách thức mới. "Về mặt lý thuyết, và điều này được chứng minh từ một số thí nghiệm, rằng khả năng hợp nhất hai hạt nhân sẽ giảm khi chúng ta chuyển từ canxi-48 sang một hạt nặng hơn - titan, crom hoặc sắt", Alexander Karpov nói. Điều này phần nào được bù đắp bởi thực tế là hiệu suất thử nghiệm của Nhà máy SHE cao hơn nhiều lần so với phức hợp U-400 trước đây được sử dụng tại Phòng thí nghiệm Phản ứng Hạt nhân JINR.
Vào nửa cuối tháng 9, một thí nghiệm đã bắt đầu đo tiết diện phản ứng tổng hợp (xác suất hình thành) của hạt nhân trong các phản ứng giữa chùm tia crom-54 và bia urani-238. Những va chạm như vậy có thể tạo ra nhiều đồng vị khác nhau của nguyên tố 116, livermorium. Thí nghiệm này chuẩn bị nền tảng cho quá trình tổng hợp nguyên tố 120 và sẽ tiếp tục trong một tháng nữa. Điều này sẽ cung cấp kinh nghiệm vận hành chùm tia crom lâu dài và cho phép xác định tiết diện phản ứng tổng hợp của nguyên tố siêu nặng này trong các phản ứng với crom.
Việc sản xuất chùm tia crom cường độ cao tự thân nó đã là một nhiệm vụ phức tạp. Hiện nay, phương pháp MIVOC (Ion kim loại từ hợp chất dễ bay hơi) đang được sử dụng tại FLNR để sản xuất chùm tia titan và crom. Phương pháp này bao gồm việc đưa một hợp chất dễ bay hơi của chất được tăng tốc vào nguồn ion. Trong trường hợp crom, chất này là chromocene [Cr(C5H5 ) 2 ]. Quá trình tổng hợp hợp chất crom hữu cơ này là một quy trình hai bước. Hợp chất trung gian được thu được tại FLNR, và giai đoạn thứ hai, giai đoạn cuối cùng của quá trình tổng hợp chromocene được thực hiện tại Viện Hợp chất Nguyên tố Hữu cơ A.N. Nesmeyanov thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Nga.
Alexander Karpov nói thêm rằng các dự đoán lý thuyết về tiết diện phản ứng tổng hợp trong các phản ứng liên quan đến crom rất khác nhau, do đó việc xác định tiết diện phản ứng bằng thực nghiệm là rất quan trọng. "Nguyên tố 116 được tổng hợp bằng phản ứng tổng hợp hạt nhân canxi và curi—tiết diện phản ứng này đã được biết. Hiện tại, một thí nghiệm đang được tiến hành để tổng hợp các đồng vị của nguyên tố 116, nhưng phản ứng này liên quan đến crom và urani. Chúng tôi đã thay đổi mục tiêu và đầu đạn, nhưng nguyên tố thu được vẫn giữ nguyên. Bằng cách tiến hành thí nghiệm này, chúng tôi có thể so sánh tiết diện phản ứng, và điều này rất quan trọng trong việc chuẩn bị cho quá trình tổng hợp nguyên tố 120", Thư ký Khoa học của FLNR giải thích. Ông cho biết thêm rằng hoạt động của máy gia tốc với chùm tia mới hiện đang ổn định.
"Việc quan sát được một sự kiện hình thành livermorium duy nhất, ngay cả khi nó vẫn là sự kiện duy nhất trong toàn bộ thí nghiệm, cũng đã là một kết quả rất tốt. Sau khi phân tích kết quả của thí nghiệm này, sẽ ít có sự không chắc chắn hơn: chúng ta sẽ có thể ước tính mặt cắt ngang và tiến hành thí nghiệm trên nguyên tố 120 một cách tỉnh táo", Alexander Karpov kết luận.
Lò phản ứng cho Ai Cập: Hoàn thành lắp đặt chính tại Nhà máy điện hạt nhân El Dabaa
Ngày 19 tháng 11 năm 2025
Một sự kiện được mong đợi từ lâu đã diễn ra tại Nhà máy Điện hạt nhân El Dabaa đang được xây dựng ở Ai Cập: các kỹ sư đã lắp đặt bình áp suất lò phản ứng của Tổ máy 1 vào vị trí cuối cùng. Kết cấu thép nặng 340 tấn này là nền tảng của toàn bộ tổ máy điện tương lai.
Thùng lò phản ứng, được chuyển giao từ Nga vào tháng 10, đã trải qua một quá trình lắp đặt phức tạp. Đầu tiên, nó được di chuyển cẩn thận từ vị trí nằm ngang sang vị trí thẳng đứng - một thao tác đòi hỏi độ chính xác tuyệt đối khi xử lý một khối lượng lớn như vậy. Sau đó, một cần cẩu mạnh mẽ đã di chuyển nó và cẩn thận hạ xuống hố bê tông, nơi lò phản ứng sẽ hoạt động trong nhiều thập kỷ.
Công trường xây dựng nhấn mạnh rằng đây là sự kiện sản xuất trọng điểm của năm. "Việc lắp đặt lò phản ứng không chỉ là việc thường lệ mà còn là khoảnh khắc lịch sử đối với toàn bộ châu Phi. Chúng ta đang chứng kiến sự ra đời của tổ máy điện hiện đại đầu tiên của lục địa này", những người tham gia dự án lưu ý.
Rosatom đưa tin, quy mô xây dựng rất đáng kinh ngạc: công việc đang được tiến hành đồng thời trên tất cả các tổ máy điện và tổng số nhân viên tại công trường vượt quá 30.000 người .
Bây giờ, khi thiết bị quan trọng nhất đã được lắp đặt, chúng ta có thể chuyển sang giai đoạn tiếp theo của dự án. Việc lắp đặt các thiết bị còn lại và công tác vận hành sẽ được tiến hành.
Tập đoàn phát triển hệ điều hành và phần mềm của Nga mở rộng thị trường sang châu Phi
Tập đoàn Astra mở rộng hoạt động kinh doanh quốc tế
Ngày 19 tháng 11 năm 2025
Tập đoàn Astra và chính phủ Cộng hòa Dân chủ Congo đã ký kết Nghị định thư về quan hệ đối tác chiến lược. Ngài Augustin Kibassa Maliba, Bộ trưởng Bộ Kinh tế Số của Cộng hòa Dân chủ Congo, và Nikolai Pryanishnikov, Giám đốc Thương mại của Tập đoàn Astra, đã đại diện cho các bên tham dự buổi lễ. Đại diện của Tập đoàn Astra đã báo cáo với CNews về sự kiện này .
Thỏa thuận được ký kết dựa trên mong muốn của chính phủ nhằm tăng cường chủ quyền số quốc gia , hiện đại hóa cơ sở hạ tầng công nghệ và đảm bảo an ninh, bảo mật cho các hệ thống thông tin nhà nước.
Để đẩy nhanh việc nâng cấp cơ sở hạ tầng thông tin quan trọng của Cộng hòa Dân chủ Congo và củng cố vị thế là một trong những quốc gia đang phát triển nhanh chóng của châu lục, các bên dự định hợp tác trong một số lĩnh vực. Bao gồm phát triển và tích hợp các hệ thống quản lý tài liệu điện tử , bao gồm các nền tảng lưu trữ dữ liệu tập trung và phân tán an toàn và có khả năng mở rộng, cũng như cung cấp và triển khai máy tính cá nhân, máy chủ và các thiết bị khác cho các cơ quan chính phủ quốc gia và khu vực. Một khía cạnh quan trọng khác liên quan đến việc tạo ra các nền tảng để phát triển, triển khai và hỗ trợ kỹ thuật cho các giải pháp của Tập đoàn Astra, cũng như hợp pháp hóa và đăng ký các nhà cung cấp dịch vụ và CNTT. Hơn nữa, thỏa thuận bao gồm việc phát triển, triển khai và cải tiến các sản phẩm cùng quan tâm, cũng như đào tạo cho nhân viên chính phủ trong các lĩnh vực thiết kế, phát triển, quản trị, bảo trì và ứng dụng phần mềm, an ninh mạng, AI , blockchain và các lĩnh vực khác. Các đối tác bày tỏ mong muốn trao đổi chuyên môn, cùng nhau theo đuổi số hóa hành chính công và tập trung vào các buổi đào tạo, thực tập và phát triển các chương trình chuyên biệt để làm việc với các giải pháp của Tập đoàn Astra.
Tài liệu này là một văn bản khung và nêu rõ cam kết của các bên tham gia về sự hợp tác minh bạch và cùng có lợi. Các dự án cụ thể, mục tiêu, thời hạn và các thông số tài trợ sẽ được nêu chi tiết trong các thỏa thuận tiếp theo, tùy thuộc vào nghĩa vụ bảo mật .
"Hôm nay, chúng tôi đã ký kết thỏa thuận hợp tác chiến lược với chính phủ Cộng hòa Dân chủ Congo và đang bắt đầu hợp tác lâu dài nhằm xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng CNTT sử dụng nền tảng công nghệ của Tập đoàn Astra: từ hệ thống quản lý tài liệu điện tử và các nền tảng lưu trữ dữ liệu tập trung và phân tán đáng tin cậy đến các giải pháp an ninh mạng và trí tuệ nhân tạo, đào tạo nhân sự và xây dựng các trung tâm năng lực địa phương. Tổng giá trị chương trình ước tính ít nhất là 100 triệu đô la . Chúng tôi rất vinh dự trở thành đối tác công nghệ của một trong những quốc gia trọng điểm của Châu Phi với dân số gần 112 triệu người. Việc chính phủ lựa chọn Tập đoàn Astra khẳng định sự trưởng thành của chúng tôi với tư cách là nhà cung cấp và hỗ trợ cam kết phát triển quan hệ quốc tế. Chúng tôi sẽ tận dụng mọi kinh nghiệm và giải pháp của mình, hợp tác với các đồng nghiệp để củng cố chủ quyền số của quốc gia này", ông Nikolay Pryanishnikov , Giám đốc Thương mại của Tập đoàn Astra, cho biết.
«Группа Астра» расширяет международный бизнес
Tập đoàn Astra mở rộng hoạt động kinh doanh quốc tế
Ngày 19 tháng 11 năm 2025
Radar cho USV, thuyền không người lái, tàu thủy, cả cho quân sự và dân sự
Radar Pro-Mariner Radar 5000 do EMCT phát triển đã sẵn sàng đưa vào sản xuất
Evolution of Marine Digital Technologies (EMCT), một nhà phát triển giải pháp CNTT cho ngành hàng hải của Nga, đã hoàn tất quy trình chứng nhận và nhận được Giấy chứng nhận Phê duyệt Kiểu loại (STO) từ Cơ quan Đăng kiểm Hàng hải Nga (RS, Register) cho trạm radar Pro-Mariner Radar 5000. Theo bộ phận báo chí của EMCT, tài liệu này xác nhận thiết bị hoàn toàn tuân thủ các yêu cầu về an toàn, độ tin cậy và chức năng được thiết lập cho các thiết bị hàng hải hiện đại.
Pro-Mariner Radar 5000 là radar lập bản đồ kết hợp hình ảnh radar với dữ liệu hải đồ điện tử trong một giao diện duy nhất. Giải pháp này giúp đơn giản hóa việc hiểu thông tin định vị và cải thiện nhận thức tình huống, đặc biệt quan trọng khi hoạt động trong điều kiện thời tiết và điều hướng khó khăn.
Hệ thống này đã sẵn sàng để cung cấp cho mọi loại tàu, bao gồm cả tàu phá băng và đội tàu tốc độ cao.
Trạm có khả năng thích ứng, duy trì hoạt động ổn định ở cả băng tần X và băng tần S. Điều này đảm bảo phát hiện vật thể đáng tin cậy ở cả tầm gần và tầm xa, kể cả trong điều kiện tầm nhìn hạn chế. Hơn nữa, Pro-Mariner Radar 5000 duy trì hoạt động ở nhiệt độ cực thấp—xuống đến -55°C—điều này đặc biệt quan trọng đối với các tàu hoạt động trong điều kiện Bắc Cực và các khu vực có khí hậu khắc nghiệt.
Kiến trúc mở của radar cho phép tích hợp với các hệ thống khác trên tàu, chẳng hạn như ECDIS, thiết bị GMDSS và AIS, đáp ứng các yêu cầu hiện đại của ngành công nghiệp về việc xây dựng hệ thống định vị.
Kiểm tra nghiệm thu các hệ thống tự động hóa của PJSC Gazprom
Từ ngày 12 đến ngày 16 tháng 5 năm 2025, tại trạm nén Kubanskaya của Berezan LPU MG thuộc Gazprom Transgaz Krasnodar LLC, các cuộc thử nghiệm nghiệm thu hệ thống điều khiển tự động của tổ máy bơm khí (ACS GPA) ELSAR-R-100, hệ thống điều khiển quy trình tự động của phân xưởng nén (APCS KS) ELSAR-R-200 và hệ thống chữa cháy tự động (FAS) ELSAR-R-500 dựa trên tổ hợp phần cứng và phần mềm ELSAR-R đã hoàn thành thành công.
Theo Quy định về thử nghiệm thiết bị và hệ thống tự động hóa tại các cơ sở của PJSC Gazprom, các cuộc thử nghiệm chấp nhận được thực hiện trước bằng các cuộc thử nghiệm trên băng ghế và thử nghiệm sơ bộ, cũng như vận hành thử nghiệm trong hơn 3 tháng.
Đại diện ban quản lý của PJSC Gazprom, Gazprom Invest LLC, Gazprom Inform LLC, cũng như các chuyên gia từ một số tổ chức hoạt động đã tham gia vào công việc của ủy ban:
- Công ty TNHH Gazprom Transgaz Krasnodar
- Công ty TNHH Gazprom Transgaz Volgograd
- Gazprom Transgaz Nizhny Novgorod LLC
- Gazprom Transgaz Saratov LLC
- Gazprom Transgaz Surgut LLC
- Gazprom Transgaz Ukhta LLC
Các bài kiểm tra bao gồm kiểm tra toàn diện chức năng của hệ thống, khả năng chống chịu sự cố và tình huống khẩn cấp, cũng như khả năng thích ứng với điều kiện khí hậu. Đặc biệt chú trọng đến khả năng chịu lỗi, hoạt động chính xác của các thuật toán điều khiển, tính công thái học của giao diện, và sự tiện lợi và dễ sử dụng của hệ thống.
Dựa trên kết quả thử nghiệm, ủy ban đã đánh giá cao cả ba loại hệ thống và quyết định khuyến nghị sử dụng chúng tại các cơ sở của Gazprom PJSC.
Việc hoàn thành thành công thử nghiệm nghiệm thu đánh dấu một cột mốc quan trọng trong việc triển khai các giải pháp tự động hóa tiên tiến trong nước, đảm bảo vận hành ổn định, an toàn và hiệu quả các cơ sở hạ tầng khí đốt quan trọng. Công trình đã chứng minh rằng các giải pháp này hiện có khả năng thay thế hoàn toàn các giải pháp tương tự nhập khẩu.
Gazprom đã lập kỷ lục lịch sử về trữ lượng khí đốt tại các cơ sở lưu trữ dưới lòng đất của Nga
Ngày 13 tháng 10 năm 2025
Gazprom PJSC thông báo đã hoàn tất việc bơm khí theo kế hoạch vào các cơ sở lưu trữ ngầm (UGS) tại Nga trước khi mùa sưởi ấm bắt đầu. Công ty đã tăng dự trữ vận hành lên mức kỷ lục 100%—73,170 tỷ mét khối khí. Đây là mức cao nhất mọi thời đại.
Công ty lưu ý rằng công tác chuẩn bị toàn diện cho mùa đông sắp tới đã được hoàn tất đầy đủ và đúng hạn. Công suất tối đa tiềm năng hàng ngày của toàn bộ mạng lưới kho chứa khí ngầm đã được tăng lên 858,8 triệu mét khối.
"Việc có đủ lượng khí dự trữ tại các cơ sở lưu trữ khí ngầm và duy trì năng suất cao là một trong những yếu tố then chốt để vượt qua mùa cao điểm nhu cầu vào mùa đông. Trong những đợt giá lạnh đột ngột, Gazprom có khả năng nhanh chóng tăng nguồn cung khí đốt cho người tiêu dùng", công ty nhấn mạnh .
Khu tổ hợp Biosphere đã được đưa vào hoạt động tại Nhà máy lọc dầu Omsk của Gazprom Neft
Khu phức hợp xử lý nước sinh học Biosphere công nghệ cao tại Nhà máy Lọc dầu Omsk của Gazprom Neft đã đạt công suất thiết kế. Khu phức hợp này lọc sạch toàn bộ nguồn nước công nghiệp của nhà máy và đưa nước trở lại sản xuất. Biosphere là một trong những dự án môi trường quan trọng nhất của khu vực, nằm trong dự án Không khí Sạch của liên bang thuộc dự án quốc gia Sinh thái. Gazprom Neft đã đầu tư 28,7 tỷ rúp vào việc xây dựng.
Hệ thống "Sinh quyển" của Nhà máy Lọc dầu Omsk được phát triển bởi các kỹ sư Nga. Hơn 1.200 người từ 185 công ty đại diện cho 16 khu vực của Nga, bao gồm cả vùng Omsk, đã tham gia xây dựng. Công nghệ hoàn toàn khép kín này dựa trên hệ thống lọc nước đa giai đoạn, trong đó tất cả nước thải đều trải qua quá trình xử lý cơ học, vật lý, hóa học và sinh học. Cuối cùng, nước được dẫn qua bộ lọc carbon, khử trùng bằng tia cực tím và được đưa trở lại sản xuất sau khi lọc. Nhờ công nghệ "Sinh quyển", Nhà máy Lọc dầu Omsk sẽ giảm lượng nước đầu vào từ sông Irtysh xuống ba lần và tiết kiệm hơn 10 triệu mét khối nước mỗi năm.
Việc đưa vào hoạt động tổ hợp Biosphere là một phần trong chương trình hiện đại hóa môi trường của Nhà máy lọc dầu Omsk, được công ty triển khai từ năm 2008. Nhờ áp dụng các công nghệ hiện đại, tác động tổng thể của hoạt động sản xuất đến môi trường đã giảm 40%. Sau khi hoàn thành tất cả các hoạt động theo kế hoạch trong khuôn khổ dự án Không khí Sạch của liên bang, tác động này sẽ tiếp tục giảm thêm 25%.
Gazprom Neft đã bắt đầu sản xuất các chất phụ gia tổng hợp hiện đại cho dầu động cơ
Ngày 16 tháng 10 năm 2025
Gazpromneft-Lubricants, đơn vị vận hành mảng kinh doanh dầu nhờn của Gazprom Neft, đã cho ra mắt lô phụ gia sulfonate đầu tiên do Nga sản xuất. Những thành phần công nghệ cao này rất cần thiết cho việc sản xuất dầu động cơ tổng hợp và đảm bảo hiệu suất bôi trơn hiệu quả trong động cơ ô tô. Một nhóm các nhà khoa học và chuyên gia của Gazprom Neft đã phát triển công nghệ sản xuất phụ gia, sử dụng hoàn toàn nguyên liệu thô trong nước. Các sản phẩm mới được sản xuất bằng cách sử dụng một dây chuyền phụ gia sulfonate hiện đại tại Nhà máy Dầu nhờn Omsk của Gazprom Neft. Công ty đã công bố thông tin này tại Tuần lễ Năng lượng Nga.
Sulfonate tổng hợp là thành phần hoạt tính tạo nên nền tảng của dầu động cơ hiện đại. Chúng sở hữu đặc tính làm sạch, chống ăn mòn và trung hòa tăng cường đối với các sản phẩm oxy hóa dầu và nhiên liệu. Điều này ngăn ngừa sự hình thành cặn bẩn, vecni và cặn dầu ở những khu vực có nhiệt độ cao, nhờ đó kéo dài tuổi thọ động cơ.
Anatoly Skoromets, Tổng giám đốc Gazpromneft-Lubricants:
"Trong hai năm qua, chúng tôi đã triển khai thành công hai dự án công nghệ quan trọng tại Nhà máy Dầu nhờn Omsk: chúng tôi đã khánh thành tổ hợp GIDP và đưa vào vận hành một cơ sở sản xuất phụ gia sulfonat hiện đại. Điều này không chỉ cho phép chúng tôi mở rộng sản xuất mà còn trở thành công ty đầu tiên tại Nga bắt đầu sản xuất dầu động cơ tổng hợp từ các thành phần có nguồn gốc trong nước. Chúng tôi cam kết thực hiện mục tiêu chiến lược là cung cấp dầu ô tô công nghệ cao cho thị trường trong nước."
Nhà máy Dầu nhờn Omsk (OZSM) là cơ sở sản xuất lớn nhất của Gazprom Neft và là một trong những doanh nghiệp hiện đại nhất trong ngành. OZSM xử lý toàn bộ chu trình sản xuất dầu gốc và dầu thương mại, đóng gói và vận chuyển thành phẩm. Nhà máy sản xuất hơn 300.000 tấn dầu, chất bôi trơn và chất lỏng kỹ thuật cho ô tô, hàng hải và công nghiệp hàng năm, cung cấp các sản phẩm chiến lược cho tất cả các phân khúc của nền kinh tế trong nước.
Tổ hợp Hydroisodewaxing (HIDC) là cơ sở sản xuất dầu gốc lớn nhất tại Nga, hoạt động trên tất cả các loại nguyên liệu dầu mỏ. Dự án được triển khai tại Nhà máy Dầu nhờn Omsk. Quy trình sản xuất ba giai đoạn đảm bảo sản phẩm đầu ra đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Việc đưa tổ hợp vào vận hành đã giúp công ty loại bỏ việc sử dụng dầu gốc nhập khẩu.
Nga tiếp tục tăng cường thị trường khí đốt nội địa
Gazprom Invest đã xây dựng đường ống dẫn khí đốt ngầm dài nhất của Nga
Ngày 18 tháng 8 năm 2025
Gazprom Invest đã hoàn thành đường ống dẫn khí đốt ngầm dài nhất tại Nga bằng phương pháp khoan định hướng ngang (HDD). Đường ống dẫn khí đốt ngầm dài 1.657 mét bắc qua sông Tunguska tại vùng Khabarovsk đã được ghi vào Sách Kỷ lục Nga. Đường ống này vượt xa các công trình dài nhất từng được xây dựng bằng phương pháp này tại Nga hơn 250 mét.
Việc vượt sông Tunguska dưới nước là một phần của dự án xây dựng quy mô lớn đường ống dẫn khí Belogorsk-Khabarovsk. Một tấm chắn đường hầm chắc chắn đã được sử dụng trong quá trình xây dựng. Sử dụng công nghệ khoan định hướng ngang (HDD), ống có đường kính 1.400 mm được đẩy đồng thời qua đường hầm. Ưu điểm chính của phương pháp này là thân thiện với môi trường, giảm thiểu tác động đến môi trường.
Để đạt được chiều dài kỷ lục, hai máy đẩy ống với lực kéo 750 tấn đã được sử dụng. Trong quá trình thi công, 12,8 km cáp điện và cáp dữ liệu cùng 11,4 km cáp thông tin liên lạc phụ trợ đã được lắp đặt.
"Mỗi dòng sông mới dọc theo tuyến đường ống dẫn khí chính đều là một thách thức đối với các kỹ sư, nhà thiết kế, nhà xây dựng và nhà sản xuất thiết bị. Việc xây dựng một tuyến đường ngầm dài như vậy đã trở thành hiện thực nhờ kinh nghiệm tích lũy của tất cả các công ty xây dựng của Gazprom và sự phối hợp chặt chẽ trong văn phòng dự án tích hợp. Tôi đặc biệt muốn khen ngợi tính chuyên nghiệp của các chuyên gia trực tiếp thực hiện công việc - Công ty Cổ phần Beltruboprovodstroy", ông Viktor Misnik, Giám đốc chi nhánh Tomsk của Gazprom Invest, phát biểu.
Belogorsk-Khabarovsk là đường chấm màu xám ở phía đông của bản đồ
Gazprom tạo nhiên liệu hàng không sinh học, cụ thể là làm nhiên liệu được làm một phần từ dầu thực vật tái chế thay vì nhiên liệu máy bay thông thường.
Ngày 3 tháng 9 năm 2025
Hãy tưởng tượng việc sử dụng nhiên liệu được làm một phần từ dầu thực vật tái chế thay vì nhiên liệu máy bay thông thường. Chuyện này không còn là khoa học viễn tưởng nữa: Gazprom Neft đã sản xuất lô nhiên liệu hàng không thân thiện với môi trường đầu tiên này tại Nga. Nó được thiết kế để làm sạch đáng kể khí thải máy bay, giảm lượng khí thải carbon của ngành hàng không.
Một công nghệ chuyển đổi nguyên liệu dầu mỡ thành các thành phần cho nhiên liệu động cơ thế hệ mới đã được phát triển và cấp bằng sáng chế vào năm 2023. Là một phần của chương trình toàn diện nhằm phát triển các giải pháp carbon thấp, Gazprom Neft đã trở thành công ty đầu tiên tại Nga tiếp nhiên liệu cho tàu biển bằng nhiên liệu sinh học carbon thấp. Nhiên liệu SAF đánh dấu bước tiếp theo trong chiến lược giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực vận tải của công ty.
Tại St. Petersburg, các chuyên gia tại Trung tâm Công nghệ Đổi mới Công nghiệp của Gazprom Neft đã hoàn tất quá trình phát triển và sản xuất lô nhiên liệu hàng không đầu tiên do Nga sản xuất với lượng khí thải carbon thấp (Nhiên liệu Hàng không Bền vững, SAF). Thông tin này được đưa tin bởi bộ phận báo chí của Gazpromneft-Aero JSC.
"Sản phẩm này được làm từ nhiên liệu máy bay phản lực, bổ sung thành phần sinh học có nguồn gốc từ dầu chiên đã qua sử dụng và mỡ động vật. Việc tổng hợp este bằng hydro cho phép chúng tôi tạo ra các thành phần sinh học có đặc tính hiệu suất tương đương với nhiên liệu máy bay phản lực truyền thống", tuyên bố cho biết. Về hiệu suất môi trường, thành phần mới này tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế trung hạn về vận tải hàng không.
Như đã nói, việc phát triển nhiên liệu SAF của Nga được thực hiện bởi các chuyên gia tại Trung tâm Công nghệ Đổi mới Công nghiệp của Gazprom Neft tại St. Petersburg. Thông qua nghiên cứu và thử nghiệm trong phòng thí nghiệm, một công thức hiệu quả dựa trên nhiên liệu phản lực có bổ sung thành phần sinh học đã được tạo ra. Thành phần của nhiên liệu mới này tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường trung hạn nghiêm ngặt cho hoạt động hàng không quốc tế.
Công nghệ độc quyền của công ty dựa trên việc tổng hợp este từ nguyên liệu hữu cơ tái tạo bằng hydro. Bằng cách xử lý dầu thực vật và mỡ động vật thải, các chuyên gia sản xuất ra các thành phần sinh học. Các thành phần này hoàn toàn phù hợp với các đặc tính hiệu suất của nhiên liệu phản lực truyền thống, đồng thời cải thiện đáng kể hiệu suất môi trường.
Dự án đang được triển khai với sự tham gia của Hiệp hội Chuyên gia và Doanh nghiệp trong lĩnh vực Xử lý Chất thải Dầu mỡ (APMO), đơn vị cung cấp các thành phần sinh học. Năm 2025, tại Diễn đàn Kinh tế Quốc tế St. Petersburg, một thỏa thuận đã được ký kết nhằm phát triển cơ sở hạ tầng thống nhất cho việc thu gom và xử lý nguyên liệu thực vật, tạo thành cơ sở tài nguyên cho sản xuất công nghiệp nhiên liệu thân thiện với môi trường.
Việc thử nghiệm nhiên liệu SAF trong phòng thí nghiệm và trên giàn khoan dự kiến sẽ diễn ra trong tương lai gần tại các viện hàng không hàng đầu của Nga. Theo các tổ chức quốc tế, việc sử dụng SAF có thể giảm tới 80% lượng khí thải nhà kính trong quá trình bay so với nhiên liệu truyền thống.
Gazpromneft-Aero cho biết thêm: "Việc đưa nhiên liệu SAF nội địa vào sử dụng phù hợp với xu hướng toàn cầu hướng tới mục tiêu khử cacbon trong ngành hàng không và các yêu cầu giảm lượng khí thải carbon của ngành".
Việc sản xuất nhiên liệu SAF của Nga là một phần trong chương trình toàn diện của Gazprom Neft nhằm phát triển các giải pháp vận tải ít carbon. Từ năm 2023, trung tâm nghiên cứu đã phát triển và cấp bằng sáng chế các giải pháp kỹ thuật để chế biến dầu và mỡ thành nguyên liệu cho nhiên liệu thế hệ tiếp theo. Nhờ những phát triển này, Gazprom Neft cho biết, trước đó công ty đã trở thành công ty đầu tiên trong ngành vận tải biển của Nga bắt đầu cung cấp nhiên liệu sinh học cho tàu biển.
Gazprom Neft has developed a technology for producing SAF fuel for aviation
Компания «Газпром нефть» разработала технологию производства SAF-топлива для авиации
03.09.2025
Nga muốn đặt việc sản xuất sản phẩm lọc hóa dầu (cụ thể là polymer) ngay tại cùng một chỗ với cơ sở của nhà máy lọc dầu
Các nhà máy lọc dầu của Nga đang chuẩn bị đưa vào sản xuất polymer.
Ngày 16 tháng 10 năm 2025
Bộ Năng lượng muốn kết hợp sản xuất nguyên liệu thô và thành phẩm trực tiếp tại các nhà máy. Điều này có thể giảm nhập khẩu và cải thiện hiệu quả của ngành.
Theo Thứ trưởng Bộ Năng lượng Pavel Sorokin, chính quyền Nga đang xem xét mở rộng sản xuất polymer tại các nhà máy lọc dầu.
Theo ông, Nga cần quản lý nguyên liệu thô hiệu quả hơn. Trong nhiều năm, một lượng dầu khí có giá trị đã bị đốt cháy hoặc bán ra nước ngoài.
Do đó, chúng tôi có kế hoạch hoàn thành các dự án đã khởi động và hiện đang nghiên cứu chi tiết hơn về khả năng mở rộng sản xuất polymer tại các nhà máy lọc dầu.
— Pavel Sorokin, Thứ trưởng thứ nhất Bộ Năng lượng Liên bang Nga
Vị quan chức này giải thích rằng việc sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao tại một địa điểm đã có sẵn nguyên liệu thô sẽ hợp lý hơn. Hơn nữa, Sorokin cho biết thêm, nhiều trung tâm tiêu thụ trong nước nằm trong bán kính 500-700 km tính từ các nhà máy lọc dầu này.
Còn quá sớm để thảo luận về các loại polymer cụ thể liên quan - các dự án vẫn đang trong giai đoạn phát triển. Các cuộc thảo luận đang được tiến hành liên quan đến một số hợp chất mà Nga vẫn nhập khẩu.
(www1.ru)
02.10.2025
Các chuyên gia từ Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Công nghệ Laser và bồi đắp đã kiểm tra các cánh phun tua-bin áp suất cao giai đoạn một và hai, lập tài liệu sửa chữa và tiến hành sửa chữa thử nghiệm bằng phương pháp bọc laser. Các chuyên gia đã phân tích điều kiện vận hành của cụm vòi phun giai đoạn một và hai, cũng như tình trạng vật liệu cánh phun sau khi vận hành, phân loại các khuyết tật theo loại, kích thước và vị trí, và phát triển phương pháp xác định các cánh bị lỗi.
Các nhân viên của Viện Kỹ thuật cơ khí, vật liệu và vận tải tại Đại học Bách khoa St. Petersburg Peter Đại đế đã hoàn thành công việc theo hợp đồng nghiên cứu, phát triển và kỹ thuật về chủ đề "Phát triển công nghệ thiết kế và sản xuất sử dụng công nghệ sản xuất bồi đắp cho các thành phần quan trọng của đường dẫn khí nóng của tua-bin khí T32 (MS5002E)", dịch vụ báo chí của trường đại học đưa tin .
"Cuối năm 2023, chúng tôi đã bắt đầu dự án sửa chữa cánh vòi phun tầng một và tầng hai của tua-bin cao áp. Sau khi đàm phán với Gazprom, chúng tôi bắt đầu phân tích các bộ phận đã nhận và phát triển công nghệ sửa chữa lớp phủ laser cho tua-bin cao áp SL1 và SL2 của động cơ tua-bin khí MS5002E thuộc tổ máy nén khí GPA-32 Ladoga. Nhờ công nghệ phủ laser, chúng tôi đã có thể kéo dài tuổi thọ của các bộ phận", ông Mikhail Kuznetsov, Trưởng Phòng Thí nghiệm Nghiên cứu LiAT, cho biết.
Các chuyên gia cũng đã nghiên cứu các đặc tính của các mẫu nén và phát triển một quy trình sửa chữa các bộ phận, bao gồm xử lý nhiệt, gia công, phủ laser và kiểm tra đầu vào và đầu ra. Cùng với các đồng nghiệp từ Viện Kỹ thuật Điện, họ đã tiến hành các nghiên cứu tính toán, bao gồm các phương pháp cường độ, động lực học khí, thủy lực và nhiệt. Các tính toán xác nhận cho các cánh quạt đã sửa chữa cũng đã được thực hiện.
Trong khuôn khổ một giai đoạn nghiên cứu và phát triển khác với Gazprom về việc thay thế nhập khẩu các linh kiện tuabin khí quan trọng, các nhà nghiên cứu tại Đại học Bách khoa đã phát triển một phương pháp sản xuất kim phun nhiên liệu T32 GTU bằng công nghệ sản xuất bồi đắp. Kim phun là một thành phần quan trọng của buồng đốt, đảm bảo các thông số đốt cháy tối ưu. Các nhà nghiên cứu của viện đã tiến hành nghiên cứu lựa chọn hợp kim chịu nhiệt trong nước và phát triển các chế độ in 3D sử dụng công nghệ nung chảy laser chọn lọc (SLM) trên vật liệu composite bột kim loại. Phương pháp được phát triển bao gồm in 3D từng linh kiện kim phun, xử lý hậu kỳ và hàn laser. Điều này giúp giảm đáng kể thời gian sản xuất và mức tiêu thụ vật liệu so với các phương pháp truyền thống.
Các thử nghiệm trong phòng thí nghiệm trên các mẫu thử bao gồm xác định các đặc tính cơ học của vật liệu ở nhiều nhiệt độ khác nhau, cũng như thử nghiệm độ bền dài hạn. Các vòi phun hoàn thiện đã được thử nghiệm khí nén để kiểm tra đặc tính lưu lượng và diện tích lỗ phun hiệu dụng, xác nhận sự tuân thủ tất cả các thông số kỹ thuật. Hiện tại, chúng tôi đang có kế hoạch sản xuất một số bộ vòi phun sử dụng công nghệ đã phát triển để thử nghiệm nóng trong tổ máy tua bin khí.
"Việc phát triển phương pháp sản xuất kim phun nhiên liệu bằng công nghệ nung chảy laser chọn lọc là một bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển kỹ thuật điện trong nước. Chúng tôi đã thành công trong việc phát triển một giải pháp hiệu quả dựa trên vật liệu và thiết bị trong nước, đảm bảo tính độc lập về công nghệ trong sản xuất", Igor Polozov, nhà nghiên cứu hàng đầu tại Trung tâm Nghiên cứu Vật liệu Kết cấu và Chức năng, cho biết.
"Việc tổ chức sản xuất quy mô nhỏ, tập trung tri thức là một nỗ lực đáng giá đối với một trường đại học nghiên cứu. Các nhà khoa học của chúng tôi, hợp tác với đại diện các công ty công nghệ cao từ nhiều ngành công nghiệp khác nhau, đang giải quyết những vấn đề phức tạp và phát triển ngành công nghiệp trong nước. Việc hoàn thành thành công và sớm dự án nghiên cứu và phát triển với Gazprom cho thấy tính chuyên nghiệp cao của đội ngũ nhân viên chúng tôi và cam kết chinh phục những chân trời mới đầy thách thức", ông Anatoly Popovich, Quản lý dự án kiêm Giám đốc Viện Kỹ thuật Cơ khí, Vật liệu và Vận tải thuộc SPbPU, nhận xét.

















