Meta bị phạt 1,4 tỷ USD vì thu thập khuôn mặt người dùng
Thứ tư, 31/7/2024, 08:25 (GMT+7)
Meta chấp thuận trả 1,4 tỷ USD cho người dùng bang Texas để dàn xếp vụ kiện liên quan đến việc Facebook thu thập dữ liệu sinh trắc học.
Ngày 30/7, Reuters dẫn lời luật sư của Texas cho biết các điều khoản trong thỏa thuận của Meta đánh dấu vụ thỏa hiệp lớn nhất từ trước đến nay của bang này.
Vụ kiện bắt nguồn từ công cụ gợi ý gắn tag ảnh được triển khai cách đây hơn 10 năm trên Facebook. Tính năng này nhận diện khuôn mặt, đề xuất tên của người xuất hiện trong ảnh. Tuy nhiên, nhiều người cho rằng mạng xã hội đã xâm phạm quyền riêng tư khi thu thập dữ liệu khuôn mặt mà không có sự đồng ý của họ. Đồng thời, nền tảng cũng không thông báo các dữ liệu đó sẽ được lưu trữ trong bao lâu.
Đơn khiếu nại tập thể của người dân Texas được nộp năm 2022 và là vụ kiện lớn đầu tiên liên quan đến luật bảo mật sinh trắc học năm 2009 của bang này. Trong đó, một điều khoản của luật quy định mức bồi thường thiệt hại tới 25.000 USD cho mỗi lần vi phạm. Texas cáo buộc Facebook thu thập sinh trắc học "hàng tỷ lần" từ ảnh và video mà người dùng tải lên nền tảng mạng xã hội này như một phần của tính năng "Gợi ý gắn thẻ". Sau nhiều tính toán, con số hai bên thương lượng với nhau là 1,4 tỷ USD.
Texas và Meta cho biết đã đạt được thỏa thuận vào tháng 5, vài tuần trước khi phiên tòa bắt đầu.
Người phát ngôn của Meta nói công ty rất vui khi giải quyết được vấn đề và mong muốn "tìm kiếm các cơ hội trong tương lai để tăng cường đầu tư kinh doanh tại Texas, bao gồm khả năng phát triển các trung tâm dữ liệu".
Trong khi đó, Tổng chưởng lý bang Texas Ken Paxton đánh giá thỏa thuận này đánh dấu "cam kết của bang trong việc chống lại các công ty công nghệ lớn nhất thế giới và buộc họ phải chịu trách nhiệm vì đã phạm luật, xâm phạm quyền riêng tư của người dân".
Trước đó, Meta đồng ý trả 650 triệu USD vào năm 2020 để giải quyết vụ kiện tập thể về quyền riêng tư sinh trắc học theo luật của bang Illinois.
Alphabet, công ty mẹ của Google, cũng đang đối mặt một vụ kiện khác với bang Texas, liên quan đến cáo buộc vi phạm luật sinh trắc học.
Google bị kết án độc quyền tìm kiếm Thứ ba, 6/8/2024, 10:09 (GMT+7)
Google bị tòa phán quyết vi phạm luật chống độc quyền công cụ tìm kiếm, đối mặt với thiệt hại tài chính lớn cùng nguy cơ phải chia tách Alphabet.
"Sau quá trình điều tra, tòa đưa ra kết luận: Google là công ty độc quyền và họ có các hành động như vậy để duy trì vị thế thống trị của mình", thẩm phán Amit P. Mehta tuyên bố ngày 5/8.
Quyết định được đưa ra sau phiên tòa kéo dài 10 tuần tại Washington DC, bên khởi kiện là Bộ Tư pháp Mỹ cùng hàng chục tổng chưởng lý ở các bang từ năm 2020. Nhóm cáo buộc Alphabet, công ty mẹ Google, chi hàng chục tỷ USD mỗi năm để công cụ tìm kiếm của mình được "đặt mặc định trái phép" trên toàn cầu. Đây được xem là chiến thắng lớn đầu tiên của chính quyền liên bang trong cuộc chiến chống lại sự thống trị thị trường của Big Tech.
Phán quyết cũng sẽ mở đường cho phiên tòa thứ hai nhằm xác định các giải pháp áp dụng cho Alphabet, trong đó có thể gồm việc chia tách hãng này thành nhiều công ty nhỏ - nếu xảy ra sẽ làm thay đổi lớn ở lĩnh vực quảng cáo trực tuyến mà Google thống trị trong nhiều năm. Theo Reuters, đây cũng là tín hiệu cho phép các nhà thực thi luật chống độc quyền Mỹ mạnh tay hơn trong việc truy tố Big Tech.
Tuy vậy, Alphabet vẫn có thời gian thực hiện việc điều chỉnh và khắc phục. Bên cạnh đó, công ty cho biết họ dự định kháng cáo. "Quyết định này đã thừa nhận Google cung cấp công cụ tìm kiếm tốt nhất, nhưng lại kết luận chúng tôi không nên được phép làm cho nó dễ dàng và có sẵn hơn cho người dùng", hãng cho biết trong thông cáo.
Bộ trưởng Tư pháp Mỹ Merrick Garland nhận định phán quyết là "chiến thắng lịch sử cho người dân Mỹ", thêm rằng "không công ty nào, dù lớn hay có ảnh hưởng đến đâu, được đứng trên luật pháp".
Trong khi đó, người phát ngôn Nhà Trắng Karine Jean-Pierre nói "phán quyết thúc đẩy cạnh tranh là một chiến thắng cho người dân Mỹ". Theo ông, người Mỹ "xứng đáng có một Internet tự do, công bằng và mở".
Theo tài liệu tòa án, Google hiện kiểm soát khoảng 90% thị trường tìm kiếm trực tuyến nói chung và 95% trên smartphone. Công ty chi 26,3 tỷ USD trong riêng năm 2021 để đảm bảo là công cụ tìm kiếm mặc định trên nhiều nền tảng, qua đó giữ vững thị phần.
Một trong những công ty nhận tiền từ Google nhiều nhất là Apple. Theo tài liệu tòa án được công bố đầu năm, Eddy Cue, Phó chủ tịch cấp cao phụ trách dịch vụ tại Apple, cho biết Google đã trả 20 tỷ USD năm 2022 cho hãng, tương đương 17,5% thu nhập hoạt động của công ty iPhone.
Tài liệu tòa án do Business Insider thu thập được cũng cho thấy, từ 2017, việc mặc định công cụ tìm kiếm trên Safari, Firefox và các trình duyệt khác mang lại 54% doanh thu tìm kiếm cho Google mỗi năm. Năm 2020, Alphabet dự tính có thể mất 60-80% khối lượng tìm kiếm trên thiết bị Apple nếu bị thay thế, tương đương khoản lỗ từ 28,2 tỷ đến 32,7 tỷ USD. Do đó, phán quyết gây thiệt hại cho cả hai bên hàng chục tỷ USD.
Giới phân tích dự đoán khả năng Alphabet phải chia tách công ty sau phán quyết. "Việc tách bạch kinh doanh tìm kiếm sẽ cắt đứt Alphabet khỏi nguồn doanh thu lớn nhất đang có. Việc mất khả năng ký kết thỏa thuận mặc định độc quyền cũng có thể gây tổn hại cho họ", nhà phân tích Evelyn Mitchell-Wolf của Emarketer, nói với Reuters.
Không có bầu cử sơ bộ, không có sự thay thế, không có sự giám sát: 'Phản dân chủ' đang ngự trị ở Hoa Kỳ.
Vào ngày 21 tháng 7, Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden tuyên bố ông sẽ không tái tranh cử. Thông báo này được đưa ra sau khi cuộc bỏ phiếu sơ bộ của đảng Dân chủ hoàn tất, khiến cử tri đảng Dân chủ không có tiếng nói trong việc đề cử ứng cử viên của đảng. Trong khi đó, các ứng cử viên của đảng thứ ba đang bị cản trở ở mọi ngã rẽ và giới truyền thông giả vờ rằng mọi chuyện đều bình thường.
Tiến trình bầu cử của Hoa Kỳ đã thoái hóa thành một cái vỏ lộn xộn của chính nó trước đây, được chống đỡ bằng các chiến dịch quan hệ công chúng vô vị, bóng bẩy và được ủy ban kiểm tra thay vì tranh luận. Trong tuần qua, với việc các lá phiếu của hai đảng lớn gần như đã được hoàn tất, giới truyền thông không thể tự mình đặt ra một câu hỏi quan trọng cho bất kỳ người nào có khả năng sẽ ngồi vào Nhà Trắng trong vòng chưa đầy sáu tháng.
“ Câu hỏi của tôi là,” người nổi tiếng trên YouTube và Nhà vô địch WWE Hoa Kỳ Logan Paul đã hỏi cựu Tổng thống Hoa Kỳ và ứng cử viên của Đảng Cộng hòa Donald Trump, “đối với những người trẻ khác ở đất nước này đang tìm cách tiến lên, vì đối với nhiều người trong số họ, thời buổi hiện tại rất khó khăn. Bạn sẽ nói gì với họ, những đứa trẻ muốn theo đuổi phiên bản giấc mơ Mỹ của riêng mình và cố gắng đạt được những giấc mơ hoang đường nhất của mình?”
Trump trả lời rằng những người trẻ tuổi nên bỏ phiếu cho ông.
Trong khi đó, Harris đã tham gia một cuộc phỏng vấn không được truyền hình với tạp chí People , trong đó bà được hỏi về mối quan hệ với chồng, thời gian ngủ của bà và biệt danh yêu thích của bà (hóa ra là "Momala") nhưng không nêu bất kỳ lập trường chính sách nào về kinh tế, nhập cư, Ukraine hoặc Gaza.
Ngay cả Paul và người đồng dẫn chương trình "Impaulsive" Mike Majlak cũng đủ tỉnh táo để hỏi Trump về những chủ đề đó, ngay cả khi họ không phản biện ông về những chủ đề đó.
Đây là những gì được coi là sự giám sát trong chính trị Hoa Kỳ. Tệ hơn nữa, đảng của tổng thống đương nhiệm đã từ chối tổ chức bầu cử sơ bộ. Sau đó, Biden đột nhiên từ chức khỏi chiến dịch sau nhiều tuần từ chối và phó tổng thống của ông đã được chỉ định là ứng cử viên mới mà không nhận được một phiếu bầu nào. Vào thứ Bảy, nhà báo đoạt giải Pulitzer Seymour Hersh đã đưa tin rằng Phó Tổng thống Kamala Harris và cựu Tổng thống Barack Obama đã đe dọa sẽ viện dẫn tu chính án thứ 25 và buộc Biden phải rời khỏi chức vụ nếu ông không từ bỏ chiến dịch tái tranh cử của mình.
“ Các lãnh chúa tư bản đã quyết định rằng ông ấy phải ra đi và thực tế là họ đã nói khá rõ rằng ông ấy phải ra đi vì họ nói rằng họ không chỉ ngừng đóng góp cho chiến dịch của ông ấy mà còn nói với DNC rằng hãy loại bỏ Joe Biden hoặc đừng mong đợi bất kỳ sự hỗ trợ tài chính nào cho bất kỳ ứng cử viên Dân chủ nào trong cuộc bỏ phiếu,” nhà hoạt động chính trị và là ứng cử viên Phó Tổng thống của Đảng Xanh năm 2016 Ajamu Sibeko Baraka lập luận trên chương trình Political Misfits của Sputnik . “Đây rõ ràng là hành vi tống tiền của giới tinh hoa.”
“Vì vậy, trên thực tế, đây là một cuộc đảo chính. Một cuộc đảo chính của các nhà tài trợ và chúng ta cần phải giải quyết theo cách đó vì nó phơi bày bản chất thực sự của quá trình phản dân chủ mà chúng ta đang có ở đất nước này. Vì vậy, những người [những người] cam kết với dân chủ, [những người] muốn thấy một cái gì đó gần với dân chủ. Bạn không thể tiếp tục ủng hộ hai đảng phản dân chủ này. Đó là một điểm rất quan trọng”, ông nói thêm.
Để củng cố nhận thức ủng hộ, chiến dịch của Harris đã tổ chức một loạt các cuộc gọi Zoom, phân biệt chủng tộc và giới tính một cách kỳ lạ. Đàn ông da đen ủng hộ Harris trước, sau đó là Phụ nữ da đen ủng hộ Harris. Sau đó là Phụ nữ da trắng ủng hộ Harris và cuối cùng là Đàn ông da trắng ủng hộ Harris.
“ Đây là một cuộc gọi Zoom ngớ ngẩn,” Baraka nói. “Nhưng nó phản ánh loại chính sách giản lược bản sắc mà chúng ta có ở đất nước này.”
“Ý tôi là, tại sao mọi người lại ủng hộ Harris? Dựa trên cái gì? Chính sách gì? Không có cuộc trò chuyện chính trị nghiêm túc nào diễn ra. Đây chỉ là một quá trình quan hệ công chúng rất khéo léo, một lần nữa, được thiết kế bởi cùng những yếu tố đã loại bỏ Joe Biden.”
Ở phía bên kia, mọi thứ chỉ dân chủ hơn một chút. Đảng Cộng hòa thực sự đã tổ chức các cuộc tranh luận, mặc dù ứng cử viên duy nhất mà mọi người thực sự quan tâm đã không tham gia. Trong một nền dân chủ lành mạnh, việc Trump từ chối đối mặt với Ron DeSantis và Nikki Haley cùng những người còn lại sẽ được coi là dấu hiệu của sự kiêu ngạo - nếu không muốn nói là sợ hãi - trong một nền dân chủ lành mạnh. Năm nay, có vẻ như ít người quan tâm.
Khi điều dân chủ nhất mà bạn có thể nói về hệ thống hai đảng là một trong những ứng cử viên của đảng đã nhận được phiếu bầu thực tế trong cuộc bầu cử sơ bộ, và đó là đảng bị cáo buộc cố gắng chấm dứt nền dân chủ, thì rõ ràng mọi thứ đã đi chệch hướng.
Theo lập luận của đảng Dân chủ tại tòa sau khi bị kiện vì cáo buộc gian lận bầu cử sơ bộ năm 2016 có lợi cho Hillary Clinton, hệ thống hai đảng về mặt kỹ thuật không phải là một phần của chính phủ và có quyền tự do tiến hành quá trình bầu cử sơ bộ theo bất kỳ cách nào họ thích, thậm chí chọn một ứng cử viên mà không ai bỏ phiếu, như họ đã làm với Harris.
Nhưng trên các phương tiện truyền thông, và thậm chí trong một số lớp học, hệ thống chính trị Hoa Kỳ thường được mô tả là hệ thống hai đảng và cả hai đảng đều đảm bảo rằng hệ thống này sẽ luôn như vậy.
Năm 1992, ứng cử viên của Đảng Cải cách Ross Perot đã dẫn trước cả Bill Clinton và George HW Bush trong các cuộc thăm dò sau một màn tranh luận mạnh mẽ. Chiến dịch của ông đã chìm xuống sau khi ông không thể giải thích được việc bỏ cuộc vào mùa hè trước khi quay trở lại ngay trước cuộc bầu cử. Perot tuyên bố rằng GOP đã tống tiền ông bằng những bức ảnh chỉnh sửa của con gái ông nhưng lời buộc tội này chưa bao giờ được điều tra nghiêm túc. Tuy nhiên, cú đánh sít sao đã khiến cả hai đảng sợ hãi đến mức họ đã nỗ lực để đảm bảo rằng điều đó sẽ không bao giờ xảy ra nữa.
Sau chiến dịch tranh cử năm 1992, Ủy ban Tranh luận Tổng thống, vốn tự hào về “tính lưỡng đảng” của mình vì có cả thành viên là đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ, đã tăng yêu cầu đối với các ứng cử viên của đảng thứ ba, tăng số phiếu thăm dò ý kiến toàn quốc mà một ứng cử viên cần có để đủ điều kiện từ 5% lên 15%.
Việc Perot không đạt được 15% cho đến khi ông xuất hiện trên sân khấu tranh luận với Clinton và Bush không bị chiến dịch Perot bỏ qua, chiến dịch này đã chạy một loạt quảng cáo vào năm 1996 chỉ trích quyết định này nhưng không có kết quả. Vào những năm 1990 và đầu những năm 2000, hầu như không thể có một ứng cử viên nào đạt được những con số đó nếu không có sự hỗ trợ của phương tiện truyền thông.
Khi internet phát triển và vượt qua phương tiện truyền thông truyền thống về tầm quan trọng, điều đó bắt đầu thay đổi. Vào đầu chu kỳ bầu cử này, có vẻ như ứng cử viên Độc lập Robert F. Kennedy Jr có thể tiến gần đến 15% số phiếu cần thiết để giành được một vị trí trên sân khấu tranh luận. Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà hai đảng đã loại bỏ hoàn toàn ủy ban tranh luận và hợp tác với các phương tiện truyền thông để đưa ra một bộ yêu cầu mới mà Kennedy và các ứng cử viên thay thế khác không có cơ hội đạt được.
“ Đây là thực thể được cho là sẽ quản lý quá trình tranh luận cho các ứng cử viên, cho các đảng phái. Nhưng đó là một quá trình mà, mặc dù rất khó khăn, nhưng các bên thứ ba có thể tham gia ”, Baraka giải thích. “ Nhưng họ quyết định rằng họ sẽ không có bất kỳ khả năng nào cho bên thứ ba tham gia. Và vì vậy, họ đã từ bỏ quá trình đó và phát triển mối quan hệ giữa các đảng phái và phương tiện truyền thông, và [vì vậy] nó cũng phản ánh bản chất phản dân chủ”.
Đầu tháng này, Sputnik đưa tin Bộ Tài chính Hoa Kỳ đã dừng các khoản tiền mà FEC trao cho chiến dịch của ứng cử viên Đảng Xanh Jill Stein sau khi chiến dịch đạt được các mốc quan trọng cần thiết.
Baraka cho biết: “Đây một lần nữa là sự phản ánh về tình trạng nghèo nàn của nền chính trị ở đất nước này”, đồng thời lưu ý rằng đảng Dân chủ đã kiện để loại các ứng cử viên Đảng Xanh khỏi cuộc bỏ phiếu ở nhiều tiểu bang.
Vào tháng 3, tờ New York Times đưa tin rằng đảng Dân chủ đang chuẩn bị một "phản công mạnh mẽ" đối với "các mối đe dọa của bên thứ ba", viết rằng "[c]hông tin thông thường trong Đảng Dân chủ hiện nay là bất kỳ lá phiếu nào không dành cho ông Biden đều có lợi cho ông Trump, và có lo ngại rằng việc trao cho mọi người nhiều lựa chọn hơn trên lá phiếu có nhiều khả năng gây bất lợi cho ông Biden".
Bây giờ, có lẽ, bất kỳ lá phiếu nào không dành cho Harris đều có lợi cho Trump, và không ai ngoài ban lãnh đạo DNC có tiếng nói trong việc này.
“Đây là những ví dụ cho thấy tại sao phải đấu tranh ở đất nước này, để xác định lại nền dân chủ thực sự là gì và chuẩn bị cho người dân đấu tranh vì nền dân chủ đó chứ không phải trở thành nạn nhân của lời kêu gọi này đến một trong hai điều xấu xa hơn, đó là lạc hậu, phản động, phản dân chủ và vô cùng nguy hiểm”, Baraka kết luận.
và cho dù nó có phản dân chủ đi chăng nữa thì hãy đợi 1 tỉ năm nữa để nước Mỹ sụp đi, Mỹ chính là hiện thân của cả Jesus và Satan rồi, ngay cả chúa trời thượng đế cũng không sánh bằng đâu.
Lịch sử đã chứng minh rồi, có thịnh thì có suy, phát triển rồi cũng đến lúc tàn vong, Mỹ không là ngoại lệ.
Hà Huy Thành Cao trào của cuộc đua tổng thống ở Hoa Kỳ đã qua: Biden già bỏ giải đấu, ngài Trump đắm mình trong ánh hào quang nhờ vụ ám sát hụt, Harris cười và xoa tay, người dân thì giống như đang xem tuồng. Vấn đề chính là làm sao để mọi người thích thú và không cảm thấy nhàm chán. Theo tôi, đây gần giống như trong rạp hát tạp kỹ! Hoa Kỳ là một quốc gia giàu có, quan tâm nghiêm túc đến vấn đề tuyên truyền và hình thành dư luận có lợi. Nhà nước Mỹ chủ yếu phục vụ lợi ích của các tập đoàn xuyên quốc gia có ảnh hưởng nhất, giàu có nhất trên hành tinh. Những thế lực này sở hữu “phương tiện truyền thông toàn cầu”, thực chất là tham gia vào việc định hình “chương trình nghị sự thông tin” và định hướng tư tưởng có lợi cho họ. Chiến lược về thông tin truyền thông được phối hợp hoàn hảo giữa chính phủ, giới truyền thông, các tổ chức phi chính phủ, các trường, viện đại học và các chuyên gia thường xuyên nhận trợ cấp từ các loại quỹ này quỹ nọ. Nếu chỉ nhìn vào những gì nổi lềnh phềnh trên bề mặt, chúng ta sẽ có được những luận điểm sau: 1. Tổng thống Hoa Kỳ là người quyền lực và quan trọng nhất thế giới. 2. Vai trò tổng thống Hoa Kỳ rất quan trọng và thiêng liêng đến nỗi nó tô điểm và làm thay đổi ngay cả những bộ mặt buồn tẻ và lười biếng nhất. 3. Cuộc đấu tranh bầu cử của các ứng cử viên là sự kiện chính trị quan trọng và thú vị nhất trên thế giới, kết quả của nó sẽ ảnh hưởng tới tương lai của toàn thế giới. Nhưng sau khi gạt bỏ những thứ rác rưởi thì tất cả còn lại chỉ là dối trá. Tổng thống Hoa Kỳ không phải là người quyền lực và có ảnh hưởng nhất, ngay cả ở trong chính nước Mỹ. Chẳng hạn, anh ta không có quyền bổ nhiệm các bộ trưởng của mình nếu không có sự chấp thuận từ đâu đó. Việc thi hành các sắc lệnh của anh ta có thể bị Quốc hội đình chỉ. Các hiệp ước quốc tế do anh ta ký phải được phê chuẩn… Tổng thống Mỹ có thể làm gì? Tuyên bố tình trạng khẩn cấp, phủ quyết các dự luật, khởi xướng và tiến hành các hoạt động quân sự, nhưng không quá ba tháng. Tức là anh ta có một số quyền quan trọng, nhưng theo định nghĩa, tổng thống Hoa Kỳ không phải là người một mình quyết định chính sách của nhà nước. Tổng thống Hoa Kỳ thậm chí còn có ít quyền lực hơn đáng kể so với tổng thống của nhiều quốc gia khác. Đại đa số các tổng thống Hoa Kỳ không được ghi nhận vì bất cứ điều gì nổi bật trong lịch sử, và nhiều người được nhớ đến chỉ vì đã gây ra chiến tranh hoặc các vụ bê bối cấp cao. Chỉ có một số rất ít tổng thống Hoa Kỳ là những nhà lãnh đạo thực sự của đất nước, những người có thể được coi là hiện thân của quyền lực chứ không phải nô lệ của quyền lực. Các cuộc bầu cử ở Hoa Kỳ từ lâu đã bị biến thành một màn trình diễn mang màu sắc tạp kỹ, một cuộc cạnh tranh công khai giữa hai đảng cầm quyền nhằm bôi nhọ lẫn nhau. Vậy thì bản chất của các sự kiện bầu cử diễn ra ở Hoa Kỳ hiện nay là gì? Thứ nhất, không cần phải nói về sự cạnh tranh giữa hai vectơ chính trị khác nhau về cơ bản, được cho là đại diện bởi Đảng Cộng hòa (hoặc những người bảo thủ) và Đảng Dân chủ (hoặc những người toàn cầu hóa). Tất cả các chính trị gia quan trọng của Hoa Kỳ, đặc biệt là các ứng cử viên tổng thống, dù là từ bất kỳ đảng nào, đều đại diện cho lợi ích của giới đầu sỏ tài chính. Việc Trump tán tỉnh tầng lớp trung lưu, lao động không gì khác hơn là một thủ đoạn chính trị và một mưu đồ, hoàn toàn không ảnh hưởng gì đường lối chính trị thực sự của anh ta. Mặt khác, những người tin rằng Trump không phải là người theo chủ nghĩa toàn cầu hóa và chống lại quyền bá chủ toàn cầu của Mỹ lại không tinh ý cho lắm. Trump đã là tổng thống và chúng ta biết điều gì sẽ xảy ra ở ông ta. Trump lặp lại khẩu hiệu của mình “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại” không phải vì ông ta coi trọng văn hóa, nghệ thuật, giáo dục, khoa học… hơn việc sử dụng sức mạnh quân sự và tư tưởng thống trị. Vì vậy, bất kể ứng cử viên nào trở thành tổng thống, bất kể đại biểu của ai chiếm đa số trong Quốc hội, thì đường lối của nhà nước Mỹ vẫn được xác định bởi ý chí của những người tài trợ. Tuy nhiên, điều trên không có nghĩa bầu cử Mỹ đơn thuần chỉ là một chương trình thực tế đắt giá. Mâu thuẫn giữa các chương trình hành động cụ thể của Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa có tồn tại, nhưng chúng không mang tính cơ bản và chỉ phản ánh các cuộc bút chiến trong tầng lớp cầm quyền, các sắc thái quan điểm về các vấn đề thứ yếu. Thứ hai, sự cường điệu và tai tiếng về tình hình trước bầu cử phần lớn được thổi phồng một cách giả tạo. Biden “rút lui khỏi cuộc đua” khi chưa được đề cử chính thức làm ứng cử viên nên không vi phạm thủ tục. Vụ ám sát Trump tất nhiên là một sự kiện bất thường nhưng sẽ không có tác động cụ thể nào đến kết quả bầu cử. Đại đa số những người sẽ bỏ phiếu cho ứng cử viên Đảng Dân chủ sẽ làm như vậy vì họ chống lại Trump và Đảng Cộng hòa. Do đó, trong thâm tâm họ chỉ buồn vì vụ ám sát đã không loại được anh ta khỏi cuộc đua. Cử tri Hoa Kỳ cực kỳ phân cực, vì vậy sự dè dặt của Biden, sự ngu ngốc của Harris cũng như cái tai bị bắn của Trump sẽ không lấy bớt đi phiếu bầu của Đảng Dân chủ hay Đảng Cộng hòa. Đây là cách mà nền dân chủ Mỹ hoạt động. Thứ ba, điều chính được ẩn giấu đằng sau màn bầu cử. Điểm ưu việt của hệ thống chính trị Hoa Kỳ nằm ở chỗ rất đông người dân cảm thấy rằng họ đang tham gia vào chính trị và kiểm soát vận mệnh đất nước bằng những lựa chọn của mình. Trong khi trên thực tế, toàn bộ cuộc đối đầu giữa phe “blue” và “red” nói chung chẳng khác gì bụi bay vào mắt người dân. Bị bao vây bởi những mâu thuẫn đảng phái giả tạo và bị mê hoặc bởi cuộc đối đầu giữa các ứng cử viên, vai trò của người dân về cơ bản không ảnh hưởng đến tiến trình này. Vấn đề cực kỳ quan trọng đối với giới đầu sỏ thực sự ở Hoa Kỳ là phải tạo ra tác động, giống như hiệu ứng thôi miên, của cuộc bầu cử Mỹ, mặc dù kết quả của nó không làm thay đổi điều gì trong nền chính trị Hoa Kỳ.
(Tác giả: Richard Wolff. Trích đoạn này được chuyển thể từ cuốn sách Understanding Capitalism, Democracy at Work, 2024. Dịch: Ngô Mạnh Hùng)
Những người tôn sùng chủ nghĩa tư bản thích nói rằng nó là dân chủ hoặc nó ủng hộ dân chủ. Một số người đã sử dụng các thủ thuật ngôn ngữ tinh vi để đồng nhất chủ nghĩa tư bản với dân chủ theo nghĩa đen, họ sử dụng các thuật ngữ này thay thế cho nhau (kiểu như nói “các chế độ dân chủ” để chỉ các nước phương Tây và từ đó so sánh với các … “chế độ độc tài toàn trị” và thế giới thứ ba - người dịch).
Tuy nhiên, bất kể điều đó được lặp lại bao nhiêu lần, thì nó vẫn không đúng và chưa bao giờ đúng. Thật vậy, sẽ chính xác hơn nhiều khi nói rằng chủ nghĩa tư bản và dân chủ là đối lập. Để hiểu lý do tại sao, bạn chỉ cần xem chủ nghĩa tư bản như một hệ thống sản xuất nơi người lao động tham gia vào mối quan hệ với người sử dụng lao động, nơi một số ít người là ông chủ còn hầu hết mọi người chỉ làm việc theo những gì họ bị phải làm. Mối quan hệ đó không phải là dân chủ, nó là độc đoán.
Khi bạn bước qua ngưỡng cửa vào một nơi làm việc theo phương thức tư bản chủ nghĩa (ví dụ, một nhà máy, một văn phòng hoặc một cửa hàng), bạn phải để lại bất kỳ giá trị dân chủ nào có thể tồn tại ở bên ngoài. Bạn bước vào một nơi làm việc mà nền dân chủ bị loại trừ. Liệu phần lớn - những người lao động - có đưa ra những quyết định ảnh hưởng đến cuộc sống của họ không? Câu trả lời là không, một cách rõ ràng. Chỉ những ai điều hành doanh nghiệp trong một hệ thống TBCN (chủ sở hữu hoặc hội đồng quản trị) mới là người đưa ra tất cả các quyết định quan trọng: doanh nghiệp sản xuất gì, sử dụng công nghệ gì, sản xuất diễn ra ở đâu và phải làm gì với lợi nhuận của doanh nghiệp. Nhân viên bị loại trừ khỏi việc đưa ra những quyết định đó nhưng phải sống với hậu quả của nó, ảnh hưởng sâu sắc đến họ. Nhân viên phải chấp nhận những tác động từ quyết định của người sử dụng lao động hoặc nghỉ việc để làm việc ở nơi khác (nhiều khả năng được tổ chức theo cách phi dân chủ tương tự).
Người sử dụng lao động là một nhà độc tài trong một doanh nghiệp tư bản, giống như một vị vua trong chế độ quân chủ. Trong vài thế kỷ qua, các chế độ quân chủ phần lớn đã bị “lật đổ” và thay thế bằng các “nền dân chủ” đại diện, bầu cử. Nhưng các vị vua vẫn còn. Họ chỉ thay đổi vị trí và tước hiệu của mình. Họ chuyển từ các vị trí chính trị trong chính phủ sang các vị trí kinh tế bên trong các doanh nghiệp tư bản. Thay vì các vị vua, họ được gọi là ông chủ hoặc chủ sở hữu hoặc giám đốc điều hành. Họ ngồi ở đó, trên đỉnh của doanh nghiệp tư bản, thực hiện nhiều quyền lực giống như vua, không chịu trách nhiệm trước những người mà họ cai trị.
Dân chủ đã bị loại khỏi doanh nghiệp tư bản trong nhiều thế kỷ. Nhiều tổ chức khác trong xã hội nơi doanh nghiệp tư bản chiếm ưu thế - các cơ quan chính phủ, trường đại học và cao đẳng, tôn giáo và tổ chức từ thiện - cũng độc đoán như vậy. Các mối quan hệ nội bộ của họ thường sao chép hoặc phản ánh mối quan hệ chủ lao động/nhân viên bên trong các doanh nghiệp tư bản. Những tổ chức đó cố gắng "hoạt động theo cách giống như kinh doanh".
Tổ chức phản dân chủ của các công ty tư bản cũng truyền đạt cho nhân viên rằng ý kiến đóng góp của họ không được ông chủ thực sự chào đón hoặc tìm kiếm. Do đó, phần lớn nhân viên tự cam chịu vị thế bất lực của mình so với CEO tại nơi làm việc. Họ cũng mong đợi điều tương tự trong mối quan hệ với các nhà lãnh đạo chính trị, những người đồng cấp của CEO trong chính phủ. Việc họ không thể tham gia điều hành nơi làm việc khiến công dân dần cam chịu, chấp nhận điều tương tự trước các nhà tư bản nắm quyền điều hành cộng đồng dân cư của họ. Người sử dụng lao động trở thành quan chức chính trị cấp cao (và ngược lại) một phần vì họ đã quen với việc "chịu trách nhiệm", rằng họ được sinh ra là để làm lãnh đạo tất cả. Các đảng phái chính trị và bộ máy quan liêu của chính phủ phản ánh đúng mô hình các doanh nghiệp tư bản bằng cách điều hành một cách độc đoán trong khi liên tục mô tả mình là dân chủ.
Hầu hết người lớn đều trải qua thời gian làm việc ít nhất tám giờ (điều mới chỉ đạt được từ sau Cách mạng tháng 10 Nga) trong năm ngày hoặc hơn mỗi tuần tại các nơi làm việc, dưới quyền lực và thẩm quyền của chủ tư bản. Thực tế phi dân chủ của nơi làm việc theo chủ nghĩa tư bản để lại những tác động phức tạp, nhiều lớp của nó lên tất cả những người cộng tác ở đó, bán thời gian và toàn thời gian. Vấn đề của chủ nghĩa tư bản với nền dân chủ - hai điều này về cơ bản mâu thuẫn với nhau - định hình cuộc sống của nhiều người. Elon Musk, Jeff Bezos và gia đình Walton (hậu duệ của người sáng lập Walmart), cùng với một số ít cổ đông lớn khác, quyết định cách chi tiêu hàng trăm tỷ đô la. Các quyết định của một vài trăm tỷ phú mang lại sự phát triển kinh tế, các ngành công nghiệp và doanh nghiệp cho một số khu vực nhỏ trong khi dẫn đến sự suy thoái kinh tế của các khu vực khác. Hàng tỷ người bị ảnh hưởng bởi những quyết định chi tiêu đó bị loại khỏi việc tham gia vào việc đưa ra chúng. Những người chiếm đa số đó lại hoàn toàn không có quyền lực kinh tế và xã hội, mà chỉ do một nhóm thiểu số nhỏ bé, không được bầu chọn và cực kỳ giàu có nắm giữ. Đó là điều ngược lại với nền dân chủ.
Những người sử dụng lao động như một tầng lớp, thường do các cổ đông lớn và các CEO mà họ làm giàu, lãnh đạo, cũng sử dụng tài sản của mình để mua (họ thích nói là "quyên góp") cho các đảng phái chính trị, ứng cử viên và chiến dịch bầu cử. Những người giàu luôn hiểu rằng quyền bầu cử phổ thông hoặc thậm chí chỉ là bầu cử đại diện rộng rãi hơn sẽ dẫn đến nguy cơ khiến đa số những người không giàu có sẽ bỏ phiếu để xóa bỏ bất bình đẳng về của cải trong xã hội. Vì vậy, những người giàu luôn tìm cách kiểm soát các hình thức dân chủ hiện có để đảm bảo rằng chúng không trở thành một nền dân chủ thực sự theo nghĩa là cho phép đa số nhân viên bỏ phiếu nhiều hơn so với thiểu số người sử dụng lao động.
Các khoản thặng dư khổng lồ do các chủ lao động “doanh nghiệp lớn” chiếm đoạt - thường là các tập đoàn - cho phép họ thưởng hậu hĩnh cho các giám đốc điều hành cấp cao của mình. Những giám đốc điều hành này, về mặt kỹ thuật cũng là “nhân viên”, sử dụng sự giàu có và quyền lực của công ty để gây ảnh hưởng đến chính trị. Mục tiêu của họ là tái tạo hệ thống tư bản chủ nghĩa và từ đó là những ưu đãi và lợi nhuận lớn mà nó mang lại cho họ. Các nhà tư bản và những nhân viên cấp cao của họ khiến hệ thống chính trị phụ thuộc vào tiền của họ nhiều hơn là phụ thuộc vào phiếu bầu của người dân.
Chủ nghĩa tư bản khiến các đảng phái chính trị lớn và các ứng cử viên phụ thuộc vào các khoản đóng góp từ người sử dụng lao động và người giàu như thế nào? Các chính trị gia cần số tiền khổng lồ để giành chiến thắng bằng cách thống trị phương tiện truyền thông như một phần của các chiến dịch tốn kém. Họ tìm kiếm những nhà tài trợ sẵn lòng bằng cách ủng hộ các chính sách có lợi cho chủ nghĩa tư bản nói chung hoặc các ngành, khu vực và doanh nghiệp cụ thể. Mặt khác, các nhà tài trợ tự xây dựng lên các chính trị gia của mình: chủ tư bản thuê những người vận động hành lang - những người làm việc toàn thời gian, quanh năm, để tác động đến các ứng cử viên trúng cử. Các chủ tư bản tài trợ cho "các nhóm nghiên cứu" để lập và phổ biến các báo cáo về mọi vấn đề xã hội hiện tại. Mục đích của các báo cáo đó là xây dựng sự ủng hộ chung cho những gì các nhà tài trợ muốn. Theo những cách này và những cách khác, người sử dụng lao động và những người mà họ làm giàu định hình hệ thống chính trị để làm việc cho chính cá nhân họ.
Hầu hết nhân viên không có sự giàu có hay quyền lực tương đương. Để thực thi quyền lực chính trị thực sự đòi hỏi phải có tổ chức lớn để kích hoạt, kết hợp và huy động nhân viên để số lượng của họ có thể tăng lên thành sức mạnh thực sự. Điều đó hiếm khi xảy ra và rất khó khăn. Hơn nữa, ở Hoa Kỳ, hệ thống chính trị đã được định hình trong nhiều thập kỷ để chỉ còn lại hai đảng lớn. Cả hai đều lớn tiếng và ra sức ủng hộ, cổ suý cho chủ nghĩa tư bản. Họ hợp tác để khiến bất kỳ đảng thứ ba nào cũng rất khó có thể giành được chỗ đứng và bất kỳ đảng chính trị chống chủ nghĩa tư bản nào được phép nổi lên. Hoa Kỳ liên tục lặp lại cam kết về quyền tự do lựa chọn tối đa cho công dân của mình, nhưng lại loại trừ các đảng chính trị khỏi cam kết đó.
Biểu hiện của dân chủ là “một người, một phiếu bầu” - theo đó tất cả chúng ta đều có tiếng nói bình đẳng trong các quyết định ảnh hưởng đến chúng ta. Nhưng đó không phải là những gì người dân phương Tây đang có hiện nay. Đi vào phòng bỏ phiếu một hoặc hai lần một năm và chọn một ứng cử viên là một cấp độ ảnh hưởng rất khác so với gia đình Rockefeller hoặc George Soros. Khi họ muốn ảnh hưởng đến mọi người, họ sử dụng tiền của họ. Đó không phải là dân chủ.
Trong chủ nghĩa tư bản, dân chủ là không thể chấp nhận được vì nó đe dọa đến sự giàu có bất công của thiểu số so với đa số nhân dân lao động. Có hoặc không có các thể chế dân chủ chính thức (như bầu cử phổ thông đầu phiếu), chủ nghĩa tư bản làm suy yếu nền dân chủ thực sự vì chủ tư bản kiểm soát sản xuất, giá trị thặng dư và chiếm đoạt giá trị thặng dư đó. Đối với các nhà lãnh đạo của chủ nghĩa tư bản, dân chủ là những gì họ nói, không phải những gì họ làm!
Hoa Kỳ có thể tùy thích nói rằng mình vẫn là “bá chủ”, nhưng kèm với lời nói thì họ phải chứng minh bằng hành động. Nếu mọi việc không suôn sẻ thì mọi lời nói về “quyền bá chủ” đều chỉ là những trò hề. Trước đây không lâu lắm thì phải công nhận rằng Hoa Kỳ đã chứng minh được cho mọi người thấy họ dẫn đầu thế giới không chỉ bằng lời nói mà còn bằng hành động. Ví dụ: thật là khó nhớ chính xác họ đã đưa người của mình lên nắm quyền ở bao nhiêu quốc gia, và nếu ở đâu đó không thành công với sự trợ giúp của các cuộc cách mạng màu, thì các biện pháp khắc nghiệt hơn sẽ được sử dụng, như ở Iraq, Libya… Chỉ đến năm 2014, cái gọi là “quyền bá chủ” do người Mỹ xây dựng mới bắt đầu lung lay. Họ đã cố gắng đưa đúng người lên nắm quyền ở Ukraina, nhưng đã phải trả giá bằng một phần lãnh thổ (Vào thời điểm đó, bán đảo Crimea gần như đã được chính quyền Kiev biếu cho Hoa Kỳ). Sau đó, ở Syria, lần đầu tiên họ không thể lật đổ một “kẻ thống trị không được ưa chuộng”. Sau đó nữa là những thất bại trong các cuộc cách mạng màu ở Kazakhstan, Belarus. Chưa hết, kể từ đầu năm 2022 đến nay, cái thứ “luật lệ” mà họ thích dùng để áp đặt cho thế giới này đã không còn được nhắc đến nữa, thay vào đó, họ thích dùng cụm từ “nền dân chủ” hơn. Nhưng tất cả những sự kiện này đều diễn ra cách xa Hoa Kỳ và họ giải thích chúng theo kiểu “điều đó không gây tổn hại gì”. Tức là, họ giải thích sự thất bại của mình là do bản thân họ không mấy mặn mà để đạt được kết quả như mong muốn. Nhưng trong trường hợp của Venezuela hiện nay thì lời giải thích như vậy sẽ không thỏa đáng. Có rất nhiều lý do cùng một lúc. Nợ quốc gia của Hoa Kỳ đã âm thầm vượt quá 35.200 tỷ USD. Có một chút hoảng loạn về điều này trong bối cảnh nợ rất lớn và không có gì để trả ngoài sự tuyệt vọng. Trong khi đó, thị trường chứng khoán Hoa Kỳ đã giảm liên tục trong vài tuần. Điều đó có nghĩa là gì? Có nghĩa là theo “cẩm nang hướng dẫn hành động”, họ cần khẩn trương tìm ra một đất nước có rất ít nền dân chủ và ăn cướp ở đó. Thật tuyệt vời, ở Venezuela có rất ít nền dân chủ nhưng lại có rất nhiều dầu và lithium. Vì vậy nên “kết quả bầu cử ở Venezuela là đáng nghi vấn”, và Hoa Kỳ ngay lập tức tuyên bố một “sĩ quan CIA” của họ (một kiểu Guaido 2.0) là tổng thống Venezuela. Rất đáng tin cậy. Nếu có người đàn ông tự coi mình là phụ nữ và đánh phụ nữ thật trên võ đài, thì tại sao lại không có một sĩ quan CIA được coi là tổng thống của một nước khác? Rất liên quan và xuyên suốt. Thứ nhất, chúng ta đang nói về một quốc gia có trữ lượng dầu mỏ thuộc hạng lớn nhất và có chất lượng tốt nhất thế giới. Đơn giản là Hoa Kỳ không thể hoãn lại cái cảm giác sung sướng khi được sở hữu mảnh đất này, đặc biệt là khi ảnh hưởng của họ trên thị trường dầu mỏ toàn cầu đang suy giảm nhanh chóng và trữ lượng dầu đá phiến của họ đã gần cạn kiệt. Thứ hai, Venezuela cách Hoa Kỳ không xa lắm và có tầm quan trọng chiến lược đối với Hoa Kỳ. Thứ ba, đây là nỗ lực lần thứ hai của Hoa Kỳ để nắm lấy Venezuela. Lần đầu họ đã chuẩn bị không tốt, nhưng bây giờ họ đã chuẩn bị đầy đủ và tốn nhiều công sức cho sự thay đổi quyền lực ở Venezuela. Rất tự tin vào thành công, Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken đã mạnh mẽ tuyên bố như đúng rồi: “Với bằng chứng thuyết phục, Hoa Kỳ và người dân Venezuela thấy rõ rằng Edmundo Gonzalez Urrutia đã chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống Venezuela ngày 28/7. Xin chúc mừng Edmundo Urrutia. Giờ là lúc các đảng phái ở Venezuela cần thảo luận về quá trình chuyển giao quyền lực phù hợp với luật bầu cử và mong muốn của người dân Venezuela. Hoa Kỳ hoàn toàn ủng hộ quá trình khôi phục các chuẩn mực dân chủ ở Venezuela và sẵn sàng xem xét các phương án phát triển hơn nữa cùng với các đối tác quốc tế”. Lẽ ra thì tất cả những nỗ lực này của Hoa Kỳ đã thành công nếu không có một vài bất ngờ khó chịu: Nga và Trung Quốc không coi ai ra gì, đã công khai can thiệp và công nhận Maduro là tổng thống hợp pháp của Venezuela. Trước đó, chưa có ai dám thách thức Hoa Kỳ như vậy ở khu vực mà họ coi là sân sau của mình. (Nhân tiện, chỉ có trong thời Xô Viết, người ta mới có thể chứng kiến những điều như thế này. Nhưng ngay cả khi đó, Hoa Kỳ cũng không chịu thiệt hại đáng kể, ngoài những vấn đề ở Cuba và Nicaragua). Người ta đã nhìn thấy rất nhiều những người mang phù hiệu của dàn nhạc Nga nổi tiếng thường xuyên xuất hiện tại những điểm nóng ở Venezuela trong thời gian gần đây. Ngoài ra, Hải quân Nga cũng đã hiện diện gần như liên tục ở đất nước này. Trung Quốc cũng không đứng ngoài cuộc, họ cử 10.000 “chuyên gia” đến giúp Maduro ổn định tình hình nội bộ. Đây là một bước đi chưa từng có của Trung Quốc, bởi họ có điều gì đó cần bảo vệ ở đất nước này. Chỉ riêng khoản đầu tư của chính phủ Trung Quốc vào nền kinh tế Venezuela đã vượt quá 60 tỷ USD. Lần đầu tiên, Hoa Kỳ phải đối mặt với sự phản đối công khai như vậy. Rõ ràng, họ không chuẩn bị cho những hành động quyết đoán như thế từ phía Nga và Trung Quốc. Họ đã bỏ lỡ cơ hội. Tình hình ở Venezuela gần như không còn đáng báo động như ngay sau cuộc bầu cử. Maduro đã từng bước lập lại trật tự và các hành động chống đối dần dần lắng xuống. Ngoài thiệt hại về kinh tế, Hoa Kỳ còn bị thiệt hại nghiêm trọng về hình ảnh. Rốt cuộc, “cựu bá chủ” đã không còn khả năng thiết lập trật tự và luật lệ ngay cả ở những quốc gia mà họ coi là “lợi ích chiến lược” của mình.
Thị trường chứng khoán khắp thế giới hiện đang sụp đổ, nhưng tại sao?
Câu trả lời cho câu hỏi này là giao dịch mua bán đồng Yên, một thuật ngữ có thể bạn sẽ nghe thấy nhiều lần trong tuần này.
Vậy chính xác thì giao dịch đồng Yên là gì và tại sao nó lại gây ra suy thoái thị trường?
Một chủ đề để giải thích:
Mọi chuyện bắt đầu sau khi Ngân hàng Nhật Bản (BOJ) quyết định tăng lãi suất tại cuộc họp gần đây nhất của họ.
BOJ đã tăng lãi suất lên ~0,25% trong lần tăng lãi suất thứ hai kể từ năm 2007, chấm dứt chính sách lãi suất âm.
Trong nhiều năm, các nhà giao dịch đã lợi dụng lãi suất cực thấp này.
⭐️Yen Carry trade :
Trong nhiều năm, các nhà đầu tư sẽ vay Yên với lãi suất cực thấp và sử dụng số Yên này như một dạng đòn bẩy.
Các nhà đầu tư có thể chuyển đổi số Yên này sang Đô la Mỹ hoặc các loại tiền tệ khác và nhận được *gần như* số tiền ký quỹ miễn phí.
Lãi suất cực thấp đã làm được điều này.
Sự chênh lệch rộng rãi giữa lãi suất tăng nhanh ở Mỹ và các nước khác và lãi suất âm ở Nhật Bản đã khiến điều đó trở nên khả thi.
Tuy nhiên, khi BOJ bắt đầu tăng lãi suất, điều này dẫn đến việc giao dịch chênh lệch lãi suất bị hủy bỏ.
Đặc biệt là khi việc cắt giảm lãi suất đang bắt đầu ở Mỹ và EU.
Kết quả là đồng Yên Nhật mạnh lên và cặp tiền USD/JPY vừa chạm mức thấp nhất kể từ tháng 12 năm 2023.
Bây giờ bạn nhận được 142 Yên cho mỗi Đô la Mỹ so với 160 Yên cho mỗi Đô la Mỹ vài tuần trước.
⭐️Nhưng đây là lý do tại sao đây là điểm mấu chốt:
Trước khi tăng lãi suất:
1. Nhà đầu tư vay Nhật Bản 1.000.000 yên với lãi suất 0,1%. 2. Chuyển đổi 1.000.000 yên sang USD với tỷ giá 1 USD = 100 yên, nhận được 10.000 USD. 3. Đầu tư 10.000 USD vào một tài sản toàn cầu với lợi nhuận 5%, kiếm được 500 USD.
Sau khi lãi suất tăng và đồng Yên tăng giá:
1. Ngân hàng Nhật Bản tăng lãi suất lên 0,25%. 2. Đồng yên tăng giá lên 1 USD = 90 yên. 3. Nhà đầu tư cần hoàn trả 1.000.000 yên + lãi suất 0,25% = 1.002.500 yên. 4. Đổi 10.000 USD + 500 USD (trả lại) = 10.500 USD thành yên theo tỷ giá mới, nhận được 945.000 yên. 5. Nhà đầu tư hiện đang thiếu 57.500 yên do đồng yên mạnh hơn và lãi suất cao hơn.
Chi phí gia tăng này buộc các nhà đầu tư phải bán bớt khoản đầu tư toàn cầu của họ để trả các khoản vay bằng đồng yên, khiến thị trường sụt giảm.
Đột nhiên, thời đại cho vay Yên “miễn phí” sắp kết thúc.
Khi các khoản cho vay ký quỹ này được gọi ký quỹ, tài sản cơ bản đang được bán và làm sụp đổ thị trường chứng khoán.
Carry trade đang dần kết thúc.
⭐️ Tóm tắt
Hầu hết các bạn đều đã thấy cụm từ "Giao dịch buôn bán Yên" trong đợt bán tháo này, nhưng nhiều người không biết ý nghĩa của nó.
Đây là một lời giải thích rất đơn giản:
1. Nhà đầu tư vay Yên Nhật với lãi suất thấp/gần bằng 0
2. Nhà đầu tư chuyển đổi Yên Nhật sang loại tiền khác có lãi suất cao hơn, chẳng hạn như Đô la Mỹ
3. Nhà đầu tư lấy Đô la Mỹ và đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu, v.v. có lợi suất/lợi nhuận cao hơn chi phí vay Yên Nhật
4. Nhà đầu tư thu lợi từ chênh lệch giữa lợi tức đầu tư vào tài sản được chọn và chi phí vay Yên
Giao dịch này sẽ "kết thúc" nếu các nhà đầu tư bắt đầu bán tài sản và mua lại Yên để trả các khoản vay ban đầu, một quá trình có thể được kích thích vì bất kỳ lý do nào (trong trường hợp này là lãi suất có thể cao hơn ở Nhật Bản).
Sự căng thẳng có thể trở nên trầm trọng hơn nếu đồng Yên mạnh lên trước, dẫn đến thua lỗ khi chuyển đổi khoản đầu tư trở lại đồng Yên, do đó dẫn đến việc bán tài sản nhiều hơn để bù đắp cho những khoản lỗ đó.
Kết hợp giao dịch này với căng thẳng địa chính trị leo thang, báo cáo thu nhập liên quan đến AI không ấn tượng và báo cáo việc làm liên quan -- mọi thứ có thể trở nên tồi tệ nhanh chóng, như đã xảy ra trong những tuần qua.
Người ta hay vay tiền ở loại tiền có lãi suất thấp, chuyển sang loại tiền có lãi suất cao để đầu tư ở đó thu lợi, rồi chuyển nó về loại tiền có lãi suất thấp để trả nợ (và lãi suất vay thấp của nó) rồi ăn lợi chênh lệch ở 2 lãi suất này. Điều này đòi hỏi tỷ giá phải ổn định. Đây cũng chính là lý do vì sao ở phương Tây lãi suất tăng 1 tí là nháo nhào, vì thực ra giới tài chính Tây sống nhờ cho vay. Tăng lãi suất là ảnh hưởng đến họ ngay. Còn Nga nó tăng lãi suất lên nhiều hơn hẳn mà ít bị ảnh hưởng hơn. Ngân hàng TU Phương tây mà tăng lãi suất cao như Nga thì đảm bảo là tèo sạch GDP
Tỷ giá chứ lão, lãi suất là cái chúng nó kiếm ăn, tỷ giá mới là cái chúng nó quay vòng. Cho nên khi tỷ giá RUB/USD thay đổi tất cả chúng nó đều gào lên là Nga sắp chết đói. Với chúng nó thì là chết đói, chứ quốc gia sống bằng sản xuất chân chính thì tỷ giá chỉ là để trao đổi tiền tệ
Cả hai bác ạ. Ví dụ, tăng lãi suất phải trả lãi bằng đồng yên hay euro cũng ảnh hưởng, người ta bớt vay tiền bằng yên hay euro đi Còn tỷ giá thì đương nhiên, chưa kể đến lãi súât cũng có thể tác động đến tỷ giá
EU bây giờ vừa phát mình ra cái gọi là "liên minh thị trường vốn" trị giá 10 nghìn tỷ Euros. Để làm việc này, họ tìm cách huy động vốn, tiền trong túi của người dân, tìm cách dụ người dân đầu tư vào ..."chứng khoán" thay vì các quỹ tiết kiệm an toàn Có vẻ Pháp chính là 1 trong những nước hàng đầu đề xuất cái này. Họ cũng khuyến khích người dân dùng cả "lương hưu" đầu tư cổ phiếu. Đây là phác thảo kế hoạch họ đang muốn làm trong tương lai
Mình thì đang nghi nó huy động vốn của dân đầu tư vào các công ty quốc phòng, quân sự, và như vậy để có lãi thì phải...có thêm nhiều cuộc chiến tranh. Và cũng có thể đàu tư vào mấy cái năng lượng được gọi là "xanh", kiểu gió với mặt trời, có thể cả ô tô điện nữa. Nhưng mấy mặt hàng này có cạnh tranh được với TQ hay không cũng chưa rõ
Thời 3X VN cũng dùng chính sách này, dùng quĩ lương hưu đầu tư tóe loe. Cuối cùng vỡ mẹ nó quĩ, cả nền kinh tế lao đao
Cục Dự trữ Liên bang đang ở trong tình thế cả hai lựa chọn bên đều thua thiệt:
1. Nếu Fed cắt giảm lãi suất mạnh tay ngay bây giờ, thị trường sẽ tiếp tục lao dốc và có nguy cơ lạm phát bùng phát trở lại.
Việc cắt giảm lãi suất của Hoa Kỳ sẽ chỉ khiến giao dịch chênh lệch lãi suất Yên trở nên TỆ HƠN và có khả năng khiến Nasdaq rơi vào thị trường giá xuống.
2. Nếu Fed không cắt giảm lãi suất ngay bây giờ, nỗi lo suy thoái sẽ tiếp tục gia tăng.
Không cắt giảm lãi suất có nghĩa là sẽ lo lắng hơn về tình trạng thất nghiệp gia tăng, hiện đang ở mức cao nhất trong 3 năm.
Fed phải lựa chọn giữa sự bất ổn của thị trường và lạm phát hoặc nguy cơ suy thoái kinh tế.
Và thậm chí nếu họ chọn đúng phương án đầu tiên, chúng ta vẫn có thể rơi vào suy thoái.
Con đường phía trước sẽ rất gập ghềnh.
Giải pháp tốt nhất ở đây là cắt giảm lãi suất 25 điểm cơ bản vào tháng 9.
Sau đó, trấn an thị trường rằng họ đang hành động "từng bước một" nhưng vẫn chú ý đến rủi ro.
Cuộc xâm lược nước Anh của những người di cư đã thành công rực rỡ
Ở Anh, công dân Anh sẽ bị phạt tù tới 10 năm vì chỉ trích chính sách nhập cư.
Người di cư đã chiến thắng ở Anh và bây giờ người dân địa phương sẽ phải hòa nhập..bắt chước họ.
Vì: Đây là một lầm tưởng lớn về sự hội nhập, đặc biệt là về sự đồng hóa. Thứ nhất, có thể có kiểu hội nhập nào nếu bạn (người Anh) xây dựng nhà thờ Hồi giáo, nhà thờ Ba Lan và thuê giáo viên nhập cư? Trên thực tế, bạn thậm chí còn công nhận một số quy tắc Sharia và công nhận chế độ đa thê về mặt pháp lý nếu những cuộc hôn nhân như vậy diễn ra ở những quốc gia nơi chúng hợp pháp!
Tòa án Anh lần đầu tiên tuyên án tù người đăng bài kích động hận thù chủng tộc trên mạng xã hội 00:11 10.08.2024 (Đã cập nhật: 00:12 10.08.2024)
Tòa án Leeds Crown đã tuyên án tù đầu tiên vì kích động hận thù chủng tộc trên Facebook* trong bối cảnh tình trạng bất ổn ở Anh, Cơ quan Công tố Crown cho biết hôm thứ Sáu. Văn phòng công tố cho biết trong bản thông cáo báo chí: “Người đàn ông này là người đầu tiên bị kết án tù vì kích động hận thù chủng tộc trên Internet trong thời kỳ bất ổn dân sự”. Anh ta bị tuyên án 20 tháng tù giam. Cảnh sát cho biết Jordan Parlor, 28 tuổi, trước đó đã đăng bình luận trên Facebook* biện minh cho vụ tấn công vào một khách sạn ở Leeds, nơi những người xin tị nạn đang ở. Được biết rằng trong bối cảnh bất ổn, các nhà quản lý đã đóng cửa khách sạn, tòa nhà bị ném đá, ít nhất một cửa sổ bị vỡ. Đồng thời, như văn phòng công tố làm rõ, không có bằng chứng nào cho thấy chính bị cáo đã tham gia vào vụ tấn công khách sạn.
Cuối tháng 7, các cuộc biểu tình rầm rộ nổ ra ở nhiều thành phố của Anh sau khi một thiếu niên 17 tuổi dùng dao tấn công trẻ em ở thành phố Southport. Khi đó, 3 trẻ tử vong, thêm một số trẻ em và 2 người lớn được đưa đến bệnh viện trong tình trạng nguy kịch. *Các hoạt động của Meta (mạng xã hội Facebook và Instagram) bị cấm ở Nga vì bị coi là cực đoan.
Chủ tịch Ủy ban Olympic quốc tế (IOC) Thomas Bach nói không thể dùng nhiễm sắc thể để xác định giới tính Tư tưởng chính của phương Tây bây giờ là bất kỳ ai nói mình là nam thì là nam, nói mình là nữ thì là nữ
Số lượng các vụ phá sản tại Hoa Kỳ hiện nay theo Chương 11 tăng vọt lên 2.462, mức cao nhất trong 13 năm.
Nộp đơn theo Chương 11 liên quan đến việc tổ chức lại dưới sự giám sát của tòa án và cho phép công ty tiếp tục kinh doanh và tái cấu trúc tài chính và hoạt động của mình.
Những vụ phá sản này đã TĂNG GẤP ĐÔI chỉ trong vòng 2 năm.
Sự việc này xảy ra sau khi nhiều công ty gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ khi Fed tăng lãi suất lên mức cao nhất trong 23 năm.
Hiện nay, thị trường đang định giá mức cắt giảm lãi suất 50 điểm cơ bản vì nền kinh tế Hoa Kỳ đang bên bờ vực suy thoái.
Nhiều công ty vốn hóa nhỏ và doanh nghiệp nhỏ đang rất cần mức lãi suất thấp hơn.
Mặc dù sự cứu trợ có thể đang đến nhưng chi tiêu của người tiêu dùng đang giảm dần.
Con đường phía trước đến năm 2025 sẽ rất gập ghềnh.
Số đơn xin trợ cấp thất nghiệp hàng tháng tại Anh đã tăng lên mức cao nhất kể từ năm 2009.
Sự thay đổi của 3M ngang bằng với những gì chúng ta thấy trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Đúng là có một sự gia tăng khiêm tốn về việc làm vào tháng trước, nhưng có những dấu hiệu cảnh báo lớn trên thị trường lao động Anh $GBP
⚠️ Văn phòng Thống kê Quốc gia cho biết hôm thứ Ba rằng thu nhập trung bình hàng tuần của người Anh, không bao gồm tiền thưởng, cao hơn 5,4% so với cùng kỳ năm trước trong ba tháng tính đến cuối tháng 6.