Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân gia đình được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 24/4/2024 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2024.
Theo đó, khoản 3 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về việc chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi được Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn như sau:
- “Đang có thai” quy định tại khoản 3 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 là khoảng thời gian vợ mang trong mình bào thai và được cơ sở y tế có thẩm quyền xác định cho đến thời điểm sinh con hoặc thời điểm đình chỉ thai nghén.
- “Sinh con” quy định tại khoản 3 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 là thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Vợ đã sinh con nhưng không nuôi con trong khoảng thời gian từ khi sinh con đến khi con dưới 12 tháng tuổi;
+ Vợ đã sinh con nhưng con chết trong khoảng thời gian dưới 12 tháng tuổi kể từ khi sinh con;
+ Vợ có thai từ 22 tuần tuổi trở lên mà phải đình chỉ thai nghén.
- Chồng không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn trong khoảng thời gian dưới 12 tháng tính từ ngày vợ sinh con hướng dẫn tại điểm a, điểm b khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP hoặc ngày đình chỉ thai nghén hướng dẫn tại điểm c khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP.
- Trường hợp vợ đang có thai, sinh con thì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn mà không phân biệt vợ có thai, sinh con với ai.
- Trường hợp vợ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn mà không phân biệt con đẻ, con nuôi.
- Trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thì việc xác định quyền yêu cầu giải quyết ly hôn của chồng như sau:
+ Chồng của người mang thai hộ không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi;
+ Chồng của người nhờ mang thai hộ không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi vợ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi hoặc khi người mang thai hộ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Theo quy định được hướng dẫn ở trên thì có thể thấy đáng chú ý là trường hợp vợ đang có thai, sinh con thì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn mà không phân biệt vợ có thai, sinh con với ai.
Tuy nhiên, quy định này không phải là quy định mới, mặc dù Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP sẽ có hiệu lực từ ngày 01/7/2024.
Sau đây là các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình đã có quy định về vấn đề nói trên:
- Luật Hôn nhân và gia đình 1959 (hết hiệu lực) quy định tại Điều 27:
“Trong trường hợp người vợ có thai, chồng chỉ có thể xin ly hôn sau khi vợ đã sinh đẻ được một năm. Điều hạn chế này không áp dụng đối với việc xin ly hôn của người vợ.”
- Luật Hôn nhân và gia đình 1986 (hết hiệu lực) quy định tại Điều 41:
“Trong trường hợp vợ có thai, chồng chỉ có thể xin ly hôn sau khi vợ đã sinh con được một năm. Điều hạn chế này không áp dụng đối với việc xin ly hôn của người vợ.”
- Luật Hôn nhân và gia đình 2000 (hết hiệu lực) quy định tại khoản 2 Điều 85:
“Trong trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn.”
- Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP (còn hiệu lực) hướng dẫn Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình 2000 (hết hiệu lực) như sau:
“6. Quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn (Điều 85)
Theo quy định tại Điều 85 thì vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn. Tuy nhiên, người chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn khi vợ đang có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Luật chỉ quy định "vợ đang có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi"; do đó, khi người vợ đang thuộc một trong các trường hợp này (không phân biệt người vợ có thai với ai hoặc bố của đứa trẻ dưới 12 tháng tuổi là ai), mà người chồng có yêu cầu xin ly hôn, thì giải quyết như sau:
a. Trong trường hợp chưa thụ lý vụ án thì Toà án áp dụng điểm 1 Điều 36 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự trả lại đơn kiện cho người nộp đơn.
b. Trong trường hợp đã thụ lý vụ án thì Toà án cần giải thích cho người nộp đơn biết là họ chưa có quyền yêu cầu xin ly hôn. Nếu người nộp đơn rút đơn yêu cầu xin ly hôn thì Toà án áp dụng điểm 2 Điều 46 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án. Nếu người nộp đơn không rút đơn yêu cầu xin ly hôn thì Toà án tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung và quyết định bác yêu cầu xin ly hôn của họ.”
- Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định tại khoản 3 Điều 51:
“Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.”
Như vậy, có thể thấy thì tại Luật Hôn nhân và gia đình qua các thời kỳ đều có không có quy định về việc phân biệt vợ đang mang thai con của ai (tức không phân biệt cha của đứa bé là ai) và nội dung này được thể hiện một cách rõ ràng tại Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP.
Do đó, các quy định được hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP không phải là quy định mới và việc có hiệu lực từ ngày 01/7/2024 là ngày có hiệu lực của văn bản, chứ không phải là từ ngày 01/7/2024 thì chồng không được ly hôn khi vợ đang có thai, sinh con mà không phân biệt vợ có thai, sinh con với ai còn trước đó thì được.
Hôn nhân là gì?
Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn. Đây là một khái niệm đã được quy định rõ ràng tại khoản 1 Điều 3 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
Nguyên tắc của hôn nhân theo quy định pháp luật
Sau khi đã tìm hiểu khái niệm hôn nhân là gì? Tiếp theo, hãy cùng tìm hiểu về các nguyên tắc của hôn nhân theo quy định của pháp luật hiện hành nhé!
2.1 Hôn nhân một vợ một chồng
Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản được pháp luật đặc biệt nhấn mạnh. Theo đó, hôn nhân một vợ một chồng là sự kết hợp giữa chỉ một người nam và một người nữ trong suốt thời kỳ hôn nhân.
Bên cạnh đó, nguyên tắc hôn nhân này cũng được ghi nhận trong Hiến pháp, cụ thể ở khoản 1 điều 36 Hiến pháp năm 2013. Như vậy, nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng bắt buộc với cả hai bên nam và nữ tham gia mối quan hệ hôn nhân.
Vậy tại sao phải pháp luật quy định hôn nhân phải một vợ, một chồng?
Thứ nhất, nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng là nguyên tắc cơ bản có ý nghĩa quan trọng, được xây dựng trên nền tảng hôn nhân tự nguyện của 2 bên tham gia, thể hiện quan điểm tư tưởng tiến bộ, theo xu thế chung của toàn xã hội trong việc xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình hạnh phúc bền vững.
Thứ hai, nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng nhằm xóa bỏ hoàn toàn chế độ đa thê trong thời kỳ phong kiến trước đây. Nguyên tắc này đã xóa bỏ được những phong tục cổ hủ lạc hậu đã ăn sâu vào suy nghĩ của nhiều người dân như con trai được lấy nhiều vợ, nhưng con gái chỉ có thể lấy được một chồng.
Thứ ba, nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng là cơ sở để duy trì tình yêu trong gia đình thêm hạnh phúc, bền vững và có trách nhiệm với nhau hơn.
Thứ tư, nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng góp phần vào việc xóa bỏ các tệ nạn xã hội hiện nay như ngoại tình, mại dâm, đảm bảo cho việc giữ vững trật tự an ninh, xã hội. Việc đảm bảo tuân thủ nguyên tắc này đem lại một cuộc sống lành mạnh trong đời sống gia đình và xã hội.
Thứ năm, nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp về thân nhân và các tài sản chung liên quan đến lợi ích chính đáng của hai bên tham gia mối quan hệ hôn nhân. Ngoài ra, nguyên tắc này cũng là cơ sở pháp lý để xem xét xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong hôn nhân.
Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng đảm bảo sự công bằng, bình đẳng giữa vợ và chồng, bảo vệ quyền lợi và lợi ích chính đáng của cả vợ và chồng, góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc vững bền và phát triển xã hội tốt hơn.
Vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng là hành vi trái pháp luật, quy định rõ tại điểm c khoản 2 điều 5 trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Người đang có vợ, có chồng cấm kết hôn với người khác
- Người đang có vợ, có chồng cấm chung sống như vợ chồng với người khác
- Người chưa có vợ, có chồng cấm kết hôn với người đang có vợ, có chồng
- Người chưa có vợ, có chồng cấm chung sống như vợ chồng với người đang có vợ, có chồng.
Quan hệ hôn nhân hoàn toàn bình đẳng
Nguyên tắc này thể hiện rõ tại Điều 17 trong Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành. Bình đẳng trong hôn nhân là cả hai vợ chồng đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong quan hệ hôn nhân giúp đảm bảo được những quyền và lợi ích hợp pháp của hai bên và duy trì mối quan hệ bình đẳng để hôn nhân hạnh phúc bền vững.
Bình đẳng trong hôn nhân là bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa vợ, chồng. Mối quan hệ đó phải dựa trên nguyên tắc dân chủ, công bằng, tôn trọng lẫn nhau, không được phân biệt đối xử trong phạm vi gia đình và xã hội được pháp luật quy định.
Bình đẳng trong hôn nhân được thể hiện trong tất cả các mối quan hệ hôn nhân như: Tài sản, thân nhân, những quyền và nghĩa vụ của công dân, chăm sóc và giáo dục con cái
Bình đẳng trong hôn nhân chính là giúp cho người phụ nữ có tiếng nói trong gia đình, cũng có quyền tham gia, bàn bạc, quyết định mọi việc trong gia đình và được người chồng chia sẻ công việc trong gia đình.
Khi bình đẳng giới trong gia đình được thực hiện, người đàn ông trong gia đình cũng bớt đi gánh nặng về kinh tế, người vợ sẽ chia sẻ gánh nặng về kinh tế với người chồng, còn người chồng thì có thêm thời gian dành cho vợ và con, giúp vợ chia sẻ công việc nhà cũng như nuôi dạy con cái.
Ngoài ra, bình đẳng trong hôn nhân trước pháp luật còn được thể hiện trong việc lựa chọn người kết hôn là người Việt Nam hay người nước ngoài, người thuộc dân tộc hay tôn giáo nào, người có tín ngưỡng hay không có tín ngưỡng. Nội dung này được ghi rõ tại khoản 2 Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Do đó, việc bình đẳng trong quan hệ hôn nhân cần phải được áp dụng ở tất cả các gia đình, mọi người cần được hiểu rõ để có thể lựa chọn đúng đắn người kết hôn với mình mà không bị bất kỳ tác động nào can thiệp đến quyết định hôn nhân.
Tuy nhiên đối với vấn đề này thì Luật sư Lê Lưu Phú, Công ty Luật TNHH Lê Phú thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội cho biết:
Hướng dẫn của Nghị quyết và quy định của luật Hôn nhân và gia đình ở phần này không mới vì nó đã được đề cập đến từ những Quy định Pháp luật về Hôn nhân và Gia đình trước đó. Nhưng lần này có vẻ xung đột và có thể sẽ gây tranh cãi trong quá trình áp dụng.
Hạn chế quyền được đơn phương ly hôn của người chồng khi người vợ mang thai với người khác là thể hiện tính nhân đạo, bảo vệ quyền lợi phụ nữ.
Tuy nhiên, quy định này có thể mâu thuẫn với quy định quyền được đơn phương ly hôn khi vợ ngoại tình và dễ phát sinh xung đột trong thời gian người chồng chờ đủ điều kiện gửi đơn ly hôn.
Theo luật sư, khi áp dụng quy định này cần mềm dẻo, linh hoạt, tùy từng trường hợp mà hạn chế quyền đơn phương ly hôn của người chồng. Khi tiếp nhận đơn đề nghị ly hôn, tòa án có thể động viên vợ chồng thuận tình ly hôn nếu như hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, kéo dài, có thể dẫn đến bạo lực gia đình, không đảm bảo an toàn cho phụ nữ và trẻ em.
Pháp luật về hôn nhân và gia đình quy định, vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, có nghĩa vụ chung thủy với nhau. Nếu trường hợp một bên không chung thủy (ngoại tình) mà đã được chính quyền địa phương, cơ quan, đoàn thể, bạn bè khuyên can hòa giải nhưng vẫn tiếp tục ngoại tình thì đây là căn cứ để cho đơn phương ly hôn.
Tuy nhiên, theo quy định của Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán, việc ngoại tình này dẫn đến người vợ mang thai với người khác thì lại vô hiệu hóa quyền được ly hôn đơn phương của người chồng.
Hạn chế quyền được đơn phương ly hôn của người chồng
Luật sư Lê Lưu Phú cho rằng, nếu một bên ngoại tình đã được bạn bè, gia đình, chính chuyển quyền địa phương hoặc cơ quan đoàn thể hòa giải nhiều lần nhưng vẫn “ngựa quen đường cũ” thì đó là tình trạng hôn nhân trầm trọng, là căn cứ cho người còn lại được quyền đề nghị đơn phương ly hôn.
“Nếu việc người vợ ngoại tình nhiều lần dẫn đến mang thai với người khác mà người chồng không được đơn phương ly hôn thì có vẻ như không bình đẳng và cuộc sống hôn nhân sẽ ngày càng trầm trọng. Họ sẽ sống trong sự bất hòa kéo dài, bạo lực gia đình có thể xảy ra…”.
Quy định của Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP, hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong việc giải quyết các vụ việc hôn nhân gia đình của Hội đồng thẩm phán dựa trên nguyên tắc nhân đạo, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, trẻ em.
Tuy nhiên, nếu người phụ nữ sinh con với người khác mà vẫn sống chung với chồng thì rất dễ xảy ra bạo lực gia đình, bạo hành đối với đứa trẻ. Trong những tình huống này, cần có sự quan tâm hỗ trợ giúp đỡ của các thành viên khác trong gia đình, của cơ quan, chính quyền địa phương.
Văn minh quá. Tiến bộ quá.
Nước ta đã trở lại chế độ mẫu hệ, tôn vợ lên hàng đầu.
Từ giờ trở đi, trong gia đình các cụ nên đi nhẹ, nói khẽ, cười duyên. Không nên để vợ bực mình, khó chịu.
Nếu "nó" chót có bầu với thằng ất ơ nào đấy thì các cụ phải nuốt cục tức, đội mũ trùm đầu che đi cái sừng mới nhú và vui vẻ nuôi con tu hú ít nhất 12 tháng. Nếu không mời cụ ra đường mà ở.
Cụ để "nó" khó chịu, nó đâm đơn thì các cụ mồ côi vợ phút mốt.
Ôi, thật là ...
Thế mới cần linh hoạt trong việc xét xử để bảo vệ quyền Ly hôn của người chồng, tránh những trường hợp đáng tiếc xẩy ra không đáng có.Văn minh quá. Tiến bộ quá.
Nước ta đã trở lại chế độ mẫu hệ, tôn vợ lên hàng đầu.
Từ giờ trở đi, trong gia đình các cụ nên đi nhẹ, nói khẽ, cười duyên. Không nên để vợ bực mình, khó chịu.
Nếu "nó" chót có bầu với thằng ất ơ nào đấy thì các cụ phải nuốt cục tức, đội mũ trùm đầu che đi cái sừng mới nhú và vui vẻ nuôi con tu hú ít nhất 12 tháng. Nếu không mời cụ ra đường mà ở.
Cụ để "nó" khó chịu, nó đâm đơn thì các cụ mồ côi vợ phút mốt.
Ôi, thật là ...
Em thì em chả phản đối, vì theo luật là lý do nhân đạo. Tuy nhiên,cần phải thêm một số vấn đề như: Tài sản chung trong quá trình vợ mang thai của người khác chẳng hạn, rồi thì xử lý người vi phạm chế độ 1 vợ 1 chồng chẳng hạn...vấn đề này cần làm rõ lắm đấy
Cái lý do "nhân đạo" nó nửa vời lắm.
Nhân đạo với ai ? Với đưa trẻ thì trách nhiệm người mẹ ở đâu ? Người mẹ đã lừa dối chồng để có con với người khác thì tại sao không bắt thằng phối giống phải nuôi con nó mà lại bắt người chồng lại phải chịu cái gai nằm trong mắt mà không được nhổ ra.
Nhân đạo với trẻ con nhưng lại vô nhân đạo với người chồng. Luật kiểu gì vậy ?
Đứa bé chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm thì ở đây người mẹ phải chịu thay đứa bé chứ không phải đè ông chồng ra bắt nạt. Đừng để mấy đứa lăng loàn nó vin vào luật để nó được lăng nhăng chán chê ở ngoài.
Trường hợp vi phạm chế độ 1 vợ, một chồng có thể bị xử lý hình sự mà Cụ.Cái lý do "nhân đạo" nó nửa vời lắm.
Nhân đạo với ai ? Với đưa trẻ thì trách nhiệm người mẹ ở đâu ? Người mẹ đã lừa dối chồng để có con với người khác thì tại sao không bắt thằng phối giống phải nuôi con nó mà lại bắt người chồng lại phải chịu cái gai nằm trong mắt mà không được nhổ ra.
Nhân đạo với trẻ con nhưng lại vô nhân đạo với người chồng. Luật kiểu gì vậy ?
Đứa bé chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm thì ở đây người mẹ phải chịu thay đứa bé chứ không phải đè ông chồng ra bắt nạt. Đừng để mấy đứa lăng loàn nó vin vào luật để nó được lăng nhăng chán chê ở ngoài.
Trường hợp vi phạm chế độ 1 vợ, một chồng có thể bị xử lý hình sự mà Cụ.Cái lý do "nhân đạo" nó nửa vời lắm.
Nhân đạo với ai ? Với đưa trẻ thì trách nhiệm người mẹ ở đâu ? Người mẹ đã lừa dối chồng để có con với người khác thì tại sao không bắt thằng phối giống phải nuôi con nó mà lại bắt người chồng lại phải chịu cái gai nằm trong mắt mà không được nhổ ra.
Nhân đạo với trẻ con nhưng lại vô nhân đạo với người chồng. Luật kiểu gì vậy ?
Đứa bé chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm thì ở đây người mẹ phải chịu thay đứa bé chứ không phải đè ông chồng ra bắt nạt. Đừng để mấy đứa lăng loàn nó vin vào luật để nó được lăng nhăng chán chê ở ngoài.
Lý thuyết là vậy, nhưng để chứng minh rồi khởi tố, xét xử... thì còn lâu lắm. Trừ lý do xâm hại thân thể, cố ý gây thương tích,.. (khi đánh ghen), còn lại chưa thấy có vụ nào vi phạm chế độ 1 vợ, 1 chồng mà bị xử lý hình sự cả.
Trong khi luật chưa bảo vệ người chồng, chưa tính đến những tổn hại về tinh thần, vật chất,... mà người chồng phải chịu khi phải sống chung (chứ chưa nói đến chuyện chăm) vợ mang thai kẻ khác,...
Luật càng chưa tính đến những phát sinh trong quá trình ít nhất là 21 tháng (9 tháng mang thai, 12 tháng cháu bé lớn) với tình trạng hôn nhân, với tài sản phát sinh trong thời gian này,...
Cụ chuẩn.
Em mới tính đến vấn đề tình cảm, chưa tính kỹ đến vấn đề pháp lý như cụ.
Chưa kể trường hợp gặp phải con quái thai ngâm dấm, nó cứ đi hết thằng này đến thằng khác. Con nó chưa đủ 12 tháng mà nó lại đi kiếm giống để mang thai rồi cho thằng chồng chờ thêm 21 tháng nữa.
Nó mà làm cho vài quả 21 tháng thì chắc ông chồng không phát điên mới lạ.
Cái món này phức tộp phết, em chứng kiến có vụ vợ phải trả một khoản tiền cho ông chồng trong quãng thời gian ông chồng phải nuôi con không phải của mình rồi.Cụ chuẩn.
Em mới tính đến vấn đề tình cảm, chưa tính kỹ đến vấn đề pháp lý như cụ.
Chưa kể trường hợp gặp phải con quái thai ngâm dấm, nó cứ đi hết thằng này đến thằng khác. Con nó chưa đủ 12 tháng mà nó lại đi kiếm giống để mang thai rồi cho thằng chồng chờ thêm 21 tháng nữa.
Nó mà làm cho vài quả 21 tháng thì chắc ông chồng không phát điên mới lạ.