70 năm chiến thắng ...
 
Notifications
Clear all

70 năm chiến thắng Điên Biên Phủ

234 Bài viết
20 Thành viên
1041 Reactions
10.8 K Lượt xem
Cadjc
(@cadjc)
Công dân
Được ưa thích
Tài sản: 311.37
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1099
 

NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG THẾ TRẬN VÀ SỬ DỤNG PHÁO BINH TRONG CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ (tiếp và hết)

 

C- CÁCH ĐÁNH CỦA PHÁO BINH SÁNG TẠO MƯU TRÍ

Xuất phát từ thiện vụ của Bộ chỉ huy chiến dịch giao cho pháo binh là:

1- Yểm trợ đắc lực cho bộ binh tiến công.

2- Kiềm chế pháo của địch.

3- Tập kích hoả lực vào sân bay, sở chỉ huy và căn cứ hậu cần địch.

Khác với các chiến dịch trước đó, trong chiến dịch Điện Biên Phủ lần đầu ta sử dụng cả pháo xe kéo, pháo mang vác pháo hoả tiễn để bao vây tấn công quân địch. Pháo binh đã vận dụng linh hoạt các cách đánh: đánh gần, đánh xa, đánh bất ngờ, đánh liên tục, đánh dồn dập gây cho địch nhiều tổn thất về vật chất và căng thẳng về tinh thần. Đánh khống chế sân bay triệt tiếp tế đường không là một đòn đánh hiểm đẩy quân địch vào thế ngày càng khốn quẫn. Với cách đánh linh hoạt sáng tạo chúng ta cũng đã khai thác và phát huy mọi tính năng tác dụng của từng loại pháo, đã sớm hình thành 2 lối đánh hiệp đồng và độc lập. Qua 55 ngày đêm chiến đấu nổi lên một số cách đánh của pháo là:

a- Tổ chức hoả lực pháo bắn chuẩn bị chiến dịch

Trong chiến dịch có 3 đợt tiến công, mở đầu mỗi đợt ta đều tiến hành tập kích hoả lực vào tất cả các mục tiêu chủ yếu của địch nhằm tiêu diệt, tiêu hao một bộ phận sinh lực, phá huỷ kho tàng, trận địa pháo binh súng cối tạo điều kiện thuận lợi cho bộ binh ta tiến công tiêu diệt các cứ điểm... thực chất là hoả lực pháo bắn chuẩn bị chiếp dịch.

- 17 giờ ngày 13-3-1954 để mở đầu chiến dịch tiến công, pháo binh ta đã thực hành pháo bắn chuẩn bị kéo dài 1 giờ với trên 204 khẩu pháo, cối các loại. Ngày 15 phút đầu, hoả lực pháo ta đã gây cho địch tổn thất nặng tạo điều kiện cho bộ binh thực hành xung phong tiến công đánh chiếm cụm cứ điểm Him Lam.

- 17 giờ 20 phút ngày 30-3-1954 tiến hành đợt tập kích hoả lực lẩn thứ 2 cũng với các mục tiêu như trên, lực lượng tham gia lần này có thêm 2 đại đội pháo lớn là đại đội sơn pháo 75 và 1 đại đội cói 120 ta vừa mới tổ chức bằng súng cối chiến lợi phẩm thu được. Pháo đợt này chi viện cho cả 3 đại đoàn cùng một lúc tiến công tiêu diệt 8 cứ điểm địch.

- 17 giờ ngày 1-5-1954 với thời gian 30 phút ta tiến hành đợt hoả lực pháo bắn chuẩn bị lần thứ 3 chi viện cho các đơn vị tiêu diệt nhiều cứ điểm ở cả 3 hướng đông, tây và Hồng Cúm.

- 20 giờ 30 phút ngày 6-5-1954 đợt hoả lực pháo bắn chuẩn bị cuối cùng với 261 khẩu pháo, cối có thêm tiểu đoàn hoả tiễn và tiểu đoàn ĐKZ75. Tạo điều kiện cho quân ta đồng loạt tổng tấn công các cứ điểm, trong đó có đồi A1. Một căn cứ đề kháng lợi hại khu đông Mường Thanh.

Qua 55 ngày đêm, bộ đội Pháo binh đã 4 lần thực hành hoả lực pháo bắn chuẩn bị, càng đánh càng mạnh và đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

b- Pháo binh chi viện cho bộ binh tiên công tiêu diệt quân địch công sự kiên cố

- Trận mở đầu tiến công cứ điểm Him Lam, Đại đoàn 312 được phối thuộc 2 đại đội 804-806 lựu pháo; 2 đại đội 753, 752 sơn pháo; 2 đại đội cối 120mm tiến hành hoả lực chuẩn bị 1 giờ.

- Trận tiến công cứ điểm độc lập của Đại đoàn 308 được phối thuộc 1 đại đội 803 lựu pháo; 2 đại đội sơn pháo; 2 đại đội cối 120.

- Trận tiêu diệt cứ điểm đồi C1 đêm 30-3 được phối thuộc 1 đại đội 806 lựu pháo; 1 đại đội sơn pháo 75mm; 1 đại đội cối 120mm.

- Trận tấn công cứ điểm đồi A1 đêm 6-5-1954 sau khi hoả lực chuẩn bị 30 phút, dưới sự yểm hộ của pháo bắn thẳng, bộ binh đánh chiếm từng lô cốt, chiến hào của địch. Đến 17 giờ 30 phút ngày 7-5-1954 quân ta tiêu diệt toàn bộ quân địch, bắt sống 200 tên có cả tên chỉ huy tập đoàn cứ điểm.

Một chiến dịch gồm nhiều trận tấn công quân địch trong công sự vững chắc, mỗi trận đều có hoả lực pháo bắn chuẩn bị, hoả lực chi viện phát triển tiến công và hoả lực chi viện đánh bại các đợt phản kích của địch.

c. Pháo binh chi viện bộ binh vây lấn tiến tới tiêu diệt cứ điểm

- Trận tiêu diệt cứ điểm 106 của Trung đoàn 36 được đại đội sơn pháo 754, bắn tiêu diệt từng ụ súng địch để bộ binh đánh lấn bao vây cứ điểm, đêm 1-4-1954 sau khi đại đội lựu pháo 803 bắn phá cứ điểm kết hợp sơn pháo, cối, pháo bắn thẳng, chi viện bộ binh xung phong tiêu diệt đại đội địch trong 30 phút.

- Trận tiêu diệt cứ điểm 206 cùng với cách đánh như trên vào 2 đêm 20-4 và 21-4-1954 đại đội 803 lựu pháo bắn 20 viên chi viện bộ binh xung phong, đến 1 giờ sáng ngày 23-4- 1954 theo kế hoạch Đại đội lựu pháo 803 lại bắn 20 viên khi bắn đến phát thứ 13 thì có lệnh ngừng bắn vì bộ binh đã bí mật thọc sâu vào tung thâm phòng ngự địch, 45 phút sau quân ta tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm, bắt sống 113 tên địch.

- Trận đánh chiếm cứ điểm đồi C1 lần thứ 2 quân ta chiếm nửa đồi, địch chiếm nửa đồi, qua 30 ngày đêm giằng co đến đêm 1-5-1954 được Đại đội 804 trực tiếp bắn phá hoại 30 viên đạn lựu pháo cùng với sơn pháo bắn thẳng từ đồi D, ta đã nhanh chóng diệt địch;bắt sống trên 100 tù binh.

- Cũng đêm 1-5-1954 đại đội 806 cùng pháo bắn thẳng sau nhiều ngày vây lấn đã trực tiếp chi viện cho Đại đoàn 312 cùng một lúc nhổ 2 vị trí cứ điểm 505A - 505B ở phía Đông sông Nậm Rốm...

Cách đánh này của bộ binh thường dựa vào giao thông hào bao vây lấn dũi sát giao thông hào địch trên nhiều hướng được sơn pháo và cối 82 trong tay trực tiếp chi viện khi vây lấn, thời cơ đến sẽ dùng thêm lựu pháo trực tiếp bắn phá hoại, với lối đánh này lựu pháo thường bắn sát đội hình chiến đấu bộ binh, do đó phải chuẩn bị phần tử thật chính xác và phải bắn trong tầm bắn hiệu quả nhất và ít tản mát về đạn nhất.

d- Pháo binh chi viện bộ binh đánh bại các trận phản kích lớn của địch

- Trận phản kích của 2 tiểu đoàn địch sáng 15-3-1954, sau khi cứ điểm độc lập thất thủ, bộ binh ta đã dựa vào công sự, có pháo binh chi viện đã tổ chức phòng ngự chặt, nắm thời cơ địch bộc lộ ta đã tập trung toàn trung đoàn lựu pháo bắn tập trung 200 viên đạn tiêu diệt số lôn địch, chúng vội vàng tháo chạy về Mường Thanh.

- Sáng 23-4-1954 trận phản kích của 2 tiểu đoàn địch (có 3 xe tăng yểm hộ) chúng dựa vào các cứ điểm 208 - 309 - 204 từ nhiều hướng liên tục phản kích nhằm chiếm lại cứ điểm 206. Ta chỉ sử dụng 2 đại đội lựu pháo kết hợp với sơn pháo nắm thời cơ tập kích hoả lực bằng mỗi lần 2 phát bắn gấp cuộc chiến diễn ra từ sáng đến chiều, địch bị tiêu hao nặng, ta diệt một xe tăng địch bỏ chạy về Mường Thanh.

- Trận phản kích tuyệt vọng của tiểu đoàn dù và tiểu đoàn lê dương địch từ trung tâm Mường Thanh ra đồi A1 và C1 cũng bị 3 đại đội lựu pháo ta cùng sơn pháo bắn tan nát đội hình. Đây là trận phản kích thứ 10 và cũng là trận phản kích cuối cùng của địch ở Điện Biên Phủ.

Qua đó có thể rút ra: Đánh phản kích phải kết hợp giữa pháo bắn thẳng và súng bộ binh. Khi đã sử dụng pháo cần sử dụng tập trung với hoả lực mạnh, mật độ đạn lớn, thời gian ngắn sẽ nhanh chóng sát thương lớn quân địch bộc lộ ngoài công sự...

e- Pháo binh đánh độc lập

- Trận mở đầu của lối đánh này là Đại đội sơn pháo 757. 10 giờ sáng ngày 3-2 (tức mồng 1 tết), 2 khẩu sơn pháo đã chuẩn bị chu đáo (từ mấy ngày trước) để đánh phá sân bay Mường Thanh. Sương sớm vừa tan, được lệnh của Đại đoàn trưởng Đại đoàn 316, sau 10 phát đạn, 1 chiếc Mo-ran bốc cháy, 2 chiếc Hen-cát gãy cánh.

- Ngày 23-4 khẩu đội Phùng Văn Khẩu bị pháo binh và xe tăng địch đánh phá vào trận địa, mặc dầu anh em pháo thủ đều bị thương, khẩu đội bạn cũng bị sập hầm, nhưng đồng chí Khẩu vẫn anh dũng kiên (lường một mình vừa lao đạn vừa ngắm bắn, chỉ sau 15 viên đạn pháo đã tiêu diệt cả 4 pháo địch.

- Ngày 24-4, 1 khẩu đội ĐKZ75 trên đồi D đã dùng 2 viên đạn bắn cháy 1 xe tăng địch...

Từ sau đợt tiến công lẩn thứ 2, trong tháng 4 các loại pháo của ta cùng với các chiến sĩ bộ binh đã tích cực nắm thời cơ thực hiện đánh tỉa, dùng ít đạn mà tiêu diệt được nhiều địch.

Tiết kiệm đạn cũng là một vấn đề nổi bật trong chiến dịch. Chiến dịch càng kéo dài, lượng tiêu thụ đạn sẽ lớn, nguồn bổ sung đạn nhất là pháo lớn đều dựa vào nguồn vận chuyển từ hậu phương, những ngày cuối tháng 4 nguồn bổ sung chỉ chờ các đoàn xe tiếp tế, đạn được sử dụng rất tiết kiệm. Bộ chỉ huy chiến dịch quy định:

- Cục trưởng Cục Tác chiến của Bộ chỉ huy mặt trận mới được phép sử dụng mỗi lần bắn không quá 10 viên đạn pháo.

- Đại đoàn trưởng bộ binh được phép hạ lệnh sử dụng mỗi lần bắn là 3 viền đạn lựu pháo.

- Nhiều chỉ huy bộ binh cấp trung đoàn không thấy hết khó khăn của pháo binh nên có đồng chí gay gắt nói… “các đồng chí pháo binh tiếc viên đạn hay tiếc xương máu đồng đội hơn”.

Nhưng cùng trong thời gian này do ta áp sát sân bay địch, chúng không còn tiếp tế bằng hạ cánh xuống sân bay được nữa, mọi nhu cầu phải thả dù, cao xạ bắn mạnh, chúng phải bay cao, nên nhiều dù rơi ra ngoài cứ điểm, trong đó có cả dù tiếp tế đạn pháo 105mm. Phong trào thu nhặt đạn pháo để chuyển cho pháo binh được phát động rộng rãi, chỉ trong một tuần lễ anh em bộ binh đã thu được gần 6.000 viên đạn 105mm, riêng ở Hồng Cúm Đại đội pháo 805 đã nhận được 1.900 viên (tương đương với 5 cơ số đại đội). Ngày 25-4 đoàn xe tiếp đạn của hậu phương đã vượt bom đạn chuyển kịp số đạn pháo theo yêu cầu của chiến dịch.

Có thể nói lực lượng pháo binh của chúng ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tác chiến mà Bộ chỉ huy chiến dịch đã giao. Thành tích và chiến công của pháo binh trong chiến dịch Điện Biên Phủ đánh dấu một bước phát triển tương đối hoàn chỉnh về nghệ thuật sử dụng pháo binh trong chiến dịch của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nó đã mở ra những vấn đề lớn đầu tiên để xây dựng và biên soạn một học thuyết về nghệ thuật quân sự sử dụng pháo binh Việt Nam. Nó cũng là cơ sở vững chắc để mãi mãi Binh chủng Pháo binh lấy đó làm phương hướng nghiên cứu chỉ đạo xây dựng và chiến đấu.

Nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng kinh nghiệm chiến đấu của bộ đội Pháo binh tại chiến trường Điện Biên Phủ lịch sử vẫn sống mãi trong lòng người lính Pháo binh Việt Nam.

 

Thiếu tướng NGUYỄN TRUNG KIÊN

Nguyên Tư lệnh Pháo binh,

Nguyên Tiểu đoàn trưởng trong chiến dịch Điện Biên Phủ

"Mobilis in Mobile" ― Jules Verne


   
ThangTeo, Payroll, Phan khoi lon and 1 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
Hóng hớt
(@toidihong)
Trung niên
Được ưa thích
Ngồi lê đôi mách hóng hớt
Trung lưu rank 2
Tài sản: 28328.44
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 4518
 

Đăng bởi: @ktqsminh

Đăng bởi: @friendship2k

image
image
image

Kéo pháo vào trận địa

image
image

Cái ảnh kéo khẩu cao xạ 37mm, loại 2 nòng là ảnh thời chống Mỹ không phải ở Điện Biên Phủ. 

 

Chuẩn cụ nhỉ, hồi đó chỉ có cao xạ 37 loại một nòng thôi. Trong bảo tàng cũng chỉ trưng bài loại này khi nói về Điện Biên Phủ

image

 


   
ThangTeo, U Cay, bridge and 2 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cadjc
(@cadjc)
Công dân
Được ưa thích
Tài sản: 311.37
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1099
 

CÁCH ĐÁNH HIỆP ĐỒNG CỦA BỘ ĐỘI PHÁO BINH TRONG CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ

 

Chiến địch Điện Biên Phủ giành được thắng lợi to lớn và triệt để, có một nguyên nhân quan trọng đó là việc hiệp đồng tác chiến chặt chẽ giữa pháo binh với bộ binh, với quy mô lớn nhất trong cuộc chiến tranh chống Pháp, trong đó pháo binh xứng đáng là hoả lực chủ yếu của chiến dịch.

- Ngày 12-3-1954 Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho chiến sĩ. Người đã viết: "Các chú sắp ra trận, nhiệm vụ các chú lần này rất to lớn, khó khăn nhưng rất vinh quang. Bác chúc các chú thắng to". Cùng ngày Đại tướng Võ Nguyên Giáp Bí thư Đảng uỷ, Chỉ huy trưởng mặt trận cũng nói: "Trận này là trận công kiên quy mô lớn nhất trong lịch sử chiến đấu của quân đội từ trước tới nay, là những trận đánh đầu tiên có trọng pháo, pháo cao xạ phối hợp. Tôi kêu gọi hiệp đồng chặt chẽ, chiến đấu liên tục, tiêu diệt toàn bộ quân địch tại Điện Biên Phủ, giành thắng lợi cho chiến dịch".

- Về phía địch: Ơ Điện Biên Phủ có 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh tinh nhuệ, 2 tiểu đoàn pháo 105mm, 1 đại đội pháo 155mm, 2 đại đội súng cối 120mm, 10 xe tăng 18 tấn, 1 phi đội máy bay, 1 tiểu đoàn công binh, 200 xe cơ giới các loại Quá trình chiến dịch địch lại tăng thêm 4 tiểu đoàn bộ binh, 2 đại đội dù, nâng tổng số quân lên tới 16.200 tên. Bố trí trong 49 cứ điểm, hình thành 8 cụm, chia làm 3 phân khu. Trong mỗi phân khu lấy tiểu đoàn bộ binh hình thành cụm cứ điểm, có hệ thống hầm hào, công sự, lô cốt chìm, nổi, hầm ngầm cố thủ. Các cứ điểm địch bố trí hoả lực để ngăn chặn bộ đội ta từ xa. Trên hướng phòng ngự quan trọng còn có súng phun lửa, súng lắp kính hồng ngoại để bắn chêm. Giữa các cứ điểm và tung thâm đề kháng có nhiều lớp rào kẽm gai, kiểu lùng nhùng, lò xo, cũi lợn và các bãi mìn mìn nhảy, mìn vướng nổ, mìn đĩa, mìn định hướng, mìn cháy chiếu sáng)... Pháo binh địch bố trí ở 2 khu vực Mường Thanh và Hồng Cúm. Với cách bố trí như vậy, trên cơ sở quân đông, hoả lực mạnh, công sự kiên cố... Điện Biên Phủ được giới quân sự Pháp, Mỹ ca tụng, là một pháo đài bất khả xâm phạm, một cứ điểm mạnh nhất từ trước tới nay ở Đông Dương.

- Về phía ta: Ngoài các sư đoàn 308, 312, 316 và 304 (thiếu e66) cùng các trung đoàn công binh, trinh sát, thông tin liên lạc, vận tải, hậu cần các cấp hình thành tuyến chiến lược, chiến dịch và chiến đấu thì pháo binh có tổng số lực lượng pháo cối tham gia là: 261 khẩu (gồm cả súng cối bộ binh và 3 cối 120mm lấy được sau chiến thắng đồi Độc Lập).

So sánh ta và địch: Về pháo và cối 120mm thì ta 1, địch 1,2. (ta có 24 khẩu /105mm và 16 khẩu cối 120mm; địch có 4 khẩu /155mm, 24 khẩu /105mm và 20 khẩu cối 120mm).

Đặc biệt sự xuất hiện lần đầu của lựu pháo 105mm và cao xạ pháo 37mm của ta đã góp phần rất quan trọng vào sự phát triển nghệ thuật tác chiến tiến công trận địa phòng ngự của địch, đó là:

- Tạo ra hệ thống công sự trận địa bao vây chặt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ

- Hình thành các trục chiến hào, giao thông hào chọc thẳng vào tung thâm phòng ngự của địch, tạo ra bàn đạp để triển khai lực lượng khi tiến công và đánh trả quân phản kích của địch.

- Tổ chức các trận tiến công và từng đợt chiến đấu tập trung tiêu diệt lần lượt từng mảng quân địch trong phòng ngự gắn liền với đánh bại lực lượng địch ra phản kích, tiêu diệt địch tới đâu thì vòng vây được khép chặt tới đó. Trên cơ sở tiêu diệt từng khu vực địch, tiến tới đợt cuối cùng tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch, buộc địch phải đầu hàng tại chỗ, không một lực lượng nào của địch chạy thoát. Rõ ràng nghệ thuật tác chiến của chiến dịch Điện Biên Phủ thể hiện nghệ thuật tác chiến tiến công trận địa rất kiên quyết và đã thành công rực rỡ so với các chiến dịch trước đây chưa hề có. Từng quá trình chiến dịch tác chiến hiệp đồng binh chủng, pháo binh kết hợp với cao xạ phải đảm nhiệm rất nhiều nhiệm vụ và đã trở thành lực lượng hoả lực chủ yếu của chiến dịch như chế áp pháo binh địch, phá huỷ công sự, kho tàng, khống chế sân bay và đặc biệt quan trọng là trực tiếp chi viện cho bộ binh tiến công, tiêu diệt lần lượt từng cứ điểm, tiến tới tổng công kích tiêu diệt hoàn toàn quân địch ở Điện Biên Phủ. Rõ ràng pháo binh đã có tác dụng làm biến đổi hẳn về chất lượng tác chiến hiệp đồng binh chủng, tạo ra sự phát triển về nghệ thuật tác chiến của chiến dịch.

Trong tác chiến hiệp đồng binh chủng thì việc quan trọng trước hết là triệt phá cái mạnh của địch, biến cái mạnh của địch trở thành cái yếu hơn ta là rất quan trọng. Điều này chiến dịch Điện Biên Phủ đã thành công lớn và trở thành bài học hay và rất sống động. Nguyên nhân thành công thì có nhiều, xin nêu một số điểm mà ta đáng quan tâm:

- Trước hết phải kể đến phương châm tác chiến của chiến dịch là "đánh chắc tiến chắc". Nhờ đó mà pháo binh của ta có điều kiện để tập trung được hoả lực bắn bất ngờ và mãnh liệt vào trận địa pháo binh chủ yếu của địch, đồng thời triệt phá được sân bay và bắn diệt được máy bay tại chỗ cửa địch.

- Nhờ có sự chỉ đạo giúp sức của bộ binh trong việc làm đường cơ động, xây dựng được trận địa pháo trong hầm có nắp tạo ra thế trận pháo binh rất lợi hại và nguy hiểm cho địch.

Từ thế trận đó mà pháo binh có thể thực hiện được nguyên tắc phân tán hoả khí, tập trung hoả lực. Rõ ràng pháo 105mm của ta đã từ nhiều hướng bắn vào một trung tâm, ngược lại pháo địch lại từ 1 trung tâln phải phơi mình trên trận địa bộc lộ để quay nòng bắn ra nhiều hướng. Đây là một nguyên nhân làm cho pháo binh địch bị thất bại.

- Một vấn đề khôn khéo của ta là nghệ thuật nghi binh, không những pháo binh ta đã ở trong hầm có nắp an toàn, mà ta còn có trận địa nghi binh lừa địch. Một cách làm giản đơn là làm 1 khẩu pháo giả nghếch nòng lên, khi trận địa thật phát hoả thì chiến sĩ phụ trách nghi binh cũng ném bộc phá nhả khói lên không, làm cho địch nghi đó là trận địa pháo ta và dồn sức đánh phá. Kết quả 80% số bom, đạn pháo địch dùng để đánh pháo binh ta đã đánh vào các trận địa giả đó. Do vậy hầu như toàn bộ trận địa chính của ta được an toàn suốt cả chiến dịch, chỉ hỏng một khẩu. Kết quả là pháo binh địch nhiều lần bị đánh tả tơi và bị tê liệt, còn pháo ta lại an toàn hoàn thành mọi nhiệm vụ trong suốt chiến dịch. Kết hợp với cao xạ, pháo binh ta đã triệt phi cơ của địch (đậu trên sân bay), để biến cái mạnh của địch thành cái yếu hơn ta. Một nguyên nhân mà địch thất bại, vì cái mạnh của địch là phi pháo đã hoàn toàn bị triệt phá, mà ta càng đánh lại càng thắng vì pháo ta ở thế có lợi và an toàn.

- Kinh nghiệm này của chiến dịch Điện Biên Phủ đã trở thành truyền thống của quân đội ta. Ta đã vận dụng và phát triển kinh nghiệm đó trong suốt cả quá trình chống Mỹ, cứu nước, từ năm 1968 đường 9 Khe Sanh, Quảng Trị 1972, Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng và chiến dịch Hồ Chí kinh lịch sử năm 1975.

Thực tiễn trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhiều chiến dịch ở miền Nam, số lượng hoả lực và binh khí kỹ thuật của ta hoàn toàn kém địch về số lượng, nhưng ta đã phát triển kinh nghiệm này bằng cách tận dụng triệt để khả năng sẵn có của mình để triệt phá cái mạnh của địch bằng nhiều cách. Ngoài lực lượng pháo binh và súng cối với số lượng có hạn của, ta đã tận dụng các loại hoả lực của bộ binh như ĐKZ, súng cối, súng cao xạ 12,7mm và cả đặc công vào đánh phá pháo binh địch. Với cách đánh độc lập của pháo binh, với biện pháp luồn sâu, ém sẵn bí mật, bám sát mục tiêu, có lúc chỉ cần từ 1-2 khẩu cối 82mm ta đã có thể đánh kiềm chế hẳn một trận địa pháo binh 105mm của địch. Kinh nghiệm nghi binh ở Điện Biên Phủ cũng đã phát triển nhiều cách phong phú.

Tôi nêu một ví dụ: khi tôi làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 10 tiến quân theo đường 21 đến đèo Madrak - Phượng Hoàng, gặp lữ đoàn dù 3 địch đang chiếm giữ đèo, pháo binh 105mm và 155mm của địch bố trí có chiều sâu, nhiều tuyến. Trong khi đó pháo binh ta bị hạn chế về tầm bắn không với tới các trận địa của pháo binh địch, tôi đã dùng ĐKZ, cối 82mm của bộ binh luồn sâu vào sát khu vực các tiểu đoàn dù của địch để đánh diệt pháo binh địch. Kết quả thật mỹ mãn, nhiều trận địa pháo binh đã bị ĐKZ, cối 82mm của bộ binh đánh diệt, do đó Sư đoàn 10 đã tiêu diệt được lữ đoàn 3 dù của địch nhanh gọn, vì hầu như các trận địa pháo địch đều bị đánh tê liệt.

- Một điều đáng nói ở chiến dịch Điện Biên Phủ có khác với thời chống Mỹ, là ta có kế hoạch phân chia pháo binh phù hợp kế hoạch chiến dịch nhưng hầu như ta chưa tận dụng được các hoả lực của bộ binh tham gia triệt phá hoả lực của địch ngay từ trận đầu và cả quá trình chiến dịch, bản thân pháo binh như đơn vị pháo 105mm lại có số đạn quá hạn chế, nên diệt pháo địch không triệt để. Thậm chí có trận địa cối 120mm (số hiệu mục tiêu 210) của địch ở đồi D, Him Lam không phân công đơn vị nào đánh, do đó khi bộ đội ta đánh vào Him Lam bị trận địa cối 120mm này của địch gây thương vong nhiều, buộc lòng ta phải điều động đơn vị pháo 105mm bắn theo kiểu bậc thang, cày đi cày lại mới làm cho địch bị tê liệt.

- Bây giờ ta kỷ niệm 50 năm chiến dịch Điện Biên Phủ, tôi muốn nêu ra một số chính kiến của những nhân vật trực tiếp góp phần rất quan trọng làm nên sự nghiệp của Trung đoàn lựu pháo 105mm lần đầu tiên ra trận. Những chính kiến này rất đáng được ghi vào lịch sử pháo binh. Có 1 câu hỏi: "Lần đầu tiên Trung đoàn pháo binh 105mm ra trận, nhờ vào lý do gì mà đợt cấp tập đầu tiên không qua bắn thử?”.

Ý kiến của các đồng chí như sau:

- Đại tá Lưu Huân (nguyên trưởng ban quan thông của Trung đoàn lựu pháo 105) đã viết rõ "17 giờ 10 phút ngày 13-3-1954 chiến dịch chính thức bắt đầu. Đợt tập kích hoả lực mạnh và bất ngờ vào trận địa pháo địch và Him Lam gây cho địch nhiều thiệt hại về người và vũ khí, làm cho chúng hoang mang. Ở đài quan sát chúng tôi nhìn thấy pháo ta bắn vào Him Lam khá chính xác, phối hợp chặt chẽ với bộ binh. Sau hơn một tiếng đồng hồ, pháo binh đã chi viện bộ binh diệt gọn các cứ điểm 101b và sau 2 giờ đã giải quyết xong cứ điểm 101a. Nhưng ở hướng điểm 102, cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, pháo binh địch lúc đầu bị tê liệt nhưng đã hoạt động trở lại, ngăn chặn bộ binh ta mở cửa, gây cho ta nhiều khó khăn. Lúc đó ở đài quan sát có Chính uỷ Đại đoàn 351 và đồng chí Lưu tới quan sát diễn biến chiến đấu. Chúng tôi nhìn rõ đạn địch nổ ở cửa mở dữ dội. Chính uỷ Đại đoàn 351 nói với tôi: "Bộ binh đã tốn bao công sức để làm đường và công sự cho pháo binh, vậy pháo binh phải làm sao không để pháo binh địch gây nhiều thương vong cho bộ binh. Ai có mặt vào lúc đó đều có chung một ý nghĩ như thế. Vấn đề chính là phải tìm cho ra trận địa pháo địch nào bắn vào cửa mở để kìm chế chúng. Trước mắt chúng tôi là đêm tối mù mịt, đối với trận địa pháo binh địch ở 307a, 307b, 203b, 317 mà chúng tôi nắm chắc chỉ thấy chúng hoạt động yếu ớt. Đang phân vân và lúng túng thì đồng chí Lưu nói với tôi: đồng chí nhìn xem, sau đồi D có nhiều ánh lửa phụt lên như cối địch bắn, nếu đúng, phải chế áp chúng ngay". Đúng thế đằng sau đồi D, mà trên sơ đồ có ghi là trận địa pháo 210, liên tục phát lên những ánh lửa đỏ rực. Trong tình hình khẩn trương đó, biết là nếu báo cáo qua điện thoại với trung đoàn trưởng khó làm cho thấy hết yêu cầu của tình huống chiến đấu, nên tôi rời đài quan sát, chạy theo giao thông hào về sở chỉ huy trực tiếp báo cáo và xin ý kiến của Chính uỷ Đại đoàn 351 về phát hiện đó. Sau khi trở về đài quan sát 10 phút thì tôi được sở chỉ huy thông báo là sẽ sử dụng 2 đại đội 801 và 802 của tiểu đoàn 632 với 200 viên đạn bắn rải trên 5 cự ly vào trận địa pháo địch ở sau đồi D. Sau đợt bắn này địch ở 210 ngừng hoạt động chừng nửa giờ rồi lại hoạt động trở lại nhưng lẻ tẻ và yếu ớt.

- Đại tá Lê Quang Tuân nguyên là Trung đội trưởng quan trắc của tiểu đoàn 632 đã viết: "Trong lần chuẩn bị tấn công đợt 1 chúng tôi gặp một khó khăn lớn là tiểu đoàn 632 có nhiệm vụ dùng 2 đại đội 801 và 802 chế áp 2 trận địa pháo địch 105mm ở 307a và 307b trong tung thâm Mường Thanh, còn đại đội 803 chế áp pháo địch ở 203. Lúc đó chúng tôi chưa đo đạc được phần tử bắn cho pháo, dù mục tiêu đã có toạ độ. Chúng tôi phải mất 3 ngày leo đồi để chọn đường đáy mà không được, vì tuy đồi cỏ tranh nhưng khi tới nơi thì lau lách lút đầu không thể phát quang được. Chúng tôi băn khoăn chưa tìm được cách giải quyết thì đồng chí tiểu đội trưởng Trần Hậu Tuệ đề xuất phương án: Lấy toạ độ BP và 2 trận địa pháo 307a và 307b của lần đo ở phía Bắc, nay đo ở phía Đông cũng dùng BP ấy để tính chuyển toạ độ sang là được. Chúng tôi liền nhất trí phương án tính toán đó và nhờ vậy đã thông báo được phần tử và toàn bộ toạ độ mục tiêu cho các đại đội pháo". Theo kế hoạch 17 giờ ngày 13-3-1954 cả 2 đại đội pháo 801 và 802 tập kích hoả lực 15 phút, mỗi đại đội 100 viên vào 2 trận địa pháo 307a và 307b. Sau đó từng đại đội mới kiểm nghiệm lại phần tử. Với trách nhiệm cung cấp phần tử bắn cho các đại đội, tôi rất lo vì các đại đội đều bắn hiệu lực ngay vào mục tiêu bằng phần tử đo đạc mà không qua bắn thử.

Đến giờ nổ súng, khi các loạt đạn đầu trùm lên 2 trận địa pháo địch, tôi mới thở phào nhẹ nhõm. Mấy hôm sau, một số tù binh người Việt ra hàng, tôi trực tiếp hỏi họ pháo ta bắn trúng vào đâu nhiều nhất, họ trả lời: "Hôm ấy pháo ta bắn rất trúng trận địa pháo, một số hầm sập, pháo thủ địch chết rất nhiều, nhưng có mấy viên đạn rơi gần chúng em mà không nổ. Chúng em thấy pháo ta bắn, sướng lắm, có chết cũng thích".

- Đại tá Trần Hậu Tuệ - nguyên là tiểu đội trưởng quan trắc d632 đã viết: "Trước giờ nổ súng điều mà chúng tôi lo lắng băn khoăn duy nhất là kết quả loạt đạn đầu sẽ ra sao mà phần trách nhiệm chủ yếu là phân đội quan trắc chúng tôi - những người phụ trách đo đạc cung cấp phần tử bắn cho đơn vị. Tôi còn nhớ lần đồng chí Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái đến tận lán anh em để động viên nhắc nhở: “Bộ chỉ huy chiến dịch đã thống nhất với ban chỉ huy trung đoàn pháo binh là mở đầu chiến dịch sẽ bắn cấp tập ngay, vì vậy các đồng chí phải làm thế nào loạt đạn đầu phải trúng ngay mục tiêu, không được bắn thử như quy tắc xạ kích pháo binh quy định, vì nếu như vậy sẽ làm mất yếu tố bất ngờ”. Đồng chí nói tiếp như khẳng định: "Kỹ thuật phải phục tùng ý định chiến dịch, chiến thuật. Bắn trúng thưởng huân chương, bắn trật thì kỷ luật". Thực hiện lời căn dặn của Tổng Tham mưu trưởng, để bảo đảm phần tử bắn, chỉ có độ sai nhỏ nhất, chúng tôi đã triển khai đo đạc tính toán đến 7 lần, mỗi lần như vậy mất bao nhiêu công sức và có lần đổ máu…

Kim đồng hồ chỉ khoảng 17 giờ, tiểu đoàn trưởng hạ lệnh "Bắn!". Sau đó những cột khói dựng lên trên khu vực Mường Thanh, hơn 10 giây sau mới nghe tiếng nổ như sấm rền từ phía địch dội về, đám khói đen ngày càng dày đặc như một bức thành che kín cả một vùng rộng lớn. Bây giờ tôi mới định thần và nhảy ngay lên khỏi công sự để quan sát cho rõ, lập tức tôi cùng anh em phát hiện độ lệch hơi xa, và báo cáo tiểu đoàn trưởng: “Toàn bộ đạn đúng hướng, giảm 200 mét". Không đợi kết thúc loạt đạn cuối cùng, tiểu đoàn trưởng hô ngay: "Toàn tiểu đoàn giảm 200 mét, 4 phát bắn gấp, Bắn!". Sau vài chục giây, đạn lại rào rào qua đầu sở chỉ huy, mọi người hồi hộp chờ đợi, bỗng quan sát viên pháo đội kính nhảy lên hô to: "Trúng rồi! Trúng rồi!". Toàn bộ tung thâm trận địa pháo của địch bị pháo binh ta bắn dập xuống, khói đen càng phủ dày đặc trên toàn bộ mục tiêu. Tiểu đoàn bắn các loạt cấp tập tiếp theo, pháo binh địch bị "đánh bồi" không kịp trở tay, nằm im thin thít.

Qua ống nhòm, chúng tôi nhìn thấy cứ điểm Him Lam chìm trong khói lửa. Bất ngờ xuất hiện 24 máy bay khu trục Hen-cát, chia làm 6 tốp từ hướng tây bắc lao xuống ném bom, nhưng từng loạt đạn nổ của các đại đội cao xạ pháo 37mm đã kịp vút lên chụp lấy những chiếc máy bay đi đầu làm chúng rối bời, bay loạn xạ, ném bom lung tung rồi cất cánh chuồn thẳng.

Chờ mãi xem phản ứng pháo binh địch ra sao, đến khi trời gần tối, chúng tôi mới thấy loé lên những ánh chớp đầu nòng của pháo binh địch bắn vào hướng đội hình bộ binh ta ở Him Lam. Chúng tôi được lệnh xác định mục tiêu bằng phương pháp giao hội ánh chớp nòng của pháo địch để chế áp mục tiêu số 210 bằng phương pháp bậc thang. Sau 1 tiếng đồng hồ pháo địch phải ngừng bắn. Như vậy có thể trả lời câu hỏi trên như sau:

- Triệt phá cái mạnh của địch, trung đoàn lựu pháo 105mm lần đầu tiên ra trận bắn cấp tập hiệu lực ngay không qua bắn thử là như thế đó.

- Hiệp đồng chiến đấu với bộ binh đòi hỏi rất công phu tỷ mỹ. Đây là điều hết sức quan trọng trong tác chiến hiệp đồng binh chủng.

Sau đợt một của chiến dịch, tiểu đoàn 632 di chuyển 2 đại đội sang hướng Tây Bắc, bố trí trận địa trong khu vực bắc Bản Kéo. Theo mệnh lệnh của trên, tiểu đoàn phải phối hợp tác chiến với Sư đoàn 308. Trong cuộc họp của sư đoàn bàn kế hoạch chiến đấu, tôi cùng họp với các đồng chí Vũ Yên - Tham mưu trưởng sư đoàn, đồng chí Hồng Sơn - Trung đoàn trưởng Trung đoàn 36, đồng chí Hùng Sinh - Trung đoàn trưởng Trung đoàn 102 và đồng chí Thái Dũng - Trung đoàn trưởng Trung đoàn 88. Dưới sự điều khiển của đồng chí Vương Thừa Vũ, hội nghị bàn rất kỹ phương án tác chiến và giao nhiệm vụ cho pháo binh.

Họp xong, Sư trưởng Vương Thừa Vũ còn bảo tôi cùng đi lên đài quan sát chỉ huy của sư đoàn để hướng dẫn cho tôi biết cụ thể từng vị trí của địch và khu vực bộ đội ta. Đột nhiên, sư trưởng chỉ cho tôi "Đồng chí hãy cho pháo 105mm bắn thử vào cứ điểm 206" tôi hiểu đồng chí sư trưởng muốn kiểm tra độ chính xác của pháo binh. Tôi ra lệnh cho đại đội 802 chuẩn bị bắn. Không ngờ lúc đó, có 2 phát đạn bắn vào cứ điểm 206 nhưng chệch ra ngoài mục tiêu. Đồng chí Vương Thừa Vũ mắng tôi "Con khỉ, bắn ra ngoài mất rồi". Tôi liền thanh minh, đó là cối đơn vị nào bắn, còn pháo thì tôi chưa ra lệnh bắn, thế là sư trưởng trực tiếp cầm ống nhòm và ra lệnh cho tôi "bắn đi". Sau khi tôi ra lệnh bắn thì 3 phát đạn của đại đội 802 đều bắn trúng vào giữa cứ điểm 206 của địch. Sư trưởng liền nói "ừ như thế mới xứng đáng pháo binh cỡ lớn chứ”. Hình ảnh này làm tôi cứ nhớ mãi tác phong sâu sát cụ thể và trực tiếp của người chỉ huy bộ binh. Giống như lần đại đội 803 bắn vào đồi Độc Lập, có mặt đồng chí Quang Trung - Sư đoàn phó Sư đoàn 312 trực tiếp ở cùng đài quan sát đại đội pháo 803. Tôi thấy pháo binh mà có được những người chỉ huy bộ binh quan tâm như thế là rất quan trọng. Tôi học được tác phong này khi tôi làm sư đoàn trưởng bộ binh và thực tiễn rất có lợi cho chiến đấu hiệp đồng binh chủng.

Thế rồi những trận đánh của các đơn vị Sư đoàn 308 tiếp theo từ bao vây đánh lấn cứ điểm 206 phía tây sân bay Mường Thanh, đến các cứ điểm 311A, 311B và Nạ Noọng, hầu như tiểu đoàn 632 đã hoàn thành mọi nhiệm vụ trực tiếp chi viện cho bộ binh tiến công, đánh lấn cứ điểm 206 và đánh bại tất cả các lần phản kích quy mô của địch. Mấy việc hiệp đồng chiến dấu cụ thể cần được nêu ra với Sư đoàn 308 hồi đó như sau:

- Kế hoạch tác chiến đánh vào các cứ điểm địch không những được bàn bạc trên bản đồ mà còn hiệp đồng tác chiến cụ thể trên sa bàn, nêu rõ từng mũi, từng hướng tiến công của bộ binh và cách thức bắn của pháo binh kết hợp với các loại hoả lực bộ binh, tạo ra sự nhất trí và rất tin tưởng lẫn nhau.

- Để phân rõ tuyến bộ binh bố trí tiếp cận địch, sư đoàn đã thống nhất với tiểu đoàn pháo ký hiệu tuyến bố trí của ta bằng cách cắm các lá cờ trắng, đỏ vào mặt sau công sự giao thông hào, chiến hào và được các đồng chí trung đoàn trưởng trực tiếp chỉ rõ những ký hiệu ấy trên thực tế địa hình. Đây là điều rất có lợi cho pháo binh khi tham gia đánh địch phản kích, bắn pháo không còn mơ hồ tuyến ta và địch.

Nhưng một điều quan trọng nữa là sư đoàn phân công cho đồng chí Cao Văn Khánh - Sư đoàn phó phụ trách hoả lực đã đặt điện thoại trực tiếp đến đài quan sát chỉ huy của pháo binh để điều khiển hoả lực khi tổ chức bao vây đánh lấn cứ điểm 206 thì Trung đoàn 36 cũng đặt điện thoại trực tiếp với tôi do đó hầu như lần nào bắn cũng có sự nhất trì trao đổi giữa tôi và đồng chí Hồng Sơn trung đoàn trưởng, bàn nhau từng chi tiết cách bắn và tình huống bộ binh đào lấn công sự vào sâu cứ điểm địch và lúc ngưng pháo bắn để bộ đội vượt lên chiếm cứ điểm.

Đến nay cũng cần nói rõ trận đánh quân địch cơ động phản kích ngày 23-4-1954 tại sân bay, thắng lợi trận này thật giòn giã, bộ binh từ cứ điểm 206 đã đào lấn dịch được chiến hào và cắt đôi sân bay, ở đấy đã được cắm sẵn cờ trắng đỏ như đã nêu, nhưng một vấn đề rất quan trọng nữa là tiểu đoàn pháo binh của tôi được ban quân báo của Sư đoàn 308 đặt mối liên hệ để nắm tin địch. Ngoài những tin tức thông thường thì ban quân báo còn thông báo cho tôi biết địch đặt ký hiệu các xác máy bay trên sân bay thành những mục tiêu 1, 2, 3 cụ thể. Từ đó qua đài kỹ thuật vô tuyến điện của ban quân báo, lần lượt cho tôi biết quân cơ động của địch đã xuất kích, vào lúc mấy giờ, chúng đã đến mục tiêu (xác máy bay) nào và thông báo cho tôi kết quả pháo bắn trúng những mục tiêu ấy kể cả nơi địch đang co cụm để chuẩn bị xuất kích chiếm lại sân bay. Trận đánh của pháo binh vì thế đã rất tuyệt vời, bắn trúng hoàn toàn vào những nơi quân cơ động của địch ra phản kích rất đúng lúc. Thực ra kết quả bắn không đơn thuần do đài tiền tiến của pháo binh đi theo bộ binh và do quan sát trực tiếp mà còn do đài kỹ thuật báo tin kỹ cả những nội dung mà bọn chỉ huy địch hô hoán thúc quân và kêu la vì bị pháo binh ta đánh.

Đây là một bài học giúp tôi chỉ huy Sư đoàn 10 tiêu diệt sư đoàn 23 nguỵ và liên đoàn biệt động quân 21 phản kích phía đông Ban Mê Thuộc từ 13-3-1975 đến 17-3-1975. Địch thì cơ động, tình huống diễn biến rất nhanh, nhờ kinh nghiệm tận dụng được đài kỹ thuật như trên đã nêu, mà tôi đã chỉ huy được cụm pháo binh sư đoàn đánh trúng các mục tiêu địch, thậm chí còn biết rõ tình hình đang xử trí chỉ huy của sư đoàn trưởng sư đoàn 23. Trận tiêu diệt quân địch phản kích đã giành thắng lợi giòn giã và đây là trận then chốt thứ hai của chiến dịch Tây Nguyên xuân 1975.

Kinh nghiệm chiến dịch Điện Biên Phủ đã khẳng định rõ: càng gắn bó chặt chẽ giữa bộ binh và pháo binh thì tác chiến hiệp đồng dù quy mô lớn tới đâu cũng hoàn thành được nhiệm vụ.

 

Thiếu tướng HỒ ĐỆ (HỒ QUANG CHINH)

nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 10

nguyên Trưởng khoa Chiến dịch Học viện Quốc phòng

nguyên tiểu đoàn trưởng dP632/eP45 trong chiến dịch Điện Biên Phủ

"Mobilis in Mobile" ― Jules Verne


   
ThangTeo, U Cay, Phan khoi lon and 4 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31900.7
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3386
Topic starter  

Đăng bởi: @phan-khoi-lon

Đăng bởi: @friendship2k

" Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi ngủ hầm

Mưa dầm cơm vắt

Áo trộn bùn non

Gan không núng, chí không mòn" ....

Những câu thơ được học từ rất lâu nhưng vẫn đi theo ta mãi. Đến hôm nay nhớ lại vẫn còn xúc động.

Gửi các cụ thêm thông tin từ báo của Nhà nước :

https://dienbienphu.nhandan.vn/

 

Máu trộn bùn non cụ nhé!

 

Tiện bắt lỗi cụ  @friendship2k , em xin phép đưa lại cả bài thơ, để được cảm thấy Không khí Bi tráng, Hào hùng của Cha Ông ngày đó:

 

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên

 Tin về nửa đêm
 Hỏa tốc hỏa tốc
 Ngựa bay lên dốc
 Đuốc chạy sáng rừng
 Chuông reo tin mừng
 Loa kêu từng cửa
 Làng bản đỏ đèn, đỏ lửa...

 ......
 Và trận thắng Điện Biên
 Cũng mới là bài học đầu tiên!"

                                                         5-1954
                                                        TỐ HỮU

 

Cảm ơn cụ đã cho chúng em được đọc những dòng thơ hào hùng của lịch sử.

Lâu quá rồi nên không nhớ chính xác.

Cụ Tố Hữu làm thơ cách mạng toàn bài hay.

 


   
ThangTeo, silverstar0211, U Cay and 3 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31900.7
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3386
Topic starter  

Đăng bởi: @coco

BẮN TỈA RỒI BẮN KỀU! MỖI KHI NHỚ LẠI. 

Không biết ai phát hiện tôi bắn xạ kích rất khá nên giới thiệu tôi “tăng cường” về tổ bắn tỉa của anh Vượng. Chỉ có mươi, mười lăm ngày với vai trò “đóng thế” khi đơn vị chưa kịp bổ sung xạ thủ nhưng đã hằn sâu trong tôi những ký ức khó phai.

 

Trong chiến tranh, không biết có quân đội nào có kiểu “bắn tỉa”, rồi “bắn kều” như chúng tôi không?  

image

Mợ nhiều tư liệu hay quá.

Cảm ơn mợ.

 


   
ThangTeo, silverstar0211, flash001 and 1 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31900.7
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3386
Topic starter  

Đăng bởi: @ktqsminh

Đăng bởi: @friendship2k

image
image
image

Kéo pháo vào trận địa

image
image

Cái ảnh kéo khẩu cao xạ 37mm, loại 2 nòng là ảnh thời chống Mỹ không phải ở Điện Biên Phủ. 

 

Cảm ơn cụ đã hiệu đính.

Em hỏi thằng Gúc về chiến dịch Điện Biên thì nó gửi cho em tập ảnh, trong đó có ảnh này. Em thấy đẹp thì post lên chứ cũng không biết pháo nào với pháo nào. 

 


   
ThangTeo, silverstar0211, U Cay and 3 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31900.7
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3386
Topic starter  

Bức tranh panorama hơn 3.000m2 tái hiện 4.500 nhân vật giữa chiến trận bi tráng 56 ngày cuối cùng của trận Điện Biên Phủ tại Bảo tàng Chiến thắng Điện Biên Phủ của hơn 200 họa sĩ đã được trao giải nhất Giải thưởng Hội Mỹ thuật Việt Nam năm 2022.

image
image
image

 

https://tuoitre.vn/tranh-panorama-ve-tran-dien-bien-phu-gianh-giai-nhat-my-thuat-viet-nam-2022-2022122819223308.htm

 

 

This post was modified 2 năm trước by friendship2k

   
ThangTeo, silverstar0211, bridge and 3 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cadjc
(@cadjc)
Công dân
Được ưa thích
Tài sản: 311.37
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1099
 

CHIẾN ĐẤU PHÁO BINH Ở ĐIỆN BIÊN PHỦ VÔ CÙNG SÁNG TẠO

 

Đông Xuân 1953-1954, địch bị thất bại liên tiếp trong các chiến dịch Hoà Bình, Tây Bắc và Thượng Lào, chính phủ Pháp buộc phải thay tướng Xa-lăng, tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, bằng tướng Hăng-ri Na-va.

Ngày 19-5-1953 Na-va đặt kế hoạch sau 18 tháng sẽ giành lại thế chủ động trên chiến trường Đông Dương. Kế hoạch chia làm 2 bước, bước thứ nhất: Giữ thế phòng ngự ở miền Nam Việt Nam, tấn công chiến lược miền Trung Việt Nam. Bước thứ hai: Trên cơ sở bước 1, chuyển sang tiến công chiến lược ở miền Bắc Việt Nam, tiêu diệt lực lượng chủ lực của Việt Nam để kết thúc chiến tranh. Kế hoạch Na-va được chính phủ Pháp tán thành và được Mỹ chi viện hơn 400 triệu đô la và nhiều trang bị vũ khí để thực hiện. Ngày 20-11-1953, Na-va tuyên bố "Tôi quyết định đánh chiếm Điện Biên Phủ nhằm 3 mục đích:

1- Đón quân đồn trú ở Lai Châu về Điện Biên Phủ.

2- Bảo vệ cửa ngõ các đường giao thông vào nước Lào.

3- Buộc kẻ địch (quân chủ lực Việt Nam) chấp nhận trận đánh phòng ngự trên khu vực dự kiên có nhiều thuận lợi (Na-va báo cáo Lanien).

 

1. TẬP ĐOÀN CỨ ĐIỂM ĐIỆN BIÊN PHỦ

A- TỔ CHỨC BỐ TRÍ TẬP ĐOÀN CỨ ĐIỂM ĐIỆN BIÊN PHỦ

  1. Lực lượng của địch ở tập đoàn cứ điểm (trước giờ ta tiến công)

Gồm 12 tiểu đoàn bộ binh và dù; 2 tiểu đoàn pháo binh 105mm (24 khẩu); 1 đại đội pháo 155mm (4 khẩu); 2 tiểu đoàn cối 120mm (20 khẩu); 1 đại đội xe tăng 10 chiếc; 7 máy bay khu trục; 5 máy bay trinh sát; 4 máy bay vận tải... Ngoài ra còn được lực lượng không quân yểm trợ.

  1. Tổ chức của tập đoàn cứ điểm

Được chia thành 3 phân khu: Bắc, Trung tâm và Nam gồm 49 cứ điểm, hình thành 8 cụm cứ điểm, có khả năng độc lập tác chiến và hỗ trợ cho nhau. Trong đó, phân khu Trung tâm với 7 cụm cứ điểm, với 5 tiểu đoàn chiếm đóng, 3 tiểu đoàn cơ động, cụm pháo binh hỗn hợp pháo 105mm và 155m, sân bay chính, căn cứ hậu cần, sở chỉ huy của tập đoàn cứ điểm. Phân khu Bắc có 2 cụm cứ điểm, cụm Độc Lập trấn giữ đường Lai Châu - Điện Biên; cụm Him Lam trấn giữ đường Tuần Giáo - Điện Biên. Hai cụm cứ điểm này cùng với đồi Bản Kéo hợp thành 3 vị trí vành ngoài bảo vệ phân khu Trung tâm từ Tây Bắc sang Đông Bắc.

- Phân khu Nam Hồng Cúm có một tiểu đoàn âu Phi chiếm giữ và 1 tiểu đoàn lê dương dự bị cơ động, có 1 sân bay phụ, một cụm pháo binh có 1 đại đội 105mm, 1 đại đội cổi 120mm có thể bắn yểm trợ cho phân khu Trung tâm). Đặc biệt chú ý, cụm cao điểm phía Đông và phân khu Trung tâm. Địch dựa vào hệ thống cao điểm này tổ chức thành 2 trung tâm đề kháng lợi hại. Đây là khu mạnh nhất và quan trọng nhất chĩa phân khu Trung tâm và của cả tập đoàn cứ điểm.

B- MẠNH YẾU CỦA TẬP ĐOÀN ĐIỆN BIÊN PHỦ

* Mạnh:

1- Địa hình Điện Biên Phủ phù hợp với tổ chức phòng ngự lại ở một địa bàn chiến lược. Có ưu thế về pháo binh, xe tăng và không quân.

2- Tổ chức hệ thống cứ điểm, cụm cứ điểm ở cự ly phù hợp, liên kết chặt chẽ để chi viện cho nhau khi bị tấn công.

3- Tổ chức hệ thống hoả lực pháo binh phù hợp với tính chất phòng ngự ở tập đoàn cứ điểm, có hoả lực pháo binh, súng cối biên chế và tăng cường cho cứ điểm. cụm cứ điểm, có hoả lực chi viện của tập đoàn cứ điểm với cứ điểm. Tổ chức cụm hoả lực pháo binh ở phân khu Trung tâm và phân khu Narn (Hồng Cúm) để chi viện cho nhau.

4- Ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, bình thường được 156 máy bay cường kích chi viện. Cao điểm được tới 227 lần chiếc cường kích chi viện.

Tháng 1 và tháng 3-1954 nhiều nhân vật quan trọng của Mỹ, Anh, Pháp lên thăm Điện Biên Phủ đều lạc quan tin tưởng Điện Biên Phủ được phòng thủ như vậy sẽ đứng vững. Na-va nói: "Các tướng lĩnh Mỹ, Anh, Pháp sang Điện Biên Phủ không khỏi kinh ngạc về sức mạnh phòng thủ mà không thể không tỏ ra cảm tình với tôi".

* Yếu:

1- Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ xa hậu phương. Bảo đảm hậu cần, kỹ thuật hoàn toàn phải dựa vào đường không.

2- Vật liệu xây dựng trận địa chủ yếu bằng gỗ đất, tôn mỏng, không chịu được công phá của hoả lực pháo binh, súng cối. Các trận địa pháo binh của địch lộ thiên nên dễ bị uy hiếp và phá huỷ.

3- Tổ chức các cứ điểm, cụm cứ điểm, trận địa pháo binh, bãi đỗ xe vận tải, xe tăng, kho hậu cần, kỹ thuật... ở trung tâm Mường Thanh quá dày nên dễ bị sát thương bởi pháo binh ta và thường xuyên bị khống chế.

 

2. PHÁO BINH CHUẨN BỊ TIẾN CÔNG ĐIỆN BIÊN PHỦ

A - PHƯƠNG CHÂM ĐÁNH NHANH GIẢI QUYẾT NHANH

Ngày 15-12-1953 sau khi đánh giá tình hình, Quân uỷ đã nhọn điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược trong kế hoạch Đông Xuân 1953-1954. Ngày 14-1-1954, Bộ tham mưu chiến dịch triệu tập hội nghị cán bộ để Bộ chỉ huy chiến dịch giao nhiệm vụ và quán triệt quyết tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị là: "Tập trung ưu thế binh, hoả lực tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ”.

Lực lượng có các đại đoàn 308, 312, 316, 351, 304 đã chiếm lĩnh vị trí chung quanh Điện Biên Phủ hình thành thế bao vây.

Phương án tác chiến là tập trung ưu thế binh hoả lực tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Mường Thanh, theo phương châm đánh nhanh giải quyết nhanh trong 2 đến 3 ngày, đêm. Theo 2 bước, bước 1 tiêu diệt địch ở các cứ điểm phía Tây và phía Bắc. Bước 2: Tiêu diệt địch còn lại ở phía Đông và Đông Bắc, Đông Nam.

* Nhiệm vụ các đơn vị

- Đại đoàn 308: Tiến công trên hướng chủ yếu từ hướng Tây và Tây Nam vào trung tâm Mường Thanh.

- Đại đoàn 312: Tiến công từ hướng Bắc tiêu diệt cứ điểm Độc Lộc, Bản Kéo, Căng Na tới khu sân bay.

- Đại đoàn 316: Phối hợp với hướng chủ yếu tiêu diệt địch ở khu trung tâm Mường Thanh.

- Đại đoàn 351: Gồm trung đoàn lựu pháo 105mm,Trung đoàn pháo cao xạ 37mm, chi viện đội hình chiến dịch tấn công vào trung tâm Mường Thanh, tiêu diệt các hoả lực và công sự địch. Trung đoàn sơn pháo 75mm, cối 120mm tăng cường cho các trung đoàn trực tiếp đi cùng bộ binh chi viện chiến đấu.

Thực hiện quyết tâm và phương châm trên, phải mở đường kéo pháo từ đường 42 Nà Nham qua đỉnh Pha Sông (1150) xuống Bản Tấu - Ngưu Nhai, dài 15km rộng 3m, thời gian 1 ngày 1 đêm. 5.000 cán bộ chiến sĩ công binh, pháo binh, bộ binh bằng quyết tâm và sức lao động phi thường chưa đầy 1 ngày đêm con đường đã hoàn thành để kéo pháo vào trận địa. Đường kéo pháo làm đúng tiêu chuẩn nhưng quá nhiều đèo, độ dốc có chỗ tới 60 độ, một bên là vực sâu. Thời gian kéo pháo vào trận địa không còn nhiều, Bộ chỉ huy Đại đoàn 351 hạ quyết tâm bằng giá nào cũng phải hoàn thành kéo pháo đảm bảo chiếm lĩnh trận địa đúng thời gian dự kiến nổ súng mở màn chiến dịch. Do đó quyết định kéo thử 1 khẩu pháo lựu 105mm, 1 khẩu pháo cao xạ 37mm để rút kinh nghiệm. Tổ chức 20 chiến sĩ bộ binh kéo 1 khẩu, 10 chiến sĩ pháo thủ đẩy pháo, nâng càng và chèn pháo, ở vạt đất bằng ở cửa rừng Nà Nham kéo pháo đi dễ dàng nhưng đến dốc nhỏ 15-20 độ pháo chỉ nhích từng phân khá nặng nề.

Chỉ huy kéo pháo quyết định tăng lên 30-40 người kéo 1 khẩu pháo, những dốc lớn 40-50 độ/hàng trăm người kéo 1 khẩu cũng nhích từng phân. Ngày 23-1-1954, đồng chí tham mưu trưởng chiến dịch đi kiểm tra công tác kéo pháo và chuẩn bị chiến đấu ở Đại đoàn 312 và 351. Đồng chí thấy thời gian khó thực hiện đúng kế hoạch nên đã bàn với tư lệnh Đại đoàn 351 thay đổi một số vị trí bố trí pháo để kịp thời gian nổ súng. Tuy vậy, trước ngày nổ súng (25-1) pháo binh ta vẫn chưa vào đầy đủ ở trận địa.

Trong khi đó tình hình địch cũng đã có thay đổi, trước khi ta kéo pháo vào địch có 9 tiểu đoàn, nay đến 12 tiểu đoàn. Hai tháng chiếm đóng Điện Biên Phủ, địch đã xây dựng trận địa phòng ngự vững chắc.

Trước tình hình thay đổi của địch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp Tổng tư lệnh kiêm Tư lệnh chiến dịch trao đổi với cố vấn Vi Quốc Thanh nên thay đổi phương châm, cách đánh, đồng chí cố vấn suy nghĩ và nhất trí. Đại tướng hỏi ý kiến một số cán bộ cao cấp như các đồng chí trong Bộ tư lệnh Đại đoàn 312 băn khoăn chưa thật yên tâm về cách đánh, đánh nhanh thắng nhanh như hiện nay gặp nhiều khó khăn.

Trưa ngày 25-1 Đảng uỷ họp, đồng chí Bí thư (đại tướng Võ Nguyên Giáp) báo cáo những thay đổi về địch, về công tác chuẩn bị của ta và đồng chí nêu những vấn đề thảo luận: "Đã nên nổ súng chưa?", “Đánh nhanh giải quyết nhanh có bảo đảm chắc thắng không?”. Qua thời gian thảo luận, có ý kiến đánh, có ý kiến chưa nên đánh mà phát triển sang Lào, có ý kiến nên thay đổi phương châm... Sau thảo luận, Đảng uỷ nhất trì phải nắm vững tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị và căn dặn của Bác Hồ là "Đánh chắc thắng”.

Đảng uỷ chủ trương tạm dừng cuộc tấn công địch ở Điện Biên Phủ, tiếp tục chuẩn bị thêm. Đúng 1 giờ 30 phút ngày 26-1-1954, cơ quan tham mưu chuyển lệnh của Bộ chỉ huy chiến dịch cho các đơn vị: "Tạm đình chỉ cuộc tiến công, lùi về vị trí tập kết, kéo pháo ra khu vực an toàn", và báo cáo quyết định thay đổi cách đánh về Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch và được trả lời "Quyết định thay đổi như vậy là hoàn toàn đúng” và được Trung ương Đảng, Hồ Chủ tịch động viên bộ đội ra sức vượt khó khăn để giành thắng lợi.

Ngay đêm 26-1-1954, pháo binh được lệnh kéo pháo về vị trí tập kết ở km 63 theo đường kéo pháo vào, từ cán bộ đến chiến sĩ pháo binh đều thắc mắc nhưng không ai nói ra và đều xác định chấp hành nghiêm mệnh lệnh. Kéo pháo vào cực kỳ gian khổ nhưng không ác liệt, kéo pháo ra vừa gian khổ vừa ác liệt (suốt ngày đêm pháo binh địch bắn phá những nơi nghi ngờ máy bay trinh sát, ngày đêm trinh sát để phát hiện ta và gọi cho pháo bắn và thả pháo sáng...).

Ngày 5-2-1954, 48 khẩu pháo 105mm và 37mm cao xạ đã về khu tập kết an toàn tại km 63. Như vậy nhiệm vụ "kéo pháo vào, kéo pháo ra của quân ta đã đại thắng lợi”, niềm vui lớn đối với các đơn vị được Đại tướng Tổng tư lệnh, chỉ huy trưởng chiến dịch đến thăm và chúc Tết. Đại tướng, căn dặn pháo binh và pháo cao xạ, phải khắc phục khó khăn chuẩn bị tốt giữ gìn vũ khí tốt, hiệp đồng chặt chẽ với bộ binh:

B- CHUẨN BỊ CHIẾN ĐẤU PHÁO BINH VỚI PHƯƠNG CHÂM ĐÁNH CHẮC TIẾN CHẮC

Ngày 7-2-1954 Bộ tham mưu chiến dịch triệu tập hội nghị cán bộ để quán triệt phương châm tác chiến: "Đánh chắc tiến chắc". Kế hoạch chuẩn bị chia thành 3 đợt:

Đợt 1: Quán triệt phương châm đánh chắc tiến chắc.

Đợt 2: Tích cực chuẩn bị mọi công tác chuẩn bị, khống chế sân bay địch, phát triển hoạt động nhỏ thường xuyên của bộ binh, phá sân bay, kho tàng, tích cực tiêu hao địch, tiêu diệt cực cứ điểm ngoại vi Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo.

Đợt 3: Tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ. Ngay trong đêm 7-2, Tổng tham mưu trưởng giao nhiệm vụ cho pháo binh, công binh:

- Bố trí hoàn chỉnh hệ thống trận địa pháo binh cơ giới 105mm, hệ thống đài quan sát. Trận địa pháo chỉ được bố trí cách trung tâm Mường Thanh 7km.

- Các đài quan sát cũng đưa lên phía trước gần địch, bảo đảm quan sát tốt nhất.

Thực hiện nhiệm vụ, ngày 7-2-1954, toàn mặt trận dốc sức vào công tác chuẩn bị cho chiến dịch "Trần Đình" quyết thắng: pháo binh - Công binh - Bộ binh tiếp tục mở đường với chiều dài là 67km cho việc kéo pháo chiếm lĩnh trận địa.

Vấn đề xây dựng trận địa pháo binh thật vĩ đại sáng tạo và cũng thật gian khổ, với yêu cầu kiên cố vững chắc. Mỗi hầm pháo phải đào từ 200 đến 300m khói đất đá rồi đắp lên nóc hầm dầy từ 3m đến 4m bằng nhiều lớp đất xen với lớp bó trúc Ngoài hầm pháo còn hầm ẩn nấp, hầm đạn, hầm chỉ huy, hầm hội họp sinh hoạt chung của cả đại đội; nối liền các hầm pháo là giao thông hào... Trận địa chính, trận địa giả để nghi binh thu hút bom đạn địch. Về bố trí pháo binh:

- Tiểu đoàn pháo 632, bố trí 2 đại đội 801, 802 ở Đông Tà Lèng, đại đội 803 ở cánh đồng Bản Tấu.

- Tiểu đoàn 954, bố trí 2 đại đội 804-806 tại Nà Lời (đường Tuần Giáo - Điện Biên). Đại đội 805 pr Pù Hồng Mèo.

Hệ thống đài quan sát, sở chỉ huy của Trung đoàn 45 pháo binh được bố trí: ở Bắc Him Lam cách 3.000m, Tiểu đoàn 632 ở dãy cao điểm 500 phía tây Bản Kéo. Tiểu đoàn 954 ở dãy cao điểm 564 và Long Bua ở Đông Bắc Him Lam, cách trung tâm Mường Thanh 3.000 - 4.000m tầm quan sát rộng, kiểm soát chặt chẽ hoạt động của địch ở Mường Thanh và đường từ Hồng Cúm lên Mường Thanh.

Ngày 12-3-1954 toàn mặt trận đón thư động viên của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Các chú sắp ra trận, nhiệm vụ của các chú rất to lớn, khó nhăn nhưng rất vinh quang... Bác chúc các chú thắng lợi".

 

3. DIỄN BIẾN CHIẾN DỊCH

* Đợt 1.

- Sáng 13-3 Bộ chỉ huy chiến dịch cho Đại đoàn pháo binh 351 bắn thử vào sân bay Mường Thanh và cứ điểm Him Lam.

- Đúng 17 giờ ngày 13-3 pháo binh được lệnh bắn vào Him Lam, pháo ta bắn chính xác phá nhiều công sự trận địa pháo địch.

Sau 30 phút bắn phá hoại, bộ binh ta xung phong. Sau 5 giờ chiến đấu ta đã tiêu diệt cứ điểm Him Lam, tiêu diệt tiểu đoàn 3 lê dương. Trước đây địch rất chủ quan coi thường pháo binh ta. Tên trung tá Pi-rốt chỉ huy pháo binh của tập đoàn cứ điểm có trong tay hoả lực mạnh, số đạn không hạn chế hy vọng sẽ đánh trả và tiêu diệt pháo binh ta. Tuy nhiên chúng đã không cản nổi Him Lam bị tiêu diệt. Pi-rốt bị khiển trách và y đã tự sát.

- Đêm 14-3-1954 Trung đoàn 165 của Đại đoàn 312 và Trung đoàn 88 của Đại đoàn 308 được Trùng đoàn pháo binh 45 và 2 đại đội sơn pháo 75mm và 2 đại đội cối 120mm chi viện tiến công trong vòng 1 giờ đã tiêu diệt tiểu đoàn 5 Angiêriêng, bắt sống chỉ huy, bắn rơi một máy bay địch.

Ngày 17-3 Bộ tham mưu chiến dịch triệu tập hội nghị sơ kết. Đại tướng nhận xét "Hai trận mở đầu chiến dịch lịch sử là hai trận đánh theo lối chính quy”, địch bị thất bại nặng nề, mất 2 tiểu đoàn tinh nhuệ, hai vị trí kiên cố, phòng tuyến bên ngoài bị phá vỡ, sân bay bị khống chế địch gặp nhiều khó khăn lúng túng. Thất bại sớm nhất của địch là do phán đoán sai về ta. Ta không được chủ quan, khinh địch, giữ vững quyết tâm trong những trận sắp tới, phải nắm vững phương châm "đánh chắc tiến chắc". Vinh dự cho pháo binh, được Đảng uỷ mặt trận trao cờ luân lưu của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

* Đợt 2 chiến dịch.

Chủ trương của đợt 2 là: Tập trung ưu thế, tiêu diệt các vị trì phía đông Điện Biên Phủ, chiếm toàn bộ cao điểm hình thành thế trận uy hiếp Mường Thanh tạo điều kiện chuyển sang tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân địch. Nhiệm vụ cụ thể của từng đơn vị

1 - Đại đoàn 312, được phối thuộc 2 đại đội sơn pháo 75mm, 2 đại đội cối 120mm, 1 đại đội cối 82mm. Có nhiệm vụ tiến công tiêu diệt các cao điểm E (102) D1 (210), D2 (210A), trận địa pháo ở 210 và tiểu đoàn dù nguỵ.

2- Đại đoàn 316, được phối thuộc 2 đại đội sơn pháo 75mm, 2 đại đội súng cối 120mm; phối hợp với 308, có nhiệm vụ tiêu diệt các điểm A1 (310), C1 (302), C2 (304) và tiểu đoàn dù thuộc địa (6e BPC).

3- Đại đoàn 308, phối hợp với Đại đoàn 316 và được hoả lực của đại đoàn chi viện, có nhiệm vụ tiến công khu trung tâm, phía Tây, tiêu diệt tiểu đoàn 2 nguỵ Thái (2 BAT), trận địa pháo binh và tiêu diệt đoàn 6 dù, chặn viện từ Hồng Cúm lên.

4- Đại đoàn 304, thiếu 2 trung đoàn 66 và 9; được phối thuộc Trung đoàn 188, một đại đội lựu pháo 105mm, 1 đại đội cối 120mm, 1 tiểu đoàn cao xạ 12,7mm, có nhiệm vụ bao vây chặn quân tiếp viện từ Hồng Cúm lên Mường Thanh, tiêu hao quân địch nhảy dù xung quanh phía Nam Hồng Cúm.

5- Đại đoàn pháo binh 351: Di chuyển, xây dựng trận địa lên phía trước.

- Đại đội 801, 802 tiểu đoàn 632 rời trận địa Tà Lèng sang phía Tây, sau Bản Kéo.

- Đại đội 804 tiểu đoàn 954 ở cao điểm 687 di chuyển lên Him Lam, đại đội 805 di chuyển từ đỉnh Pú Hồng Mèo xuống chân phía Nam Pú Hồng (vào gần Hồng Cúm được 2km). Đài chỉ huy pháo binh được xây dựng ở Long Bua, Bản Kéo. Có nhiệm vụ chi viện trực tiếp cho các đơn vị tấn công các cứ điểm E1, D1, D2, C1, C2, A1. Kiềm chế pháo binh địch ở Mường Thanh, Hồng Cúm.

17 giờ ngày 30-3 pháo binh ta bắn chuẩn bị 30 phút vào các cao điểm ở phía Đông và sở chỉ huy Đờ-cát. Trung đoàn 88 đã nhanh chóng tiêu diệt C1 và phát triển sang C2, Trung đoàn 174 chiếm được một phần A1. Trung đoàn 209, 141, 165 Đại đoàn 312 tiến công tiêu diệt địch và chiếm các cao điểm E, D1, D2. Ngày 4-4 đợt 2 kết thúc.

* Đợt 3 chiến dịch

- Đại đoàn 316 được phối thuộc Trung đoàn 9, (thiếu 1 tiểu đoàn) 2 đại đội súng pháo 75mm, 2 đại đội cối 120mm, có nhiệm vụ tiêu diệt A1 và C1.

- Đại đoàn 312 được tăng cường 2 đại đội 75mm, 2 đại đội cối 120mm, 1 đại đội cối 82mm có nhiệm vụ tiêu diệt các cứ điểm: 505A, 505B, 507, 508 tiến sát bờ sông Nậm Rốm.

- Đại đoàn 308 được chi viện trực tiếp của 2 đại đội lựu pháo 801 và 802, có nhiệm vụ tiêu diệt các cứ điểm: 310, 311A, 311B.

- Đại đoàn 304, có nhiệm vụ cử một tiểu đoàn chốt chặn địch ở Điện Biên chạy về Tây Trang, xiết chặt vòng vây Hồng Cúm, khống chế pháo binh địch, tiêu diệt khu C (Hồng Cúm).

- Đại đoàn pháo binh 351: Có nhiệm vụ chi viện trực tiếp cho các đại đoàn tấn công các cứ điểm Chế áp pháo binh địch chi viện cho cao xạ 37mm đánh máy bay địch yểm hộ cho bộ binh, pháo binh chiến đấu.

Đêm 1-5 Trung đoàn 98 diệt gọn C1, Trung đoàn 88 Đại đoàn 308 tiêu diệt 811A. Đại đoàn 312 tiêu diệt cứ điểm 505B, 505A, Trung đoàn 57 Đại đoàn 304 tiêu diệt khu C Hồng Cúm. Đêm 3-5 Trung đoàn 36 Đại đoàn 308 tiêu diệt cứ điểm 311B.

Sáng ngày 7-5 các đài quan sát đều báo cáo về chỉ huy cấp trên và về Bộ, địch có hiện tượng khác thường: Máy bay tiếp tế cho Điện Biên Phủ quay trở về Hà Nội (tin quân báo); Lúc 14 giờ, có nhiều tiếng nổ lớn ở khu trung tâm Mường Thanh, cờ trắng lác đác xuất hiện ở các cứ điểm. Bộ chỉ huy chiến dịch nhận định đây là triệu chứng hỗn loạn của địch, thời cơ đã tới để tổng công kích.

15 giờ ngày 7-5 cơ quan tham mưu lệnh cho các đơn vị. "chuyển sang tổng công kích trước giờ quy định", pháo binh bắn chặn khống chế cầu Mường Thanh (M1 và M2). Sẵn sàng chi viện cho bộ binh tấn công, chế áp mạnh địch ở trung tâm Mường Thanh.

15 giờ 30 phút, pháo binh bắn mãnh liệt vào các mục tiêu bộ binh tấn công trong đó có hai loạt "Rồng lửa" hoả tiễn chế áp vào trung tâm Mường Thanh.

17 giờ 30 phút ngày 07-5-1954 đồng chí Lê Trọng Tấn Đại đoàn trưởng Đại đoàn 312 báo cáo về cơ quan tham mưu đã bắt được Đờ-cát và toàn bộ cơ quan tham mưu địch. Điện Biên Phủ toàn thắng như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đánh giá "Cùng với Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, dân tộc Việt Nam lại thêm một cột mốc lịch sử mới “Điện Biên Phủ” cột mộc bằng vàng”.

 

Trung tướng VŨ CAO

Nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến,

Nguyên Đại đội trưởng Pháo binh trong chiến dịch Điện Biên Phủ

"Mobilis in Mobile" ― Jules Verne


   
Trả lờiTrích dẫn
Cadjc
(@cadjc)
Công dân
Được ưa thích
Tài sản: 311.37
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1099
 

36 NGÀY ĐÊM CHIẾN ĐẤU TRÊN ĐỒI "E" TRONG CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ

 

Năm 1946 khi mới 16 tuổi, tôi trốn khỏi nhà địa chủ xin vào bộ đội Pháo binh, thuộc Trung đoàn 174. Vì tuổi còn nhỏ, sức yếu không thể làm pháo thủ, thấy vậy trung đội giao cho tôi làm nhiệm vụ quản lý bếp ăn trung đội từ năm 1948 đến đầu năm 1950. Ba năm làm quản lý, do chưa biết chữ nên tôi thường phải dùng hòn sỏi, hạt ngô để thay cho việc ghi chép thu chi hàng ngày, nhưng không làm thâm hụt mà còn tiết kiệm cho đơn vị hơn ba trăm đồng Đông Dương lúc bấy giờ. Đến tháng 4 năm 1950 tôi được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng ba và vinh dự được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.

Sau đó tôi được chuyển sang làm pháo thủ số 2 kiêm khẩu đội phó, thuộc trung đội 1, đại đội 755, tiểu đoàn 275, Trung đoàn 675. Đại đội tôi có 4 trung đội, gồm 3 trung đội pháo, 1 trung đội đạn. Mỗi trung đội pháo có 1 khẩu sơn pháo 75mm, tầm bắn xa nhất 6km, sử dụng hiệu quả nhất khi bắn ngắm trực tiếp. Tôi vinh dự được tham gia các chiến dịch Biên giới, Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung, Hoà Bình, Tây Bắc và Thượng Lào.

Trước khi mở chiến dịch Điện Biên Phủ, đại đội tôi đang phối thuộc cho Trung đoàn 9, Đại đoàn 304, Đóng ở Đồn Vàng (Phú Thọ), làm lực lượng dự bị của chiến dịch Điện Biên Phủ và bảo vệ hậu phương. Ngày 18-3-1954 chúng tôi được lệnh hành quân gấp lên Điện Biên Phủ tham gia đợt tiến công thứ 2 của chiến dịch. Ngày 19-3, đại đội tôi hành quân với 7 xe ô tô, 3 khẩu sơn pháo và 90 viên đạn. Quân số của đại đội có 42 người, gồm 3 cán bộ đại đội, 3 cán bộ trung đội 2 liên lạc, 24 pháo thủ, 10 anh nuôi, quản lý. Lúc đó tôi được đề bạt làm khẩu đội trưởng. Như vậy, tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ mỗi khẩu đội sơn pháo 75mm của chúng tôi chỉ biên chế 9 người, kể cả trung đội trưởng. Số còn lại của đại đội nhận súng bộ binh ở lại làm nhiệm vụ khác. Chúng tôi hành quân 6 ngày đêm thì đến gần chân đồi Him Lam, được lệnh đưa pháo xuống xe. Để bảo đảm an toàn và bí mật, ban ngày chúng tôi phải giấu pháo trong rừng, khẩu pháo được tháo rời và để trong một hầm riêng.

Từ ngày 25 đến ngày 27-3 đại đội vào vị trí tập kết. Khu vực Điện Biên Phủ bắt đầu mưa, đường và giao thông hào rất trơn và lầy lội. Tám pháo thủ trong mỗi khẩu đội phải khiêng pháo với trọng lượng 500kg tháo rời ra 9 bộ phận lớn nhỏ. Theo biên chế thì 4 bộ phận lớn, mỗi bộ phận phải 4 người khiêng, 5 bộ phận còn lại mỗi bộ phận phải 2 người khiêng. Nhưng vì không đủ người nên đành phải khắc phục: bộ phận khiêng 4 người nay chỉ còn 2 người khiêng, bộ phận khiêng 2 người nay phải vác, đi dọc trong giao thông hào đầy bùn nước, dài hai cây số rưỡi. Thời gian này các đồng chí đại đội trưởng, chính trị viên đại đội và trung đội trưởng đi chuẩn bị trận địa bắn. Chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ đào công sự pháo trong hai đêm 28 và 29 tháng 3.

Ngày 30 tháng 3, ngay từ buổi trưa khẩu đội tôi cùng hai khẩu đội trong đại đội được lệnh chiếm lĩnh trận địa ban ngày. Trận địa pháo của ta bố trí gần lô cốt địch, đại đội trưởng và trung đội trưởng ước lượng cự ly bắn khoảng 150m. Sườn đồi bị bom đạn cày xới nên hầu như không có một vạt cây rất dễ bị lộ. Chúng tôi phải bò và dùng dây buộc vào các bộ phận pháo để kéo lên chiếm lĩnh. Nhiệm vụ đưa pháo chiếm lĩnh trận địa được hoàn thành và địch không phát hiện được.

17 giờ ngày 30-3-1954, bộ đội ta nổ súng mở màn đợt tiến công thứ hai của chiến dịch. Khẩu đội sơn pháo của tôi được giao nhiệm vụ tiêu diệt 4 lô cốt địch, chi viện cho bộ binh mở cửa mở và xung phong đánh chiếm đồi E, với số đạn được bắn là 30 viên, tiết kiệm thì được khen thưởng, bắn quá số đạn thì phải chịu kỷ luật. Tôi rất lo, không biết chữ, chưa sử dụng được máy ngắm, tôi phải bắn ngắm trực tiếp qua nòng pháo. Được lệnh bắn, tôi' ngắm bắn phát đầu tiên vào lỗ châu mai của lô cốt thứ nhất. Đạn gần, không trúng mục tiêu. Tôi quan sát thấy đạn nổ còn cách lỗ châu mai khoảng 10m. Tôi đề nghị được tăng thước tầm 160m và thay đổi điểm ngắm. Tôi bắn phát thứ 2, viên đạn chui thẳng vào lỗ châu mai, lô cốt 1 bị tiêu diệt. Được lệnh, tôi chuyển sang bắn lô cốt 2, 3, 4. Khẩu đội tôi bắn hết 22 viên đạn thì 21 viên đều chính xác, diệt được 4 lô cốt và tiết kiệm được 8 viên đạn, chi viện đắc lực cho đơn vị bộ binh của Trung đoàn 209 hoàn thành nhiệm vụ đánh chiếm đồi E sau gần 1 giờ chiến đấu.

Sau trận đánh tiến công tiêu diệt cứ điểm trên đồi E thắng lợi, tôi vinh dự được tặng thưởng Huy hiệu của Bác Hồ và Huân chương Chiến công hạng ba.

Đêm ngày mồng 2-4 -1954, 3 khẩu đội pháo của đại đội 755 chúng tôi được lệnh lên đồi E làm nhiệm vụ. Quân số của đại đội lúc này chỉ có 30 người. Nhiệm vụ của sơn pháo 75 là ngắm bắn trực tiếp diệt pháo, xe tăng và bộ binh địch tăng viện phản kích. Các khẩu đội được bố trí trong công sự có nắp, kín đáo, địch không thể phát hiện được kể cả ban ngày khi ta chưa nổ súng.

Từ ngày 5-4 đến ngày 17-4 khẩu đội 1 của tôi được cấp trên lệnh cho là hàng ngày phải thực hiện bắn thăm dò hoả lực của địch bố trí ở những chỗ nào, khi có thời cơ thì tiêu diệt. Sau 12 ngày đêm, khẩu đội tôi chỉ còn lại 4 đồng chí, 5 đồng chí khác đã bị thương vong. Các khẩu đội 2 và 3, quân số còn nguyên (9 đồng chí) vì hai khẩu đội đó chưa được lệnh chiến đấu, vẫn giữ bí mật lực lượng.

Thời gian này các đơn vị bộ binh, công binh ngày đêm chiến đấu, làm việc quên mình đào chiến hào và hầm chia cắt bao vây, xiết chặt phạm vi Đóng quân của địch; đồng thời kiên quyết đánh lui các cuộc phản kích của chúng. Cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra vô cùng ác liệt, một vài anh em có biểu hiện dao động, tôi có lúc tưởng chừng không sống nổi. Nhưng được nguồn động viên từ chiếc Huy hiệu của Bác đang đeo trên ngực, được sự giáo dục động viên kịp thời của cán bộ cấp trên và đồng đội, chúng tôi đã kiên cường bám trụ, vượt qua mọi khó khăn gian khổ, củng cố lực lượng và tinh thần, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, góp phần giành toàn thắng cho chiến dịch.

12 giờ ngày 23-4-1954, đại đội tôi được lệnh tập kích trận địa pháo 105mm của địch (4 khẩu) đang bắn vào đội hình của bộ binh ta đang đánh cắt sân bay Mường Thanh. Trận địa pháo của địch nằm bên cạnh sông Nậm Rốm, cách khẩu đội tôi khoảng 250m. Lúc Đó pháo địch kéo ra ngoài công sự. Sau khi chuẩn bị xong, khẩu đội 2 và khẩu đội 3 mở lỗ châu quai (miệng hầm pháo). Xe tăng địch phát hiện thấy và bắn trúng vào hai khẩu đội. Cả 2 khẩu đội 2 và 3 pháo đều bị hỏng, không chiến đấu được. Các pháo thủ của 2 khẩu đội đều bị thương vong (7 đồng chí hy sinh, 11 đồng chí bị thương). Lúc này khẩu đội 1 của tôi chỉ còn 4 đồng chí. Đại đội gọi tôi lên hầm giao nhiệm vụ và thông báo cho tôi biết tổn thất của đại đội. Nghe tin này, tôi đã khóc vì căm thù bọn giặc Pháp, vì thương tiếc đồng đội và hứa với đại đội trưởng, với chính trị viên đại đội là quyết tâm trả thù cho đồng đội, sẽ chiến đấu đến giọt máu cuối cùng. Tôi tự nhủ phải biến hai đòng nước mắt thành hành động cách mạng, phải giừ vững ý chí của người đảng viên cộng sản, quyết tiêu diệt bằng được 4 khẩu pháo của địch.

Tôi ngắm khẩu thứ nhất của địch, bắn 3 phát, trúng cả 3 viên. Khẩu 1 của địch bị diệt gọn. Địch phát hiện được khẩu đội tôi tập trung hoả lực bắn sập miệng cửa hầm pháo, làm cho khẩu đội tôi không bắn được nữa. Tôi thoát ra khỏi công sự, mở lại cửa hầm pháo (lỗ châu mai), sau 10 phút lại có thể bắn được.

Tôi ngắm bắn khẩu thứ 2 của địch. Phát 1 chưa trúng pháo, nhưng trúng hầm đạn nên gây cháy nổ lớn. Phát thứ 2 và thứ 3 bắn trúng pháo và khẩu 2 đã bị tiêu diệt. Đại liên của địch bắn như vãi đạn về phía chúng tôi. Một đồng chí trong khẩu đội tôi bị thương gãy tay. Tôi cử đồng chí Chài dìu đồng chí bị thương về phía sau chân đồi E. Tôi quay nòng pháo bắn trúng 2 khẩu đại liên của địch. Tôi giục đồng chí Lý Văn Pao, khẩu đội phó, kiêm pháo thủ nạp đạn chạy theo đồng chí bị thương, báo tin đại liên của địch đã bị tiêu diệt cho anh em mừng và yên tâm.

Còn một mình tôi với khẩu pháo tôi vẫn kiên quyết tiến công. Tôi ngắm khẩu thứ 3 của địch, tự mình nạp đạn và bắn liền 3 phát. Khẩu 3 đã bị tiêu diệt hoàn toàn.

Đồng chí Pao quay lại báo tin cho tôi là đồng chí Chài bị thương gãy xương. Tôi nói với đồng chí Pao: "Ta là 2 đảng viên, phải chiến đấu đến giọt máu cuối cùng. Địch còn một khẩu nữa thôi...".

Xe tăng của địch bắn nhiều phát gần trúng vào lỗ châu mai. Tôi hô Pao lui ra khỏi công sự đồng thời nhanh tay lấy bao tải đất bịt vào lỗ châu mai. Tôi lấp được bao thứ 5 thì địch bắn trúng 5 tải đất, sức ép của đạn pháo địch làm tôi bất tỉnh. Tôi được cán bộ đại đội và Pao cấp cứu. Một lúc sau tỉnh lại, tôi hỏi Pao và đại đội là pháo có bị hỏng không? Tự nhiên tôi khoẻ lên. Nhìn xuống khẩu pháo thứ 4 của địch, chúng đang kéo vào trong hầm.

Tôi báo cáo đại đội và hô đồng chí Pao vào vị trí chiến đấu. Tôi bắn 1 phát trúng ngay khẩu pháo thứ 4 của địch. Tôi nghe tiếng hô: "Trúng rồi. Bắn Bắn 2 phát nữa cho chúng nó tan xác hết...".

Tôi và Lý Văn Pao bắn 15 viên đạn tiêu diệt được 4 khẩu pháo 105mm; 2 khẩu đại liên của địch, tiết kiệm được 15 viên đạn.

Đại đội trưởng ra lệnh cho 2 chúng tôi: “Tháo pháo ra, phân tán vào hầm ếch trong giao thông hào; lấy tất cả bao tải đất bịt kín lỗ châu mai". Tôi và Pao đang kéo khẩu sơn pháo lui nòng vào trong công sự thì xe tăng địch bắn trúng nắp phải công sự. Đồng chí Pao bị cắt mất đi bàn chân trái. Đồng chí Pao đi quân y điều trị và sau khi ra viện về địa phương theo chính sách phục viên.

Từ ngày 26-4 trở đi, ở trên đồi E chỉ còn có đồng chí đại đội trưởng, chính trị viên đại đội, tôi và khẩu sơn pháo 75mm tiếp tục chiến đấu chi viện đắc lực cho bộ binh cho đến khi chiến dịch hoàn toàn thắng lợi.

36 ngày đêm chiến đấu trên đồi E trong chiến dịch Điện Biên Phủ, khẩu đội tôi đã chiến đấu dũng cảm tiêu diệt 4 lô cốt, 5 khẩu pháo 105mm, 6 khẩu đại liên, 1 kho đạn và nhiều sinh lực địch, hoàn thành nhiệm vụ chi viện cho bộ binh chiến đấu tiến công và phòng ngự thắng lợi. Tôi được tặng thưởng 3 Huân chương Chiến công (2 hạng ba, 1 hạng hai).

Sau chiến dịch Điện Biên phủ toàn thắng, tôi rất vinh dự là một trong hai đồng chí được Đại đoàn công pháo 351 đưa lên chiến khu cách mạng chúc thọ Bác Hồ nhân dịp ngày 19-5-1954. Trong buổi gặp này, Bác thay mặt Chính phủ gắn Huy hiệu chiến sĩ Điện Biên Phủ cho các đại biểu xuất sắc của các đại đoàn. Bác căn dặn: "Chớ vì thắng mà kiêu, chớ chủ quan khinh địch. Các chú đâ lập thành tích xuất sắc trong chiến dịch Điện Biên Phủ, các chú phải luôn khiêm cón, giản dị, chân thành, trung thực, thật thà và thẳng thắn học hỏi mọi người để tiến bộ...". Lời căn dặn của Bác đã chỉ cho tôi đi suốt cả cuộc đời.

Gần 42 năm quân ngũ, hơn 50 tuổi đảng, tôi được Đảng, Bác Hồ giáo dục và rèn luyện. Tôi rất vinh dự tự hào được Đóng góp một phần sức lực nhỏ bé của mình vào 3 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và bảo vệ biên giới của Tổ quốc. Kỷ mềm trong đời tôi có nhiều, nhưng có lẽ kỷ niệm sâu sắc nhất của tôi là cuộc chiến đấu 36 ngày đêm trên đồi E kể trên.

Nửa thế kỷ đã trôi qua, bạn chiến đấu Điện Biên Phủ của tôi người còn, người mất. Chúng tôi đều đã qua lứa tuổi “thất thập cổ lai hy". Nhân kỷ niệm 50 chiến thắng lịch sử. Điện Biên Phủ, tôi viết bài này không chỉ kể lại những chiến công của bộ đội ta nòi chung, đơn vị tôi nói riêng mà muốn nói lên rằng chiến thắng vĩ đại Đó đã giành được bằng biết bao xương máu của cả dân tộc. Có chiến thắng Điện Biên Phủ là vì có Đảng anh hùng, nhân dân anh hùng và quân đội anh hùng. Chúng ta không được bao giờ quên những người con yêu quý của Tổ quốc đã hiến dâng một phần máu thịt của mình hoặc đã hy sinh anh dũng cho huyền thoại Điện Biên Phủ của chúng ta trở thành bất tử.

 

Đại tá PHÙNG VĂN KHẨU,

Anh hùng Quân đội

nguyên cán bộ Binh chủng Pháo binh,

nguyên Khẩu đội trưởng trong chiến dịch Điện Biên Phủ

"Mobilis in Mobile" ― Jules Verne


   
Trả lờiTrích dẫn
Cadjc
(@cadjc)
Công dân
Được ưa thích
Tài sản: 311.37
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1099
 

CÔNG TÁC BẢO ĐẢM HẬU CẦN, KỸ THUẬT PHÁO BINH TRONG CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ

 

Tháng 3-1951 Đại đoàn công pháo được thành lập, theo đó phòng cung cấp đại đoàn cũng được thành lập (do đồng chí Đặng Đình Thức làm trưởng ban), có nhiệm vụ bảo đảm vật chất sinh hoạt đời sống và bảo đảm kỹ thuật cho đại đoàn.

Qua nhiều chiến dịch, công tác bảo đảm hậu cần ngày càng trưởng thành mau chóng đáp ứng được những nhu cầu bảo đảm đời sống sinh hoạt và bảo đảm kỹ thuật cho pháo binh đánh giỏi bắn trúng góp phần tích cực tiêu diệt sinh lực địch trên các chiến trường. Đặc biệt phòng cung cấp còn được tiếp nhận 2 xưởng sửa chữa súng pháo của Cục Pháo binh là xưởng Lê Tổ và xưởng Lũng Phầy, đã góp phần đắc lực về bảo đảm kỹ thuật cho các đơn vị pháo binh.

Bước vào năm 1953, để phục vụ cho pháo binh chi viện bộ binh tác chiến hiệp đồng, đánh công sự vững chắc và đánh vận động tiêu diệt chủ lực của địch, ngoài Trung đoàn 675 ra còn Trung đoàn 45 pháo binh cơ giới và Trung đoàn 237 súng cối 106,7mm, Trung đoàn 151 công binh, như vậy công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật ngày càng phát triển về quy mô tổ chức, nhiệm vụ mới mẻ và nặng nề. Đáp ứng yêu cầu đó phòng hậu cần pháo binh được củng cố thành 6 ban (văn thư, tài vụ quân nhu, quân y, quân khí, và ban vận tải, bệnh xá), lúc này có thêm đồng chí phó phòng Nguyễn Văn Toàn, các trương ban đều là những người dày dạn kinh nghiệm được rút từ đơn vị lên. Phòng còn có một xưởng tổng hợp do đồng chí Nguyễn Phớt phụ trách được gọi là Tiểu đoàn 361, xưởng gồm các phân xưởng kỹ thuật cơ khí súng pháo, đạn, khí tài quang học, đại đội vận tải xe và máy nổ.

* Trước chiến dịch

Việc tổ chức phối hợp với các cơ quan chỉ đạo bảo đảm cho xe pháo, khí tài hành quân bằng đường sông của Trung đoàn 45 là một kỳ công trong đó có sự đóng góp to lớn của hậu cần pháo binh mà xưởng 361 nổi bật lên trong khâu bảo đảm kỹ thuật, đây là những kinh nghiệm quý báu cho việc chỉ đạo bảo đảm ở chiến dịch Điện Biên Phủ. Trên chặng đường sông, dài 90km từ Lào Cai về Âu Lâu (Yên Bái) qua gần 30 thác ghềnh rất nguy hiểm, toàn bộ xe pháo được tháo gỡ cùng khí tài được nguỵ trang chu đáo để bí mật bất ngờ "ẩn lặng như tờ để rồi đánh mạnh như sét".

Để hoàn thành được nhiệm vụ trên, cơ quan hậu cần đại đoàn đã tung vào chiến dịch rất nhiều cán bộ hậu cần xuất sắc nhất, cùng Trung đoàn phó 45 Nguyễn Thước trực tiếp chỉ huy và lực lượng công binh của Trung đoàn 151 thực hiện kế hoạch. Toàn bộ lực lượng thợ xe, pháo mới cũ được tập hợp thành 1 đội gần 50 người do đồng chí Lưu Tiến Sửu phụ trách để tháo gỡ xe pháo. Bên cạnh đồng chí Sửu còn có các đồng chí Miệng, Thanh, Báo... những cán bộ kiêm thợ pháo lâu năm giúp tháo, lắp bảo đảm an toàn chính xác khi sử dụng (theo chúng tôi đây là việc làm táo bạo mà thời điểm đó, thế giới chưa có ai làm).

Hầu như cả Tiểu đoàn 361 đều tập trung suốt ngày đêm, các dụng cụ thiết bị phương tiện như tời, cẩu pa-lăng, xà beng, dao, cuốc xẻng... phục vụ cho 4 công trường ngày đêm hoạt động. Cùng với bảo đảm kỹ thuật, phòng cung cấp còn tổ chức bảo đảm lương thực, thực phẩm, thuốc men quân y để bảo đảm sức khoẻ cho bộ đội, đồng thời xuất tiền cho việc chi tiêu khai thác gỗ, nứa vầu, tre, mây, xẻ ván Đóng bè mảng và việc huy động thuyền chở pháo. Từ việc chỉ đạo và bảo đảm hậu cần cho kế hoạch xe pháo xuôi bè, Phòng Cung cấp đại đoàn rút ra nhiều kinh nghiệm quý là:

1- Công tác bảo đảm kỹ thuật cho tháo dỡ, xếp, bốc xe pháo khí tài đạn dược hành quân đường sông, đặc biệt là việc tháo và lắp lại đảm bảo độ an toàn và chính xác của pháo trước ngày vào chiến dịch.

2- Trong chỉ đạo và bảo đảm khâu tổ chức chỉ huy và việc kiểm tra giám sát đôn đốc là việc có ý nghĩa quyết định.

3- Chiến tranh nhân dân hậu cần tại chỗ là sức mạnh to lớn đối với công tác hậu cần.

4- Khâu tổ chức cán bộ là quyết định. Những gương mặt nổi lên trong kế hoạch pháo xuôi bè là các đồng chí Đặng Đình Thức, Nguyễn Thước, Lưu Tiến Sửu, Nguyễn Đăng Báo, Phan Văn Miệng, Phùng Huy Thanh, Lê Hồng...

Bài học này là tiền đề đắc lực cho công tác hậu cần ở chiến dịch Điện Biên Phủ.

* Thu đông 1953

Trước ngày vào chiến dịch, Phòng Cung cấp đại đoàn có cuộc họp quan trọng, phổ biến một số tiêu chuẩn quy định mới về công tác bảo đảm hậu cần cho các đơn vị và cơ quan trực thuộc. Đó là:

- Lương thực được bảo đảm từ 800gam lên 900gam/người/ ngày cho các đôi tượng vận tải ô tô, bốc xếp... (quy thành tiền).

- Các đối tượng thương binh, làm việc ban đêm mật mã, vô tuyến điện, lái xe...) được tăng thêm phụ cấp nghề nghiệp. Riêng lái xe được phân loại, lái xe loại 1: 30kg gạo, loại 2: 25kg, lái phụ 20kg.

- Quân trang được bảo đảm theo tiêu chuẩn, có thêm ba lô dây lưng, khăn mặt, bi đông.

Trong cuộc họp này Phòng Cung cấp cũng phổ biến hướng dẫn cho các ngành chức năng của cơ quan và hậu cần các trung đoàn tình hình nhiệm vụ trước mắt, kế hoạch tiến hành và những việc cần làm ngay để chuẩn bị sẵn sàng cho chiến dịch, đặc biệt là công tác bảo đảm kỹ thuật cho 2 khẩu pháo 105mm tham gia chiến dịch Hoà Bình (đại đội 119) và 2 khẩu 105mm chiến lợi phẩm từ chiến dịch Cao Bắc Lạng để bổ sung cho Trung đoàn 45 đủ 24 khẩu.

Ban quân khí kiểm tra kho tàng, chia lô đạn dược, cùng kíp !ưu động đi kiểm tra tình hình pháo, đạn và khí tài của các đơn vị, tiến hành sấy lại thuốc phóng (do đêm 30 Tết khi hành quân xuôi bè thuyền bị đắm nên trước khi đi chiến dịch phải sấy lại thuốc phóng). Do tình hình khẩn trương, lực lượng phát triển nhanh, cán bộ thiếu nên phải phát huy tinh thần chủ động sáng tạo của hậu cần cấp dưới để hoàn thành kế hoạch. Riêng d361 (xưởng 361) có nhiệm sẵn sàng đáp ứng yêu cầu sản xuất, sửa chữa phục vụ cho các đơn vị và nhanh chóng bảo dưỡng kịp thời khí tài quang học, ống - nhòm, máy ngắm.

Cuối tháng 11 theo lệnh của đại đoàn, Phòng Cung cấp tổ chức thành phân ban cung cấp (tiền phương và hậu phương). Bộ phận tiền phương do đồng chí Đặng Đình Thức và đồng chí Đào Hữu Liêu phụ trách, cùng 25 đồng chí. CÓ nhiệm vụ chính là bố trí địa điểm tập kết kho tàng, lương thực, thuốc men, quân y, tải thương... trong phạm vi từkm 68 trở vào. Bộ phận hậu phương do đồng chí Nguyễn Văn Toàn đảm nhiệm, có nhiệm vụ khai thác tiếp nhận hàng của Tổng cục Cung cấp chuyển ra tiền tuyến (từ Tuyên Quang lên Điện Biên Phủ).

Ngày 20-12-1953, Chính uỷ Đại đoàn và Trung đoàn trưởng 45 đi nhận nhiệm vụ: "Phải bảo đảm an toàn, tuyệt đối bí mật trong hành quân đưa được người và xe pháo tới đích coi như đạt 60% thắng lợi". Việc bảo đảm của Phòng Cung cấp tiền phương là lo cho Trung đoàn 45 cơ động trong điều kiện xe kéo pháo thiếu nhiều lại hư hỏng nặng (có xe từ chiến dịch Biên Giới già nua vẫn phải sử dụng nhất là xe GMC, hầu hết phanh chân kém, hỏng, săm lốp yếu trong điều kiện đường xa, dốc cao trơn lầy...). Tuy nhiên sự bổ sung kịp thời của trên đối với pháo binh cũng lớn “Đại đoàn được phép huy động lực lượng kể cả bộ binh, công binh) dân công, các đoàn xe của Cục Vận tải, thuyền phà... bảo đảm cho xe, pháo tới đích".

Ngày 22-12 -1953 pháo binh cơ giới đã lên đường. Mỗi tiểu đoàn pháo đủ 12 xe kéo pháo, 1 xe chở trung đội thông tin quan trắc, 1 xe chở nuôi quân và lương thực, quân nhu và 1 xe chở đạn. Về bảo đảm xăng dầu, mỗi xe có đủ 140 lít trong thùng và 200 lít dự trữ, dọc đường có trạm tiếp xăng. Mỗi xe có từ 4-6 xích trong đó có 1-2 xích kép và 2 tấm ghi lát sân để chống trơn lầy. Mỗi đại đội pháo có 1 tổ thợ 1-2 người để sửa chữa hư hỏng. Mỗi xe có 3 người: 1 lái chính, 1 thứ xe, 1 phụ xe.

Mỗi tiểu đoàn bố trí 1 xe có tời để sẵn sàng cứu kéo. Sau đội hình của trung đoàn có 1 xe công trình gồm kíp thợ hàn, tiện, nguội, gò... có máy tiện và máy phát điện để sẵn sàng sửa chữa lớn trên đường. Cuối đội hình là 1 xe cẩu (cẩu được 3 tấn) để giải quyết bất trắc. Bộ phận xe công trinh và xe cẩu do đồng chí Lê Hồng phụ trách. Về pháo, mỗi xe có 2 hòm dụng cụ pháo, cọc chuẩn, đèn dấu... mỗi đại đội pháo có 1 lốp pháo dự phòng. Mỗi xe chở 2 cơ số đạn (80 viên). Mỗi tiểu đoàn có 3 - 4 thợ pháo. Toàn bộ súng pháo khí tài quang học đạn dược do đồng chí Phạm Hữu Đính Trưởng Ban quân khí chiến dịch phụ trách. Mỗi xe kéo pháo đều có 4 chèn (2 cho xe, 2 cho pháo).

Về bảo đảm hậu cần, mỗi xe được bố trí chở từ 1 - 2 tạ gạo cùng muối, đỗ xanh. Mỗi đại đội pháo có 1 tổ nuôi quân kêm theo dụng cụ cấp dưỡng và thực phẩm. Mỗi tiểu đoàn đều có 1 xe hậu cần đi cuối đội hình chở lương thực, thực phẩm và nhu yếu phẩm... lợn được đóng cũi mang theo và mua bổ sung ở dọc đường. Tất cả bếp nấu đều phải đào bếp Hoàng Cầm chống khói. Mỗi đại đội pháo có 1 - 2 y tá, tất cả bộ đội đều phải uống thuốc phòng chống sốt rét. Lái xe đêm được bồi dưỡng 2-3 bánh đường phên và chè cùng thuốc lá, 100% cán bộ chiến sĩ phải ngủ màn, ăn nóng, uống sôi. 100% được trang bị bi đông, giầy tất, có vải che mưa, cán bộ có áo mưa. Chiến sĩ được 6 cân gạo quy ra tiền để tiêu vặt, cán bộ tiểu đội 8 cân, cán bộ trung đội 10 cân, cán bộ đại đội 12 cân, cán bộ tiểu đoàn 14 cân, cán bộ trung đoàn 16 cân... Cán bộ tiểu đoàn trở lên được ăn trung táo, mũ có lưới ngụy trang (cán bộ trung đoàn không có lưới) mỗi chiến sĩ được 1 áo trấn thủ. Bài thơ của đồng chí Trương Vĩnh Thăng, a trưởng lái xe ca ngợi về công tác bảo đảm hậu cần ở chiến dịch Điện Biên Phủ

… "Pháo binh đi đánh Điện Biên
Lái xe, quan trắc ưu tiên hàng đầu
Giết lợn có tim gan xào
Miệng ngon, miệng bổ dồn vào lái xe
Thức đêm thì có nước chè
Chè sao suối cát miền quê Đại Từ
Đường phên ba bánh ngọt lừ
Chè đường thuốc lá tỉnh giờ lái đêm".

Trên đường hành quân vào chiến dịch, với tinh thần từng đơn vị chủ động sáng tạo khắc phục khó khăn tự bảo đảm là chính, chỉ yêu cầu trên bảo đảm khi vượt quá khả năng. Bộ phận tiền phương chủ yếu làm công tác chỉ đạo và giữ vững mối liên lạc hiệp đồng với Tổng cục Cung cấp để nhận sự chi viện bảo đảm như xăng dầu, lương thực, thuốc men, quân trang... bằng mệnh lệnh (phiếu giao trực tiếp cho các đơn vị đi lấy). Bộ phận hậu cứ lo khai thác và chỉ đạo đội vận tải của đại đoàn vận chuyển hàng hoá tiếp tế cho tiền phương những mặt hàng thiết yếu như thịt, vừng lạc, mắm kem, đỗ xanh... sửa chữa bổ sung cho mặt trận phụ tùng súng, pháo, đạn, xe khí tài quang học... Sơ kết công tác hậu cần đợt 1 bảo đảm hành quân tập kết và chuẩn bị cho đợt 2 chiến dịch Trần Đình cho thấy những ưu điểm chính nổi bật là:

- Bảo đảm hậu cần đời sống lương thực, thực phẩm cấp dưỡng chăm sóc sức khoẻ cho bộ đội nhất là với lái xe và công binh là tốt. Tuy vất vả thức đêm nhưng vẫn bảo đảm ăn nóng, uống sôi, nấu hầm không khói, bảo đảm an toàn bí mật.

- Lực lượng bảo đảm kỹ thuật phát huy tác dụng tốt, thường xuyên bị địch đánh phá, xe cũ hỏng hóc nhiều nhất là xe GMC, 1 số xe bị sa rê và 2 xe bị đổ (1 xe của 45, 1 xe của 367), nhưng lực lượng sửa chửa vẫn bảo đảm được tuy có hư hỏng nhẹ, nhưng người không thương vong.

- Tinh thần chủ động khắc phục khó khăn của các đơn vị nhất là người phụ trách hậu cần đã nêu cao tinh thần trách nhiệm xông xáo, chăm lo đời sống cho bộ đội cho dù vô cùng khó khăn thức đêm, ngày lại phải đào hầm giấu xe giấu pháo, bốc dỡ đạn, tồi lại bốc lên... (một đêm pháo thủ chỉ "ngủ gà ngủ vịt" được 4-5 giờ, lái xe phải thức trắng).

Tuy nhiên cũng còn tồn tại là:

- Xe hỏng hóc nhiều, phụ tùng thay thế không có, dầu phanh thiếu, có xe phải đổ nước xà phòng để thay dầu phanh, nhíp gãy nhiều không có thay, ắc quy yếu, thiếu. Những quy định về kỹ thuật với lái xe như cài số phụ khi xuống dốc, có trường hợp không chấp hành nghiêm (đã có một số trường hợp bật số phụ). Xe để lâu trong hầm nên máy phát của một số xe bị hư hỏng không hoạt động, lái xe quá căng thẳng nên bị rê, đổ xe (do ngủ gật).

- Một số vị trí hậu cần chọn chưa thích hợp, một số bộ đội không ngủ màn mà đắp màn, nước uống đêm chưa đủ, vệ sinh nơi trú quân chưa tốt...

* Nhiệm vụ tiếp theo

Hành quân vào vị trí tập kết, đường dài gần 86km từ Tuần Giáo tới Điện Biên Phủ, được xác định "Còn gay go ác liệt hơn, càng vào gần càng nguy hiểm hơn, phi pháo địch oanh tạc dữ dội..., theo chỉ thị của trên phải bảo đảm an toàn tuyệt đối". Hành quân tới đích là thắng lợi 60%... Trần Đình thắng lợi là bước ngoặt của lịch sử, nên công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật là rất quan trọng (xe pháo tới đích mà bộ đội thương vong ốm đau, 40% còn lại cũng không thắng lợi được).

Bảo đảm hậu cần, kỹ thuật cho mở đường, kéo pháo vào, kéo pháo ra (bằng tay) từ km 70 Nà Nham vào trận địa ở Nà Tấu. Hậu cần đã dốc hết lực lượng cuốc, xẻng, dao... dự trữ, huy động cả dụng cụ của pháo: xà beng, cuốc ghìm, thừng chão... Bảo đảm cho gần 5.000 người làm đường và kéo pháo. Phòng Cung cấp của Đại đoàn đã làm tốt nhiệm vụ mức ăn được bổ sung thêm 9 lạng gạo. Thương, bệnh binh được tổ chức cấp cứu kịp thời...

Đúng giờ quy định pháo đã sẵn sàng nhả đạn xong do địch phòng ngự trong công sự vững chắc nên phải thực hiện phương châm "đánh chắc tiến chắc". Phải kéo pháo ra vị trí tập kết, tiếp tục chuẩn bị. Nhiệm vụ hậu cần lúc này rất nặng: Tiếp tục bảo đảm cho kéo pháo ra, lo cho việc đào công sự vững chắc để thực hiện phương châm "đánh chắc tiến chắc", lo cho bộ đội ăn tết ở nơi tập kết. Tuy được học tập quán triệt vì sao phải rút ra, mà rút ra thắng lợi an toàn cứ như thắng trận nhưng tư tưởng bộ đội vẫn buồn...

Tết được tổ chức rất chu đáo do đội vận tải của đại đoàn từ hậu phương Tuyên Quang liên tục vận chuyển thực phẩm ra tiền tuyến lo cho cái tết hoả tuyến. Phòng Cung cấp còn cử người vào Thanh Hoá, Tuyên Quang, Đoan Hùng... để mua mắm kem, gạo nếp, đỗ xanh, lợn, bò... để gửi ra mặt trận.

Cùng với việc lo tết, hậu cần tiền phương của đại đoàn một mặt phải chỉ đạo chi viện lương thực, thực phẩm thuốc men, dụng cụ phương tiện để mở 6 con đường mới cho cơ động pháo và vận tải tiếp tế đồng thời lo tổ chức thành lập một đội thu dung để tiếp nhận điều trị phục hồi thương binh nhẹ. Thời gian này các xe kéo pháo đã giấu kín ở vị trí tập kết, 1 số xe được điều động đi chở gạo cho các đơn vị ở các kho hậu cần tiền phương của Tổng cục, để đủ gạo dự trữ đánh dài ngày.

Bước vào giai đoạn 2, đội hình của pháo binh mở rộng. Lúc này gạo không thiếu nhưng thực phẩm không có dự trữ nhiều trừ mắm kem và muối. Trời nóng lên, mưa rào, oi bức, ruồi vàng... Đạn bắt đầu thiếu, tiếp tế không kịp và phải vét các kho cũ từ chiến dịch Biên Giới, Nghĩa Lộ, Hoà Bình... để có đạn bắn, đơn vị đã chủ động phát động phong trào thu đạn địch đánh địch theo tinh thần của Bộ chỉ huy chiến dịch. Cùng với bộ binh đã thu được 3.000 đạn 105mm do địch thả dù xuống.

Trước khó khăn của hoả tuyến, ở hậu cứ Đa Toàn đã tổ chức khai thác và tiếp tế kịp thời được 3 đợt gồm mỡ, thịt ướp muối, săm pết, lạc, cá khô (hơn chục tấn). Để bảo đảm bữa ăn cho bộ đội có rau xanh anh nuôi đã tận dụng rau rừng và làm giá đỗ nên mỗi tuần cũng có được 1 vài bữa có chất rau.

* Về tổ chức cứu chữa thương bệnh binh

So với bộ binh thì pháo binh thương vong ít hơn (triêng Trung đoàn 45 số thương vong trong hành quân còn cao hơn khi chiến đấu). Tuy nhiên, số thương vong từ đợt 2 ngày càng tăng lên nhất là với Trung đoàn 675 và một số anh em trinh sát trên đài. Công tác bảo đảm tải thương cứu chứa nuôi dưỡng được coi là nhiệm vụ quan trọng nhất của hậu cần tiền phương.

Đội tải thương và đội điều trị của đại đoàn đã phát huy được tinh thần cứu chữa, chăm sóc khá tốt trong điều kiện rất khó khăn làm việc suốt ngày đêm với số bác sĩ và y sĩ, y tá cứu thương ít ỏi. Chỉ với 2 bàn mổ phải cứu chứa cho cả bộ binh và dân công.

- Những thương binh quá nặng phải chuyển về tuyến sau do điều kiện thiếu thốn phải nằm trên thùng xe "Gát 63" rải lá chuối khô để chống va xóc đau đớn cho thương binh (xe vận tải thương binh đều phải kết hợp khi xe hậu phương lên trả hàng trở vê).

- Để tăng cường việc cứu chữa cho đại đoàn, Cục Quân y đã bổ sung thêm một số y sĩ, y tá cùng các nhân viên quân y từ dân sự vào, đội điều trị có thêm các y sĩ chuyên khoa nên lưu lượng điều trị được tăng lên hàng trăm thương bệnh binh ngày/người nhất là sau khi được đổi tên là đội điều trị 10. Trong quá trình chiến dịch quân y tiền phương của đại đoàn đã cứu chữa khoảng 1.500 thương bệnh binh kể cả bộ binh và dân công).

* Về bảo đảm kỹ thuật, nổi lên một số việc như sau:

- 1 khẩu pháo 105mm của Trung đoàn 45 bị gãy càng pháo, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của quân khí tiền phương đại đoàn đã kịp thời khắc phục (phải về tận hậu cứ để lấy càng thay thê) để kịp thời chiến đấu giai đoạn 3. Một số sơn pháo bị hư hỏng đội sửa chữa lưu động cùng 1 số phụ tùng thay thế dự trữ nên vẫn bảo đảm sức chiến đấu.

- Ta phát động thu nhặt đạn địch đánh địch trong Đó có phần của cao xạ đã làm địch thả đạn lạc vào quân ta nên ta đã thu được hơn 1.000 đạn pháo 105mm để đánh địch. Địch biết và gài bẫy lại ta, chúng dùng ngòi điện tử của Mỹ nổ tức thì để phá pháo ta. Biết được âm mưu của địch, trên đã chỉ thị cấm không được bắn đạn chiến lợi phẩm khi chưa được kiểm tra của quân khí viên. Một tổ quân giới gồm các đồng chí Chúc, Túc, Miệng đã xuống tận các hầm pháo để kiểm tra nên không xảy ra sự cố, ngòi nào nghi ngờ thay ngay.

- Đặc biệt trong giai đoạn 2 khi địch co cụm về trung tâm, tinh thần sa sút, đồng chí Phạm Hữu Đính trưởng ban quân khí chiến dịch đã chế tạo ngay tại mặt trận 1 số đạn truyền đơn để bắn vào trận địa địch, truyền đơn viết bằng tiếng Pháp và tiếng Việt. Kết quả là "Tây” đã mang theo truyền đơn của pháo binh ta làm bùa hộ mệnh ra hàng.

Để đánh đòn quyết định ở giai đoạn 3, cuối tháng 4 Phòng Cung cấp tiền phương đã cùng cơ quan tham mưu, chính trị tổ chức cấp tốc 1 tiểu đoàn hoả tiễn 6 nòng tại Tuần Giáo. Cán bộ nhân viên hậu cần được chọn lọc kỹ lưỡng để làm công tác bảo đảm kỹ thuật và bảo đảm vật chất sinh hoạt cho đơn vị. Toàn bộ lái xe được chọn lọc, phụ tùng pháo, xe được xưởng 361 bổ sung kịp thời để hành quân cấp tốc đúng giờ G ngày 6-5-1954 H6 đã bắn vào trung tâm Mường Thanh góp phần kết thúc giai đoạn 3 giải phóng Điện Biên Phủ.

Trong 3 đợt chiến đấu Phòng Cung cấp đã bảo đảm cho chiến dịch một khối lượng đạn rất lớn gồm: 25.334 viên đạn (chưa kể đạn cối 82mm) trong Đó có 15.704 viên 105mm; 3.232 viên đạn sơn pháo 75mm; 3329 đạn cối 120mm; 2.886 đạn hoả tiễn 75mm; 183 viên ĐKZ.

* Về thu hồi chiến lợi phẩm

Phòng Cung cấp đại đoàn tổ chức 1 đoàn do đồng chí Đặng Đình Thức chỉ huy, có đẩy đủ các ngành chủ yếu thu pháo, đạn, khí tài pháo binh, đã thu 4 khẩu pháo 155mm (sau này 2 khẩu đi duyệt binh), 15 khẩu pháo 105mm (có 4 khẩu 105M3). Về xe thu được (2GMC, 2 xe đốt cát, 1 xe zíp 1 xe GM)...

Như vậy có thể nói công tác bảo đảm Hậu cần-kỹ thuật trong chiến dịch Điện Biên Phủ đã được lãnh đạo chỉ huy đại đoàn cũng như lãnh đạo chỉ huy các đơn vị pháo binh quán triệt sâu sắc, tổ chức chu đáo, chặt chẽ cả trước trong chiến dịch. Các bộ phận trực tiếp làm công tác bảo đảm đã thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, giúp cho pháo binh "ăn no đánh thắng" góp phần vào chiến công chung trong chiến dịch.

 

Đại tá TRƯƠNG VĨNH THĂNG

Nguyên Hiệu trưởng Trường Lái xe - TCHC,

nguyên Chủ nhiệm Chính trị Hậu cần Pháo binh,

nguyên chiến sĩ lái xe trong chiến dịch Điện Biên Phủ

"Mobilis in Mobile" ― Jules Verne


   
Phan khoi lon, silverstar0211, Payroll and 2 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cadjc
(@cadjc)
Công dân
Được ưa thích
Tài sản: 311.37
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1099
 

TIÊU DIỆT CỨ ĐIỂM HIM LAM

 

        Ngày 13 tháng 3 năm 1954, đại đoàn Bến-tre đã tiêu diệt gọn trung tâm đề kháng Him-lam, mở màn cho chiến dịch Điện-biên-phủ đại thắng lợi.

        Nếu quân địch đã xây dựng Điện-biên-phủ thành một "pháo đài bất khả xâm phạm" phải "bảo vệ bằng bất cứ giá nào" và nếu tập đoàn cứ điểm Điện-biên-phủ là cái "bẫy được chăng ra để dử" quân ta thì trung tâm đề kháng Him-lam là tấm cửa thép, là nơi chúng "chờ đón" quân ta đánh vào và sẽ cho chúng ta "biết tay".

        Thực tế đã diễn biến không như ý muốn của chúng... Mặc dầu Him-lam là một trong những trung tâm đề kháng mạnh nhất của địch ở Điện-biên-phủ, nhưng chỉ trong không đầy 6 giờ tấn công, bộ đội ta đã cắm cờ Quyết chiến quyết thắng lên sở chỉ huy địch ở Him-lam.

        Chúng ta hãy theo dõi chiến công tuyệt vời đó.

 

        CỤM CỨ ĐIỂM HIM-LAM TRONG CON NHÍM ĐIỆN-BIÊN-PHỦ

        Tháng 11 năm 1953, trước sức mạnh vũ bão của đạo quân giải phóng Lai-châu của ta, tướng tỏng chỉ huy quân đội viễn chinh Phảp lúc bấy giờ là Na-va đã phải ném vội xuống Điện-biên-phủ 6 tiểu đoàn rồi sau lên 12 tiểu đoàn để thiết lập một tập đoàn cứ điểm nằm gọn giữa núi rừng mênh mông. Đây là một kiểu phòng ngự mạnh nhất của địch từ trước tới nay trên chiến trường Đông-dương. Nhiều nhà bình luận quân sự phương Tây đã nói: Ngay trong đại chiến thứ hai, ở châu Âu, người ta cũng chưa hề thấy một trung tâm đề kháng nào mạnh đến thế. Thật ra, kiểu phòng ngự này của địch ra đời từ chiến dịch Hòa-bình1 (Năm 1952, Đờ-lát (Delattre de Tassigny), tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông-dương đã cho quân ra chiếm đóng thị xã Hòa-bình và tiến hành phòng ngự theo lối "con nhím" ở đây, nhưng đã bị quân, dân ta đánh cho đại bại, phải tháo chạy nhục nhã), rồi Nà-sản, nay được hoàn chỉnh thêm và còn được gọi là chiến thuật, "con nhím". Mỗi một cứ điểm là một lông nhím, bao nhiêu lông nhím là bấy nhiêu cứ điểm, họp lại thành tập đoàn cứ điểm.

        Sau gần 4 tháng, quân địch đã ra sức củng cố, kiện toàn tập đoàn cứ điểm Điện-biên-phủ thành 49 cứ điểm, chia làm 3 phân khu: Bắc, Trung tâm và Nam. Mỗi phân khu chia thành nhiều cụm. Mỗi cụm có một số cứ điểm đóng dựa vào nhau hình thành từng khu trung tâm đề kháng. Hỏa lực của tập đoàn cứ điểm bao gồm 24 khẩu pháo 105, 4 khẩu pháo 155, 20 khẩu cối 120 bố trí thành 2 căn cứ ở phân khu Trung tâm (Mường-thanh) và phân khu Nam (Hồng-cúm), có thể chi viện cho nhau và cho bất cứ cứ điểm nào mỗi khi bị quân ta tấn công.

        Ngoài ra, tại sân baỵ Mường-thanh còn có 1 phi đội máy bay thường trực 14 chiếc gồm 7 khu trục, 7 chiếc khác vừa máy bay trinh sát, vừa máy bay lên thẳng. Cuối tháng 12 năm 1953, phát hiện quân ta đã bao vây chặt tập đoàn cứ điểm và thấy địa hình thuận tiện, địch đã thả dù xuống Điện-biên 1 đại đội xe tăng 10 chiếc M24 (18 tấn). Rồi liên tiếp từ đó, hàng ngày hơn 200 chuyến máy bay lên lên, xuống xuống sân bay Mường-thanh, chở đến cho cái đội quân tinh nhuệ của chúng ở đây, đội quân mà chúng còn gọi là "đơn vị mũi mác", đủ các thứ súng và phương tiện chiến tranh hiện đại: súng phun lửa, súng có kính hồng ngoại ngắm đêm, mìn na-pan, mìn điện, áo giáp, v.v. 3000 tấn dây thép gai cũng đã được quẳng xuống đây trong thời kỳ này để tạo thành những khóm rừng rậm rịt: rừng dày thép gai thay thế cho rừng cây xanh đã bị địch phát trụi.

        Ngay cả các bản mường trong lòng chảo Điện-biên cũng bị địch triệt hạ. Dân chúng bị tập trung sống chui rúc trong các bản Long-nhai, Cò-mỵ... nhường chỗ cho con nhím ngày càng lớn mạnh như thổi.

        Với binh lực, hỏa lực mạnh mẽ như thế, với tất cả các phương tiện phòng ngự hiện đại, với những chiến hào, những ụ súng, những điểm tựa vòng tròn, các công sự phụ và dây thép gai dày đặc, làm gì mà tướng Na-va không nhiều phen xoa tay đắc chỉ. Y coi đó lá một "Véc-đoong" châu Á, là "thành lũy bất khả xâm phạm" được "bảo vệ bằng bất cứ giá nào". Tướng Cô-nhi chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Bắc-bộ đã tuyên bố nhiều lần sẽ cho bộ đội ta "ăn bụi", sẵn sàng chờ quân ta "diện đối diện", v.v. Viên đại tá Đờ Cát (sau này được thăng thiếu tướng) chỉ huy tập đoàn cứ điểm đã từng vênh váo, với chiếc mũ đỏ đội lệch trên đầu, trả lời một nhà báo:

        "Họ từ trên cao nhìn thấy chúng tôi ư! Tôi sẽ đội chiếc mũ đỏ1 (Mũ của đội quân kỵ binh Pháp) này để cho họ nhìn rõ tôi hơn. Chúng tôi sẽ cho họ biết tay. Chúng tôi sẽ nghiền nát họ" (!).

        Pi-rốt, phó chỉ huy của Đờ Cát kiêm chỉ huy trưởng pháo binh tập đoàn cứ điểm đã có lần vung vẩy chiếc tay cụt, trả lời cấp trên:

        "Cho tôi biết đối phương tấn công trước nửa giờ, tôi sẽ tiêu diệt hai phần ba lực lượng của họ trước khi họ xung phong. Tôi sẽ khóa mõm pháo binh của họ lại ngay lập tức" (!).

        Và tiếp đó, các tướng tá Pháp - Mỹ, các bộ trưởng, thứ trưởng đã đi thăm quân đội đồn trú Điện-biên-phủ về đều tuyên bố: "mạnh", "rất mạnh", ngay trong đại chiến thứ hai cũng không sánh kịp (!). Tướng Mỹ Ô Đa-ni-en tỏ ý "rất hài lòng", còn Đờ Sơ-vi-nhê (De Chevigné) thứ trưởng bộ chiến tranh Pháp thì đã thốt lên:

        - Ghê thật!

        Cụm cứ điểm Him-lam là một trung tâm đề kháng kiên cố vào bậc nhất của "pháo đài bất khả xâm phạm" Điện-biên-phủ.

        Nằm trên đường 41, cạnh một bản nhỏ, Him-lam là một trung tâm đề kháng đột xuất ở phía đông bắc tập đoàn cứ điểm, cách vị trí đồi Đ (thuộc phân khu trung tâm) 2 ki-lô-mét, cách cứ điểm đồi Độc-lập 4 ki-lô-mét. Him-lam cùng với đồi Độc-lập, Bản-kéo hình thành một tuyến cứ điểm vành ngoài, che chở cho tập đoàn cứ điểm ở cả ba phía: bắc, đông bắc và tây bắc, ngăn chặn quân ta từ ba phía ấy tiến vào khu trung tâm tập đoàn cứ điểm. Riêng Him-lam giữ nhiệm vụ chủ yếu ngăn chặn chủ lực ta từ phía Tuần-giáo tiến vào theo đường 41 (Tuần-giáo - Điện-biên), đồng thời là một đài quan sát phát hiện cho pháo binh ở Mường-thanh kết hợp với máy bay đánh phá công tác chuẩn bị mở chiến dịch của ta từ xa.

        Binh lực đóng ở đây là tiểu đoàn dù lê-dương thứ 3 thuộc bán lữ đoàn lê-dương thứ 13, là một đơn vị, theo lịch sử xâm lược quân đội viễn chinh Pháp, đã được xây dựng gần 100 năm nay. Tiểu đoàn này gồm 4  đại đội tinh nhuệ, rất thạo về môn phòng ngự.

        Trung tâm đề kháng Him-lam được bố trí thành 3 cứ điểm nằm trên 5 quả đồi cao từ 45 đến 50 mét so với mặt đất. Mỏm nọ cách mỏm kia từ 200 đến 300 mét, hình thành một thế tam giác dựa lưng vào nhau, có thể chống đỡ với ta cả bốn mặt.

        Cứ điểm 1 là điểm tựa chủ yếu của tiểu đoàn nằm ở phía tây bắc có đại đội 10, đại đội 12 và sở chỉ huy tiểu đoàn. Đại đội 10 là lực lượng dự bị cơ động của toàn bộ vị trí. Cứ điểm 2 nằm về phía bắc có đại đội 9, còn cứ điểm 3 nằm về phía đông do đại đội 11 chiếm đóng.

        Chung quanh cụm cứ điểm, địch bố trí công sự phụ rất dày đặc. Những bãi mìn đủ loại, mìn nhựa, mìn nhảy, mìn na-pan, mìn sáng, mìn điện nằm xen giữa những lớp rào dây thép gai dày tới 50 - 60 mét, có chỗ rộng tới 100 - 200 mét. Trên suốt bãi rào dây thép gai, địch dựng lên đủ các kiểu: mái nhà, cũi lợn, giàn mướp, lò-xo, v.v. Ngay trong từng cứ điểm, giữa những vị trí của các trung đội cũng có hàng rào ngăn cách. Nhưng nếu những hàng rào này có lợi cho địch thì cũng có lợi cho ta vì một khi quân ta đã đột nhập cứ điểm, đánh chiếm được một khu thì quân địch không có đường phản xung phong...

        Trong từng cứ điểm, có nhiều tầng chiến hào nối liền với các lô-cốt, với các ụ súng hình thành những điểm tựa vòng tròn. Hỏa lực của cứ điểm khá mạnh. Ngoài trung liên, đại liên, còn có trọng liên, pháo không giật, súng phun lửa, ba-dô-ca, súng cối và súng bắn thẳng có kính ngắm ban đêm1 (Mỗi đại đội địch trung bình có 10 trung liên, 6 đại liên, 1 trọng liên, 1 ĐKZ 57 mi-li-mét, 1 súng phun lửa, 2 ba-dô-ca 60 mi-li-mét, 5 súng trường có kính ngắm ban đêm, 4 cối 81 mi-li-mét, v.v). Chúng bố trí hỏa lực thành nhiều tầng. Trung liên đặt ở vòng ngoài kiểm soát sát mặt đất. Đại liên và trọng liên ở trên cao kiểm soát xa. Súng cối, súng không giật ở trong cùng, đặt gần sở chỉ huy. Súng phun lửa ở những hướng chúng đoán quân ta sẽ đột phá vào. Địch còn bố trí những ụ vệ tinh ở ngoài hàng rào dày thép gai tạo thành những hỏa điểm bí mật, bắn lướt sườn để sát thương quân ta khi xung phong vào trận địa.

        Cụm cứ điểm Him-lam còn được 2 tiểu đoàn pháo cỡ 105, 155 và 1 tiểu đoàn cối 120, từ 5 đến 10 máy bay của không quân tập đoàn cứ điểm chi viện. Nếu bị ta đánh ban ngày, số lượng máy bay chi viện từ Hà-nội lên còn tăng nhiều. Tất cả những hướng bị uy hiếp, tất cả các địa hình chúng đoán quân ta sẽ bố trí hoặc buộc phải tiến qua lúc tấn công đều đã được pháo binh củạ tập đoàn cứ điểm bắn thử trước. Bộ binh chúng cũng đã diễn tập phòng ngự nhiều lần. Trong các lần tập có từ 1 đến 2 tiểu đoàn với 5, 6 xe tăng, dưới sự yểm hộ của máy bay từ Mường-thanh phản kích đánh ra Him-lam.

        Với tổ chức phòng ngự như vậy, lại vốn ỷ vào trang bị, vũ khí, làm gì mà chúng không lớn tiếng tuyên bố rằng Him-lam là một pháo đài rất mạnh, một "tấm cửa thép" của "tập đoàn cứ điểm bất khả xâm phạm" Điện-biên-phủ.

       

        QUYẾT TÂM MỞ CỬA TẬP ĐOÀN CỨ ĐIỂM, TIẾN VÀO SÀO HUYỆT ĐỊCH TRONG MƯỜNG - THANH

        Đã 4 tháng qua, kể từ khi bắt đầu chiến cục Đông Xuân đến nay, chúng ta đã điều động được quân địch, buộc tướng Na-va phải làm ngược lại những ý định của y lúc bước vào chiến cục1 (Xem Điện-biên-phủ của đại tướng Võ Nguyên Giáp, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà-nội, 1964). Y định tập trung binh lực thật mạnh ở đồng bằng  và tiến hành bình định miền Nam, nhưng chúng ta đã buộc y phải phân tán binh lực đi khắp nơi và cứ mỗi lần thấy quân ta và bộ đội Pa- thét Lào xuất hiện thì y lại vội vã co lại tạo thành những "con nhím" để chống đỡ như ở Trung Lào, Plây-cu, Hạ Lào, Thượng Lào... Cuối tháng 12 năm 1953, tướng Na-va chủ quan nhận định "ngọn trào tấn công của Việt Minh đã đến lúc xuống" và ra lệnh chuẩn bị phản công lại ta trên khắp các chiến trường. Y không ngờ chính lúc đó, quân ta chuẩn bị ráo riết tấn công tập đoàn cứ điểm Điện-biên-phủ. Và ngày 12 tháng 3, y cho quân đổ bộ xuống bờ biển Quy-nhơn, thực hiện bước 2 của chiến dịch đánh chiếm Liên khu 5, thì ngày 13 tháng 3, quân ta nổ súng tấn công vào tập đoàn cứ điểm Điện-biên-phủ.

        Thực hiện quyết tâm tiêu diệt "Trần Đình"2 (Bí danh của ta đặt cho Điện-biên-phủ) của Đảng để bảo đảm "chắc thắng", bộ đội ta đã chuyển từ phương châm "đánh nhanh giải quyết nhanh" sang phương châm "đánh chắc tiến chắc", đénh tiêu diệt các vị trí vành ngoài, sau đó đánh vào tung thâm của địch, đánh chiếm đến đâu củng cố trận địa đến đó. Lối đánh này còn được gọi là đánh "bóc vỏ". Chúng ta biết lần vỏ ngoài rất rắn, nhưng chúng ta có thời gian chuẩn bị, có kinh nghiệm công kiên, nhất là đã được học tập và thử thách trong công kiên tập đoàn cứ điểm Nà-sản năm xưa. Chúng ta biết rất rõ những chỗ mạnh của địch, đồng thời chúng ta cũng phát hiện được những chỗ yếu của "con nhím" khổng lồ này. Chỗ mạnh của chúng là phi pháo, chúng ta sẽ tìm cách hạn chế uy lực của pháo binh và máy bay địch bắng cách đào trận địa vào tận hàng rào địch. Chúng ta đang sửa soạn mọi điều kiện tất thắng như làm đường cơ động pháo, xây dựng trận địa vững chắc, v.v. Giữa núi rừng trùng điệp, ngày đêm hàng vạn bộ đội và dân công không từ một khó khăn gian khổ nào để xây dựng trên 60 ki-lô-mét đường mới cho cơ giới đi lại được. Những khẩu pháo của chúng ta đã theo chính những con đường đỏ đến ẩn náu trong những khu rừng già bao quanh Điện-biên-phủ. Thời gian này, Na-va, Đờ Cát đã đánh hơi thấy lựu pháo và pháo cao xạ của ta. Chúng cho máy bay trinh sát đi lùng soát ráo riết xung quanh Điện-biên-phủ, nhưng bọn phi công có đủ các phương tiện trinh sát tối tân cũng chỉ thấy núi rừng mênh mông, huyền bí, lúc nào cũng quyện hơi sương. Các khẩu pháo chiến lợi phẩm, vốn quý của quốc gia, vẫn nằm chờ đợi trong những hầm kiên cố đục sâu vào lòng núi.

        Hàng trăm ki-lô-mét hào giao thông của các trung đoàn, đại đoàn đang nối với nhau, bắt vào các hầm chỉ huy, các ụ súng tạo thành một hệ thống trận địa lợi hại bảo vệ cho bộ đội ta vận động an toàn dưới hỏa lực địch, giúp cho quân ta tiến có thể công, dừng có thể giữ, v.v. 

        Thời gian lặng lẽ trôi qua, nhưng hàng vạn bộ đội, dân công làm việc khẩn trương suốt ngày đêm. Mỗi nhát xẻng, nhát cuốc là một đòn đánh vào đầu địch, một mét chiến hào đào thêm là một bước mau đi đến thắng lợi. Đến đầu tháng 3 năm 1954, công tác chuẩn bị chiến dịch căn bản đã hoàn thành. Đã đến lúc chiến dịch sắp chính thức mở màn. Chim tu hú đã bắt đầu vỗ cánh bay ra khỏi tổ để gọi hè về, báo hiệu mùa mưa sắp đến. Đó cũng là lúc Bộ chỉ huy Mặt trận Điện-biên-phủ triệu tập cán bộ lên thảo luận kế hoạch tấn công Điện-biên-phủ. Vấn đề đặt ra trong màn đầu của chiến dịch là phải đạp bằng những "tấm cửa thép" án ngữ đường của quân ta tiến vào Mường-thanh. Chừng nào mà bộ đội ta chưa xuống được cánh đồng thì "con nhím khổng lồ" này của Na-va với những chiếc lông nhọn hoắt vẫn có thể sống giữa núi rừng Tây-bắc. Dầu có phải đụng tới những cứ điểm vành ngoài mạnh như kiểu Him-lam, chúng ta cũng kiên quyết tiêu diệt cho kỳ được.

        Vì thế, trong đợt tấn công thứ nhất vào Điện-biên-phủ, Bộ chỉ huy Mặt trận quyết định nhổ những trung tâm đề kháng Him-lam, Độc-lập và Bản-kéo án ngữ hai con đường từ Sơn-la và Lai-châu tiến vào Điện-biên-phủ. Tiêu diệt được những cứ điểm trên, quân ta mới có đường tiến vào Mường-thanh, mới triển khai được đại bộ phận lực lượng bộ binh, pháo binh, cao xạ, cơ giới vào sát địch để bóp nghẹt và tiến tới "làm thịt" hoàn toàn con nhím Điện-biên-phủ.

        Trận đầu nếu chiến thắng vẻ vang sẽ làm cho nhân dân và quân đội ta phấn khởi, càng tin tưởng sắt đá vào phương châm mới.

        Trận đánh mở màn chính là trận công kiên lớn tiêu diệt trung tâm đề kháng Him-lam. Mục đích của trận đánh, ngoài những điểm đã nói trên, còn nhằm rút kinh nghiệm nhiều mặt, nhất là kinh nghiệm lần đầu bộ binh, pháo binh hiệp đồng tác chiến trên quy mô tương đối lớn. Những điều này được Bộ chỉ huy Mặt trận nhấn mạnh.

        Đơn vị được giao nhiệm vụ trận đầu này "phải chuẩn bị chu đáo, tiêu diệt gọn, nhanh... bảo đảm mở xong cửa mở lúc trời còn sáng, đánh tung thâm ban đêm và kết thúc trận đánh trước 24 giờ"1 (Trích mệnh lệnh tác chiến của Bộ chỉ huy Mặt trận gửi đại đoàn Bến-tre).

        Đại đoàn Bến-tre được nhận nhiệm vụ nặng nề đó.

        Họp ở Bộ về, đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn hội ý ngay với chính ủy Trần Độ, chuẩn bị hội nghị Đảng ủy đại đoàn để quán triệt nhiệm vụ, thông qua kế hoạch tác chiến.

        Các đồng chí đều cùng một ý nghĩ: Đây thật là vinh dự cho đại đoàn. Toàn Đảng, toàn dân đang ra sức chi viện cho Điện-biên-phủ và đang mong đợi chiến thắng đầu tiên giòn giã, mở màn cho chiến dịch lịch sử.

        Hai đồng chí biết chắc rằng cán bộ và chiến sĩ sẽ hoan hô vang động núi rừng khi được biết nhiệm vụ của họ là mở màn chiến dịch. Thật là thỏa nỗi ước mong. Đã bao ngày gian khổ chuẩn bị mà chưa được nổ súng vào đầu giặc, căm thù đế quốc, căm thù địa chủ còn chồng chất lại đây. Anh em đã làm mọi việc để bảo đảm cho chiến đấu thắng lợi: kéo pháo vào, kéo pháo ra rất anh dũng, rất gian khổ; đem thân mình ra để bảo vệ pháo. Rồi thấm nhuần phương châm mới, anh em lại lao vào những ngày đêm căng thẳng làm đường, xây đựng trận địa vững chắc, đàọ chiến hào, v.v. Vừa làm anh em vừa bảo nhau:

        - Đánh chắc tiến chắc, chứ không phải đánh chậm tiến chậm, đừng có mà lề mề...

        Những con người ấy không có khó khăn nào không khắc phục được, không có kẻ địch nào không đánh thắng.

        Sau cuộc hội ý chớp nhoáng đó, dưới ngọn đèn bão, cả hai đồng chí đại đoàn trưởng và chính ủy lại cùng cán bộ cơ quan khẩn trương xây dựng kế hoạch tác chiến, kế hoạch động viên để chuẩn bị cho cuộc họp Đảng ủy đại đoàn ngày mai.

        Cán bộ trung đoàn được triệu tập đến họp Đảng ủy mở rộng, phấn khởi bước vào gian hầm sở chỉ huy đại đoàn. Ai cũng mong đơn vị mình sẽ được giao nhiệm vụ ngay trong trận đầu. Chính ủy Trần Độ, bí thư Đảng ủy đại đoàn tiếp cán bộ vui vẻ hơn thường lệ. Đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn nói đến đâu, các cán bộ ghi ngay đến đấy. Đảng ủy đã nhanh chóng thông suốt ý nghĩa, mục đích của đợt tấn công thứ nhất, thống nhất nhiệm vụ của đại đoàn, của các đơn vị bạn và đã nghiên cửu tỉ mỉ kế hoạch tác chiến.

        Căn cứ vào tài liệu về địch và địa hình của trên cung cấp, tuy trung tâm đề kháng Him-lam là một cụm cứ điểm mạnh nhất với đủ các phương tiện phòng ngự hiện đại, nhưng không phải là không có nhược điểm. Tình hình địch cụ thể còn phải điều tra thêm và nhất định ta sẽ còn phát hiện được nhiều chỗ yếu của chúng.

        Ở phía tây bắc cứ điểm 1, tuy là ruộng phẳng và đồi cỏ thấp hơn vị trí địch, nhưng vẫn có địa hình bố trí được trận địa hỏa lực bắn vào cứ điểm 1. Cần kiên quyết xây dựng trận địa chiến hào xuất phát xung phong vào gần địch để bớt thương vong lúc triển khai bộ đội tấn công.

        Ở cứ điểm 2, phía bắc cũng còn nhiều tử giác tiện cho ta đột phá tuy địch đã ra sức cải tạo địa hình, bố trí công sự phụ và hỏa lực dày đặc. Nhưng ở phía đông bắc, địa hình kín đáo, ta có thể lợi dụng tiến sát địch.

        Cứ điểm 3 bố trí trên một đồi trọc thấp hơn hai cứ điểm trên. Phía đông nam cũng có nhiều tử giác. Ở phía nam có dãy đồi "ông sư" rất tiện cho ta bố trí hỏa lực.

        Sau khi thảo luận phân tích kỹ chỗ mạnh chỗ yếu của địch để tạo ra cái thế bao vây, chia cắt địch, Đảng ủy đại đoàn giao nhiệm vụ cho trung đoàn Đầm-hà ở hướng chủ yếu, tiêu diệt cứ điểm 1 và 2 theo hưởng bắc và tây bắc; trang đoàn Hòn-gai ở hướng thứ yếu tiêu diệt cứ điểm 3 theo hướng đông nam. Trung đoàn Hòn-gai còn cử ra một tiểu đoàn bao vây, chặn viện (d 154), một tiểu đoàn khác làm dự bị cho đại đoàn (d 166).

        Trung đoàn Đông-triều nhận nhiệm vụ, ngày hôm sau sẽ phối hợp với đơn vị bạn tấn công tiêu diệt cứ điểm đồi Độc-lập. Và theo kế hoạch chung, một trung đội của đại đoàn Biên-hòa sẽ tổ chức đánh dương công vào cao điểm A1 (khu Đông).

        Đảng ủy đặc biệt nhấn mạnh phải tiếp tục chuẩn bị chiến trường, nắm vững địch tình, giao cho đại đoàn trưởng xây dựng kế hoạch tác chiến, công tác bảo đảm thông tin, bảo đảm hậu cần1 (Bảo đảm thông tin: đại đoàn tổ chức một mạng thông tin vững chắc và thông suốt giữa các đơn vị trong đại đoàn, giữa đại đoàn với các cụm pháo và Bộ chỉ huy Mặt trận. 12 giờ ngày 12 tháng 3, tất cả các mạng thông tin phải mắc xong để đại đoàn có thể chỉ huy và nắm được tình hình ngay từ khi bộ đội triển khai chiếm lĩnh trận địa. Trước chiến đấu, chủ yếu là dùng điện thoại và chạy chân. Tuyệt đối không dùng vô tuyến điện. Trong chiến đấu, điện thoại vẫn là chính, nhưng cần sử dụng rộng rãi các phương tiện chạy chân, cờ, đèn, pháo hiệu, v.v. Bảo đảm hậu cần: trước hết đại đoàn nhấn mạnh phải khắc phục mọi khó khăn, thiếu thốn cho bộ đội ăn uống tốt, bảo đảm sức khỏe. Các trạm điều trị của đại đoàn, trung đoàn, các kho đạn, lương thực cũng được xây dựng kịp thời. Các tuyến quân y đều theo sát đội hình chiến đấu: các đại đội đều có y tá và cứu thương. Ở mỗi hướng đột phá đều có từ 1 đến 2 trung đội tải thương trực tiếp mang vác thương binh về tuyến quân y trung đoàn, tiểu đoàn. Từ đây, do đại đội vận tải của đại đoàn và dân công chuyển thương binh về quân y địa đoàn. Đạn dược được quy định mang theo 1 cơ số rưỡi, các trung đoàn đều có kho đạn tiền phương, dự trữ thêm 2 cơ số để bảo đảm liên tục chiến đấu) giao cho chính ủy cùng với Đảng ủy các cấp xây dựng quyết tâm cho cán bộ, chiến sĩ: Quyết đánh thắng trận đầu, quyết mở cửa chiến dịch cho quân ta tiến vào tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện-biên-phủ.

        Họp xong, đồng chí bí thư Đảng ủy và đồng chí đại đoàn trưởng còn tranh thủ căn dặn thêm các đồng chí cán bộ của đơn vị phụ trách hướng chủ yếu.

        Các cán bộ phấn khởi ra về, bước vội trong những đường hào nhỏ hẹp sâu ngập đầu người. Chẳng ai nói chuyện với ai. Mỗi người đều đang suy nghĩ về kế hoạch, khối lượng và thứ tự công việc cần phải làm ngay cho kịp.

        Trong chiến đấu công kiên, cán bộ, chiến sĩ ta hay nói "một chậm", "bốn nhanh", nghĩa là trước chiến đấu phải chuẩn bị thật kỹ, thật chu đáo để rồi lúc bước vào chiến đấu thì hết sức thực hiện "bốn nhanh": mở cửa nhanh, xung phong nhanh, thọc sâu nhanh và truy kích nhanh.

        Trong công tác chuẩn bị, tìm hiểu địch là một công việc trọng yếu. Từ trước, để "biết địch", cán bộ ta từ đồng chí đại đoàn trưởng đến các trung đội trưởng thường có tác phong đáng quý là phải sờ cho được hàng rào, phải nhìn tận mắt các hỏa điểm địch trong lô-cốt, v.v. Lần này, công việc đó lại được hết sức coi trọng để đảm bảo đánh thắng trận đầu. Lúc hội nghị Đảng ủy, tình hình địch cụ thể chưa nắm được bao nhiêu.

        Ai nấy đều biết địch coi Him-lam là một "tấm cửa thép" chặn đứng đường tiến của quân ta vào Điện-biên-phủ. Nhưng thật ra cũng chưa ai hình dung được tính chất vững chắc của việc địch tổ chức phòng ngự ở Him-lam ra sao. Có đồng chí cho rằng chẳng qua cung chỉ nhích hơn Nà-sản một tý thôi. Đến khi đứng trên đài quan sát của đại đoàn trên đồi 674 (bắc Him-am) thì những ý nghĩ coi thường địch đều tiêu tan. Trên cánh đồng rộng bát ngát, nhan nhản các vị trí địch đỏ loét, chằng chịt những chiến hào, những ụ súng và lúc nhúc hàng vạn chiếc mũ sắt đen trũi như đầu những con bọ hung. Tuy vậy, cán bộ ta cũng chẳng ai lộ vẻ ngại địch. Ai nấy đều tin tưởng ở khả năng của đơn vị mình. Một đồng chí nói:

        - Được! Vỏ quýt dày đã có móng tay nhọn.

        Kẻ địch cũng đã đánh hơi thấy hình như bộ đội ta đang chuẩn bị công kích Him-lam. Tuy chúng vẫn chủ quan về tính chất bất khả xâm phạm của "quả đấm sắt", nhưng Đờ Cát vẫn thúc quân "lấp ngõ rào cổng", không cho một ai có thể tới gần Him-lam được. Không cứ gì ban ngày các đội tuần tiễu của chúng đi lại xoành xoạch mà ngay cả ban đêm, đèn pha quét sát mặt đất, đèn dù soi sáng cả một góc trời. Chúng còn cho từng phân đội nhỏ đêm đêm xuống gác ở chân hàng rào hoặc đi phục kích các ngả đường rừng không  theo một quy luật nào.

        Vì thế nên việc "biết địch" một cách cụ thể ở đây không phải là dễ dàng. Nhiều hôm anh em trinh sát tối đi,  sáng về, quần áo rách bươm mà vẫn không thu lượm được một tin mới nào.

        Cán bộ ta không thể thỏa mãn cách lia ống nhòm để biết địch từ xa. Mặc cho chúng sục sạo tuần tiễu, cán bộ trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội vẫn không thể bỏ được tácc phong sờ tận tay, nhìn tận mắt. Các đồng chí đã tìm mọi cách vượt qua những tổ tuần tiễu, những ổ phục kích của địch tiến sát hàng rào cứ điểm. Có đêm đồng chí Hoàng Cầm, trung đoàn trưởng trung đoàn Hòn-gai, cùng một đoàn cán bộ đi nghiên cứu, có đồng chí Cối trinh sát viên dẫn đường. Cối béo lùn như chiếc cối xay nên được anh em đặt tên là "phó Cối". Phó Cối rất dũng cảm và giàu kinh nghiệm. Anh dẫn cán bộ đi tắt ngang các mỏm đồi mà anh rất thuộc. Đoàn cán bộ lợi dụng pháo sáng của địch bắn lên để quan sát. Cối bò thoăn thoắt lên phía trước nhưng đột nhiên anh lăn lông lốc trở lại, ghé vào tai đồng chí Hoàng Càm nói:

        - Có Tây, anh ạ! Tôi vừa đụng phải một thẳng. Hình như nó gác ngoài hàng rào, nhưng đang ngủ...

        Thằng Tây chợt tỉnh soi đèn pin loang loáng ra xung quanh, bắn một chập rồi không thấy động tĩnh gì lại nằm xuống. Các cán bộ bàn nhau phải chịt cổ bắt sống nó mang về để khai thác tài liệu. Nhưng họ chưa kịp hành động thì thẳng khác đã ra đổi gác. Cán bộ tiếp tục bò sát cửa gác để quan sát đúng lúc các cỡ súng của chúng bắn ra loạn xạ. Đoàn cán bộ đành nằm tại chỗ chờ cho địch bắn chán chê rồi mới từ từ rút ra. Kinh nghiệm đã dạy cho các đồng chí biết nếu quay ra lúc ấy sẽ bị ăn đạn liền.

        Nhưng tin tức thu lượm được vẫn còn lẻ tẻ. Nhiều vấn đề vẫn chưa rõ. Đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn gọi cán bộ quân báo lên bàn bạc, thảo luận kế hoạch điều tra địch sâu hơn nữa. Đồng chí nói với đồng chí Lư, đại đội trưởng trinh sát:

        - Cậu có bảo đảm trong 3 ngày nữa bắt được 1 tù binh Âu Phi không?

        - Được ạ!

        Lư là một cán bộ quân báo rất mưu trí và dũng cảm. Đại đoàn trưởng nhìn Lư tin tưởng vì đồng chí cán bộ xuất thân công nhân này chưa bao giờ không hoàn thành nhiệm vụ.

        Lần này Lư cũng đã nắm được quy luật phục kích của địch. Anh đưa 2 tiểu đội trinh sát vũ trang đi với ý định: tương kế tựu kế, mai phục lại bọn địch đi phục kích. Nhưng quân địch cũng không phải khờ khạo. Nay chúng đi đường này, mai chúng đi đường khác. Lư đã lo không khéo không hoàn thành nhiệm vụ thì chiều hôm thứ hai, ngồi trên núi quan sát, Lư thấy 1 trung đội địch từ dưới suối đi lên chiếm một cao điểm gần đó. Để cho chắc chắn, đợi cho trời tối nhá nhem, anh mới cho anh em trinh sát bí mật bò lên và bất thần xung phong vào giữa trung đội địch. Trận đánh chỉ diễn ra trong mấy phút, bọn địch chạy tán loạn. Đơn vị của Lư bắt được 4 tù binh trong đó có tên thiếu úy Giắc-cơ (Jacque).

        Bọn tù binh này đã cung cấp cho ta khá nhiều tài liệu. Chúng nói: Him-lam là một pháo đài do một cố vấn Mỹ ở chiến trường Triều-tiên về vẽ kiểu và trực tiếp đôn đốc xây dựng tổ chức phòng ngự. Tướng Mỹ Ô Đa-ni-en cũng đến tận nơi tham gia ý kiến, bộ trưởng bộ quốc phòng Plê-ven và các tham mưu trưởng các binh quân chủng Pháp đều đã đến tận Him-lam để kiểm tra. Cuối cùng; tên thiếu úy Giắc-cơ nói, giọng thành thật:

        - Tôi đã không dám giấu giếm cảc ngài điều gì, bây giờ tôi xin phép khuyên các ngài một điều: "Các ngài chớ có đụng vào Him-lam...".

        Cán bộ ta cười ồ cả lên. Tên thiếu úy ngơ ngác nhìn mọi người rồi nhún vai. Một cán bộ lạnh lùng nói với hẳn:

        - Rồi anh xem!

        Thật ra tên thiếu úy Giắo-cơ nói cũng có phần đúng. Ta cũng đã biết Him-lam là một cụm cứ điểm mạnh. Chỉ có điều hắn nói theo quan điểm của hắn và cũng là quan điểm của những viên chỉ huy của hắn.

        Trước đây vài ngày, tổng chỉ huy Na-va lại lên Điện-biên-phủ. Hình như y vẫn chưa hoàn toàn yên tâm lúc được tin quân ta chuẩn bị đánh vào Điện-biên-phủ. Để giữ bí mật, Đờ Cát thân chinh lái xe gíp đưa tổng chỉ huy đi kiểm tra lại trung tâm đề kháng Him-lam. Thấy Bê-a-tơ-rít (Him-lam) hơi xa căn cứ pháo binh I-da-ben (Hồng-cúm), Na-va gợi ý tướng Cô-nhi và Đờ Cát ngay tại chỗ: "Có nên cho vài ba tiểu đoàn tổ chức thêm 1 cụm cứ điểm nữa giữa Mường-thanh và Hồng-cúm để chi viện cho Bê-a-tơ-rit không?".

        Đờ Cát trả lời:

        - Làm như thế sợ đối phương không dám đánh. Chúng ta phải thúc cho họ đánh để tiêu diệt cho nhanh.

        Tướng Cô-nhi nói thêm:

        - Không nên làm cho người "Việt" thay đổi ý định của họ. Đây là triển vọng của trận thắng lợi về phòng ngự. Thật là một tai họa đối với tinh thần binh sĩ nếu Việt Minh không tấn công vào... (!).

        Thấy cấp dưới tỏ ra quyết tâm, Na-va vui vẻ đáp máy bay về Hà-nội. Y hí hửng đốc bọn sĩ quan gấp rút thực hiện bước 2 chiến dịch Át-lăng, chiến dịch chiếm đóng Liên khu 5, điểm trung tâm của kế hoạch chiến lược 18 tháng của y trong giai đoạn đầu1 (Xem Điện-biên-phủ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà-nội, 1964).

        Nắm được tình hình địch tương đối cụ thể, Đảng ủy và Bộ tư lệnh đại đoàn Bến-tre lập tức tổ chức hội nghị cán bộ để bổ sung kế hoạch và phổ biến quyết tâm của đại đoàn. Sau đó đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn đưa cán bộ trung đoàn bộ binh và pháo binh lên đài quan sát của đại đoàn đặt ở cao điểm 674 để tổ chức hiệp đồng.

        Trung đoàn Đầm-hà tổ chức thành 2 thê đội, thê đội 1 gồm tiểu đoàn 11 và tiểu đoàn 428, thê đội 2 có tiểu đoàn 16.

        - Tiểu đoàn 11 làm nhiệm vụ chủ công đánh vào cứ điểm 1 theo hướng tây bắc tiêu diệt đại đội 12 và sở chỉ huy tiểu đoàn địch ở cao điểm 515 rồi phát triển tiêu diệt đại đội 10 ở phía nam, chiếm lĩnh toàn bộ cứ điểm 1.

        - Tiểu đoàn 428 phụ trách mũi diện, có nhiệm vụ đánh vào cứ điểm 2 theo hướng đông bắc, chiếm lĩnh cao điểm 505 rồi tiếp tục phát triển lên cao điểm 517, tiêu diệt đại đội 9 địch, chiếm lĩnh toàn bộ cứ điểm 2. Sau khi đột phá xong, phải nhanh chóng phát triển sang phải chiếm mỏm thìa lia đề bảo vệ sườn cho tiểu đoàn. Nếu giải quyết xong trước mũi điểm do tiểu đoàn 11 phụ trách, tiểu đoàn 428 có nhiệm vụ tích cực phát triển vào đông bắc cứ điểm 1, tạo điều kiện cho tiểu đoàn 11 hoàn thành nhiệm vụ.

        - Tiểu đoàn 16 thê đội 2 của trung đoàn Đầm-hà phát triển theo hướng đột kích chủ yếu. Nếu tiểu đoàn 11 không hoàn thành nhiệm vụ, sẽ tăng thêm lực lượng cùng tiểu đoàn 11 tiêu diệt địch.

        Trung đoàn Hòn-gai (thiếu 1 tiểu đoàn và 1 đại đội) tổ chức thành 1 thê đội. Tiểu đoàn 130 được giao nhiệm vụ tiêu diệt cứ điểm 3 theo hướng đông nam. Nếu giải quyết xong trước các hướng khác, phải nhanh chóng phát triển sang cứ điểm 1 theo hướng đông nam. Nếu không còn đủ lực lượng phát triển thì tổ chức hỏa lực bắn sang cứ điểm 1 và 2 yểm hộ cho trung đoàn Đầm-hà hoàn thành nhiệm vụ.

        Tiểu đoàn 154 (thiếu 1 đại đội) có nhiệm vụ ngăn chặn và tiêu diệt địch từ Mường-thanh tiếp viện lên để bảo đảm an toàn cho đại đoàn chiến đấu.

        Tiểu đoàn 166, tiểu đoàn dự bị của đại đoàn sẵn sàng tăng cường cho trung đoàn Đầm-hà nhất là ở hướng chủ yếu và phối hợp với đơn vị chặn viện tiêu diệt địch.

        Sau khi quy định nhiệm vụ cho các tiểu đoàn phòng không, đại đội công binh, tiểu đoàn thông tin, v.v., đại đoàn trưởng đặc biệt nhấn mạnh đến nguyên tắc chiến thuật: "mạnh dạn thọc sâu". Đồng chí nhắc đi nhắc lại:

        - Chuẩn bị cho kỹ, đánh cho nhanh, đánh gọn, nhất là lúc mở cửa. Tiểu đoàn 11 và tiểu đoàn 428 chú ý giữ cho đúng hướng đột phá không được để chập vào nhau.

        Về bộ, pháo hiệp đồng trong các giai đoạn chiến đấu, đồng chí căn dặn các cán bộ bộ binh, pháo binh phải gặp gỡ nhau nhiều lần, đưa nhau ra thực địa mà đặt kế hoạch hiệp đồng hỏa lực với nhau cho thật chu đáo. Đồng chí nói:

        - Đây, là lần đầu tiên đại đoàn ta có trọng pháo, có cao xạ cùng tham gia chiến đấu. Chúng ta phải làm cho anh em quán triệt: "Hai binh chủng vì nhau mà phục vụ", pháo binh lấy thắng lợi của bộ binh làm thành tích cao nhất của mình, ngược lại bộ binh, trong mọi tình huống phải tin tưởng pháo binh nhưng cũng không được quá ỷ lại vào pháo.

        Trận mở màn chiến dịch vĩ đại Điện-biên-phủ cũng là trận đầu của binh chủng trọng pháo và cao xạ non trẻ. Vì thế công tác chuẩn bị cho pháo xuất trận lần này được hết sức coi trọng.

        Bộ đội và dân công từ khi được thấy "voi to, voi nhỏ", "xe mẹ kéo xe con", đã âu yếm nâng niu cái "vốn quý của quốc gia" này bao nhiêu thì nay càng đặt nhiều hy vọng vào pháo bấy nhiêu. Nhớ lại, họ đã từng lăn xả vào lửa na-pan để bảo vệ pháo, lấy cả thân mình để chèn pháo, đổ hết công sức để xây dựng công sự vững chắo cho pháo... Bây giờ là lúc "đàn voi" chính thức xuất trận. Ngoài sơn pháo 75, cối 120, cối 82, trong trận này trọng pháo 105 của ta sẽ giáng những đòn chí tử vào đầu địch. Trên một cứ điểm diện tích khoảng 42.000 mét vuông, có đến 80 khẩu pháo các loại sẽ nhả đạn vào đó1 (Ngoài pháo binh của Bộ chi viện, đại đoàn 312 còn được phối thuộc 2 đại đội lựu pháo 105, 2 đại đội sơn pháo 75, 2 đại đội cối 120, 1 đại đội cối 82. So sánh lực lượng giữa ta và địch về pháo binh: ta 6 địch 1, pháo bắn gián tiếp ta 12 địch 1; nhưng nếu tính cả hỏa lực chi viện của cả tập đoàn cứ điểm thì ta 2,4 địch 1) .

        Từ ngày bộ đội ta thắt chặt vòng vây chung guanh "con nhím" Điện-biên-phủ, địch chưa biết gì rõ rệt về trọng pháo của ta. Na-va được tin của tình báo nói ta có đưa được một số pháo lớn tới quanh vùng lòng chảo, nhưng y còn nửa tin nửa ngờ. Bọn địch ở Điện-biên-phủ vẫn chưa được nếm mùi trọng pháo 105 của ta. Một vài lần, sân bay Mường-thanh có bị ta bắn phá, nhưng mới chỉ là đạn sơn pháo 75 như mọi lần. Cỡ đạn đó "chưa có gì đáng sợ" (!)1 (Thực ra chỉ 1 đại đội sơn pháo 75 của ta bắn cháy trên 10 máy bay kể từ ngày ta hoàn thành kéo pháo ra cho đến khi nổ súng tấn công Điện-biên-phủ). Công sự của tập đoàn cứ điểm và của cả Him-lam "không cần thiết phải đắp thêm". Tên đại tá Pi-rốt, chỉ huy pháo binh tập đoàn cứ điểm vẫn đặt các khẩu pháo của hắn nằm tênh hênh giữa trời để xoay trở được dễ dàng, hòng tiêu diệt pháo ta một khi hắn phát hiện được.

        Đêm 6 tháng 3, Bộ chỉ huy đại đoàn 351 ra lệnh cho 2 đại đội lựu pháo, mỗi đại đội đưa thử một khầu vào trận địa của mình ở phía đông bắc và tây bắc. Từ chiều, những tổ trinh sát đã mang theo điện thoại vào sát hàng rào Him-lam, nằm dỏng tai hễ nghe thấy tiếng động cơ xe kéo pháo từ ngoài vọng tới là anh em báo ngay về phía sau để xe tắt máy, dùng sức người lặng lẽ "rước voi vào nhà". Hai khẩu pháo đầu tiên đã bí mật nằm gọn trong trận địa. Đêm sau, cả 2 đại đội vào chiếm lĩnh theo kinh nghiệm đêm trước chót lọt. Tiếp đó, dưới bầu trời đầy sao, đoàn xe kéo pháo chia thành nhiều mũi từ từ tiến vào trận địa. Anh chị em dân công xe thồ, nhìn đoàn xe kéo pháo đang rầm rộ tiến, lòng tràn đầy yêu mến và hy vọng. Các chiến sĩ công binh vẫn túc trực ở những đoạn đường khó. Mọi người như thầm nói với pháo:

        - "Voi" đi nhé, hãy bắn cho thật trúng đầu địch!

        Sớm ngày 10 tháng 3, 6 đại đội lựu pháo đã "yên vị" trong những căn hầm rải rác trên các cao điểm chạy từ đông sang tây, tạo thành một vành cung ôm gọn lấy Điện-biên-phủ. Hệ thống trận địa của lựu pháo, đúng như các đồng chí pháo binh thường nói, thể hiện được nguyên tắc: "Phân tán hỏa khí, tập trung hỏa lực". 6 đại đội phân nhau nằm bốn phương trời nhưng chỉ một hiệu lệnh cấp trên là lập tức cả 6 đại đội sẽ nhè bắn được cả vào một mục tiêu nằm sâu trong lòng tập đoàn cứ điểm.

        2 đại đội cao xạ tham dự trận đánh đầu tiên đã vào chiếm lĩnh trận địa từ hai hôm trước. Họ đã khôn khéo náu mình dưới những đụn rơm khổng lồ nằm trơ trên cánh đồng Nà-lời (bắc Him-lam) và Nà-hi (bắc đồi Độc-lập).

        Còn các chiến sĩ sơn pháo, cối đã được phân về các trung đoàn. Mấy đêm nay, anh em vẫn được bộ binh dẫn vào sát đồn địch để làm sẵn trận địa. Kế hoạch chiếm lĩnh của đàn "voi" xung kích đã được đại đoàn ấn định: Đến ngày N1 (Ngày tấn công), đúng vào lúc lựu pháo ta bắt đầu giáng đòn sấm sét vào đầu giặc thì anh em sẽ xốc đòn lên vai tiến vào lắp pháo, trực tiếp yểm hộ cho bộ binh tiến lên mở cửa mở.

        Cán bộ, chiến sĩ pháo binh, ai cũng đã thấu rõ nhiệm vụ của mình trong trận này. Họ đã thuộc lòng ba nhiệm vụ:

        - Yểm hộ đắc lực cho bộ binh diệt cụm cứ điểm Him-lam.

        - Chế áp mạnh mẽ pháo binh địch.

        - Uy hiếp, khống chế không phận, không cho máy bay địch tự do lên xuống sân bay.

        Theo nhiệm vụ đó, từ đồng chí Tham mưu trưởng Mặt trận đến các chỉ huy pháo binh trung đoàn, tiểu đoàn đều đã cùng nhau bàn bạc, xây dựng nên một kế hoạch bắn của pháo binh.

        Lần đầu tiên, quân đội ta chiến đấu hiệp đồng tương đổi quy mô với đủ các thứ pháo, pháo binh mặt đất, pháo binh cao xạ. Bộ binh không tin tưởng pháo binh sao được. Nhưng pháo binh thì lo ngay ngáy liệu mình bắn chác thế nào đây? Chưa nói gì đến kỹ thuật bắn ngày, bắn đêm, bắn trong sương mù mà ngay con số đạn dược có hạn cũng đã "gò tay" rất nhiều đến kế hoạch bắn của pháo binh. Tuy vậy, rồi kế hoạch đó cũng đã hình thành. 1.500 viên đạn lựu pháo sẽ được sử dụng trong trận này. Thật là một con số "vì thắng lợi của trận đầu". Với số đạn đó, 250 viên sẽ được trút thẳng vào cụm cứ điểm Him-lam, 500 viên sẽ bắn trong 10 phút, tạo thành một trận bão thép và lửa giáng vào đầu quân địch ở Mường-thanh và sân bay. Số còn lại dành để diệt những trận địa pháo binh địch.

        Bên cạnh kế hoạch bắn của đàn "voi lớn", còn có một kế hoạch bắn khá chu đáo, khá tỉ mỉ, hiệp đồng từng bước với các chiến sĩ xung kích của đàn "voi nhỏ" nhưng kẻ địch vẫn thường khiếp sợ: sơn pháo 75, cối 81, 82, 120, v.v1 (Theo kế hoạch hiệp đồng hỏa lực thì sơn pháo bắn phá hoại từng mục tiêu, từng lô-cốt địch, cối sẽ chế áp mạnh mẽ vào bên trong cứ điểm, đặc biệt là khu sở chỉ huy địch. Ngoài ra còn một số pháo 75, cối tham gia bắn kiềm chế pháo địch).

        Một kế hoạch hiệp đồng quy mô, mạnh mẽ như thế làm gì anh em bộ binh không tin tưởng. Nhưng để đưa những viên đạn trong kế hoạch vào đúng mục tiêu, đúng lúc, còn biết bao nhiêu việc mà cán bộ, chiến sĩ pháo binh phải làm.

        Sau khi đại đoàn trưởng tổ chức hiệp đồng tỉ mỉ trên thực địa, tại đài quan sát các cấp, các trung đoàn trưởng, tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng bộ binh và pháo binh gặp gỡ nhau thêm để chỉ và nhận mục tiêu hiệp đồng cụ thể.

        Yêu cầu đối với pháo là bắn đúng mục tiêu, nhưng lại không được bắn thử để giữ thế bất ngờ. Đã thế, phương tiện thông tin, quan trắc không phải đã đầy đủ. Nhưng cán bộ, chiến sĩ pháo binh hiểu rõ trách nhiệm của mình trong trận chiến đấu mở màn chiến dịch.

        Chính ủy Phạm Ngọc Mậu và đại đoàn phó Đào Văn Trường1 (Chính ủy và đại đoàn phó pháo binh) đã nhiều lần hỏi các đơn vị trong những ngày chuẩn bị:

        - Phần tử đo đạc đã thật chính xác chưa? Mới đảm bảo 80 - 90% hả? Thế thì cho đo lại nữa đi, còn thời gian đấy!

        Và anh em trắc thủ đã đo đi đo lại cả thảy tới 3 lần.

        Sự thật, việc đo đạc ở địa hình rừng núi dẫu có đủ phương tiện cũng vẫn rất gay go, huống chi các phân đội quan trắc của ta kỹ thuật còn non, phương tiện lại thiếu, lại không có mạng khống chế pháo binh2 (Tức là những cột mốc cố định của Nhà nước hay của quân đội dựng sẵn để dựa vào đó đo đạc tính toán cự ly, độ hướng...). Nếu có máy bay chụp ảnh từ trên không thì công việc dễ dàng hơn nhiều, nhưng tất nhiên lúc bấy giờ ta làm gì có. Các trận địa xa nhau, khoảng cách giữa trận địa pháo với đài chỉ huy bắn và mục tiêu cũng lớn, v.v. Cán bộ, chiến sĩ pháo binh đã leo hết ngọn núi này đến ngọn núi khác để tìm những phần tử kỹ thuật cho việc đo đạc. Có những ngọn núi nhìn trong ống nhòm tưởng như đồi trọc, nhưng khi trèo lên thì cỏ gianh ngập lút đầu người, có khi phát quang hàng 100 mét gai góc cùng cây rừng mới đặt được máy để có thể nhìn thấy nhau mà đo đạc. Nếu có nhiều máy cũng đỡ vất vả hơn. Nhưng vì quá thiếu, anh em quan trắc pháo binh đã tìm những vật thể trên các ngọn núi cao mà đài quan sát và trận địa đều có thể trông thấy để đo liền đài và trận đia. Nhờ sáng kiến đó mà anh em đã khắc phục được nạn thiếu máy lại lợi cả về thời gian đo đạc.

        Để bắn chính xác vào từng lô-cốt, từng hỏa điểm, các chiến sĩ sơn pháo đã vào tận hàng rào Him-lam, nằm chờ cho pháo sáng bắn lên để quan sát mục tiêu hoặc mang theo dây để đo cự ly từ đó ra trận địa.

        Cứ như thế, cán bộ, chiến sĩ pháo binh đã tìm mọi cách, làm đủ mọi việc để thực hiện cho được lời dặn của Đảng ủy và Bộ chỉ huy Mặt trận: "Quân địch rất sợ bộ binh ta, bây giờ các đồng chí phải làm cho chúng khiếp sợ pháo binh Việt-nam".

        Nhưng không phải mọi yêu cầu của pháo binh đều đã thỏa mãn. Từng khu vực bắn thì đã nắm chắc, nhưng những mục tiêu cụ thể như trận địa pháo thì nắm chưa được. Những mục tiêu vành ngoài thì nắm được, nhưng những mục tiêu trong tung thâm thì biết vẫn sơ sài. Làm thế nào để yểm hộ thật tốt cho bộ binh trong các giai đoạn chiến đấu? Vì thế nên công tác chuẩn bị của pháo binh vẫn tiếp tục cho đến trước khi nổ súng và ngay trong lúc tác chiến hiệp đồng. Cán bộ pháo binh không quên nhắc bộ binh phải chú trọng phát hiện mục tiêu cụ thể trong tung thâm kịp thời báo cho pháo. Để đảm bảo được yêu cầu này, 2 đại đội lựu pháo trực tiếp chi viện cho đại đoàn Bến-tre tấn công cụm cứ điểm Him-lam đã phái những cán bộ và trinh sát viên lành nghề mang theo máy điện thoại đi với các tiểu đoàn trưởng bộ binh mũi điểm và diện. Các chiến sĩ pháo binh gọi đó là đài quan sát tiền tiến, một tổ chức hầu như không thể thiếu được trong hiệp đồng bộ, pháo trong chiến đấu công kiên lúc đó và sau này.

        Đối với bộ binh, đại đoàn Bến-tre là một trong những đơn vị có nhiều kinh nghiệm đánh công kiên, nên công tác chuẩn bị chiến đấu hoàn thành rất nhanh chóng. Sau nhiều ngày kéo pháo, làm đường, xây dựng trận địa, cán bộ, chiến sĩ chỉ còn chờ giờ xuất kích, nổ súng vào đầu giặc. Khi anh em được tin đơn vị được đánh trận mở màn thì toàn đại đoàn, không khí chuẩn bị hừng hực như lửa cháy. Cán bộ thảo luận sôi nổi về các phương án tác chiến trên sa bàn và trên các đài quan sát, rồi tìm mọi cách vào tận hàng rào của địch, lợi dụng ánh đèn dù của chúng ngắm nghía từng lô-côt, phát hiện từng hỏa điểm, nghiên cứu từng tử giác, nghiên cứu kỹ những đặc điểm của địch trong tập đoàn cứ điểm nói chung và cụm cứ điểm Him-lam nói riêng, v.ví.

        Địch đã có thời gian để tổ chức phòng ngự, xác định các hướng ta có thể tấn công, tập dượt nhiều lần, bắn thử pháo vào những chỗ cần thiết... Chẳng những chúng có thể yểm hộ cho từng cứ điểm cả về hỏa lực lẫn xung lực, chúng lại có thể phản kích cả ban ngày lẫn ban đêm, v.v.

        Một vấn đề mới đặt ra là trước tình hình hỏa lực của tập đoàn cứ điểm rất mạnh, để đảm bảo đánh chắc thắng, để bộ đội ta chiếm lĩnh trận địa ít bị thương vong, Đảng ủy, Bộ chỉ huy Mặt trận chỉ thị cho các đơn vị đào hào giao thông, xây dựng trận địa xuất phát xung phong.

        Trung đoàn Đầm-hà tấn công theo hướng bắc Him-lam có nhiệm vụ đào hai đường hào giao thông vượt qua sông Nậm-rốm, một đường đến cứ điểm 1, một đường đến cứ điểm 2.

        Trung đoàn Hòn-gai tấn công theo hướng đông nam cứ điểm 3 và chặn viện ở phía nam có nhiệm vụ đào hai đường hào giao thông, một đường đến cứ điểm 3, một đường đến trận địa phục kích. Sau đó, căn cứ vào kế hoạch tác chiến với từng cứ điểm, các đơn vị lại đào những chiến hào tiến quân của các mũi điểm và diện.

        Đối với bộ đội, công việc đào hào giao thông không phải là một công việc mới. Anh em đã từng xây dựng trận địa, đào hào giao thông trong rừng sâu từ đơn vị này đến đơn vị khác. Ai nấy đều nhận thức được tác dụng của việc đào hào giao thông là để bớt thương vong lúc tiến quân.

        Ban đầu lúc còn xa địch, anh em làm việc rất hăng hái, năng suất rất cao, làm rất đúng tiêu chuẩn1 (Hào sâu 1,8m, rộng 1,2m để có thể vận chuyển cáng thương được) và vượt thời gian quy định. Công tác lãnh đạo lúc đầu không có gì phức tạp lắm. Nhưng càng đến gần địch thì việc đào hào giao thông là một cuộc chiến đấu thực sự. Cuộc tranh chấp giữa ta và địch ngày càng ác liệt. Chiến hào của ta chẳng khác gì như những mũi mác nhọn đâm thẳng vào đầu chúng. Chúng không thể ngồi yên. Chúng phản ứng rất dữ dội. Trung đoàn Đầm-hà phải vượt sông Nậm-rốm chỉ cách vị trí Him-lam độ 300 mét. Để giải quyết vượt qua khúc sông rộng trên 10 mét trong tầm hỏa lực của địch này, anh em công binh, bộ binh đã phải tốn biết bao sức lực và cả xương máu nữa. Chỉ mới có việc đi nghiên cứu địa điểm thuận tiện cho bộ đội vượt sông vừa khuất mắt địch, vừa êm dòng nước lại vừa hẹp vừa nông, đã có gần nửa tiểu đội công binh bị thương vong. Rồi còn phải tìm cách để bộ đội vượt sông. Anh em công binh làm 2 cầu bằng tre, nứa từ xa vác đến gò chìm lập lờ dưới mặt nước để che mắt địch. Qua sông chỉ còn cách địch cỏ một cái dốc. Đây là đoạn tranh chấp ác liệt nhất. Địch thấy rõ nguy cơ đang đến với chúng, không những địch cho pháo từ xa bắn tới mà súng bắn thẳng các cỡ trong cứ điểm Him-lam cũng quét ra như trút đạn. Tuy các tiểu đoàn, đại đội đã bố trí các tổ hỏa lực để truy vào các hỏa điểm địch, nhưng chúng đã gây cho ta khá nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, trong một số cán bộ, chiến sĩ ta bắt đầu xuất hiện tư tưởng ngại đào. Có đồng chí nói:

        - Hào với hiếc, chỉ tổ mất thời giờ, mà lại còn bị thương vong... Trước kia đánh Tràng-bạch, tàu chiến địch ở Đá-bạc rót về như mưa, ta chẳng có công sự mà vẫn san phẳng đồn địch...

        Một số anh em khác tán thưởng:

        - Ừ, để sức mà đánh! Ba-vì, Ba-lay có trận địa gì đâu mà Tây vẫn bị giãy lên đành đạch.

        Một đêm, đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn đã ra tận chỗ anh em đào trận địa xuất phát xung phong để kiểm tra. Đồng chí đã tranh thủ nói rõ cho mọi người hiểu tác dụng của việc đào chiến hào và cán bộ nhận thức được thêm trách nhiệm của mình trước sinh mạng chiến sĩ. Nhờ đó mà chiến hào vẫn "bò" dần vào sát hàng rào địch. Bọn địch hốt hoảng nhìn các mũi chiến hào của ta lấn tới ngày một gần như lưỡi mác của thần chết treo vào cổ chúng. Đờ Cát vội vã xua cả bộ binh với xe ủi đất, có máy bay và đại bác yểm hộ ra đánh lấp trận địa chiến hào của ta. Ta kiên quyết bảo vệ trận địa. Gần đến ngày tấn công (12 tháng 3), ban ngày địch lấp mất của ta một số đoạn. Ta không chịu bó tay trước sự liều lĩnh của địch. Đêm ta lại đào dưới hỏa lực dày đặc của chúng. Sáng hôm sau địch lại ra lấp, ta kiên quyết giữ, tiếp tục đào thêm cho đến lúc toàn đơn vị vào chiếm lĩnh trận địa1 (Nhưng không phải đơn vị nào cũng chấp hành nghiêm túc yêu cầu làm trận địa. Ở cứ điểm 1, chiến hào của d11 còn cách hàng rào dây thép gai của địch hơn 200 mét. Chính vì thế trong chiến đấu, đơn vị này đã bị thương vong vô ích và bộc phá mở cửa chậm hơn các đơn vị, làm cho cuộc chiến đấu kéo dài).

"Mobilis in Mobile" ― Jules Verne


   
Trả lờiTrích dẫn
Cadjc
(@cadjc)
Công dân
Được ưa thích
Tài sản: 311.37
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1099
 

TIÊU DIỆT CỨ ĐIỂM HIM LAM (tiếp)

 

        TRƯỚC KHI TRẬN ĐÁNH BT ĐU

        Ngày 13 thảng 3 năm 1954, Điện-biên-phủ ở cuối mùa hoa ban. Từ sớm tinh mơ, cán bộ đại đoàn, trung đoàn đã chia nhau đi xuống các đơn vị để kiểm tra tình hình chuẩn bị. Đoàn văn công Tổng cục Chính trị mới đi Buy-ca-rét về cũng chia thành từng tổ đi xuống tận các đường hào để thực hiện một chương trình liên hoan tiễn các chiến sĩ trước giờ xuất kích. Lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" mà đại đoàn sắp trao cho đơn vị chủ công trong trận chiều nay do chính bàn tay khéo léo của các cô văn công thêu thùa suốt đêm qua.

        Xưa nay, cán bộ và chiến sĩ ta vẫn có thói quen ăn mặc rất "chỉnh" mỗi khi sắp bước vào một trận đánh, bởi vì bộ đội ta coi chiến đấu như là ngày hội, huống chi đây lại là trận đánh mở màn một chiến dịch lịch sử. Các chiến sĩ đại đội 243, đơn vị chủ công của tiểu đoàn chủ công trong trận này, vừa tắm rửa xong bằng nước ấm, gọn ghẽ trong bộ quần áo màu xanh lá cây còn nếp gấp thì được lệnh tập hợp. Từ phía cửa rừng, chính ủy đại đoàn cùng với các cán bộ trung đoàn tiến đến, đi duyệt qua một lượt toàn đại đội. Nói là đi duyệt, nhưng các đồng chí đã dừng lại rất lâu trước từng tiểu đội, trung đội để hỏi han các chiến sĩ về công tác chuẩn bị chiến đấu.

        Chính ủy Mạc Ninh giới thiệu với đoàn cán bộ những nét đặc sắc của đơn vị. Đây là tiểu đội trưởng Nguyễn Hữu Oanh, tiểu đội trưởng tiểu đội dao nhọn của đại đội. Đây là tổ chiến đấu của 3 chàng "vệ trọc" tự đặt tên cho nhau là: Quyết, Chiến, Thắng. Ba chàng đã viết lên vách hầm, ngay dưới ảnh Bác: "Tổ chúng cháu quyết hoàn thành nhiệm vụ. Bộc phá chúng cháu sẽ nổ rất giòn"...

        Cuối cùng, đoàn cán bộ dừng lại trước đại đội trưởng Nọa và chính trị viên Chát. Mọi người đều đã rõ hai đồng chí cán bộ này. Đại đội trưởng Nọa đã cống hiến một tay mình cho Tổ quốc. Còn một cánh tay trái, lúc này anh đưa ra ôm ghì lấy lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" mà chính ủy đại đoàn vừa trao. Mắt anh dơm dớm nhưng ánh lên niềm tự hào. Còn chính trị viên Chát, anh cố nông năm xưa, vẫn luôn luôn đi sát từng chiến sĩ trong mọi giờ phút chiến đấu ác liệt...

        Lễ trao cờ kết thúc nhanh, gọn và trang nghiêm nhưng đầm ấm. Chính ủy đại đoàn nói với cán bộ, chiến sĩ những lời ngắn gọn, được toàn đại đội đáp lại bằng một khẩu hiệu mạnh mẽ vang dội núi rừng:

        - Quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ.

        Cũng từ sớm tinh mơ, trong căn hầm chỉ huy kiên cố lợp bằng những tấm sắt hình vòng cung đắp đầy những bao tải cát bên trên, Đờ Cát ra lệnh cho toàn thể quân đồn trú: "Tất cả ở trong tư thế tuyệt đối sẵn sàng chiến đấu". Chiều hôm trước (12-3), tên đại úy Nô-en (Noel), trưởng phòng nhì của tập đoàn cứ điểm đã báo cho Đờ Cát biết: "Ngày mai, Việt Minh sẽ tấn công vào Bê-a-tơ-rit" (tức là Him-lam). Đờ Cát khòng lấy làm lạ, ít lâu nay, đêm nào đội tuần tra của hắn cũng chạm trán với các tổ quân báo, các tốp cán bộ của ta đột nhập nghiên cứu ngay sát hàng rào trung tâm đề kháng Him-lam. Liền mấy hôm nay, những trận chiến đấu thực sự đã diễn ra trong khi quân lính của hắn ra lấp các hào giao thông của quân ta từ ba hướng tiến đến.

        Đờ Cát vừa mừng vừa lo. Mừng vì hắn sẽ có cơ "lập công". Cấp thiếu tướng đối với hắn hẳn không chỉ còn là "củ cà-rốt" mà người ta vẫn đem ra nhử hắn từ bấy lâu nay1 (Theo lời vợ Đờ Cát rêu rao). Với tổ chức phòng ngự vững chắc của trung tâm đề kháng Bê-a-tơ-rít, với kế hoạch hỏa lực mạnh mẽ chu đáo của tập đoàn cứ điểm, với số lượng đạn pháo dự trữ chất cao như núi , hắn hy bố tríọng sẽ tiêu diệt được quân ta. Nhưng Đờ Cát vẫn không khỏi lo lắng. Lâu nay hắn vẫn nửa tin nửa ngờ, không biết Việt Minh có trọng pháo thật hay không? Hắn chỉ mới thấy xuất hiện loại "pháo tép" 75. Pi-rốt bảo là sẽ "khóa mõm" ngay pháo binh đối phương, nhưng hắn thấy chính những khẩu "pháo tép" ấy vẫn bắn đúng vào những chiếc máy bay vận tải vừa hạ cánh. Hai chiếc Đa-cô-ta đã bị bắn cháy vào lúc 8 giờ sáng nay, một ở sân bay Mường-thanh, một ở sân bay Hồng-cúm. Đến 11 giờ trưa, một chiếc thứ ba vừa đậu trên sân bay lại bị cối 120 nã đúng.

        Làm thế nào đây? Nếu Việt Minh có pháo nặng nữa, liệu Pi-rốt có đối phó nổi không? Để đề phòng mọi trường hợp, Đờ Cát đặt cho mình nhiệm vụ phải theo dõi sát hơn nữa tình hình Bê-a-tơ-rít. Đờ Cát lệnh cho viên quan tư Pê-gô (Pégaux), chỉ huy cụm cứ điểm Bê-a-tơ-rít phải tập trung hỏa lực "bắn nát ngay đội hình của bộ binh Việt Minh" nếu thấy xuất hiện từ bất cứ hướng nào. Đồng thời hắn giục Pê-gô phải xua ngay quân ra lấp trận địa xuất phát xung phong của quân ta. Hắn nói: sẽ cho thêm bộ binh có xe tăng yểm hộ cùng với một xe ủi đất từ Mường-thanh đánh ra, chi viện thêm.

        12 giờ trưa, Đờ Cát kiên quyết thực hiện ý định đó và một trận chiến đấu ác liệt giữa ta và địch đã diễn ra.

        Một tiểu đội quân ta chiếm giữ đầu hào đã chiến đấu đẩy lùi nhiều đợt xung phong của 1 đại đội và 2 xe tăng địch. Nhưng ỷ vào số đông và hỏa lực pháo binh mạnh mẽ, bọn chúng đã tràn lên chiếm được từng đoạn hào trong hệ thống trận địa xuất phát xung phong của tiểu đoàn 11.

        Trước tình hình này, đại đoàn trưởng đã gọi điện trao đổi ý kiến ngay với Bộ chỉ huy đại đoàn pháo binh và báo cáo tin địch đánh ra phá lấp trận địa lên Bộ chỉ huy Mặt trận. Sợ mất trận địa xuất phát xung phong của tiểu đoàn chủ công, nhận thấy nếu dùng 1, 2   đại đội lựu pháo bắn yểm trợ để quân ta giữ vững trận địa thì địch cũng không còn đủ thời gian củng cố công sự, đồng chí đề nghị với Bộ chỉ huy Mặt trận cho một đại đội hoạt động.

        Bộ chỉ huy pháo binh cũng nhất trí với đại đoàn trưởng đại đoàn Bến-tre. Nhưng để kết hợp kiểm tra kết quả việc chuẩn bị phần tử bắn của pháo binh, các đồng chí đề nghị Bộ chỉ huy Mặt trận cho bắn ngay vào Him-lam, vì như thế sẽ làm cho bọn địch đang đánh phá trận địa cũng phải hoảng sợ rút về.

        Chỉ một lát sau, chuông điện thoại réo vang. Đầu dây bên kia, cục phó cục tác chiến nói bằng một giọng sôi nổi:

        - Được! Ý kiến của các đồng chí rất hay. Bộ đồng ý cho một đại đội lựu pháo bắn 20 viên vào thẳng cứ điểm Him-lam.

        Đảng ủy đại đoàn pháo binh đã nhanh chóng họp bàn chọn đại đội nào để bắn những phát đầu tiên, mở màn cho chiến dịch lịch sử. Đảng ủy đã nhất trí chọn đại đội 806, đứa con "trọng pháo" đầu lòng của binh chủng thành lập từ trong chiến dịch Hòa-bình (thu đông năm 1952). Từ bấy đến nay, đại đội vẫn làm nòng cốt trong huấn luyện, trong xây dựng mọi mặt của trung đoàn lựu pháo 105.

        Đại đội trưởng đại đội 806 Trần Kính, khi tiếp được lệnh chuẩn bị bắn, đã không giấu nổi niềm hân hoan. Anh hội ý với chính trị viên Bách, rồi gào lên trong máy nói gọi về trận địa:

        - Này, các cậu ơi! Đại đội ta chuẩn bị bắn!... Chuẩn bị... bắn!

        Rõ ràng anh không còn đủ bình tĩnh để hạ đạt khẩu lệnh một cách dõng dạc, dứt khoát đúng như điều lệnh chiến đấu pháo binh mà anh thường vẫn huấn luyện cho anh em.

        Chính trị viên Bách cũng không bình tĩnh gì hơn. Anh đang truyền về trận địa những khẩu hiệu, giọng lạc hẳn đi trong máy nói:

        - Đã chiến thắng Hòa-bình, nhất định chiến thắng Him-lam!

        - Đại đội 806 quyết lập công đầu cho binh chủng!

        - Các đồng chí bắn cho thật trúng đích!

        - v.v.

        Sau khi đã chỉ thị cho trận địa phần tử bắb đầu tiên, đại đội trưởng Kính thấy còn lo lo, anh quay lại hỏi trung đội trưởng chỉ huy:

        - Liệu phần tử có bảo đảm chính xác không cậu?

        - 100% anh ạ! Đã 3 lần đo, 4 lần tính rồi còn gì. À, nhưng vì bộ binh ta ở quá gần mục tiêu, để đề phòng bất trắc, ta nên đề nghị cho bắn thử trước 2 viên và tăng lên vài trăm mét xem sao?

        Kính tiếp thu ý kiến đó và báo cáo về trung đoàn. Trung đoàn trưởng Hữu Mỹ đồng ý ngay.

        Buông ống máy, đại đội trưởng Trần Kính chỉ thị lại phần tử bắn cho trận địa rồi nâng ống nhòm lên. Hàng chục trái tim trong đài quan sát của đại đội 806 như bị nén lại. Có lẽ lúc này, hàng ngàn trái tim của các chiến sĩ trên tuyến đầu của mặt trận đang hồi hộp chờ kẽt quả những phát đạn lựu pháo đầu tiên.

        - Bắn! - Lệnh đại đội trưởng Trần Kính vừa phát ra, tức thì 2 viên đạn đầu tiên vút vào trong không trung. Một trinh sát viên đang gắn mắt mình vào cặp kính sừng bò bỗng reo lên:

        - Xa... xa !... Đúng hướng!...

        Trung đội trưởng chỉ huy vỗ đánh đét một cái vào đùi và reo lên:

        - Tuyệt quá! Thật đo đạc, tính toán... mấy cũng không bằng!

        Đại đội trưởng Trần Kính tự mình cũng đã nhìn rõ hai dấu đạn nổ. Anh hô khầu lệnh bắn mới cho các pháo thủ.

        Chỉ mấy giây sau, 18 phát đạn của đại đội 806 đã bắn đi. Và Him-lam, tấm cửa thép của tập đoàn cứ điểm Điện-biên-phủ đang run lên bần bật. Cứ điểm 1, với những hầm hố, những đường hào nham nhở đỏ loét dưới nắng gắt của trưa hè bị chìm trong khói đạn. Các chiến sĩ quan sát của đại đội 806 đã ghi được kết quả bắn: 18 phát trúng cả vào cứ điểm 1, trong đó có 7 phát làm sập 7 u súng trong tung thâm.

        Đúng như dự đoản của ta, ngay từ lúc thấy đạn ta réo trong không trung, bọn lính chiến của địch đang hùng hùng hổ hổ đánh phá trận địa của ta đã quay đầu bỏ chạy, cả 2 chiếc xe tăng cũng không còn đủ tinh thần cho xe quay đầu mà cứ thế lồng lên, lùi chạy như những con chó bị đập mạnh một gậy vào lưng.

        Lợi dụng thời cơ có lợi, các chiến sĩ bảo vệ trận địa của ta xông lên, khôi phục nhanh chóng những đoạn hào còn in rõ những vết giày đinh của địch.

        Điện-biên-phủ lại trở lại yên tĩnh. Bên trong các sở chỉ huy, các hầm pháo, bộ binh đang gửi tới các chiến sĩ pháo binh những lời chúc mừng nhiệt liệt nhất về loạt đạn tuyệt đẹp vừa qua. Để đáp lại những lời ngợi khen đó, pháo binh hứa sẽ phát huy thành tích bắn trúng, bắn giỏi vào trận chiến đấu chiều nay.

        Nắng đầu hạ ở miền Tây của Tổ quốc vào lúc quá trưa như dát lửa trên ngọn cỏ, rừng cày. Các chiến sĩ ta chỉ ngóng đợi cái giờ mà bầu trời Điện-biên ngả sang màu tím là họ tiến lên san phẳng cái đồn ngay trước mặt.

        15 giờ, toàn bộ trung đoàn lựu pháo đã sẵn sàng, 2 đại đội pháo cao xạ chỉ còn chờ lệnh trên cho dỡ ngụy trang. Các chiến sĩ bộ binh trung đoàn Đầm-hà, những người đã từng chiến thắng Phủ-thông, Ba-huyên, Đồn-vàng... đã từ trong khu rừng Quang-tum tiến đến giáp bờ suối. Các chiến sĩ trung đoàn Hòn-gai, những người đã từng làm cho binh đoàn Com-muy-nan thất điên bát đảo năm xưa trên sông Lô cũng đã triển khai đội hình ven rừng sau dãy đồi "ông sư". Trừ một bộ phận hỏa lực của tiểu đoàn đã bí mật vào chiếm lĩnh từ lúc rạng sáng, còn đại bộ phận các đơn vị sơn pháo, cối, ĐKZ lúc này vẫn đang nhấp nhổm, chờ đợi cả ở phía trước đội hình bộ binh. Đúng như kế hoạch, họ chờ hễ lựu pháo của ta bắt đầu giội vào Mường-thanh và Him-lam là họ xốc đòn lên vai, đưa pháo vào những trận địa mà họ đã đổ xương máu chuẩn bị từ mấy đêm trước.

        Một loạt đạn súng cối 120 của địch từ đồi Độc-lập bắn về rơi quanh đài quan sát của trung đoàn lựu pháo. Nhưng đó chưa phải là đạn của Pi-rốt bắn để "khóa mõm pháo binh quân Việt" như trước đây hắn đã từng huênh hoang tuyên bố. Từ lúc đại đội 806 nổ súng bắn vào Him-lam đã đúng 2 tiếng mà Pi-rốt vẫn chịu cứng không sao phát hiện nổi pháo ta đã bắn từ đâu1 (Trong suốt cả thời gian chiến dịch sau này, bọn địch đã không thể nào phát hiện nổi các trận địa lựu pháo của ta).

        15 giờ 50 phút. Chỉ còn vài giờ nữa là trận pháo kích của ta sẽ bắt đầu. Chính lúc này, Bộ chỉ huy Mặt trận vừa có một quyết định quan trọng. Đại tướng Tổng tư lệnh đã gọi điện thoại cho các đơn vị:

        - Vì thời tiết, cho nổ súng sớm trước 1 giờ.

        Tiếp đó, Đại tướng nói với đại đoàn phó Đào Văn Trường:

        - Trận đầu lịch sử, pháo binh bắn cho trúng đích. Kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ!

        Như vậy là chỉ còn 1 giờ nữa là trận pháo kích của ta sẽ bắt đầu, mở màn cho chiến dịch lịch sử.

 

        NHỮNG ĐÒN TRỪNG PHẠT ĐẦU TIÊN

        Trận pháo kích của ta bắt đầu vào lúc 17 giờ 10 phút, sau khi các pháo thủ đã truyền cho nhau xong lệnh động viên của Đảng ủy Mặt trận. Trận bão thép và lửa đã bất thần giáng đúng cả vào những mục tiêu đã định. Mường-thanh và Hồng-cúm chìm trong khỏi lửa. Sân bay bùng lên những cột khói dữ dội. 5 chiếc máy bay các loại tan xác ngay trong ụ ẩn nấp. Kho xăng bên bờ sông Nậm-rốm bùng cháy, từ xa trông như một ngọn núi lửa đang phun mạnh. 12 khẩu vừa đại bác, vừa cối bị quật ngã, vặn vẹo hoặc tung nòng. Tên trung tá Lăng-gơ-le, phó chỉ huy của Đờ Cát, đang khoan khoái ngâm mình trong dòng sông Nậm-rốm trong xanh bỗng nghe thấy một tiếng nổ như trời đánh ngay trên bờ. Sợ hết hồn hết vía, cứ thế trần như nhộng, hắn chạy tọt ngay vào hầm như một con chuột chũi. Vừa đến nơi, hắn vồ lấy máy nói và gào hỏi tên chỉ huy Pi-rốt :

        - Bọn chúng từ đâu bắn tới thế! Làm cách nào cho chúng im đi chứ!

        Tên đại tá chỉ huy pháo binh gần như đang phát điên lên được. Hắn ấp a ấp ủng trả lời:

        - Chúng... chúng ở trên những đỉnh núi xung quanh...

        Cạnh đó, bọn sĩ quan tham mưu của Đờ Cát đang giật mình thon thót trước, đòn trừng phạt đầu tiên bằng hỏa lực của ta mà từ ngày sang Đông-dương đến nay bây giờ chúng mới được nếm mùi. Nhưng dù chúng đã chui rúc sâu trong lòng đất, chúng vẫn không tránh khỏi số phận những tên kẻ cướp bị đem ra hành hình. Tên trung tá Gốt-sê (Gaucher), chỉ huy trưởng khu trung tâm vừa bị những mảnh đại bác chém cụt cả hai tay và mắt hắn đang đờ dần, chờ chết.

        Chưa hết bàng hoàng thì Đờ Cát lại được tin: quan tư Pê-gô cùng với những sĩ quan tham mưu ở Bê-a-tơ-rít (Him-lam) vừa bị pháo Việt Minh giết sạch.

        Đờ Cát tái mặt, nhưng hắn vẫn hy vọng vào viên đại tá Pi-rốt, người chỉ huy pháo binh của tập đoàn cứ điểm đã nhiều phen hoa ổng tay cụt: "Sẽ đánh trả ngay tức khắc".

        Nhưng đòn trừng phạt đầu tiên của pháo ta vẫn tiếp diễn. 150 tên vừa sĩ quan, vừa lính trong khu trung tâm và sân bay bị toạc đầu, xả vai, cụt chân, mất tay, thủng bụng hay vỡ ngực được ùn ùn chở đến chỗ tên quan tư thày thuốc Gơ-ra-uyn (Grawin)1 (Giuyn Roa (Jules Roy), Trận chiến đấu Điện-biên-phủ, Nhà xuất bản Rơ-nê Giuy-li-a (René Julliard), Pa-ri, 1963, tr.205).

        17 giờ 30 phút, 2 đại đội lựu pháo (804, 806) chuyển hỏa lực về bắn thẳng vào Him-lam như trong kế hoạch.

        3 đại đội lựu pháo khác tiếp tục nhả đạn một cách thưa thớt vào sân bay, vào các trận địa pháo binh địch ở Hồng-cúm và Mường-thanh.

        Đúng lúc này, những khẩu đội sơn pháo, cối đi theo các trung đoàn, lợi dụng lúc quân địch trên Him-lam đang bị bắn giập đầu xuống, đã nhanh chóng tiến vào chiếm lĩnh trận địa.

        17 giờ 45 phút, hỏa lực của trung đoàn Đầm-hà đã chiếm lĩnh xong và bắt đầu phát hỏa. Trong 10 phút đầu tiên, đại đội sơn pháo 753 đã diệt xong 4 hỏa điểm ở vành ngoài cứ điểm 1. Tiếp đó, đại đội được lệnh chuyển làn bắn vào tung thâm, nhè vào sở chỉ huy cứ điểm 1. Đại đội sơn pháo 752 vừa bắn trúng mấy phát liền vào lô-cốt 6 tiểu liên ở cứ điểm 2. Vì được nổ súng vào lúc trời còn sáng, 6 khẩu cối 120 đi với trung đoàn Đầm-hà đã rót phát nào trúng phát ấy vào quanh sở chỉ huy cứ điểm 1 và 2. 2 trong số 6 khẩu ấy được lệnh rải một số đạn nổ chậm trên đường xung phong của tiểu đoàn chủ công để tạo ra những hố cho bộ binh ẩn nấp vì hào giao thông của ta ở hướng này còn xa hàng rào địch.

        Phía trung đoàn Hòn-gai, ngay từ lúc 17 giờ 39 phút, hỏa lực của trung đoàn1 (Hỏa lực của trung đoàn Hòn-gai dùng để chi viện cho tiểu đoàn 130 tấn công cứ điểm 3 gồm: 4 ĐKZ, 14 cối 81, 2 cối 120, 4 pháo 105) đã chiếm lĩnh xong và đã bắn xong giai đoạn dồn dập, giờ đang nhè từng ụ súng địch mà nổ.

        Giữa những tiếng gầm thét của pháo binh ta, trong các khu rừng ở phía đông bắc, tây bắc Him-lam vang lên những tiếng hát: "Bao chiến sĩ anh hùng...". Lời ca hùng mạnh và rạo rực như bốc lửa. Vừa xong, các chiến sĩ xung kích đã đứng nghiêm trong chiến hào, đón nghe các chính trị viên đọc thư Bác và lệnh động viên của Đại tướng Tổng tư lệnh.

        "Bác chờ tin thắng lợi của các chú! Bác hôn các chú!". Lời lẽ cuối thư của Bác thật cảm động biết bao! Một chiến sĩ đã ứng khẩu đọc ngay trong chiến hào một bài thơ:

Cắm cờ Bác giữa Him-lam

Đờ Cát bảy vía tiêu tan cả mười

Bác vui, râu Bác cũng cười

Khen các chú giỏi tuyệt vời đã diệt Him-lam. 

        Không sao ghi lại được không khí đặc biệt phấn khởi của bộ đội trước giờ xuất quân. Tiếng cười, tiếng reo lẫn trong tiếng kèn, tiếng sáo của các tổ văn công và trong tiếng pháo của ta vẫn nổ rền về phía Him-lam.

        Bỗng có tiếng reo:

        - Kia! Cột cờ Him-lam đổ rồi anh em ơi!

        - Hoan hô pháo ta bắn gãy cột cờ! Hoan hô!...

        17 giờ 45, lệnh của chỉ huy phát ra ở các cửa rừng:

        - Tiến! Tiến!...

        Đằng sau những phân đội hỏa lực của tiểu đoàn, đại đội là các chiến sĩ bộc phá vác trên vai những quả bộc lôi ống và các đội xung kích, lưỡi lê sáng quắc trên đầu súng. Tất cả, tất cả như những dòng thác cuồn cuộn từ núi rừng đổ xuống, chảy băng băng trong các đường hào... Hai mũi của trung đoàn Đầm-hà ở hướng chính từ khu rừng Quang-tum ép xuống 2 cứ điểm 1 và 2. Trung đoàn Hòn-gai ở hướng phụ, từ khu rừng Tà-lèng quặt lên cứ điểm 3. Lúc này pháo binh địch ở Mường-thanh đã trấn tĩnh bắt đầu bắn về ngăn chặn bộ binh ta ở các cửa rừng. Đơn vị hỏa lực của tiểu đoàn 11 đã nhanh chóng vượt qua cầu phao và lưới lửa dày đặc của địch, kịp thời bố trí để yểm hộ cho toàn tiểu đoàn vượt lên. Nhưng hỏa lực của tiểu đoàn 428 không giành được cái may mắn ấy. Một trung đội súng cối của tiểu đoàn vừa đặt chân chưa vững thì bị pháo địch bắn trúng. Đồng chí đại đội trưởng bị hy sinh, một sổ súng bị hỏng. Nhưng đồng chí Toàn, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 428 bình tĩnh và kiên quyết cho các phân đội hỏa lực còn lại vọt lên chiếm lĩnh trận địa.

        Và trong lúc đó, các đơn vị thê đội 2 của trung đoàn, đại đoàn đã triển khai xong đội hình. Đất cát, sỏi đá đang đổ vỡ từng mảng dưới những bàn tay rắn chắc của họ.

        Tại sở chỉ huy đại đoàn trên cao điểm 674, thấy tình hình diễn biến đúng như kế hoạch, Bộ chỉ huy đại đoàn nhận thấy: giai đoạn chiếm lĩnh trận địa đã hoàn thành. Bộ đội đã thực hiện đúng kế hoạch và nói chung được an toàn.

        Sau khi kiểm tra lại tình hình chiếm lĩnh trận địa một lần nữa, đại đoàn trưởng cầm máy nói hỏi trung đoàn trưởng Đầm-hà:

        - 428 tổ chức lại hỏa lực xong chưa?

        - Báo cáo, xong!

        - 10 phút nữa bắt đầu đột phá!

        Sau khi chuyển đạt lệnh ấy cho cả trung đoàn trưởng Hòn-gai, đại đoàn trưởng quay lại nói với tham mưu trưởng Hoàng Kiện:

        - Đồng chí hạ lệnh cho hỏa lực của đại đoàn tiếp tục bắn phá hoại và yêu cầu đại đoàn Long-châu chế áp pháo binh địch ở Mường-thanh, sau đồi D và Hồng-cúm.

        Lúc ấy đúng 18 giờ 15 phút.

 

        LIÊN TỤC ĐỘT PHÁ

        Bóng đêm đã trùm lên thung lũng Điện-biên-phủ. Trung đoàn trưởng Hoàng Cầm nhìn đồng hồ chờ đúng 18 giờ 25 mới nói lớn vào máy điện thoại:

        - Bắt đầu bộc phá!

        Nhận được lệnh của trung đoàn, tiểu đoàn 130 có nhiệm vụ tiêu diệt cứ điểm 3, lập tức cho các chiến sĩ bộc phá của đại đội tiêm đao 366 bật khỏi chiến hào.

        Trung đội trưởng Diêm và tiểu đội trưởng Sâm dẫn đầu băng ngay đến cạnh hàng rào, chỉ huy các chiến sĩ vượt lên đánh bộc phá. Chiêm, chiến sĩ thứ nhất vụt chạy dưới làn đại bác địch, đánh quả bộc phá đầu tiên nghe nổ giòn như một trải bom. Trong chớp lòe, Luận là người thứ hai chạy lên, nhưng mới ra khỏi công sự thì bị trúng đạn. Chiêm, mặt nóng bừng, giật ống bộc phá lao lên phía trươcs. Thạo vọt theo:

        - Anh Chiêm! Để tôi lên! Vừa nói dứt. Thạo bị thương ngay vào tay nhưng vẫn cứ vượt lên.

        Chiêm nói qua hơi thở:

        - Thôi để tớ đánh cho...

        Quả bộc phá thử hai nổ...

        Bọn địch ở đây chưa kịp hoàn hồn sau trận mưa đạn súng cối của ta vừa rồi thì đã nghe thấy hai tiếng nổ long trời lở đất ở phía hàng rào. Bọn lính nhà nghề đã hiểu quân ta bắt đầu đánh mìn mở tung một con đường qua hàng rào dây thép gai để xông vào diệt chúng. Hai hỏa điểm vành ngoài còn sống sót của chúng bắt đầu bắn cản. Lửa đạn quét sát mặt đất khiến các chiến sĩ bộc phá của ta không sao tiến lên được. Thấy vậy, trung đoàn trưởng Hoàng cầm lập tức lệnh cho một phân đội hỏa lực của trung đoàn tiến lên tìm cách bịt ngay 2 hỏa điểm địch. Thi hành lệnh đó, 1 tổ ĐKZ vọt tiến lên sát hàng rào, lợi dụng ngay hố đại bác địch, bắc súng hướng vào 2 hỏa điểm đã được đánh số 3 và 4. Nhưng đồng chí tiếp đạn chưa tới nơi thì một tổ viên đã bị hy sinh tại chỗ. Tâm, tổ viên tiếp đạn, nghiến răng ken két nhưng vừa nhỏm người định chạy đưa hòm đạn lên thì cũng bị thương ngay vì một loạt đại bác địch. Mắt Tâm hoa lên, mặt rát bỏng. Anh tưởng như cái bàn tay to lớn của tên địa chủ đang vả mạnh vào mặt anh hồi nào. Anh cố lê bàn chân đã găy đễ đầy hòm đạn ĐKZ lên phia trước. Và chỉ trong 2 phút, tổ ĐKZ đã phụt 2 quả làm tắc tị ngay 2 hỏa điểm nguy hại của địch. Lập lức các chiến sĩ bộc phá đại đội 366 lại kế tiếp nhau xông lên. Đồng chí thứ năm chưa hoàn thành nhiệm vụ, bị hy sinh, đồng chí thứ sáu lại mang thuốc nổ chạy tới. Nõn chính là đồng chí thứ sáu vừa làm xong phần mình, lại quay về nhặt ống bộc phá của ban lên đánh tiếp. Rồi chính Nõn đã chạy đi chạy lại như con thoi trên mảnh đất rào rào lửa đạn đánh tiếp 2 ống nữa. Thế là chỉ trong 15 phút1 (Tiểu đoàn 130 bắt đầu bộc phá vào lúc 18 giờ 25 phút, đến 18 giờ 40 phút thì hoàn toàn mở xong cửa mở), tiểu đội bộc phá của Sâm đã mở thông một con đường thẳng tắp dài 50 mét, chuẩn bị cho xung kích tiến vào. Ba tên lê-dương ở lô-cốt đầu tiên đã theo chính con đường ấy chạy ra hàng.

        Nhận được báo cáo cửa đã mở, trung đoàn trưởng Hoàng Cầm lệnh ngay cho các đơn vị pháo đi theo2 (Pháo đi theo hay còn gọi là pháo phối thuộc, pháo đi cùng, là những cỗ pháo trong biên chế hay của cấp trên đưa xuống để trung đoàn sử dụng trong chiến đấu) bắn chế áp trong 3 phút chuẩn bị cho bộ binh xung phong.

        Phía tiểu đoàn 428, như chúng ta đều biết, chưa bước vào cuộc thì một phần hỏa lực của tiểu đoàn đã bị pháo địch phá hủy. Tiểu đoàn trưởng Toàn đã kiên quyết cho phần hỏa lực còn lại vượt lên chiếm lĩnh. Nhưng ở chỗ trận địa xuất phát xung phong của đại đội 58 là đại đội chủ công đêm nay đang bị các cỡ súng: cối, đại bác và hỏa lực bắn thẳng ở cứ điểm 2 bắn tới như mưa. Liên lạc giữa đại đội với tiểu đoàn, giữa tiểu đoàn với trung đoàn bị đứt hai lần rồi tắt hẳn. Vô tuyến điện thoại cũng bị gãy cần "ăng-ten". Đại đội trưởng đại đội 58 và tiểu đoàn phó tiểu đoàn 428 nhìn nhau lo lắng. Kim đồng hồ đã nhích quá giờ tấn công 3 phút (18 giờ 33 phút) mà vẫn không liên lạc được. Thấy bộc phá bên tiểu đoàn 130 liên tiếp nổ, đại đội trưởng Song cùng với đồng chí tiểu đoàn phó quyết định: "Phải tấn công ngay để phối hợp".

        Nhưng trên đường lên bộc phá còn mấy cây lớn chắn ngang. Song định gọi mấy chiến sĩ lên dọn đường. Hiểu ý đại đội trưởng, không đợi chỉ thị, Tùy và Tiến lao lên lấy dao chặt cây dọn đường dưới lửa đạn. Nhưng lúc họ hoàn thành nhiệm vụ cũng là lúc làn đạn địch cướp mất của chúng ta hai đồng chí anh hùng. Căm thù sôi sục, trung đội trưởng Châu và tiểu đội trưởng Dánh nhảy lên dùng tiểu liên che chở cho đồng chí Sấu đánh ống bộc phá thứ nhất của trung đội. Dưới lửa đạn, 8 ống bộc phá nổ liên tục. Hàng rào của địch chỉ còn độ 20 mét nữa. Dưới ánh chớp liên tiếp của pháo ta và pháo địch, tiểu đội phó Giót chạy vút lên như tên bắn, tiếp tục nhiệm vụ bộc phá.

        Ống bộc phá thứ 9 của Giót đã nổ. Anh nằm phục sang một bên để cho Ky, tỗ viên trong tổ anh lên đánh ống thứ 10. Nhưng khẩu trung liên trong cứ điểm cứ nhè chỗ Ky mà đan đi đan lại. Ky bị thương. Thấy thế, Giót nhào lên, lấy ống bộc phá của Ky rồi chạy lên đốt tiếp. Giót chưa kịp lui về thì Liên đã chạy tới định đốt ống thứ 11. Liên chưa kịp giật nụ xòe thì bị trúng đạn hy sinh. Càng thương bạn, Giót càng căm thù địch. Anh lại ôm ống bộc phá của Liên tiến lên. Thế là một mình Giót đã làm nhiệm vụ cả tổ. Tiểu đội bộc phá thứ hai lao lên phá rào tiếp. Sáu mươi mét rào đầy thép gai bị phá tung trong vòng 18 phút.

        - Mở xong rồi! Mở xong rồi!

        Nhận được báo cáo, tiểu đoàn trưởng Toàn giơ súng pháo hiệu chỉ thẳng lên trời. Anh đã định bóp cò, nhưng chợt nghĩ đến chỉ thị hiệp đồng bộ pháo, anh lại hạ súng xuống. Anh cầm ống máy vô tuyến điện thoại vừa được chữa xong và gọi về trung đoàn:

        - Đầm-hà! Đầm-hà! Đường đã thông, yêu cầu cho xe vào bốc hàng1 (Mật danh gọi báo cáo trung đoàn: cửa đã mở, yêu cầu cho bộ đội xung phong).

        Tiếng ọ ọ trong máy phát ra. Tiểu đoàn trưởng nghe xong, mặt hơi bần thần. Anh quay sang nói với chính trị viên Xuyên:

        - Trung đoàn bảo chờ tiểu đoàn 11.

        18 giờ 30 phút, khi khói đạn của ta còn đang trùm lên cứ điểm 1 thì các chiến sĩ đại đội 243 đã xông lên mở cửa mở. Vừa lúc trưa, kẻ địch đã đụng đến trận địa xuất phát xung phong của tiểu đoàn 11 và đã bị loạt đạn "giáo đầu" của pháo ta đuổi dấn chúng về sào huyệt. Chúng đã hiểu nguy cơ về những đường lê xung kích ta sẽ đến với chúng chính là từ hướng này. Vì vậy, khi quả bộc phá đầu tiên của đại đội 243 vừa làm rung chuyển cứ điểm 1 thì cũng là lúc trận mưa thép của địch giội xuống ào ào. Pháo địch từ những vị trí Mường-thanh, sân bay, Hồng-cúm và cả trận địa cối 120 trên đồi Độc-lập đã tập trung bắn về, tạo thành một lưới lửa dày đặc, kéo dài suốt từ chỗ cửa mở đến tận sở chỉ huy tiểu đoàn 11 đặt ở bên này bờ suối, có lẽ lúc này cán bộ và chiến sĩ tiểu đoàn 11 mới cảm thấy sâu sắc sự cần thiết của việc đào trận địa xuất phát xung phong. Trận địa của tiểu đoàn chưa sát tới hàng rào và còn quả nông. Pháo địch vẫn bắn tới mà các chiến sĩ đại đội 243 phải chịu nằm phơi lưng trên một khoảng đất trống, bằng phẳng. Mọi phương tiện liên lạc giữa tiểu đoàn với trung đoàn, giữa tiểu đoàn với hỏa lực, giữa trung đoàn với đại đoàn, giữa trung đoàn với pháo binh đều bị cắt đứt. Thậm chỉ, liên lạc giữa tiểu đoàn 11 với đại đội lựu pháo 804 cũng không còn duy trì được nữa vì tổ quan sát tiền tiến của đại đội 804 đi, sát tiểu đoàn trưởng Ân vừa bị trúng đạn địch.

        Khó khăn đến với các chiến sĩ chủ công thật không sao lường được. Phía trước, những dũng sĩ của tiểu đoàn Phủ-thông không thể bộc phá tiếp. Họ chỉ mới mở được có hai lần rào. Đại đội trưởng Nọa đã phải dùng đến tiểu đội bộc phá thứ ba của anh, nhưng người chiến sĩ cuối cùng của tiểu đội ấy cũng không sao vượt qua được lưới lửa dày đặc của địch. Phía sau, các đội đột kích, các đội hỏa lực chưa nhảy được vào đồn mà đội ngũ cứ thưa dần.

        Phủ-thông! Tiểu đoàn đã mang danh hiệu chiến thắng vinh quang từ năm xưa, không thể chịu bó tay trước khó khăn. Nhưng lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" mà đại đoàn trực tiếp giao đại đội mũi nhọn 243 sáng nay, hiện còn trong tay tiểu đội trưởng Nguyễn Hữu Oanh và đang phải dừng sau trung đội bộc phá.

        Đường dây liên lạc với trên vừa nối được. Chính trị viên tiểu đoàn 11 Trần Linh vừa cầm máy lên thì đã được nghe thông báo của Bộ chỉ huy Mặt trận:

        ... "Quyết định thưởng Huân chương Chiến công hạng ba cho 2 tiểu đoàn 130 và 428 vì đã mở xong cửa mở trước thời gian quy định".

        Tiếp đó là tiếng nói của trung đoàn trưởng:

        - Các đồng chí phải lên quan sát tình hình cửa mở... Cứ bình tĩnh mà xử trí...

        Trong khi đó, phía cứ điểm A1, một trong những cao điểm ở khu Đông, một trung đội của đại đoàn Biên-hòa, có nhiệm vụ đánh lạc hướng địch, đã phát huy mọi hỏa lực bắn thẳng và súng cầu vồng nã vào vị trí địch. Địch bắn ra loạn xạ. Pháo của Pi-rốt cũng bắn tới tấp để ngăn chặn quân ta. Pháo dù bắn lên soi sáng cứ điểm như ban ngày. Nhưng trung đội dương công vẫn gan lỳ tiếp tục làm nhiệm vụ.

"Mobilis in Mobile" ― Jules Verne


   
Trả lờiTrích dẫn
Cadjc
(@cadjc)
Công dân
Được ưa thích
Tài sản: 311.37
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1099
 

TIÊU DIỆT CỨ ĐIỂM HIM LAM (tiếp)

 

        THC THT SÂU, CT NÁT ĐCH RA MÀ TIÊU DIT

        18 giờ 40 phút, sau khi được lệnh của trung đoàn trưởng Hoàng Cầm, trong liền 3 phút đồng hồ, 16 khẩu cối các loại cùng với hàng trăm cây súng đại liên, trung liên, súng trường lại một phen "dốc" đạn vào đồn để kẻ địch được nếm thêm một đòn lửa đạn nữa trước khi chúng bị mũi lê xung kích của ta xọc vào tim chúng.

        Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 130 lúc này đã ở sát cửa mở với đại đội trưởng đại đội 366. Đúng 18 giờ 30 phút, anh bắn 3 phát tín hiệu đỏ lên không trung. Tiểu đội trưởng Trần Can, từ nãy vẫn chỉ chờ có giờ phút này. Anh giương cao cờ "Quyết chiến quyết thắng", nhảy phắt lên miệng hào như một chiếc lò-xo. Anh hô to:

        - Thi đua với tiểu đội bộc phá, mau cắm cờ Bác lên đồn giặc!

        Tiếng thét "xung phong" của tiểu đội dao nhọn Trần Can vang lên như át cả những tiếng đại bác địch vẫn nổ rền trên đường cửa mở. Trần Can dẫn tiểu đội chạy thẳng một mạch lên đỉnh cứ điểm 3 nhanh chóng thọc một mũi nhọn vào tim địch. Đến đây, tiểu đội anh vấp phải một lô-cốt. Khẩu súng máy trong lô-cốt đang quét sát đất, đạn cắm phập vào mép hào chỗ tiểu đội anh. Xưa nay, Can vẫn nổi tiếng trong trung đoàn về lối đánh thọc sâu dũng mãnh. Trong trận Bản-hoa (chiến dịch Tây-bắc) năm ngoái, một mình tổ xung kích Trần Can đã diệt liền một lúc 7 ụ súng địch với lối đánh thọc thật nhanh để địch không kịp hoàn hồn, đối phó. Giờ đây, đụng phải một lò-cốt còn "sống" của địch, Can nhất định không chịu dừng lại. Anh cho 1 tổ trung liên bắn nghi binh phía trước để thu hút địch, còn anh dẫn một tổ khác vòng ra phía sau lô-cốt ném liền 3 quả thủ pháo. Hành động mưu trí của Can đã quyết định số phận lô-cốt địch trong nháy mắt. Không bỏ lỡ cơ hội, Can dẫn tiểu đội nhảy khỏi hào giao thông, đánh thẳng vào hầm cố thủ bắt sống luôn tên quan ba chỉ huy cứ điểm. Lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" trong tay Can lập tức được cắm trên đỉnh lô-cốt cố thủ. Trong ánh chớp lửa đạn, lá cờ mở rộng bay phần phật như giục giã các chiến sĩ xung kích phía sau tiến lên. Hai tiểu đội còn lại của trung đội đột kích 1 đã tràn vào đồn ngay sau tiểu đội Can nhanh chóng chiếm đỉnh đồi rồi tỏa thành hai mũi, phát triển sang mé tây bắc cứ điểm bảo đảm cạnh sườn cho tiểu đoàn 11. Các chiến sĩ đã tung hoành ngang dọc, dùng lựu đạn, thủ pháo tiêu diệt nhanh chóng hàng chục ụ súng địch, bắt hàng chục tù binh. Nhưng ở chính giữa, thẳng xuống vạt bên kia đồn, một số địch vẫn ngoan cố chống cự. Từ những ngách hào giao thông, chúng vẫn lia tiểu liên để sát hại các tổ xung kích của ta. Trần Can đá phát huy sở trường vừa đánh vừa làm công tác địch vận và cũng là ưu thế chính nghĩa của quân đội ta. Anh bắt một tên đội tù binh Pháp nói thạo tiếng việt kêu gọi bạn nó bằng cả hai thứ tiếng Pháp và Việt: "Bộ đội Cụ Hồ chiếm gần hết đồn rồi, nếu không ra hàng sẽ bị tiêu diệt". Quả nhiên, địch tranh nhau vứt súng lên miệng hào, lóp ngóp 30 tên bò ra hàng.

        Thi đua với tiểu đội Trần Can, tiểu đội phó Nguyễn Tất Hiếu cũng nắm một tiểu đội đang đánh địch rất hăng ở một đường hào khác. Gặp tổ nào, Hiếu cũng kêu gọi anh em tự động phối hợp. Khi chạm phải một ổ trung liên địch, Hiếu đã gọi hàng hai lần nhưng cả hai lần chúng đều trả lời bằng những loạt liên thanh ngoan cố. Biết địch còn hung hăng, Hiếu cho cả tổ nằm lại, một mình bí mật bò lên, khi đến sát ụ súng, bất thình lình và nhanh như mãnh hỗ vồ mồi, Hiếu chồm lên, một tay nắm lấy nòng khẩu trung liên địch còn nóng bỏng giật mạnh, một tay lộn ngược tiểu liên của anh đánh vào mặt tên địch một báng cực mạnh. Hắn gục ngay tại chỗ và Hiếu lại cùng tiểu đội xông lên diệt nốt quân thù.

        Còn tiểu đội trưởng Thi, con người lầm lì ít nói này mới chiến dịch trước còn cùng tổ trưởng Can lập thành tích tiêu diệt một lúc 7 ụ súng địch, nay đã dày dạn kinh nghiệm và đang chỉ huy 1 tiểu đội phát triển một mũi song song với tiểu đội Trần Can. Lựu đạn, thủ pháo trong tiểu đội anh đã hết. Cũng như Can, bao giờ Thi cũng rất gan dạ và mưu trí. Thấy quân ta mới vào được ít mà lại bắt được nhiều tù binh, nắm được tâm lý ngụy binh, anh lấy ngay hai tên trẻ và sốt sắng nhất giao cho chúng nhiệm vụ:

        - Có muốn lập công chuộc tội không? Anh này đi tìm lựu đạn về đây. Còn anh kia đứng gác phía sau, nếu bọn Âu Phi ra thì phải báo động ngay.

        Hai tên ngụy binh nhanh nhẹn bước đi. Chỉ một lát, hắn mang về 1 hòm lựu đạn cho tiểu đội Thi tiếp tục chiến đấu.

        Lúc này bên mũi tiểu đội Trần Can, các chiến sĩ đang như một đàn sóc lần lượt vọt tiến qua một bãi trống. Nhưng một hỏa điểm vẫn đan thành lưới lửa dăng kín về phía Can. Không thể để cả tiểu đội thương vong một cách vô ích. Can ra hiệu cho tiểu đội dừng lại. Anh đề nghị trung đội trưởng cho một người bò lèn đánh bộc phá cái ụ rất to trước mặt. Trung đội trưởng đồng ý và giao nhiệm vụ đó cho Thanh. Mọi người chỉ kịp thấy Thanh ngã xuống. Trong đêm tối, mắt các chiến sĩ càng như rực lửa. Một đồng chí chạy xộc đến chỗ trung đội trưởng đề nghị cho mình lên đánh thay. Nhưng kìa, Thanh lại trườn lên như một con thằn lằn rồi nhân lúc hỏa điểm địch bắn chếch sang hướng khác, Thanh nhảy chồm đến sát hầm ngầm. Một ánh chớp lóe lèn rồi tiếp theo một tiếng nổ dậy đất. Cả tiểu đội Trần Can đã bật dậy xông vào chiếm lĩnh hầm ngầm khi âm vang quả bộc phá của Thanh nổ chưa dứt.

        Trung đội đột kích 1 trong đó có Can, Thi, Hiếu vẫn nhanh chóng phát triển theo đúng hướng. Lẽ ra, người cuối cùng của trung đội dao nhọn này lọt qua cửa mở thì trung đội đột kích 2 của đại đội 363 cũng phải có mặt ngay trong đồn để hiệp đồng tác chiến, đánh địch về mé đông nam. Nhưng kẻ địch trong cứ điểm cũng còn phần nào tỉnh táo. Chúng hiểu rằng nếu để thêm lực lượng của ta vào nữa chẳng khác nào như để cho quân của chúng bị các đợt sóng mãnh liệt xô đến quật ngã chúng một cách nhanh chóng. Tên quan ba chỉ huy cứ điểm đã kịp điện báo cáo về Mường-thanh tình hình đó trước khi hắn bị tiểu đội Trần Can bắt sống. Thế là không biết bao nhiêu khẩu pháo của chúng đã lia nòng bắn tới, phong tỏa kín con đường cửa mở. Trung đội đột kích 2 không thể nào tiến được đến sát hàng rào. Nhận thấy cần phải có lực lượng tiếp ứng ngay, trung đội trưởng trung đội bộc phá, sau khi làm xong nhiệm vụ vẫn cùng anh em nằm sát hàng rào, xin tiếp tục nhận nhiệm vụ xung kích tiến vào đồn.

        Được đại đội đồng ý, trung đội nhanh chóng vọt qua cửa mở giữa một đợt pháo địch tạm ngớt. Đại đội phó đại đội 366 và trung đội trưởng trung đội bộc phá, mỗi người nắm một lực lượng đánh thốc vào bên trong, theo mé đông nam. Vài chục phút sau, các chiến sĩ bộc phá làm nhiệm vụ xung kích đã hoàn toàn làm chủ phạm vi tác chiến của họ và đã gặp các chiến sĩ trong đội đột kích 1 ở một ngách hào phía tây cứ điểm. Các chiến sĩ ôm lấy nhau và cùng reo lên:

        - Xong cả rồi! Hoan hô! Hoan hô!...

        Thế là kể từ lúc 3 phát pháo hiệu "xung phong" được bắn lên, các chiến sĩ đại đội 366 đã hoàn toàn tiêu diệt cứ điểm 3 trong vòng 45 phút. Đại đội lê-dương thứ 11 của trung đoàn lê-dương thứ 13 nổi tiếng bị quân ta tước vũ khí hoàn toàn.

        Lúc ấy là 20 giờ 15 phút, nhưng nhiệm vụ của tiểu đoàn 130 vẫn còn. Trước trận đánh, các chiến sĩ tiểu đoàn 130 đã được trung đoàn phổ biến: Nếu giải quyết xong cứ điểm 3 trước hai cứ điểm 1 và 2, phải nhanh chóng đột phá sang đông nam cứ điểm 1 tiêu diệt đại đội 10, chiếm lĩnh cao điểm 507, phối hợp với tiểu đoàn 11 diệt điểm tựa chủ yếu của tiểu đoàn địch. Nhưng dù nhiệm vụ phát triển sang cứ điểm 1 có được quy định trước hay không thì lúc này các chiến sĩ Sông Lô không thể dừng lại đây một khi những người bạn Phủ-thông của họ chưa đặt chân được vào nơi mà họ cũng có nhiệm vụ đạp bằng. Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 130 ra lệnh cho đại đội 363 và 360 tiến vào cứ điểm 3 để bắt đầu đột phá đánh sang cứ điểm 1.

        Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 428 đang băn khoăn không hiểu sao trung đoàn chưa chuẩn y đề nghị của anh cho bộ đội xunq phong ngay. Anh nhìn chính trị viên và các chiến sĩ xung kích đã lắp lưỡi lê, đang xốc lại bao đạn mà lòng càng tiếc rẻ cái cơ hội xung phong tốt nhất sắp qua rồi.

        Lệnh "chờ tiểu đoàn 11" được truyền lên phía trước. Đại đội trưởng Song và tiểu đoàn phó tiểu đoàn 423 cũng lặng đi trong giây lát. Hai người tiếp tục bàn bạc:

        - Hỏa lực địch đã tắt, hỏa lực của ta cũng đã ngừng, cửa đã mở thông, để chậm thêm ít phút nhất định địch phản xung phong chiếm lại lô-cốt 6 tiểu liên thì không còn bàn đạp.

        - Chúng ta đề nghị cứ cho xung phong ngay đi.

        Đề nghị của họ lại được truyền về với tiểu đoàn trưởng Toàn. Lúc này, tiểu đoàn trưởng cũng đang suy nghĩ: càng để lâu, địch càng có điều kiện hồi phục, chiếm lại cửa mở thì đơn vị anh sẽ tổn thất thêm...

        Chưa đầy 5 phút sau, đại đoàn trưởng sau khi nghe báo cáo của trung đoàn, đã lệnh lập tức cho tiểu đoàn 428 xung phong ngay. Đồng chí nói dằn mạnh:

        - Đó mới chính là để phối hợp đắc lực với tiểu đoàn 11!

        Thế là đại đội 58 chuyển mình. 3 phát tín hiệu vừa được bắn lên, lập tứa trung đội trưởng Khay dẫn đội đột kích 1 chạy ào qua cửa mở. Tiểu đội trưởng "dao nhọn" Ngọc Hỷ dẫn tiểu đội vượt qua lô-cốt 6 tiểu liên đã bị pháo và bộc phá ta đánh sập, nhảy qua 3 lớp rào lùng nhùng, đánh thẳng một mạch qua 2 lô-cốt khác tiến sát một ụ cố thủ của địch. Hai tiểu đội sau của Khay cũng nhanh chóng chiếm lĩnh lô-cốt 6 tiểu liên rồi tỏa dồn lên phía trước. Rõ ràng vì thời cơ xung phong bị chậm và vì hỏa lực của trung đoàn chưa kịp bắn chế áp trước khi xung phong nên địch có thì giờ rút lên tầng 2, dùng tiểu liên và lựu đạn ngăn chặn quyết liệt. Đại đội trưởng Song vẫn cùng với trung đội trưởng Khay dẫn đầu bộ đội đuổi sát địch. Nhưng đến đây, những tay xung kích lợi hại nhất của anh cũng đành chịu không sao tiến lên được. Bọn chúng từ trên cao bắn xuống, từ hai cạnh sườn quét tiểu liên, trung liên tới. Ác nhất là những hỏa điểm ở lô-cốt số 1 trước mặt và lô-cốt số 3 bên phải. Tiểu đội trưởng Ngọc Hỷ, một mình xung phong ba lần nhưng cả ba lần đều bị hỏa lực địch cản lại. Thấy vậy, đại đội trưởng Song cho lệnh bộ đội ngừng tiến. Anh truyền về phía sau gọi hỏa lực của đại đội lên yểm hộ, đồng thời cho một tổ đánh nghi binh sang sườn trái thu hút hỏa lực địch để xung kích tiến lên diệt chúng. 2 khẩu trung liên vừa đặt xong, mỗi khẩu chưa bắn hết một băng thì bị pháo địch vùi kín. Anh em trong 2 tổ súng máy đều bị thương vong.

        Hỏa điểm trong lô-cốt trước mặt vẫn bắn xối xả về phía cửa mở. Không một lời đề nghị, đồng chí Tần trong trung đội bộc phá, lặng lẽ ôm quả bộc phá 10 ki-lô-gam lên đánh vỗ mặt chính của nó. Tần chạy về chưa được 20 mét thì lại bị hỏa lực sống sót trong chính lô-cốt ấy bắn bị thương. Thấy vậy, tiểu đoàn phó tiểu đoàn 428 chỉ thị cho đại đội trưởng đại đội 58:

        - Tập trung tiểu liên, thủ pháo, bộc phá bịt hỏa điểm địch, yểm hộ cho xung kích xung phong.

        Trung đội trưởng bộc phá Châu chấp hành mệnh lệnh ngay. Anh lệnh cho trung đội phó Hợp dẫn 4 đồng chí tiến về bên trái, còn anh dẫn tiểu đội trưởng Chuẩn, tiểu đội phó Giót và một chiến sĩ nữa vọt lên bên phải. Những luồng đạn đỏ lừ trong lô-cốt số 1 (lô-cốt trước mặt) vẫn bắn ra soi đường cho 2 tổ chiến đấu của ta bò lên. Gần đến nơi, chưa kịp hành động thì Giót bị một viên đạn xuyên qua bả vai. Căm thù sôi lên, Giót nép người sát lô-cốt, cùng anh em quẳng thủ pháo và lựu đạn tới tấp vào lỗ châu mai. Thấy tiếng lựu đạn và thủ pháo nổ, lập tức đại đội phó Lộc bật lên hô xung phong. Anh cùng với trung đội phó Châu, tiểu đội trưởng Chuẩn là những người đầu tiên nhảy vào trong lô-cốt qua chỗ quả bộc phá của Tần đánh vỡ. Bốn, năm ánh chớp lòe lên liên tiếp. Sau đó là những tiếng bộc phá nổ dữ dội. Lô-cốt số 1 sập hẳn nhưng Chuẩn và Châu không còn nữa. Đại đội phó Lộc cũng bị thương nặng. Tiểu đội trưởng Ngọc Hỷ dẫn tiểu đội nhảy xồ vào lô-cốt, đuổi dấn địch bắt một lúc hơn 20 tên. Thì ra đó là lô-cốt cố thủ, lô-côt chỉ huy. Tên quan ba chỉ huy đại đội 9 địch cùng với những tên bắn súng máy bi thui đen ngay trong lô-cốt.

        Đại đội 53 tiếp tục phát triển lên phía trước. Một cánh của đại đội tiến về phía tây bắc cứ điểm. Nhưng từ phía ấy, hỏa điểm trong lô-cốt số 3 bắn ra tung tóe. Một, hai đồng chí xung kích ngã xuống. Đợt xung phong về phía tây bắc cứ điểm bị ngắt quãng. Tiểu đội phó Phan Đình Giót báo cáo:

        - Hỏa lực bắn rất mạnh, phải bịt hỏa điểm thì xung kích mới lên được.

Tiểu đoàn phó tiểu đoàn 428 cũng nhận thấy thế. Anh ra lệnh:

        - Đồng chí Giót hãy tiến lên dùng tiểu liên bịt hỏa điểm địch!

        Giót xách tiểu liên vượt lên. Rồi anh em thấy Giót trườn lên phía trước nhẹ nhàng như một con rắn. Chỉ còn cách hỏa điểm địch không đầy 10 mét. Giót chuyển tiểu liên sang tay trái rồi vung tay ném một quả lựu đạn. Lựu đạn nổ nhưng hỏa điểm vẫn bắn ra tung tóe. Một viên đạn vừa xuyên thủng đùi Giót. Đó là vết thương thứ hai, nhưng anh vẫn mím môi bò nhích lên một đoạn. Anh lựa chỗ để tì đùi cho đỡ đau rồi kề tiểu liên quét thẳng vào lỗ châu mai 2 băng liền. Tiểu liên của Giót hết đạn. Thế là chẳng còn thứ vũ khí gì trong tay anh mà hỏa điểm địch vẫn sống dai dẳng. Sau lưng Giót, anh em xung kích vẫn chờ đợi. Chính lúc đó toàn thân người đảng viên Phan Đình Giót hiện lên ở vách lô-cốt số 3. Bóng Giót vươn cao che kín cải đốm lửa đang còn lập lòe bắn về phía xung kích. Hỏa điểm trong lô-cốt số 3 vụt tắt.

        Tiểu đoàn phó tiểu đoàn 423 vùng dậy, anh vung tay thét lớn:

        - Xung pho...ong! Trả thù cho đồng chí Phan Đình Giót!

        Với một sức mạnh kỳ diệu, các chiến sĩ xung kích nối tiếp nhau tràn đến, vượt qua lô-cốt số 3 nhanh như những cơn gió lốc.

        Lúc ấy vừa đúng 20 giờ 30 phút. Cuộc chiến đấu trong tung thâm cứ điểm 2 lại tiếp tục.

 

        KHÔNG PHẢI CHỈ CÓ THUẬN LỢI

        20 giờ 30, tại sở chỉ huy đại đoàn trên cao điểm 674, trưởng ban tác chiến đại đoàn vừa vẽ các mũi tiến quân của ta lên sơ đồ tác chiến vừa báo cáo tóm tắt tình hình diễn biến chiến đấu với Bộ tư lệnh đại đoàn:

        - Tiểu đoàn 130 đã tiêu diệt giòn giã cứ điểm 3 trong 45 phút, đột phá tiền duyên rất nhanh, mũi thọc sâu của tiểu đội Trần Can rất nhọn, cán bộ và chiến sĩ chiến đấu vô cùng anh dũng, mưu trí và linh hoạt.

        Hiện nay đang củng cố trận địa, chuẩn bị phát triển sang cứ điểm 1 để phối hợp với đơn vị bạn...

        ... Tiểu đoàn 428 đã tiến vào chiến đấu tung thâm. Thời cơ xung phong bị chậm nên đã để cho địch hồi phục lùi lên tầng cao chống cự lại ta. Bộ đội chiến đấu anh dũng tuyệt vời, tiêu biểu là tiểu đội phó Phan Đình Giót đã lấy thân mình bịt hỏa điểm cho đồng đội tiến lên...

        ... Riêng tiểu đoàn 11 vẫn đang gặp khó khăn trước tiền duyên. Địch đã phát hiện được hướng tấn công chủ yếu của ta nên hỏa lực địch tập trung ở đây dày đặc, bắn phá rất dữ dội. Chiến hào của tiểu đoàn lại còn cách vị trí địch trên 100 mét nên một số chiến sĩ đã bị thương vong lúc tiếp cận. Hiện nay vẫn còn nhùng nhằng ở cửa mở...

        Bộ tư lệnh đại đoàn chỉ thị:

        - Đôn đốc gấp cho tiểu đoàn 130 phát triển nhanh sang cứ điểm 1.

        - Lệnh cho cán bộ trung đoàn 141 phải xuống tận nơi giúp đỡ giải quyết khó khăn cho tiểu đoàn 11, đồng thời chỉ đạo cho tiểu đoàn 428 nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt cứ điểm 2 rồi tranh thủ phát triển đánh sang cứ điểm 1 để yểm hộ cho tiểu đoàn 11 nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ.

        Nhưng tình hình diễn biến không đúng như ý muốn của người chỉ huy.

        Tiểu đoàn 130 loay hoay mãi không sao phát triển sang cứ điểm 1 được, vì trước lúc tác chiến, công tác chuẩn bị không chu đáo nên lúc này bộc phá thiếu, địch tình nắm không chắc, cán bộ cũng không nắm được lực lượng của mình sau khi tiêu diệt cứ điểm 3, tưởng rằng đơn vị không còn đủ sức chiến đấu nên tiểu đoàn đề nghi tăng viện. Tuy được trên chuẩn y cho đội dự bị của đại đoàn bước vào chiến đấu, nhưng tình hình cũng không có gì sáng sủa hơn. Công sự phụ trong cứ điểm địch dày đặc, hỏa lực của chúng phong tỏa rất kín, các chiến sĩ tiểu đoàn 166, tiểu đoàn dự bị của đại đoàn, cũng không làm gì nên chuyện...

        Phía tiểu đoàn 428 cũng phát triển chậm và thiếu những mũi thọc sâu quyết định. Các đại đội không vượt lên chiến hào để nhanh chóng đánh thẳng vào phía trong mà lại phát triển trong chiến hào, nên địch chỉ bị dồn về một phía, tổ chức chống cự lại ta. Vì thế các chiến sĩ 428 phát triển rất chậm, phải vất vả nhích từng bước, đánh chiếm từng ụ súng, từng ngách hào.

        Tiểu đoàn 11 vẫn chưa sao mở được cửa mở. Tiểu đoàn trưởng Ân đã tung tiểu đội bộc phá thứ 5 vào chiến đấu, nhưng cũng chỉ mới tiến thêm được 3 mét, phá thèm được 2 lớp hàng rào. Pháo địch bắn chặn dày đặc và những hỏa lực lướt sườn, những họng súng bí mật của địch không biết từ đâu bắn ra vẫn kìm đứng bước tiến của quân ta...

        Cho đến lúc 21 giờ 45, sở chỉ huy của trung đoàn mới nhận được báo cáo của tiểu đoàn 428 đã hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng trung đoàn trưởng nghiêm khắc hỏi lại:

        - Đồng chí đã kiểm tra lại chưa? Tại sao tiểu đoàn 11 vẫn báo cáo lên trung đoàn là hỏa lực của địch ở mỏm thìa lìa cứ điểm 2, phạm vi phụ trách của đồng chí, vẫn bắn sang cứ điểm 1 rất dữ dội.

        - Rõ, tôi sẽ đi kiểm tra lại.

        Quả nhiên 5 phút sau, tiểu đoàn trưởng Toàn xác minh rẳng tiểu đoàn chưa hoàn thành nhiệm vụ đánh mỏm thìa lìa và hứa sẽ nhanh chóng tiêu diệt quân địch đang dồn cục lại ở đó...

 

        KIÊN QUYẾT HOÀN THÀNH NHIỆM VỤ THEO THỜI GIAN QUY ĐỊNH

        Không khí ở sở chỉ huy trung đoàn Đầm-hà rất căng thẳng. Giữa tiếng nổ ầm ầm của pháo địch, các cán bộ vẫn làm việc, theo dõi đơn vị, nhưng ruột ai nấy như bốc lửa. Khó khăn của từng đơn vị đã rõ, nhưng khắc phục như thế nào đây!

        Chuông điện thoại đổ hồi. Chính ủy Mạc Ninh được mời ra nói chuyện với Bộ chỉ huy Mặt trận. Đồng chí cầm máy nói lên. Phía đầu dây bên kia là đồng chí Chủ nhiệm chính trị Mặt trận Lê Liêm. Sau khi nghe báo cáo tóm tắt những ưu khuyết điểm chính trong đợt chiến đấu vừa qua của trung đoàn, Chủ nhiệm chính trị Mặt trận nói:

        - Chúng ta đã dự kiến tấn công Him-lam không phải là dễ dàng. Các đồng chí cứ bình tĩnh giải quyết. Hãy đi kiểm tra cụ thể và giúp đỡ thiết thực tiểu đoàn chủ công. Đảng ủy Mặt trận kêu gọi các đồng chí đảng viên, cán bộ và chiến sĩ trong toàn trung đoàn hãy củng cố quyết tâm, tìm mọi cách đánh thắng trận đầu mở màn chiến dịch...

        Phía hầm bên, qua điện thoại, trung đoàn trưởng Quang Tuyến cũng đang nhận chỉ thị của đại đoàn trưởng về những biện pháp cần thiết để vượt qua những tình huống khó khăn này.

        Ngay sau đó, đảng ủy trung đoàn và ban chỉ huy trung đoàn họp bàn và nửa giờ sau, các đồng chí chia nhau đi xuống các đơn vị. Đồng chí chính ủy gọi dây nói cho tiểu đoàn Phủ-thông để phổ biến lại chỉ thị của Bộ chỉ huy Mặt trận và nghị quyết mới nhất của thường vụ đảng ủy và ban chỉ huy trung đoàn, Chính trị viên tiểu đoàn Phủ-thông, Trần Linh, trả lời rắn chắc:

        - Chúng tôi đang gặp một số khó khăn, nhưng cán bộ và chiến sĩ trong toàn tiểu đoàn kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ.

        Anh vừa được chứng kiến quang cảnh đặc biệt: toàn đại đội 243 tình nguyện làm bộc phá viên để mở cho được cửa mở. Các chiến sĩ tiểu đoàn Phủ-thông nhất định không chịu lùi bước trước một khó khăn nào.

        Chính trong lúc đó, pháo địch vẫn nổ dữ dội trên trận địa của đại đội 243, đại đội chủ công của tiểu đoàn, ở chỗ cửa mở, mấy khẩu súng phun lửa của địch lại phụt ra phía trước như những dòng suối lửa đỏ ối.

        Trong ánh chớp nhoáng nhoàng đó, bóng đại đội phó Hiệu đang luồn vào cửa mở nhẹ nhàng như một con rắn. Anh quyết tìm cho ra vị trí những hỏa điểm bí mật của địch đã quật ngã các chiến sĩ bộc phá của đại đội anh trước cửa mở. Những loạt đạn vẫn đuổi nhau nóng bỏng trên lưng anh. Nhưng mọi người thấy anh vẫn trườn lên, bò qua 4 lần rào đã mở. Ngay trước mặt anh, một ổ trung liên vừa quạt thốc về phía anh một băng dài. Anh dán người sát đất và xác định được vị trí của họng súng địch. Anh lại tiếp tục quan sát. Bỗng từ phía bên trải, một hỏa điểm khác nổ rền đan thành một lưới lửa phong tỏa kín cửa mở. Anh nghển hơi cao nhìn về phía đó để tìm cho ra hỏa điểm địch bắn từ đâu. Dưới ánh chớp của một tràng đại bác, anh đã phát hiện được hỏa điểm lướt sườn này đặt trên mỏm thìa lìa của cứ điểm 2.

        Nắm được tình hình, đại đội phó Hiệu bò trở ra thoăn thoắt. Vừa rời khỏi chân rào, anh đã gặp đồng chí tiểu đoàn phó và đại đội trưởng Nọa vẫn đợi anh. Sau khi báo cáo tường tận tình hình, anh đề nghị điều đại liên lên bịt 2 hỏa điểm lướt sườn của địch và cho phép anh lại bò vào cửa mở để tiêu diệt hỏa điểm trung liên của địch.

        Tin đã phát hiện ra những hỏa điểm bí mật và lướt sườn của địch được báo cáo lên đại đoàn. Đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn chỉ thị cho trung đoàn, trưởng Quang Tuyến tìm mọi cách tiêu diệt những hỏa điểm ấy và trung đoàn phải đốc tiểu đoàn 428 giải quyết cho nhanh mỏm thìa lìa. Đồng thời đại đoàn trưởng chỉ thị cho trung đoàn trưởng Hoàng Cầm cũng cho bộ đội tích cực đột phá sang cứ điểm 1, trước mắt phải tập trung hỏa lực bắn vào cứ điểm 1 để chi viện cho tiểu đoàn Phủ-thông. Tiếp đó, đồng chí đề nghị pháo ta chuẩn bị một đợt hỏa lực kiềm chế pháo địch thật đắc lực trong những giờ phút tới.

        Tại sở chỉ huy trung đoàn lựu pháo, trung đoàn trưởng Hữu Mỹ và chính ủy Nam Thắng đang băn khoăn về tình hình chiến đấu của bộ binh. Đã từ hơn một tiếng đồng hồ, các đồng chí không được thông báo tình hình cụ thể. Tốc độ tấn công rõ ràng đã bị chững lại. Như vậy thì pháo binh chịu một phần trách nhiệm. Hỏa lực trong tay các đồng chí chưa kiềm chế tốt pháo binh địch... Trong chuẩn bị chiến đấu, các đồng chí chưa xác định được rõ ràng các trận địa pháo địch, trong tung thâm cũng chưa dự kiến được những trận địa lâm thời mà pháo địch có thể cơ động đến. Trận địa pháo địch sau đồi D không có ai biết trước. Giữa lúc ấy, người chiến sĩ trực điện thoại mời trung đoàn trưởng cầm máy nói. Ở đầu dây đằng kia là đồng chí Hoàng Kiện, tham mưu trưởng đại đoàn bộ binh báo cho đồng chí khá rõ tình hình và những yêu cầu chi viện hỏa lực cho bộ binh trong đợt chiến đấu mới. Trung đoàn trưởng Hữu Mỹ buông máy rồi bàn với chính ủy về kế hoạch hiệp đồng, kiểm tra nắm lại tình hình đạn dược và báo cáo lên Bộ chỉ huy đại đoàn Long-châu. Theo kế hoạch đó, trung đoàn sẽ sử dụng cả 5 đại đội để "bịt miệng" các trận địa pháo địch sau đồi D và cứ điểm 210 bằng được. Mục tiêu thứ nhất sẽ bắn với 5 cự ly, mục tiêu thứ hai 7 cự ly1 (Một phương pháp bắn chế áp trận địa pháo binh địch). Bắn cày đi cày lại 2 mục tiêu đó cho đến khi có lệnh ngừng...

        Sau đó ít phút, được Bộ chỉ huy đại đoàn Long-châu chuẩn y, các cán bộ tham mưu truyền ngay kế hoạch bắn xuống các đơn vị. Không khí sở chỉ huy lại rộn lên... chờ đợi kết quả mà ai cũng mong muốn.

        22 giờ, thấy pháo ta im ắng, bộ binh ta không lên phá nốt hàng rào, địch trong cứ điểm 1 tưởng ta không còn đủ lực chiến đấu nữa. Pháo sáng của chúng đua nhau bắn vọt lên trời, soi rõ từng bụi cây, từng đường hào của ta bên ngoài cứ điểm. Nhưng khi thấy quân ta vẫn bám chắc cửa mở, hỏa lực của chúng lại quét ra. Lửa đạn tung tóe như một thanh sắt nung đang bị đập mạnh trên một chiếc đe khổng lồ.

        4 khẩu đại liên của tiểu đoàn 11 đã được đưa lên đặt sát hàng rào cứ điểm ngoài cùng và chỉ chờ cho địch bắn ra. Hỏa điểm của chúng bộc lộ lúc này đã giúp cho các chiến sĩ đại liên của ta xác định mục tiêu được dễ dàng. Anh em đã lắp băng, ngắm sẵn, chỉ còn đợi lệnh...

        Phía trước, đại đội phó Hiệu đang còn rình tiêu diệt bằng được ổ trung liên bí mật, quái ác của địch. Anh đã biết nó là một ổ trung liên di động từ chỗ này qua chỗ khác để bịt cửa mở. Nó nấp trong hào giao thông, hễ ta bắn nó lẩn, ta ngừng, cho bộc phá lên nó lại bắn. Chính nó đã cùng mấy hỏa điểm lướt sườn gây cho ta không ít khó khăn từ tối đến giờ. Đại đội phó Hiệu núp mình như con mãnh hổ rình mồi. Khẩu trung liên mà anh mang theo đã lắp băng lên đạn từ ngoài hàng rào. Anh bỗng thấy bọn chúng nhô lên khỏi miệng hào. Tên xạ viên trung liên sắp bắn thì anh vụt đứng thẳng người, quạt thốc vào chúng một băng dài. Cả tổ trung liên của địch chết gục ngay tức khắc.

        Đại đội trưởng đại đội 243, từ nãy chỉ chờ có giờ phút này. Anh lệnh cho các chiến sĩ đại liên xả súng trừng trị những hỏa điểm lướt sườn của địch. Cùng lúc đỏ, hỏa lực của trung đoàn bắt đầu bắn tập trung vào sở chỉ huy cứ điểm 1. Trên không trung, những loạt đạn lựu pháo của ta cũng bắt đầu xé gió bay về phía địch.

        Hai tiếng bộc phá nổ dậy đất. Đại đội trưởng Nọa sung sướng chờ các đồng chí bộc phá viên cuối cùng ra báo cáo kết quả để anh kịp cho bộ đội xung phong.

        Thấy lâu, đại đội trưởng Nọa cử một chiến sĩ khác bò lên điều tra, và một lát sau, người chiến sĩ chạy về, nói dồn không ra tiếng:

        - Cửa... mở thông rồi!

        Lập tức, khẩu súng pháo hiệu đã nóng vì hơi tay đại đội trưởng được giơ cao. Hai phát pháo hiệu trắng vọt lên cao báo hiệu giờ xung phong đã điểm.

        Các chiến sĩ xung kích, như một đàn sư tử sổ lồng, nối tiếp nhau vọt qua cửa mở. Lúc ấy đúng 23 giờ.

        Tại sở chỉ huy đại đoàn, khi được báo cáo lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" đã theo Nguyễn Hữu Oanh vào đồn, chính ủy Trần Độ không ghìm nổi xúc động:

        - A, "ăn" rồi! Thế thì nhất định xong đến nơi!

        Từ cán bộ đến chiến sĩ ai cũng mừng rơn và tin chắc chỉ một loáng nữa là Him-lam sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt. Những chiến sĩ Phủ-thông vẫn có truyền thống một khi họ đã vào được đồn địch thì không bao giờ chịu quay ra mà không do chính mình truyền đi tin chiến thắng.

        Đúng thế, dẫn đầu tiểu đội "dao nhọn" là Nguyễn Hữu Oanh sửa lại ngọn cờ cắm sau lưng, rồi vụt lên dẫn cả tiểu đội chỉ còn có 7 người kể cả cứu thương Lương Văn Vọng lao vào cửa mở. Đại đội phó Hiệu cắp trung liên chạy sau yểm hộ cho các chiến sĩ tiểu đội tiêm đao. Một băng trung liên địch đã quật ngã mất người cán bộ dũng cảm và mưu trí ngay trên miệng hào. Không dừng lại một bước, tiểu đội trưởng Nguyễn Hữu Oanh cứ thế xông thẳng đến hỏa điểm địch. Các chiến sĩ trong tiểu đội cũng bám sát anh không rời một bước. Ngọ lại vừa bị thương vì chính hỏa điểm ấy. Căm thù chồng lên căm thù, Oanh nhảy ba bước đến cạnh lô-cốt và vung tay quẳng vào trong một quả thủ pháo. Vừa diệt xong một hỏa điểm lợi hại của địch thì một chiến sĩ khác của ạnh lại bị thương vì một chùm lựu đạn địch từ ngách hầm bên quẳng ra. Thấy không thể cứ nối đuôi nhau mà tiến trong hào giao thông được, quân địch sẽ chỉ bị dồn, sẽ cố sống cố chết chống đỡ và tỉa dần tiểu đội của anh, Oanh lệnh cho toàn tiểu đội còn 5 người nhẩy phắt lên miệng hào tiến về 5 hướng đánh thốc vào 5 lô-cốt. Hành động của Oanh thật táo bạo và đúng lúc. Riêng Oanh nhằm thẳng lô-cốt mẹ chạy đến. Khi Oanh còn cách địch dăm mét, bọn chúng ở trong mới biết. Chúng dồn hỏa lực chặn Oanh. Khẩu liên thanh trong hầm ngầm cố thủ đang rống lên ông ổng thì bị ngay một quả thủ pháo của Oanh tống vào miệng lỗ châu mai nổ tung. Hỏa điểm của địch bị tiêu diệt. Không bỏ lỡ thời cơ, Oanh nhảy phắt lên nóc lô-cốt cố thủ, tung cờ hướng về phía cửa mở vẫy lia lịa.

        Ở phía bên, trung đội trưởng Tuệ cũng tiến ngang Oanh. Anh vừa bị một chuỗi lựu đạp địch ném tới. Khắp người Tuệ đầy những mảnh lựu đạn rát bỏng nhưng Tuệ vẫn tả xung, hữu đột, ném liền 14 quả thủ pháo, 4 quả lựu đạn, bắn 2 băng tiểu liên và bắt sống 20 tên địch. Sau đó, Tuệ lại tự mình xách quả bộc phá 10 ki-lô-gam tiến đến lô-cốt chỉ huy của cụm cứ điểm Him-lam. Quả bộc phá nổ xé trời và hầm chỉ huy của địch bị sập lần thứ hai dưới chân Tuệ. Lần thứ nhất, căn hầm có nắp dày 2 mét này đã bị những quả đạn lựu pháo của ta phá tung và tên Pê-gô, chỉ huy cụm cứ điểm Him-lam đã bị trừng trị tại đây.

        Hai trung đội đột kích của đại đội 243 chia làm 3 mũi, tranh thủ lúc địch còn đương rối loạn, vượt lên mặt đất phát triển rất nhanh. Chỉ sau 3 phút, toàn đại đội đã vào hết trong tung thâm. 2 đại đội 241, 245 cũng nối đuôi nhau tràn vào đồn. Không đầy 1 giờ sau, toàn cứ điểm 1 đã bị tiểu đoàn 11 tiêu diệt. Kim đồng hồ của Bộ chỉ huy đại đoàn chỉ đúng 23 giờ 30, sớm hơn quy định nửa giờ. Và như vậy là tiểu đoàn chủ cộng đã phải trải qua 4 giờ liền mở cửa để nhanh chóng diệt địch trong tung thâm không đầy 1 tiếng.

        Tiêu diệt xong Him-lam, các đơn vị nhận được lệnh để lại một bộ phận nhỏ thu dọn chiến trường, còn đại bộ phận nhanh chóng rút về vị trí tập kết.

Tại sở chỉ huy, đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn đang dặn dò các trung đoàn trưởng thì một đồng chí đài trưởng bước vào:

        - Báo cáo anh Tấn, địch đang gọi đại đội 10 của chúng rút nhanh về Mường-thanh.

        Như vậy là một số địch trong cứ điểm 1 đã thoát ra khỏi đồn đúng lúc quân ta bắt đầu vượt qua cửa mở. Đồng chỉ cầm máy gọi tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 154:

        - Đồng chí tiểu đoàn trưởng đấy à? Có một số địch đang rút chạy về Mường-thanh. Các đồng chí phải tiêu diệt và bắt sống kỳ hết. Rõ chưa?

        - Rõ!

        Tiểu đoàn trưởng trả lời xong, lập tức hạ lệnh cho các đơn vị đang bố trí chuẩn bị chiến đấu.

        Khônq đầy nửa giờ sau, sở chỉ huy đại đoàn nhận được một tin vui:

        - Bọn chúng (tức là đại đội 10) hầu hết đã bị bắt gọn.

"Mobilis in Mobile" ― Jules Verne


   
Trả lờiTrích dẫn
Cadjc
(@cadjc)
Công dân
Được ưa thích
Tài sản: 311.37
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1099
 

TIÊU DIỆT CỨ ĐIỂM HIM LAM (tiếp theo và hết)

 

        TRẬN ĐÁNH CÒN TIP DIN

        Vào lúc quá nửa đêm, chính ủy trung đoàn Đầm-hà đang bận tới tấp về những công việc thu dọn chiến trường, thương binh tử sĩ thì đồng chí Lê1 (Bí danh đồng chí Lê Liêm trong chiến dịch Điện-biên-phủ) Chủ nhiệm chính tri Mặt trận đã gọi điện nói chuyện. Sau khi nhiệt liệt khen ngợi tinh thần bình tĩnh, dũng cảm, mưu trí, linh hoạt của toàn thể cán bộ, chiến sĩ trong trung đoàn, sau những lời dặn dò thêm về công tác lãnh đạo tư tưởng, công tác tổ chức để liên tục chiến đấu, v.v., đồng chí Chủ nhiệm chính trị Mặt trận nói:

        - Bộ chỉ huy Mặt trận quyết định trả thương binh của địch về cho Đờ Cát. Đồng chí nghe rõ chứ! Chúng ta chấp hành đúng chính sách khoan hồng... Bộ chỉ huy Mặt trận ủy nhiệm cho các đồng chí viết một bức thư gửi cho Đờ Cát cho phép quân đội Pháp cử người ra Him-lam nhận thương binh về.

        Chính ủy Mạc Ninh nhận nhiệm vụ xong liền họp cơ quan bố trí lại kế hoạch. Sau đó, đồng chí viết một bức thư, hẹn địch 8 giờ sáng mai cho một trung đội không có vữ khí, có ô-tô Hồng thập tự, mang cờ trắng ra nhận thương binh của chúng về. Viết xong, chính ủy tự tay mang đi tìm một tên tù binh địch. Bọn chúng đang ngồi la liệt trong hào giao thông của ta và chẳng có vẻ gì buồn bã. Chính ủy chỉ một tên lính lê-dương:

        - Anh được phép trở về Mường-thanh đưa thư này cho chỉ huy quân đội đồn trú.

        Tên lính nhìn chính ủy, rồi lại nhìn mọi người. Bỗng hắn nói khẩn khoản:

        - Thưa ngài, được ra với các ngài là tôi thoát chết rồi. Xin ngài hãy miễn cho tôi nhiệm vụ này.

        Chính ủy hơi ngạc nhiên, nhìn hẳn. Nhưng đồng chí hiểu ngay lời nói của hẳn là thành thật. Hẳn không muốn đi vào chỗ chết. Chính ủy thử chỉ một tên khác. Tên này cũng vật nài như tên trước. Thấy không thể kéo dài thời gian, chính ủy chỉ định một tên sĩ quan và hạ lệnh cho hắn phải đi ngay.

        Bóng tên sĩ quan run rẩy, nhòa dần trong đêm đen mịt mùng.

        Sáng hôm sau, sương sớm vừa tan, một tiểu đoàn địch có 5 xe tăng yểm hộ thận trọng từ Mường-thanh kéo ra. Chúng triển khai đội hình chiến đấu giữa những vị trí của chúng ở các đồi E và D để chuẩn bị thực hành phản kích hòng chiếm lại Him-lam. Đúng như phán đoán của Bộ chỉ huy Mặt trận, địch không thể không cay cú lúc mất một trung tâm đề kháng quan trọng như Him-lam. Nhưng thấy chúng lò dò tiến từng bước, quân ta biết ngay rẳng trận đánh tối hôm qua, không những chỉ tiêu diệt cụm cứ điểm Him-lam mà đã giáng một đòn sấm sét vào tinh thần quân địch xưa nay quen ỷ lại vào vũ khí. Chúng tiến rất chậm và vừa nghe thấy một loạt tiếng nổ của pháo ta ở đầu nòng, đội hình của chúng đã rối loạn, và lúc những quả đạn của ta giáng vào giữa đội hình của chúng, thì cả xe tăng lẫn bộ binh vội vã tháo chạy thất điên bát đảo ngược về Mường-thanh. Cuộc phản kích của địch chấm dứt trong không đầy 10 phút. Rất tiếc là đơn vị chặn viện không chờ cho địch lọt hẳn vào trận địa đã quá vội vã trong việc yêu cầu pháo binh bắn chặn để mất một cơ hội tiêu diệt quân địch đã rời khỏi công sự.

        Thế là, trong chưa đầy 6 tiếng đồng hồ, quân ta đã tiêu diệt gọn một cụm cứ điểm vào loại mạnh nhất của địch trong tập đoàn cứ điểm Điện-biên-phủ, tiêu diệt 1 tiểu đoàn đã có hàng trăm năm lịch sử xâm lược, bắt sống và giết hơn 600 tên địch tại Him-lam, bắn bị thương và chết 150 sĩ quan và binh lính địch tại trung tâm Mường-thanh, bắn hỏng 12 khẳu pháo các loại của địch. Trận Him-lam như một đám mây đen đã bao trùm lên đầu quân đội viễn chinh Pháp tại Điện-biên-phủ, báo hiệu những trận bão táp mãnh liệt sắp sửa nổi lên ầm ầm trên tập đoàn cứ điểm "bất khả xâm phạm" của tướng Na-va.

 

        NHỮNG BÀI HỌC TỐT

        Chiến dịch Điện-biên-phủ đã mở màn bằng chiến thắng Him-lam giòn giã.

        Với chiến thắng Him-lam, không những chúng ta đã tiêu diệt một trung tâm đề kháng mạnh nhất của tập đoàn cứ điểm Điện-biên-phủ mà chúng ta đã đánh một đòn nặng nề vào cần não của địch. Trận đánh diễn ra mau lẹ không có lợi cho chúng đã làm cho những cái đầu chủ quan của địch trở nên hốt hoảng và khiếp sợ. Ngược lại, chiến thắng Him-lam đã cổ vũ rất lớn sí khí của quân ta, củng cố lòng tin vững chắc vào khả năng chiến đấu tiềm tàng của cán bộ và chiến sĩ ta, khả năng tiêu diệt một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông-dương theo phương châm "đánh chắc tiến chắc".

        Chiến thẳng Him-lam đã cho chúng ta nhiều bài hoc tốt.

        Dựa vào lòng căm thù địch sâu sắc và trình độ giác ngộ giai cấp vừa được nâng lên sau chỉnh quân chính trị, công tác lãnh đạo tư tưởng, xây dựng quyết tâm đánh "thẳng trận đầu" mở màn chiến dịch đã đạt kết quả rất tốt. Cán bộ, chiến sĩ đại đoàn Bến-tre nhận rõ vinh dự và trách nhiệm của mình, đã phấn khởi, quyết tâm hừng 'hực như lửa cháy. Vì thế, trong chiến đấu, họ đã tỏ ra dũng cảm tuyệt vời. Cùng với tiểu đội phó Phan Đình Giót đã lấy thân mình lấp lỗ châu mai, biết bao cán bộ và chiến sĩ đã nhất tề xông lên trong khói đạn mịt mù quyết tâm tiêu diệt địch, cắm cờ "Quyết chiến quyết thắng" của Bác lên đỉnh đồi Him-lam.

        Nhờ ý chí quyết tâm đánh thắng trận đầu mà ngay từ trong những ngày chuẩn bị, mọi công việc đều tiến hành rất khẩn trương, rất chu đáo. Công việc tìm hiều địch tiến hành khá tỉ mỉ. Cán bộ ta đã vượt qua lưới lửa đày đặc, chơi "ú tim" với các đội tuần tra của địch, kiên quyết vào tận hàng rào để quan sát địa hình, phát hiện các hỏa điểm của địch. Chúng ta còn cố bắt cho được một vài "cái lưỡi"1 (Tức là tù binh) để tự nó khai ra cách thức phòng ngự của cụm cứ điểm.

        Kế hoạch hiệp đồng tác chiến tương đối chu đáo. Chúng ta đã cương quyết tập trung binh hỏa lực ưu thế tuyệt đối hơn hẳn địch (tỷ lệ 6 trên 1). Chúng ta biết kẻ địch ở Him-lam rất mạnh, nhưng chúng ta đã đánh giá đúng những chỗ yếu của chúng. Chúng ta đã chọn đúng hướng đột kích chủ yếu. Các hướng đột kích rõ ràng đã tạo nên cái thế bao vây, chia cắt địch.

        Căn cứ vào đặc điểm phòng ngự của địch trong tập đoàn cứ điểm, biết rằng quân địch đã có nhiều thời gian chuẩn bị, để khắc phục chỗ mạnh về phi pháo của chúng, chúng ta đã đào trận địa tấn công vào sát hàng rào cứ điểm để bảo đảm cho quân ta tiếp cận được an toàn. Tất nhiên địch không thể ngồi im nhìn các chiến hào của ta thọc vàọ sườn chúng như những mũi mác nhọn hoắt. Chúng ra sức đối phó lại. Nhưng nếu chúng ngoan cố ngăn chặn quân ta thì chúng ta vẫn kiên quyết phát triển chiến hào cho kỳ được. Đào đến đâu, chúng ta kiên quỵết giữ đến đó, và trong chiến đấu, địch đã bắn hàng vạn quả đại bác vào trận địa quân ta nhưng chúng không thể nào ngăn cản quân ta tiến lên như vũ bão.

        Chúng ta cũng biết địch không thể để mất Him-lam một cách dễ dàng. Chúng sẽ dùng mọi thủ đoạn để đối phó kể cả tung lực lượng ra phản kích, nên chúng ta đã chuẩn bị sẵn sàng đánh viện. Tiếc rẳng phương châm đánh điểm diệt viện chưa thật thông suốt trong cán bộ và chiến sĩ nên chúng ta đã để quân cứ điểm chạy thoát khoảng 30 tên và không tiêu diệt được nhiều quân địch phản kích ra hồi 9 giờ sáng ngày 14 tháng 3.

        Lần đầu tiên chúng ta chiến đấu hiệp đồng tương đối quy mô giữa bộ binh và pháo binh, nên chúng ta đã tổ chức hiệp đồng rất cụ thể từ đại đoàn đến đại đội. Pháo binh đã đo đi đạc lại nhiều lần, phải đài quan sát tiền tiến lên tận đại đội bộ binh tuyến đầu, bảo đảm được nguyên tắc chuẩn xác, phối hợp với bộ binh trong các giai đoạn chiến đấu kịp thời.

        Bước vào chiến đấu, bài học của chiến thắng Him-lam là bài học về việc công phu nghiên cứu, đưa pháo binh vào chiếm lĩnh trận địa được an toàn và bí mật để bất ngờ giáng cho địch một trận pháo kích mạnh mẽ, kinh hồn.

        Đó cũng là bài học của việc thực hành nhanh chóng đột phá tiền duyên. Địch tìm mọi cách sát thương ta ở cửa mở, bằng cách tổ chức một lưới lửa pháo binh dày đặc ở đây, kết hợp với hỏa lực bắn thẳng, bắn lướt sườn và hỏa lực di động, bí mật... Nhưng dầu ngoan cố đến đâu, chúng cũng bị thất hại thảm hại trước tinh thần dũng cảm và mưu trí của bộ đội ta.

        Chiến thắng Him-lam còn là sự thành công lớn lao của tư tưởng mạnh dạn thọc sâu chia cắt địch để tiêu diệt từng bộ phận trong chiến đấu tung thâm. Các tiểu đội Trần Can, Nguyễn Hữu Oanh, là những tiểu đội tiêu biểu của sự kết hợp chặt chẽ giữa lòng dũng cảm tuyệt vời và mưu trí vô song, kiên quyết và nhanh nhẹn thọc những mũi dao nhọn hoắt vào đúng trái tim của địch. Các tiểu đội đó đã góp một phần quan trọng vào thắng lợi của trận đánh.

        Một đặc điểm khác khá nổi bật của chiến thắng Him-lam là sự kết hợp linh hoạt giữa tác chiến và địch vận. Chiến sĩ ta đã khéo léo nằm thời cơ biết bao giờ thì tiêu diệt địch bằng lưỡi lê, lựu đạn, bao giờ thì tiêu diệt chúng bằng thuyết phục, gọi hàng, coi đó là hai "mũi giáp công" trong quá trình chiến đấu.

        Về mặt chỉ huy, từ đại đoàn đến đại đội, cán bộ của chúng ta rất dũng cảm linh hoạt, đi sâu đi sát bộ đội trong lúc chuẩn bị cũng như trong lúc thực hành chiến đấu nên nói chung đã nắm được thời cơ xử trí kịp thời.

        Tuy nhiên trận đánh cũng không thể tránh khỏi một số nhược điểm và khuyết điểm. Trong trận đánh, cũng còn có đơn vị coi thường việc đào trận địa nên đã gặp khó khăn lúc tiếp cận. Trung đoàn, đại đoàn có biết tình hình đó mà không kiên quyết khắc phục. Có đơn vị không nắm thời cơ xung phong, có đơn vị đánh dồn địch, vi phạm nguyên tắc chiến thuật đánh tung thâm, kéo dài trận đánh. Khuyết điểm đáng chú ý nhất là tư tưởng liên tục chiến đấu của các thê đội chưa quán triệt đầy đủ nên lúc có nhiệm vụ phát triển sang cứ điểm 1 để chi viện cho đơn vị bạn thì không một đơn vị nào hoàn thành nhiệm vụ (kể cả tiểu đoàn dự bị của đại đoàn)

        Nhưng dầu có một số khuyết điểm và nhược điểm trong một vài đơn vị, chúng ta cũng rất tự hào về chiến thắng Him-lam. Nó đã đánh dấu một bước trưởng thành rất lớn của quân đội ta trước một nhiệm vụ lịch sử trọng đại của quân đội: tiêu diệt tập đoàn cử điểm để chuyển biến cục diện chiến tranh giữa ta và địch trên chiến trường Đông-dương.

 

 

Mai Trọng Thường - Khắc Tính

Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân - 1966

"Mobilis in Mobile" ― Jules Verne


   
Trả lờiTrích dẫn
Cadjc
(@cadjc)
Công dân
Được ưa thích
Tài sản: 311.37
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1099
 

KỸ THUẬT QUÂN SỰ TRONG CHIẾN CUỘC ĐÔNG XUÂN 1953-1954 VÀ CHIÊN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ LỊCH SỬ KẾT THÚC THẮNG LỢI CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP

 

Sau những thắng lợi liên tiếp mà ta giành được trong các chiến dịch, đặc biệt là chiến dịch Tây Bắc năm 1952, chiến dịch Thượng Lào mùa xuân năm 1953, cục diện cuộc chiến tranh ở Việt Nam nói riêng và ở Đông Dương nói chung đã có sự thay đổi nhanh chóng có lợi cho ta.

Về phía thực dân Pháp, những thất bại liên tiếp trên chiến trường Đông Dương càng đẩy nước Pháp vào con đường hầm không lối thoát và ngày càng lệ thuộc vào Mỹ.

Tình hình trạng và ngoài nước đã đặt chính phủ thứ 18 của nước Pháp do Rơ-nê May-e đứng đầu trước tình thế "lửa cháy hai đầu”, hoặc bị thất bại trong cuộc chiến ở Đông Dương hoặc bị Mỹ hất cẳng. Nhằm cải thiện tình hình, Chính phủ Pháp một lần nữa tiến hành cải tổ bộ máy chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, hoạch định lại chính sách xâm lược, hòng tìrn ra "một lối thoát danh dự". Trong bối cảnh đó, Đại tướng Na-va, viên tướng được coi là tài năng nhất của nước Pháp được cử sang làm tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương.

Dựa vào sự ủng hộ của Chính phủ và viện trợ của Mỹ, Na-va cố gắng tìm ra cách giải quyết những mâu thuẫn giữa phân tán binh lực để bình định, giữ đất với tập trung binh lực để tạo nên những binh đoàn cơ động chiến lược mạnh.

Với chủ trương "chứng minh cho Việt Minh thấy rằng nếu như chúng ta không thắng trong cuộc chiến tranh thì họ cũng không có hy vọng gì thắng ta bằng quân sự và do đó cần phải thương lượng", sau một thời gian nghiên cứu tình hình Na-va đã đề ra một kế hoạch tác chiến chiến lược mang tên ông ta, theo đó giai đoạn đầu sẽ thực hiện phòng ngự chiến lược ở phía bắc vĩ tuyến 18, tránh giao chiến toàn diện, ngược lại cố gắng thực hiện tiến công ở phía nam vĩ tuyến 18 nhằm bình định miền Nam và miền Trung Đông Dương, đặc biệt là tiến công chiếm đóng vùng tự do Liên khu 5. Sau khi nắm trong tay ưu thế về lực lượng cơ động, từ mùa thu 1954 sẽ chuyển sang tiến công ở phía bắc, tạo nên một cục diện quân sự có lợi cho pháp. Để thực hiện kế hoạch chiến lược quan trọng này, thực dân Pháp tăng thêm viện binh, phát triển quân nguỵ, xây dựng khối cơ động chiến lược chuẩn bị cho những cuộc tiến công quy mô lớn mở rộng phạm vi và tăng cường các cuộc càn quét ở các vùng chiếm đóng, cho lực lượng biệt kích nhảy dù xuống các vùng ta mới giải phóng như Lào Cai, Sơn La.

Trước âm mưu mới của thực dân Pháp, cuối tháng 9 năm 1953 khi họp bàn về nhiệm vụ quân sự trong Đông Xuân 1953-1954, Bộ Chính trị, Trung ương Đảng đã đề ra phương châm tác chiến chung là "tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt" và xác định chủ trương tác chiến trong Đông Xuân 1953-1954 là: "sử dụng mót bộ phận chủ lực mở những cuộc tiến công vào những hướng địch sơ hở, đồng thời tranh thủ cơ hội tiêu diệt địch trong vận động ở những hướng địch có thể đánh sâu vào vùng tự do của ta, đẩy mạnh chiến tranh du kích ở khắp các chiến trường sau lưng địch, tích cực tiến hành mọi sự chuẩn bị cần thiết trong nhân dân và bộ đội địa phương, dân quân du kích các vùng tự do để cho chủ lực rảnh tay làm nhiệm vụ1 (Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ, In lần thứ 6, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội,1979, tr. 67).

Theo chỉ đạo của Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh, Tổng cục Cung cấp triển khai các mặt công tác chuẩn bị cho kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954. Ba đoàn cản bộ hậu cần gấp rút lên đường làm nhiệm vụ chuẩn bị chiến trường trên hướng Tây Bắc, chuẩn bị cho bộ đội giải phóng Lai Châu và phát triển sang Phong Sa Lý. Cục Vận tải khẩn trương hoàn thành kế hoạch vận chuyển mùa mưa trong hai tháng 9 và tháng 10 năm 1953. Kết quả ta đã chuyển được gần 100 tấn vũ khí đạn về cất trữ, bảo quản tại kho 590 ở Liên khu 3 và 460 tấn vào kho 710 Chu Lễ. Từ kho Chu Lễ vũ khí đạn được chuyển tiếp cho chiến trường Liên khu 5 và Trung Lào - Hạ Lào. Ban vận tải Liên khu 3-4 tổ chức đợt vận tải đột kích đưa vũ khí đạn vào vùng địch hậu đồng bằng Bắc Bộ.

Để chuẩn bị cho bộ đội ta tiến công Lai Châu mở đầu cuộn tiến công chiến được Đông Xuân 1953 - 1954, cuối năm 1953, Bộ Tổng tư lệnh đã điều Trung đoàn công binh 151 lên Tây Bắc làm nhiệm vụ mở đường. Cho đến ngày nổ súng, tuyến đường 13 đã dược mở đến Cò Nòi, nồi vời đường 41. Đường 41 cũng được tu sửa đến Nậm Mức cách Lai Châu khoảng 40km. Ngày 18 tháng 11, đoàn xe vận tải gồm 12 chiếc chở chuyến hàng đầu tiên ra mặt trận đã đến Cò Nòi. Ngày 27 tháng 11, toàn bộ tuyến đường vào Tây Bắc đã được khai thông. Lực lượng xe vận tải phục vụ chiến dịch tập kết ở Tuần Giáo.

Trước khi hành quân tham gia chiến dịch, các đơn vị đã được cấp phát đầy đủ đúng vũ khí, đạn và các loại trang bị khác. Ngày 10 tháng 12 năm 1953, bộ đội ta nổ súng tiến công Lai Châu, mở đầu cuộn tiến công chiến lược Đông Xuân 1953- 1954. Trước đòn tiến công của ta, địch vội vã rút nhạy khỏi Lai Châu, Nà Sản, ta thu được nhiều chiến lợi phẩm. Bộ đội đã tận dụng ngay vũ khí, đạn thu được của địch để đánh địch. Nhờ có chiến lợi phẩm nên lượng dự trữ cho chiến dịch và cấp phát cho các đơn vị tiêu thụ không nhiều. Ngành quân khí chỉ phải tiếp tế cho một số đơn vị (Trung đoàn 148 là 14 tấn, tiểu đoàn 439 đánh Lai Châu 3,3 tấn, Trung đoàn 174 là 17 tấn).

Qua 12 ngày đêm liên tục chiến đấu, truy kích, bao vây, tập kích địch, Đại đoàn 316 đã tiêu diệt và bức hàng 24 đại đội địch, giải phóng toàn bộ tỉnh Lai Châu (trừ Điện Biên Phủ). Quân địch còn lại ở Lai Châu rút về Điện Biên Phủ. Na-va quyết định xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm nạnh chưa từng có trong cuộc chiến tranh Đông Dương.

Cho đến trước ngày quân ta dự định nổ súng tiến công, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã được tăng cường 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh (phần lớn là các đơn vị Âu Phi tinh nhuệ nhất), 3 tiểu đoàn pháo binh (trong đó có 2 tiểu đoàn pháo binh 105mm, 1 đại đội pháo 155mm), 2 đại đội cối 120mm, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng M2K (10 xe tăng), 1 đại đội ô tô vận tải (200 xe), 1 phi đội không quân (12 chiếc thường trực ngay tại sân bay Mường Thanh). Lực lượng của địch ở Điện Biên Phủ được bố trí ở 49 cứ điểm liên hoàn, có thể hỗ trợ nhau khi bị tiến công. Hàng ngày tập đoàn cứ điểm được 50-60 máy bay vận tải từ các sân bay Gia Lâm, Bạch Mai, Cát Bi tiếp tế từ 150 đến 200 tấn vật Liệu chiến tranh và các đồ dùng quân sự.

Với lực lượng rất mạnh và nỗ lực rất lớn kể trên, ca thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đều tin tưởng Điện Biên Phủ sẽ trở thành một pháo đài bất khả xâm phạm bảo vệ vững chắc Tây Bắc và che chở cho Thượng Lào, nơi nghiền nát chủ lực ta.

Ngay sau thắng lợi ở Tây Bắc, từ ngày 21 tháng 12 năm 1953 đến ngày 31 tháng 1 năm 1954, ta sử dụng một bộ phận chủ lực, bộ đội địa phương cùng quân dân các nước bạn mở cuộc tiến công địch trên hướng Trung Lào - Hạ Lào và Đông Bắc Cam-pu-chia nhằm phân tán khối chủ lực cơ động đang trong quá trình hình thành của địch ở đồng bằng Bắc Bộ; tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận tinh nhuệ của chúng, mở rộng, cung cố vùng giải phóng ở Trung Lào, Hạ Lào, phối hợp chặt chẽ với chiến trường chính Tây Bắc và các chiến trường khác giành thắng lợi lớn trong Đông Xuân.

Công tác bảo đảm vũ khí, đạn cho cuộc tiến công của ta ở Trung Lào, Hạ Lào gặp rất nhiều khó khăn do chiến trường xa hậu phương, bộ đội tác chiến trên địa bàn rộng, phức tạp, dân cư thua thớt. Lực lượng tham gia tiến công địch ở Trung Lào, Hạ Lào, gồm các trung đoàn 66 (Đại đoàn 304), 101, 18 (Đại đoàn 325), các trung đoàn 280, 120 (bộ đội tình nguyện) và một bộ phận quân giải phóng Pa-thét Lào.

Nguồn vật chất bảo đảm cho chiến dịch dựa vào sự cung cấp của các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Khi bộ đội hành quân và chiến đấu trên chiến trường nước bạn thì chủ yếu dựa vào bạn. Khi dùng hết cơ số dự trữ thì triệt để thực hiện phương châm “lấy súng đạn địch đánh địch". Để giữ bí mật, ta không triển khai các kho trung tuyến mà chỉ triển khai các trạm khi bộ đội đã ra quân. Mỗi trung đoàn được tăng cường từ 300 đến 500 dân công, tiểu đoàn độc lập được tăng cường 100 dân công làm công tác vận chuyển, tiếp tế cho bộ đội.

Trong chiến dịch tiến công Trung Hạ Lào và Đông Bắc Cam-pu-chia, Tổng cục Cung cấp chủ trương bổ sung đầy đủ vũ khí, trang bị cho bộ đội ngay ở vị trí tập kết. Bộ đội chủ yếu được trang bị phương tiện kỹ thuật do Pháp hoặc Mỹ chế tạo nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng chiến lợi phẩm trong quá trình chiến đấu. Riêng đối với đơn vị làm nhiệm vụ thọc sâu vào Hạ Lào được trang bị hoả lực mạnh. Trong 5 đại đội của tiểu đoàn 436 chiến đấu ở Hạ Lào có 1 đại đội ĐKZ, 4 đại đội còn lại được trang bị tiểu liên K50, đại liên, trung liên... Đây là những loại vũ khí mới được Trung Quốc và Liên Xô viện trợ cho ta.

Các lực lượng bảo đảm của Tổng cục Cung cấp và Liên khu 4 đã thực hiện tốt việc bảo đảm cung cấp cho chiến dịch. Phần lớn vũ khí trang bị kỹ thuật được lấy ở kho quân khí 710 tại Chu Lễ. Khi chiến dịch phát triển, quân ta thắng lớn, thu được nhiều vũ khí, đạn chiến lợi phẩm. Nguồn vũ khí chiến lợi phẩm không những cung cấp đủ cho bộ đội tác chiến mà còn có dự trữ để sử dụng sau này. Trong số chiến lợi phẩm có một số xe ô tô đã được ta sử dụng ngay vào việc vận tải phục vụ chiến dịch. Đặc biệt ngay trong trận đầu, Trung đoàn 101 đánh địch trên đường 12 đã tiêu diệt tiểu đoàn An-giê-ri số 27, một đại đội pháo, thu được 4 khẩu pháo 105mm còn nguyên vẹn và hơn 1.000 viên đạn (số đạn pháo này sau đó đã được chuyển gấp ra phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ). Các đội thu hồi, vận tải đã nhanh chóng thu gom chiến lợi phẩm, phân loại một phần, cấp phát bổ sung cho các đơn vị một phần. Số còn lại bàn giao cho bạn.

Ở Liên khu 5, từ ngày 27 tháng 1 đến ngày 5 tháng 2 năm 1954, Bộ tư lệnh Liên khu sử dụng hai trung đoàn 108, 803 cùng các đơn vị bộ đội địa phương và dân quân du kích mở chiến dịch tiến công Bắc Tây Nguyên nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng đất đai, phá cuộn hành quân Át - lăng của địch ở Phú Yên.

Công tác bảo đảm cho chiến dịch gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là việc mở các tuyến đường giao thông phục vụ cho bộ đội hành quân, cơ động và vận chuyển vũ khí trang bị. Từ đầu tháng 9 năm 1953, các tỉnh trên địa bàn Liên khu 5 đã khẩn trương làm công tác chuẩn bị. Lương thực, thực phẩm được huy động. Vũ khí, trang bị được thu gom, tiếp nhận và bảo quản. Phòng Cung cấp Liên khu 5 vừa chuẩn bị vật chất, vừa tổ chức lực lượng mở đường lên Tây Nguyên. Tỉnh Quảng Nam lập kho dự trữ ở Trà Mì. Tỉnh Quảng Ngãi lập kho dự trữ ở Ba Tơ, Sơn Hà. Tỉnh Bình Định lập kho ở Kim Sơn, Vĩnh Thạnh. Tỉnh Phú Yên lập kho ở Cây Vừng. Phòng Tiếp vận miền Nam chuyển từ Bắc Bộ vào Liên khu 5 một số vũ khí, trong đó có ĐKZ 57mm và đạn DAM. Đây là những thứ mà lực lượng chiến đấu trên địa bàn Liên khu 5 rất thiếu. Trong quá trình chuẩn bị, Phòng Cung cấp Liên khu cử cán bộ quân khí xuống các đơn vị kiểm tra, sửa chữa vũ khí trước khi cấp phát cho bộ đội. Nhờ có những chủ trương, biện pháp đúng đắn, kịp thời nên đến trước ngày nổ súng, các loại súng trường, súng máy đã có 1 cơ số đạn dự trữ, súng cối và ĐKZ có 3 cơ số. Ngoài ra, Liên khu còn bổ sung một số kíp sửa chữa và cán bộ quân giới cho các trung đoàn. Một công trường lưu động gồm 50 cán bộ, công nhân kỹ thuật được thành lập để sửa chửa tại chỗ những vũ khí hư hỏng và tiếp nhận các loại vũ khí trang bị thu được của địch.

Trong khi ra sức chuẩn bị cho các đòn tiến công của quân và dân ta trên các chiến trường, Tổng cục Cung cấp tích cực tìm mọi cách tổ chức tiếp tế, vận chuyển vũ khí, đạn vào chiến trường Liên khu 5. Ngoài vũ khí đạn, Tổng cục còn cung cấp cho Liên khu 5 một số loại thuốc nổ, nguyên vật liệu để các xưởng quân giới tự sản xuất vũ khí. Cục Quân khí, Cục Vận tải thực hiện kế hoạch "BK", kế hoạch "DK1", "DK2" đưa vũ khí đạn dược vào Liên khu 3, 4 sau đó Liên khu 3, 4 chuyển tiếp vào Liên khu 5 và Nam Bộ. Số lượng vũ khí đạn dược đã chuyển vào được là 430 tấn theo kế hoạch "BK" và 80 tấn theo kế hoạch "DK". Lực lượng vận chuyển chủ yếu là dân công. Nhờ có số vũ khí của trên chi viện nên bộ đội Liên khu 5 đã được trang bị một số loại vũ khí tương đối hiện đại như tiểu liên, trung liên, đại liên, cối 81, ĐKZ 57mm. Quân giới Liên khu 5 còn nhận được thuốc nổ TNT, fu-mi-nát thủy ngân cùng nhiều loại vật liệu phục vụ chế tạo vũ khí đạn, mìn và đã sản xuất được 200 tấn mìn, lựu đạn, đạn dược các loại bảo đảm cho bộ đội địa phương và dân quân du kích đánh địch. Nhờ sự cố gắng của quân giới, quân khí biên khu t5 mà bộ đội tham gia biến dịch trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên có đủ vũ khí trang bị sử dụng trong suốt thời gian của chiến dịch.

Đêm ngày 26 sáng ngày 27 tháng 1 năm 1954, ta tiêu diệt các vị trí Kà Tung, Ba Bả, Kà Tu mở màn chiến dịch Tây Nguyên. Đêm ngày 27 rạng sáng ngày 28 tháng 1 Trung đoàn 101 cùng một tiểu đoàn đặc công tiến công tiêu diệt Măng Đen, Măng Bút, Công Brây. Cụm phòng ngự then chốt của địch ở Bắc Kông Tum bị đập tan. Cửa ngõ Bắc Tây Nguyên đã được mở.

Chiến dịch phát triển rất nhanh. Địch hoang mang bỏ chạy. Bộ đội ta không kể ngày đêm, vượt hàng phục ki-lô-mét đường rừng mỗi ngày kiên quyết truy kích địch. Ngày 5 tháng 2 năm 1954, thị xã Kông Tum và toàn bộ vùng Bắc Tây Nguyên rộng 16.000km2 với 20 vạn dân được giải phóng. Ta diệt và bắt hơn 20.000 tên địch, thu được 30 khẩu pháo 105mm và nhiều vũ khí, đạn dược...

Trên địa bàn Tây Bắc, sau khi ta giải phóng Lai Châu, Điện Biên Phủ bị cô lập, Na-va đã đưa quân lập phòng tuyến dọc lưu vực sông Nậm Hu đến Mường Khoa hòng nối thông Điện Biên Phủ với Thượng Lào. Trước âm mưu của địch, Bộ Tổng Tư lệnh giao nhiệm vụ cho Đại đoàn 308 gấp rút hành quân sang đất bạn phối hợp với bộ đội Pa-thét Lào mở cuộc tiến công vào phòng tuyến sông Nậm Hu của địch nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng đất đai, mở rộng căn cứ cách mạng của bạn ở Thượng Lào.

Sau khi nhận nhiệm vụ, Đại đoàn 308 khẩn trương làm công tác chuẩn bị. Trong quá trình hành quân, đại đoàn vừa tổ chức nắm địch, nghiên cứu địa hình, bổ sung phương án tác chiến và lập kế hoạch bảo đảm cung cấp vũ khí, trang bị cho bộ đội. Quân khí đại đoàn trực tiếp điều chỉnh và cấp phát vũ khí cho các đơn vị. Các cán bộ hậu cần, quân khí đại đoàn do đồng khí phó chủ nhiệm cung cấp đại đoàn phụ trách cùng hành quân với các đơn vị có nhiệm vụ tổ chức bảo đảm hậu cần, kỹ thuật cho bộ đội khi hành quân và tác chiến, hiệp đồng với bộ đội Pa - thét Lào và cơ sở kháng chiến của bạn. Các nhiệm vụ bảo đảm công binh, thông tin liên lạc trong quá trình hành quân và chiến đấu phần lớn do lực lượng của đại đoàn đảm nhận.

Ngày 30 tháng 1 năm 1954, cánh quân thứ nhất của đại đoàn - Trung đoàn 102 bắt đầu vượt sông Nậm Hu. Lúc đầu do phương tiện vượt sông ít nên Bộ chỉ huy chiến dịch chủ trương ưu tiên dành phương tiện chủ yếu dùng vận chuyển vũ khí nặng, còn cán bộ, chiến sĩ dùng mảnh ni-lông, gói ba lô, quân tư trang và vũ khí cá nhân giúp đỡ nhau vượt sông. Sau đó đại đội công binh 309 khiêng vác 250m dây cáp cầu cấp tốc hành quân từ Phú Thọ sang làm cầu phao qua sông Nậm Hu và sửa chữa đường sá bảo đảm cho bộ đội hành quân truy kích tiêu diệt địch.

Phát hiện chủ lực ta tiến đánh Thượng Lào, quân địch trên phòng tuyến sông Nậm Hu hoảng sợ vội vã bỏ phòng tuyến chạy về Mường Sài, Luông Pha-băng. Không bỏ lỡ cơ hội, từ vận động tiến công Đại đoàn 308 đã nhanh chóng chuyển sang truy kích địch. Sau hơn 10 ngày liên tục truy kích, đại đoàn đã tiêu diệt một tiểu đoàn lê - dương và nhiều đại đội ngụy binh, thu nhiều vũ khí đạn, giải phóng toàn bộ khu vực sông Nậm Hu, cô lập hoàn toàn cứ điểm Điện Biên Phủ ở phía tây.

Phối hợp với các chiến trường, tại đồng bằng Bắc Bộ ta cũng mở nhiều đợt tiến công vào cát căn cứ địch. Đêm ngày 31 tháng 1 năm 1954, bộ đội địa phương Kiến An tập kích sân bay Đồ Sơn, phá hủy 5 máy bay, đốt cháy 5 triệu lít xăng dầu của địch. Trận tập kích sân bay Đồ Sơn giúp cho Tỉnh đội Kiến An, Bộ tư lệnh Tả Ngạn và Bộ Tổng Tư lệnh rút ra được nhiều kinh nghiệm quý báu trong tổ chức lực lượng, bảo đảm vũ khí trang bị, đặc biệt là cách đánh vào hai mục tiêu B1 và B21 (B1 là sân bay Gia Lâm, B2 là sân bay Cát Bi. Theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Thông Tư lệnh, từ tháng 11 năm 1953, Bộ tư lệnh khu Tả Ngạn và các tỉnh đội Kiến An, Đặc khu Hà Nội đã bắt đầu xây dựng phương án tập kích).

Đêm ngày 4 tháng 3 năm 1954, ta tập kích sân bay Gia Lâm, đốt cháy một kho xăng, phá hủy 18 máy bay địch. Ba ngày sau đó bộ đội địa phương Kiến An tập kích sân bay Cát Bi, căn cứ không quân lớn nhất của địch ở Bắc Đông Dương, phá hủy 59 máy bay cùng một khối lượng lớn vũ khí, phương tiện chiến tranh của địch. Chiến thắng Cát Bi là chiến thắng lớn nhất về tiêu diệt và phá hủy nhiều máy bay của địch trong kháng chiến chống Pháp.

Các đòn tiến công của ta vào hai căn cứ không quân quan trọng bậc nhất của địch ở Đông Dương khiến cho thực dân Pháp gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp tế cho các chiến trường, nhất là tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Tiếp sau trận thắng vang dội ở Cát Bi, quân và dân Tả Ngạn mở nhiều đợt "tổng công kích" đánh phá đường số 5 và các tuyến vận chuyển chiến lược của địch. Trong đợt hoạt động từ ngày 11 đến ngày 16 tháng 3 năm 1954, Trung đoàn 42 cùng bộ đội địa phương, dân quân du kích trên đường số 5 tiêu diệt 13 vị trí địch, trong đó có cứ điểm Nghĩa Lộ ở sát thị xã Hải Dương, bức rút 9 vị trí khác và phục kích trên đường Bần Yên Nhân - Như Quỳnh, diệt một đoàn xe quân sự 17 chiếc, đánh mìn lật đổ một đoàn tàu quân sự ở Văn Lâm. Trong đợt hoạt động từ ngày 22 tháng 3 đến ngày 2 tháng 4, Tỉnh ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính các tỉnh Kiến An, Hải Dương, Hưng Yên huy động hàng vạn đồng bào phá hoại đường sá, bốc đường ray xe lửa Hà Nội - Hải Phòng trên suốt chiều dài 70km, khiến giao thông của địch bị tê liệt hàng tuần lễ. Bom đạn do Mỹ viện trợ cho Pháp cập bến Hải Phòng nhưng bị ùn tắc không thể chở lên Hà Nội và các địa bàn khác.

Trước các hoạt động của ta, Bộ chỉ huy Pháp buộc phải huy động 3 binh đoàn cơ động, 3 tiểu đoàn khinh quân, một đơn vị công binh mở cuộc hành quân giải toả. Mặc dù vậy, các lực lượng của ta vẫn liên tiếp tiến công địch. Các trận tập kích, phục kích, công đồn, diệt viện liên tục diễn ra trên suốt tuyến đường 5 cũng như đường số 1, số 21 và đường số 22. Không ngày nào không có xe địch bị trúng mìn. Trên tuyến đường sắt Hải Phòng - Hà Nội, mặc dù quân Pháp đã dùng mọi biện pháp đề phòng nhưng các đoàn tàu quân sự vẫn bị lật đổ Những hoạt động quân sự của ta không những tiêu diệt nhiều sinh lực địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, ngăn chặn có hiệu quả hoạt động vận chuyển của địch mà còn giam phân phần lớn lực lượng cơ động của địch, không cho Pháp đưa lên tăng viện cho Điện Biên Phủ và các chiến trường khác.

Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng, cục diện trên chiến trường thay đổi ngày càng cố lợi cho ta. Các lực lượng kỹ thuật quân sự đã vượt qua nhiều khó khăn, đặc biệt ở vùng địch tạm chiếm kịp thời đáp ứng các yêu cầu tác chiến của bộ đội trên các hướng tạo điều kiện cho quân và dân ta hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954.

 

"Mobilis in Mobile" ― Jules Verne


   
Phan khoi lon, Payroll, Hóng hớt and 1 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
Trang 3 / 16
Chia sẻ: