KỸ THUẬT QUÂN SỰ TRONG CHIẾN CUỘC ĐÔNG XUÂN 1953-1954 VÀ CHIÊN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ LỊCH SỬ KẾT THÚC THẮNG LỢI CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (tiếp theo và hết)
Các đòn tiến công chiến lược của ta trong Đông Xuân 1953-1954 đã đẩy địch vào thế bị động đối phó, kế hoạch Na-va bị phá sản, tạo điều kiện cho ta mở trận quyết chiến chiến lược. Ngày 6 tháng 12 năm 1953, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ và nhất trí thông qua phương án tác chiến của Tổng Quân ủy. Các đại đoàn bộ binh 308, 304, 312, 316, Đại đoàn công pháo 351 được lệnh tham gia chiến dịch lịch sử này.
Bộ Chính trị cử đồng chí Võ Nguyên Giáp làm Bí thư Đảng ủy kiêm Chỉ huy trưởng chiến dịch. Thiếu tướng Hoàng Văn Thái, Phó tổng tham mưu trưởng làm tham mưu trưởng. Đồng chí Trần Đăng Ninh, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Kiểm tra Trung ương, Phó trăng thanh tra Chính phủ, Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp được Bộ Chính trị cử phụ trách công tác đường sá, tiếp tế. Bộ Chính trị còn cử đồng chí Phó thủ tướng Phạm Văn Đồng, Ủy viên Bộ Chính trị làm chủ tịch Hội đồng Cung cấp mặt trận, có nhiệm vụ huy động mọi lực lượng của cả nước bảo đảm cho chiến dịch lịch sử này giành toàn thắng.
Sau khi có quyết định của Trung ương và Tổng Quân ủy, các đơn vị gấp rút chuẩn bị lực lượng và phương tiện cho trận quyết chiến chiến lược. Nhận thức rõ việc bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cho các lực lượng tham gia chiến dịch là một yếu tố hết sức quan trọng góp phần quyết định bảo đảm thắng lợi, Bộ chỉ huy chiến dịch đã lập kế hoạch, lên phương án củng cố, cải tạo và mở rộng các tuyến giao thông. Ngoài Trung đoàn công binh 151, Bộ đã điều động hàng vạn thanh niên xung phong, dân công, công nhân làm nhiệm vụ mở đường. Anh chị em phối hợp chặt chẽ với Trung đoàn 151 làm việc không kể ngày đêm. Đến ngày 27 tháng 11 năm 1953, một số tuyến đường vào địa bàn chiến dịch đã được sù dụng. Các đoàn xe vận tải chở vũ khí lương thực phục vụ chiến dịch đã đến được Tuần Giáo. Ngày 16 tháng 1 năm 1954, Trung đoàn lựu pháo 45 (24 khẩu 105mm), Trung đoàn pháo cao xạ 367 (24 khẩu 37mm) đã có mặt ở ki-lô-mét số 70 đường Tuần Giáo - Điện Biên Phủ1 (Trung đoàn 45 là trung đoàn pháo binh hạng nặng đầu tiên của quân đội ta, từ tháng 7 năm 1951 đến tháng 1 năm 1954 được huấn luyện ở Mông Tự (Vân Nam-trung Quốc). Trung đoàn pháo cao xạ 367 được thành lập ngày 1 tháng 4 năm 1953. Sau 6 tháng huấn luyện ở Tân Cương (Quảng Tây-Trung Quốc), cuối năm 1953 trung đoàn hành quân về nước và được điều ngay lên mặt trận Điện Biên Phủ. Cả hai trung đoàn trên đều được Nhà nước, Chính phủ Liên Xô, Trung Quốc giúp trang bị. Quân giải phóng Trung Quốc giúp đỡ đào tạo cán bộ, nhân viên kỹ thuật và huấn luyện bộ đội).
Nhận thức rõ việc bảo đảm, tiếp tế cho các lực lượng tham gia chiến dịch (khoảng 55.000 cán bộ, chiến sĩ) là một việc hết sức quan trọng có ý nghĩa quyết định thắng lợi, Trung ương Đảng và Chính phủ đã huy động 260.000 dân công, trên 20 nghìn xe đạp thồ, 17.000 ngựa thồ, trên 11.800 thuyền bè các loại và 628 xe ô tô phục vụ vận chuyển hàng hoá, vũ khí đạn dược cho chiến dịch.
Việc tổ chức vận chuyển vũ khí đạn dược, lương thực, thực phẩm từ các vùng tự do lên Điện Biên Phủ được Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy quy định theo từng cung đường. Hướng từ Việt Bắc sang, giao hàng ở Ba Khe, hướng từ Liên khu 3, 4, ra giao hàng ở Suối Rút. Tổng cục Cung cấp ở hậu phương phụ trách việc chuyển vũ khí, đạn, trang bị kỹ thuật, xăng dầu lên đến Ba Khe và giao lại cho Tổng cục Cung cấp tiền phương. Tổng cục Cung cấp tiền phương sau khi nhận được hàng hoá tổ chức vận chuyển từ Ba Khe, suối Rút lên Điện Biên Phủ. Ngoài ra để phục vụ cho việc cất trữ, bảo quản vũ khí, Tổng cục Cung cấp tiền phương đã tổ chức bố trí các kho dự trứ ở quanh thị xã Sơn La và các kho trung tuyến trong phạm vi từ ki-lô-mét số 31 đến ki-lô-mét số 87 đường Tuần Giáo - Điện Biên Phủ. Các kho được bố trí hợp lý, bí mật, an toàn, thuận tiện cho việc tiếp nhận và cấp phát. Ở Sơn La, ta dựa vào hang đá Bản Lầu làm tổng kho vũ khí, đạn cho toàn chiến dịch. Các kho trung tuyến, kho dã chiến được đặt ở gần đường. Dựa vào các sườn đồi, tận dụng địa hình, các lực lượng bảo đảm đào hầm sâu vào đồi, núi làm kho chứa hàng. Hàng hoá ở cá kho đều được bố trí sắp xếp hợp lý nhằm bảo đảm an toàn cho người và vũ khí đạn, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp nhận cấp phát phục vụ bộ đội tác chiến. Các tổng kho và đường vào kho đều được ngụy trang chu đáo. Nhờ đó đã bảo đảm được bí mật trong suốt thời gian diễn ra chiến dịch.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, lần đầu tiên ta sử dụng một số lượng lớn xe ô tô làm nhiệm vụ vận chuyển. Việc bảo đảm kỹ thuật cho lực lượng vận tải được các cấp đặc biệt quan tâm, tổ chức chu đáo. Cục Vận tải phát động một phong trào thi đua ở các đơn vị tập trung sửa chữa những xe hư hỏng để nhanh chóng đưa vào phục vụ chiến dịch. Đại đội 202 đã tự khắc phục sửa được 12 xe, trong đó có 9 xe hỏng nặng. Đại đội 206 tự khắc phục được 4 xe gãy nhíp. Các xe sau khi sửa chữa được đưa ngay vào sử dụng. Bên cạnh phong trào tự sửa chữa, nâng cấp xe ở các đơn vị, ngành xe máy tổ chức một hệ thống sửa chứa phục vụ cho các phương tiện vận tải từ hậu phương ra tiền tuyến. Trên đường ra mặt trận có xưởng sửa chữa AZ11 ở ngã ba Đông Lý (Yên Bái). Xưởng được bổ sung thêm nhiều trang thiết bị, thường xuyên sửa chữa cho các xe hoạt động chở hàng từ hậu phương ra các kho trung tuyến. Đội sửa chữa ở Tuần Giáo - Điện Biên Phủ bảo đảm ưu tiên các xe hoạt động ở trung tuyến và hoả tuyến. Hai đội lưu động được bố trí trên đường 41 và trên đường số 1. Mỗi đội có từ 7 đến 8 thợ giỏi, sẵn sàng sửa chữa những xe bị hỏng hóc dọc đường. Các xưởng Chiến Thắng, Tiền Phong tập trung lực lượng bảo đảm kỹ thuật cho các xe tham gia chiến dịch.
Với tinh thần "yêu xe như con, quý xăng như máu”, trong quá trình diễn biến chiến dịch, các chiến sĩ lái xe, thợ sửa chữa, đã ngày đêm chăm sóc, bảo quản bảo đảm xe máy luôn có chất lượng tốt, sẵn sàng nhận nhiệm vụ, vận chuyển gạo, đạn và kéo pháo vào trận địa đúng theo kế hoạch và thời gian cấp trên quy định. Hầu hết số xe vận tải của quân đội ta đã được điều động ra mặt trận gồm 16 đại đội vời 628 xe, hơn 800 lái xe, 300 thợ sửa chữa của ngành xe máy và ngành giao thông công chính bổ sung).
Cùng với lực lượng xe ô tô, xe đạp thồ, xe ngựa, xe trâu hoạt động trên đường bộ, trên tuyến đường thủy, thuyền mảng cũng được huy động vào chiến dịch. Thuyền mảng liên tục ngược xuôi trên các tuyến đường từ Liên khu 4 ra, từ trung du lên từ Việt Bắc sang và từ Tây Bắc, Thượng Lào xuống Điện Biên Phủ.
Việc bảo đảm thông tin liên lạc cho chiến dịch do đồng chí Hoàng Đạo Thuý, Cục trưởng Cục Thông tin liên lạc trực tiếp phụ trách.
Trong thời gian chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược, Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Chính phủ Tổng Quân ủy, Bộ Tổng Tư lệnh đặc biệt quan tâm đến công tác hậu cần kỹ thuật, cung cấp lương thực, vũ khí đạn, phương tiện, trang bị vật chất cho các mặt trận. Sau khi thay đổi phương châm tác chiến từ "đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc" lực lượng tham gia chiến dịch đông hơn, thời gian tác chiến dài hơn, khối lượng vật chất tăng vọt lên gấp nhiều lần. Chính vì vậy công tác bảo đảm cũng nặng nề, phức tạp và khó khăn hơn.
Theo phương châm tác chiến ban đầu, việc bảo đảm vũ khí đạn cho bộ đội chiến đấu dự kiến khoảng 327 tấn. Nhưng sau khi chuyển sang phương châm "đánh chắc, tiến chắc" tổng số đạn cần cho chiến dịch lên tới 1.455 tấn. Đây là lượng vũ khí đạn lớn nhất kể từ đầu cuộc kháng chiến mà ngành kỹ thuật quân sự phải chuẩn bị cho một chiến dịch. Trước nhiệm vụ đầy khó khăn đó, Cục Quân khí đã huy động tất cả số đạn dự trừ ở các kho, chuyển về nước toàn bộ số đạn pháo 105mm thu được trong chiến dịch Biên Giới mà ta gửi ở Long Châu (Trung Quốc) gồm 11.715 viên, 400 viên đạn pháo 105mm thu được trong trận Ba Na Phào (chiến dịch Trung Lào) để ở kho Chu Lễ (Hà Tĩnh) cũng được chuyển gấp lên Điện Biên Phủ. Do chiến dịch diễn biến rất khẩn trương nên có loại vũ khí, đạn các nước bạn viện trợ trong giai đoạn này không nhập vào kho mà được gửi thẳng ra mặt trận (như hoả tiễn H6). Để giải quyết việc cung cấp tiếp tế đạn cho mặt trận, Tổng cục Cung cấp thành lập Ban quân khí tiền phương do đồng chí Nguyễn Văn Nam, Cục trưởng Cục Quân khí làm trưởng ban; đồng khí Phan Tử Lăng, Cục phó Cục Quân khí làm phó ban. Ban quân khí tiền phương trong chiến dịch này có tới 139 cán bộ các cấp. Đây là số cán bộ của cơ quan quân khí đi phục vụ chiến dịch đông nhất kể từ trước tới nay (chưa kể số cán bộ được Chính phủ điều động bổ sung và 4 đội thanh niên xung phong gồm 478 người tham gia cấp phát đạn cho bộ đội).
Từ trung tuần tháng 2 năm 1954 công tác vận tải hàng ra mặt trận được tổ chức lại cho phù hợp với yêu cầu tiếp tế của chiến dịch. Theo đề nghị của Bộ chỉ huy chiến dịch, Trung ương Đảng, Chính phủ đã cho phép kéo dài tuyến vận chuyển của Hội đồng Cung cấp mặt trận lên đến Sơn La và chấn chỉnh lại bộ máy tổ chức của Hội đồng Cung cấp mặt trận. Lực lượng phục vụ cho chiến dịch được tăng cường thêm 3. 168 cán bộ, chiến sĩ nhân viên chuyên môn kỹ thuật và hơn 30 nghìn dân công, thanh niên xung phong. Tổng cục Cung cấp tiền phương đã tổ chức lại bộ máy bảo đảm hậu cần, kỹ thuật cho chiến dịch gồm sở chỉ huy tiền phương chiến dịch, các kho (quân khí, quân nhu...), các binh trạm vận tải, các đơn vị công binh, thanh niên xung phong, sửa chữa cầu đường, phá bom nổ chậm, đánh tra máy bay địch, bảo vệ giao thông...
Các tuyến vận tải của Tổng cục Cung cấp tiền phương được tổ chức thành ba tuyến từ Sơn La đến Tuần Giáo, từ Tuần Giáo đến Điện Biên Phủ và từ ki-lô-mét số 62 vào mặt trận. Những tuyến này không chỉ đảm nhiệm công tác vận tải quân sự mà còn làm cả nhiệm vụ bảo đảm cung cấp, tiếp tế, thống nhất chỉ huy các lực lượng bảo đảm trên toàn tuyến.
Ngày 11 tháng 3 năm 1954, chiếc máy điện thoại cuối cùng đã được lắp đặt xong. Hệ thống thông tin liên lạc toàn chiến dịch đã được hoàn tất. Các khẩu pháo đã được kéo vào trận địa. Mọi công tác chuẩn bị cho chiến dịch đã được chuẩn bị chu đáo đúng kế hoạch. Lực lượng tham gia chiến đấu sẵn sàng chờ mệnh lệnh nổ súng tiến công tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Đúng 17 giờ ngày 13 tháng 3 năm 1954, quân ta nổ súng tiến công cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sừ.
Trận pháo kích mở màn chiến dịch đạt hiệu quả cao: sở chỉ huy tập đoàn cứ điểm của địch bị trúng đạn, các trận địa pháo của địch ở khu trung tâm hoàn toàn bị tê liệt, 12 khẩu pháo cối của địch bị phá hỏng, 5 máy bay bị trúng đạn nổ tung. Cả cứ điểm Him Lam và khu trung tâm Mường Thanh rung chuyển trong tiếng nổ của đạn pháo. Nhiều hầm hào, công sự của địch sụp đổ, sở chỉ huy phân khu phía bắc bị tê liệt.
Trận đánh mở màn chiến dịch kết thúc vào hồi 23 giờ 30 phút. Trung tâm đề kháng Him Lam bị tiêu diệt hoàn toàn.
Đêm ngày 14 rạng ngày 15 tháng 3 ta tiếp tục tiến công và tiêu diệt cứ điểm đồi Độc Lập. Tiếp theo đó, quân địch ở Bản Kéo ra hàng. Thừa thắng, Trung đoàn 36 tiến vào chiếm các ngọn đồi ở phía trước sân bay Mường Thanh. Thắng lợi ở Bản Kéo kết thúc đợt một của chiến dịch Điện Biên Phủ. Toàn bộ phân khu phía bắe của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị tiêu diệt. Cánh cửa vào trung tâm Mường Thanh đã mở tung.
Kết thúc đợt một chiến dịch, Đại đoàn công pháo 351 vinh dự được nhận lá cờ thưởng luân lưu "Quyết chiến quyết thắng" của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thông báo khen thưởng của Bộ chỉ huy chiến dịch nêu rõ: "Đội công binh mở đường thắng lợi... giữ vững giao thông, không có con đường ấy, không có chiến dịch này". Ban chỉ huy Đại đoàn 351 quyết định trao lá cờ "Quyết chiến quyết thắng” cho Trung đoàn công binh 151.
Để chuẩn bị cho đợt hai, Đảng ủy, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định xây dựng trận địa tiến công và bao vây địch, coi đó là nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian chuẩn bị.
Các chiến sĩ công binh ngày đêm theo sát bộ binh gỡ mìn, đào và bảo vệ chiến hào.
Bộ đội pháo binh tìm mọi cách khắc phục khó khăn, đưa pháo từ trên cao xuống các mỏm đồi ở sát cánh đồng Điện Biên Phủ để dễ dàng tiêu diệt địch và chi viện cho bộ binh. Ngoài các đơn vị đã có từ trước chiến dịch, trong thời gian này đại đoàn công pháo còn tổ chức thêm một đại đội súng cối 120mm với 4 khẩu súng và đạn thu được của địch trong đợt một.
Để chuẩn bị cho bộ đội tiếp tục chiến đấu trong thời gian hết tháng 4 hoặc có thể lâu hơn, Tổng cục Cung cấp chỉ đạo, đôn đốc các tuyến vận chuyển, chuẩn bị gạo, đạn đầy đủ, củng cố các kho, trạm và có kế hoạch bảo đảm sức khoẻ, sinh hoạt cho bộ đội.
Bị thất bại nặng nề trong đợt tiến công đầu tiên của quân ta, Bộ chỉ huy Pháp tìm mọi cách tăng quân, vũ khí, đạn cho Điện Biên Phủ, đồng thời tập trung hầu hết lực lượng không quân mà chúng có ở Đông Dương lập cầu hàng không chi viện cho tập đoàn cứ điểm. Chỉ trong nủa cuối tháng 3, BỘ chỉ huy Pháp đã huy động 770 lần chiếc máy bay ném hơn 1.000 tấn bom xuống Điện Biên Phủ. Đây là đợt chiến đấu căng thẳng, ác liệt và cũng là những ngày bộ đội ta phải đối đầu trực tiếp với các hoạt động hủy diệt của không quân Pháp. Nhưng quân Pháp chẳng những không hủy diệt được ta mà còn bị tổn thất nặng nề trước lưới lửa phòng không của ta.
Do thiếu trận địa dự bị để di chuyển, nên có đại đội pháo cao xạ ở nguyên vị trí từ đầu đến cuối chiến dịch. Bị địch đánh phế ác liệt, một số cán bộ, chiến sĩ bị thương vong, 7 khẩu pháo cao xạ 37mm bị phá hỏng. Các chiến sĩ quân khí tiểu đoàn 394 do đồng chí Trần Kim Ngoé phụ trách đã tìm mọi cách khắc phục, sửa chữa tại chỗ được 3 khẩu, bảo đảm các yêu cầu kỹ thuật. Bốn khẩu còn lại được chuyển về trạm quân khí tiền phương ở ki-lô-mét số 52 đường Tuần Giáo - Điện Biên. Đồng chí Đoàn Đà, trạm trưởng trạm quân khí Trung đoàn 367 cùng cán bộ, chiến sĩ quân khí của trung đoàn và Cục Quân khí tăng cường đã tích cực làm việc ngày đêm dồn ghép, sửa chữa được 3 khẩu kịp thời đưa về chiến đấu trước khi đợt hai của chiến dịch bắt đầu. Khẩu pháo còn lại do hỏng quá nặng nên phải hủy để lấy phụ tùng thay thế.
Qua thực tế chiến đấu và sửa chữa tại trận địa, cán bộ, chiến sĩ quân khí đã phát hiện những bộ phận hay hỏng trong khẩu pháo cao xạ như máy nạp đạn, máy ngắm, càng kéo... Đồng chí Đỗ Đức Dục, chủ nhiệm quân khí tiền phương Trung đoàn 367 đã đề nghị Tổng cục Cung cấp sản xuất gấp cho bộ đội cao xạ một số phụ tùng thay thế. Chỉ trong thời gian ngắn các xưởng quân giới đã nghiên cứu, sản xuất thành công trục máy tống đạn, bướm tống đạn, cán ngoắc pháo cao xạ 37mm, kim hoả súng phòng không 12,7mm gửi lên Điện Biên Phủ.
Ngoài sự chi viện của quân giới ở tuyến hậu phương, ngay tại mặt trận, các cán bộ quân khí đã bám sát đơn vị khắc phục mọi khó khăn, bảo đảm sửa chữa, cung cấp vũ khí đạn, cuốc, xẻng... kịp thời cho các đơn vị. Cán bộ, chiến sĩ các trạm sửa chữa làm việc ngày đêm rèn thêm cuốc xẻng... cung cấp cho bộ đội sửa đường, đào hầm. Ngoài việc bám sát, chỉ đạo giúp đỡ các đơn vị, cán bộ quân khí còn tích cực nghiên cứu sáng chế phụ tùng thay thế bảo đảm sửa chữa kịp thời súng, pháo hỏng. Anh em còn tiến hành phân loại súng đạn chiến lợi phẩm để cấp phát bổ sung cho các đơn vị chiến đấu. Do có tổ chức và kiểm tra chu đáo nên ta đã phát hiện trong số đạn pháo 105mm thu được của địch có gài bẫy. Nếu đưa vào sử dụng, đạn sẽ nổ ngay trong nòng, phá hủy pháo và gây thương vong cho quân ta. Trong chiến đấu với máy bay địch, súng phòng không 12,7mm của ta do sử dụng liên tục (có khẩu bắn đến đỏ nòng). Ngoài việc hỏng kim hoả còn hay bị gãy phiến khoá của khoá nòng. Loại này cũng không có dự trữ mà phải chờ tiếp tế từ hậu phương. Để giải quyết tại chỗ, bảo đảm vũ khí kịp thời cho bộ đội chiến đấu, đồng chí Đỗ Đình Hữu cùng các cán bộ, chiến sĩ quân khí đã nghiên cứu khắc phục bằng cánh chặt gỗ đốt lấy than, lập lò rèn, lấy sắt từ cuốc chim và đã rèn được những phiến khoá nòng đủ tiêu chuẩn kỹ thuật phục vụ sửa chữa kịp thời.
Sau hai đợt tiến công, các lực lượng của ta đã tiêu hao một lượng đạn khá lớn. Đạn dự trừ còn rất ít, nhất là đạn pháo 105mm. Chính vì vậy việc sử dụng phải tính đến từng viên. Trước tình hình đó, Tổng cục Cung cấp tích cực đôn đốc tổ chức vận chuyển gấp đạn từ hậu phương lên Điện Biên Phủ, đồng thời điều chỉnh lượng đạn giữa các đơn vị, tổ chức cấp phát phân phồl hợp lý, có kế hoạch sử dụng tiết kiệm đạn và xử lý đạn chiến lợi phẩm cung cấp cho các đơn vị. Để bảo đảm kịp thời vũ khí đạn, lương thực, thực phẩm cho bộ đội, song song vời việc củng cố, sửa chữa duy trì những tuyến vận tải đã có, Bộ chỉ huy chiến dịch chủ trương khơi luồng sông Nậm Na để chuyển gạo từ Ba Nậm Cúm (biên giới Việt - Trung) về thị xã Lai Châu. Việc này đã được đặt ra ngay từ đầu chiến dịch nhưng ta chưa triển khai do dòng Nậm Na có tới 103 thác ghềnh hiểm trở, thuyền, mảng không thể qua lại được Nhận nhiệm vụ của Bộ chỉ huy chiến dịch, Trung đoàn công binh 151 giao cho đại đội 124 dùng thuốc nổ phá thác mở đường. Công việc phá thác hết sức khó khăn; phức tạp. Khi bộ đội lặn xuống sâu, áp lực của nước làm chảy cả máu tai, nước chảy xiết, người bị trôi, ngòi bộc phá không nổ... Không lùi bước trước khó khăn, đơn vị đã vận dụng nhiều kinh nghiệm dân gian để giải quyết các vấn đề kỹ thuật như lấy lá chuối hơ lửa cho mềm để gói thuốc nổ, lấy cơm nếp giã nhuyễn bọc đầu nổ, buộc chặt thuốc nổ vào sào dài đưa sâu vào trong lòng thác để bộc phá không bị nước cuốn trôi, cắt dây cháy chậm dài, châm lửa ngay trên mặt nước cho chắc chắn và an toàn. Bằng các giải pháp kỹ thuật đó, bộ đội công binh đã phá được tất cả các thác ghềnh hiểm trở trên dòng Nậm Na, mở thêm một tuyến tiếp tế cho mặt trận Điện Biển Phủ. Từ Lai Châu gạo, đạn được chuyển về bằng ô tô qua Tuần Giáo và được chuyển bằng gồng gánh, gùi thồ theo đường Lai Châu - Mường Tòng - Mường Pồn về Điện Biên Phủ.
Để giải quyết tình trạng thiếu xe vận chuyển, Tổng cục Cung cấp tiền phương chủ trương "triệt để phát huy hiệu suất của xe, mượn xe của pháo". Tổng cục phát động phong trào giữ gìn xe tốt, giảm tối thiểu số xe bị hư hỏng; nếu hỏng các đơn vị, các đội sửa chữa nhanh chóng khắc phục để đưa xe vào hoạt động. Tổng cục đề nghị Bộ chỉ huy cho phép sử dụng một số xe của pháo vì pháo đã vào trận địa cấu trúc tương đối kiên cố, ít phải di chuyển. Số xe mượn của bộ đội pháo binh lúc đầu là 16%, sau đợt 2 đã sử dụng tới 50%.
Tổng cục cũng tiến hành bồi dưỡng, huấn luyện lái phụ xe ngay trên đường ra mặt trận để khắc phục tình trạng có xe mà không có người lái.
Trên các tuyến đường vận chuyển tiếp tế cho Điện Biên Phủ, quân Pháp tập trung máy bay, born đạn đánh phá ác liệt. Các đèo Sơn La, Chiếng Phốc, đèo Meo, Pha Đin... trở thành những trọng điểm - nơi diễn ra cuộc chiến đấu ác hệt giữa công binh, cao xạ, dân công của ta với máy bay và bom đạn địch. Mỗi ngày địch ném xuống một trọng điểm từ 160 đến 300 quả bom. Ở đèo Pha Đin có đợt địch đánh 10 ngày liền, mỗi ngày từ 5 đến 6 trận với nhiều bom nổ ngay, nổ chậm. Các đội phá bom đã kiên cường bám trụ trên các trọng điểm, nghiên cứu các quy luật hoạt động của máy bay và quy luật nổ của bom địch, từ đó đúc kết phương pháp phá bom, bảo đảm giao thông có hiệu quả nhất.
Sau hai đợt tiến công của ta, Bộ chỉ huy Pháp đã thấy nguy cơ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ có thể bị tiêu diệt. Điều này chẳng những làm cho Chính phủ Pháp hoang mang bối rối mà ngay cả đế quốc Mỹ cũng rất lo ngại. Đi đôi với việc cung cấp cho Pháp những khoản viện trợ lớn, LẦu Năm góc đã đề ra một kế hoạch hành binh mang tên Vô-tua (chim kền kền) dự kiến sẽ sử dụng 80 đến 90 máy bay B29 (loại máy bay ném bom chiến lược lớn nhất của Mỹ lúc bấy giờ) từ căn cứ Clác-phin (Clarkfield) ở Phi-líp-pin được 150 máy bay chiến đấu của hạm đội 7 hộ tống, đến ném bom "nghiền nát" các đơn vị Việt Minh đang bao vây điện Biên Phủ. Song mọi cố gắng của Pháp và Mỹ cũng không cứu vãn được tình thế nguy kịch của tập đoàn cứ điểm. Bị pháo binh, cao xạ của ta khống chế chặt chẽ, từ ngày 27 tháng 3 năm 1954, không một máy bay nào của địch có thể hạ cánh xuống Mường Thành. Địch chỉ còn một cách duy nhất là thả quân, thả hàng xuống Điện Biên Phủ bằng dù. Nhưng biện pháp này vô cùng tốn kém và hiệu suất thấp vì vấp phải lưới lửa phòng không của ta. Các máy bay địch không dám bay thấp để thả dù vì dễ bị các đơn vị cao xạ của ta tiêu diệt. Chúng buộc phải thả dù từ trên cao. Bay cao tuy an toàn hơn nhưng phần lớn dù thả xuống lại rơi vào khu vực trận địa vây lấn của ta. Và dù không muốn, Pháp cũng đã làm một cuộc "tiếp tế ngược" ở Điện Biển Phủ. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Pháp đã phải sử dụng tới 55.753 chiếc dù. Kho dù dự trữ của Pháp không đủ cung cấp, Pháp phải yêu cầu Mỹ viện trợ.
Bộ chỉ huy chiến dịch sớm nhận thấy khó khăn trong việc tiếp tế bằng không quân của địch, nên đã chỉ thị cho các đơn vị tích cực đánh trả máy bay, đoạt dù tiếp tế của địch để càng khoét sâu thêm khó khăn, làm giảm sức chiến đấu của địch và tăng sức chiến đấu của ta ngay tại mặt trận.
Việc đoạt dù tiếp tế của địch do các đơn vị bao vây phụ trách. Trường hợp dù rơi vào các khu vực xa địch thì các đội vận tải có thể thu, cũng như bất cứ đơn vi nào cũng có trách nhiệm thu, theo nguyên tắc: thu súng đạn trước, máy móc thuốc men trước, thực phẩm và dù sau; thu gần địch trước, xa địch sau, không thu được mới phá hủy. Việc đoạt dù tiếp tế rất linh hoạt, nhiều ngày ta thu được tới 50% số dù tiếp tế của địch, bổ sung cho ta được một lượng lớn vật phẩm, nhất là đạn pháo 105mm.
Đến giữa tháng 4 năm 1954, các đơn vị cao xạ của ta đã hạ 50 máy bay1 (Máy bay có đủ các loại B24, B26, C119, C47, F6F, F8F, F4U, SB20 do Mỹ chế tạo và viện trợ và loại Mo-ran của Pháp) địch trên bầu trời Điện Biên Phủ. Cũng trong tháng 4 năm 1954, Đại đoàn 316 là đơn vị đoạt được nhiều dù tiếp tế của địch nhất, trong đó có 4.500 viên đạn pháo 105mm, hàng trăm tấn lương thực và đạn dược. Đại đoàn 304 thu được 600 viên đạn pháo 105mm, 3.000 viên đạn cối 120mm và 81mm. Có ngày Đại đoàn 304 đoạt được 5 tấn hàng các loại...
Sau hai đợt tiến công, nhiệm vụ bảo đảm thông tin liên lạc càng nặng nề. Theo chỉ thị của Bộ chỉ huy chiến dịch, lực lượng thông tin liên lạc phải bảo đảm thông tin điện thoại đến từng mũi tiến công, từng tổ vây lấn... Vì vậy đường hào vây lấn cứ điểm vươn tới đâu, đường dây thông tin liên lạc theo tới đó đảm bảo hệ thống thông tin luôn thông suốt từ sở chỉ huy chiến dịch đến sở chỉ huy các đại đoàn, xuống đến các đơn vị tiền duyên và ngược lại. Trong quá trình chiến đấu, lực lượng kỹ thuật bảo đảm thông tin liên tục tổ chức nối dây khi đứt; sửa chữa, thay thế máy hỏng và triển khai rải dây theo các mũi tiến quân của các đơn vị. Trong thời gian bộ đội ngừng tiến công, củng cố trận địa, ban thông tin chiến dịch kiểm tra lại hệ thống liên lạc, cấp phát bổ sung máy, phương tiện cho các dợn vị, củng cố lại đường dây điện thoại rải dọc theo chiến hào để không bị vướng khi bộ đội vận động và rải thêm đường dự trữ ở những chỗ thường bị pháo địch bắn phá ác liệt.
Trung tuần tháng 4 năm 1954, theo gợi ý của Chủ nhiệm chính trị mặt trận, Ban thông tin chiến dịch đã đưa thêm cán bộ, nhân viên kỹ thuật, hệ thống loa phóng thanh (đã phục vụ Đại hội Đảng lần thứ II và Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt trước đây) lên mặt trận Điện Biên Phủ làm công tác tuyên truyền địch vận. Hàng ngày vào các buổi sáng sớm, khi sương mù còn bao phủ thung lũng, các trận địa tạm im tiếng súng để nhường cho hệ thống loa truyền thanh làm công tác địch vận. Tiếng loa địch vận từ các điểm cao, từ các chiến hào của ta vọng vào từng cứ điểm, từng lô cốt địch góp phần làm tăng sự hoang mang, lo sợ của địch, càng khiến địch thêm dao động, mất tinh thần chiến đấu.
Khắc phục tình trạng thiếu dây điện thoại, cuối tháng 4 năm 1954, Ban thông tin chiến dịch đã sử dụng dây thép gai (tháo bỏ gai) làm dây điện thoại, dùng vỏ chai làm sứ cách điện, rải các đường dây điện thoại liên lạc từ sở chỉ huy chiến dịch đến các trận địa cao xạ, trận địa pháo cố định; lấy dây bọc rải theo giao thông hào bảo đảm cho các đơn vị bộ binh áp sát Mường Thanh.
Để có đủ lực lượng phục vụ chiến dịch, được Bộ chỉ huy chiến dịch đồng ý, Ban thông tin chiến dịch tổ chức thêm 1 đại đội thông tin liên lạc điện thoại (đại đội 154) trực thuộc tiểu đoàn 303. Quân số của đại đội được tuyển chọn từ các đơn vị thanh niên xung phong phục vụ chiến dịch.
Song song với việc bảo đảm cung cấp tiếp tế cho mặt trận, củng cố trận địa cho đợt tiến công mới, Bộ chỉ huy chiến dịch tổ chức một đợt sinh hoạt chính trị nhằm khắc phục tư tưởng hữu khuynh tiêu cực, đề cao tinh thần trách nhiệm, tiếp tục quán triệt phương châm đánh các, tiến phắc, kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ.
Chuẩn bị cho đợt ba, Đảng ủy, Bộ chỉ huy chiến dịch chỉ thị cho các ngành kỹ thuật tiếp tục làm tốt công tác cung cấp, tiếp tế cho bộ đội. Các đơn vị tiếp tục củng cố và phát triển trận địa tiến công vào gần địch hơn nữa nhằm siết chặt vòng vây, đánh chiếm sân bay, triệt hẳn đường tiếp tế và tăng viện của địch, uy hiếp hơn nữa khu trung tâm tập đoàn cứ điểm của địch.
Cuối tháng 4 năm 1953, công tác bảo đảm cung cấp tiếp tế cho bộ đội đã cơ bản hoàn thành, các đơn vị được bổ sung đầy đủ vũ khí, đạn, trang bị sẵn sàng bước vào đợt tiến công mới.
Trưa ngày 1 tháng 5 năm 1954, pháo các cỡ của ta bắn mãnh liệt vào khu vực trận địa địch, mở đầu cho đợt tiến công thứ ba. Trong đợt bắn phá này, lần đầu tiên hoả tiễn H6 của ta xuất trận. Tiếng nổ dữ dội của các viền đạn hoả tiễn H6 (Ca-chiu-sa) khiến cho binh lính địch vô cùng khiếp sợ. Cụm pháo địch ở Hồng Cúm bị tê liệt không bắn được phát nào. Một kho đạn pháo với 3.000 viên dự trữ nổ tung; cho lương thực, thực phẩm bốc cháy. Sau đợt pháo kích kéo dài gần 1 giờ, bộ đội ta từ các hướng đồng loạt tiến công vào các vị trí của địch, áp sát hơn tung thâm.
Đêm 1 tháng 5, Trung đoàn 98 tiêu diệt cứ điểm C1, Trung đoàn 88 tiêu diệt cứ điểm 311, Đại đoàn 312 tiêu diệt cứ điểm 505 và 505A, Trung đoàn 57 tiêu diệt khu C Hồng Cúm. Đêm 3 tháng 5, Trung đoàn 36 tiêu diệt 311B. Ngày 3 tháng 5, Cô-nhi lệnh cho Đờ Cát phá súng ống phương tiện chuẩn bị rút chạy... và dự kiến rút chạy vào 20 giờ ngày 7 tháng 5.
Nhưng kế hoạch rút chạy của chúng chưa kịp triển khai thì ngày 5 tháng 5, quân ta lại tiến công mãnh liệt, nhanh chóng chiếm các vị trí còn lại.
Nắm chắc tình hình địch đang tan rã và căn cứ vào sự phát triển thuận lợi trên các hướng tiến công, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định hạ lệnh cho các đơn vị chuyển sang tổng công kích vào hồi 20 giờ 30 phút ngày 6 tháng 5 năm 1954, lấy tiếng nổ của khối bộc phá đánh đồi A1 làm hiệu lệnh.
Trước đó, Bộ chỉ huy chiến dịch đã thông qua phương án đánh A1 bằng lượng bộc phá lớn, được đưa theo đường hầm mới đào vào đặt dưới hầm ngầm để phá tan hầm cùng công sự của địch. Ban đầu nhiệm vụ được giao cho đại đội công binh thuộc Đại đoàn 316 nhưng do anh em chưa có kinh nghiệm nên nhiệm vụ được chuyển giao cho Trung đoàn công binh 151. Trung đoàn đã tổ chức một đội đặc biệt gồm 20 cán bộ, chiến sĩ do đồng khí Nguyễn Phú Xuyên Khung phụ trách thực hiện nhiệm vụ. Đêm ngày 20 tháng 4 công việc đào đường hầm bắt đầu. Việc đào hầm cực kỳ vất vả, khó khăn vì địch thường xuyên ném lựu đạn và bắn phá ngăn chặn. Ban đêm chúng dùng đèn pha, pháo sáng để kiểm soát mọi hoạt động của ta. Chúng còn tổ chức nhiều đợt phản kích hòng đánh bạt các lực lượng của ta ra xa. Càng vào sâu, công việc càng khó khăn. Đất đào được phải đổ vào túi vải dù đem đổ ra xa. Người đào dùng đèn pin (đã che bớt ánh sáng) buộc lên đầu cọc ở cửa đường hầm để ngắm hướng, dùng ống thuốc tiêm làm thước thăng bằng... Mặt cắt đường hầm rộng 0,9m, vào sâu thiếu không khí, nhiều chiến sĩ bị ngất nhưng không một ai nao núng. Anh em nghĩ ra sáng kiến, nằm nối nhau dùng quạt nan quạt cho thông khí để đào và chuyển đất ra ngoài. Sau 15 ngày đêm kiên cường, bền bỉ làm nhiệm vụ, đường hầm dài 49m đã hoàn thành. Ngay đêm đó khối thuốc nổ 1.000 kg1 (Do cán bộ, chiến sĩ công binh "chế tạo" tại trận địa với 23kg thuốc nổ TNT, 20kg ni-trô xen-lu-lô, 19kg thuốc mồi (của Trung Quốc viện trợ) và lượng thuốc nổ tháo từ các quả bom chưa nổ ở Càng Na, Điện Biên Phủ) chia làm 49 gói được xếp vào cuối đường hầm, 6 đường dây cháy chậm truyền nổ nụ xùy và 1 đường điểm hoả bằng điện đã được nối xong.
18 giờ ngày 6, ta tập trung hoả lực pháo bắn dữ dội vào các cứ điểm còn lại. Ngoài lực lượng pháo 105mm và 75mm, cối 120mm và 81mm, ta còn sử dụng 12 dàn hoả tiễn H6.
20 giờ 30 phút cùng ngày, khối bộc phá 1.000kg ở đồi A1 được lệnh phát nổ. Cùng lúc bộ binh ta đồng loạt tiến công, 4 giờ sáng ngày 7 tháng 5, Trung đoàn 174 tiêu diệt xong A1. Cùng trong đêm, Trung đoàn 98 diệt xong C2. Trung đoàn 165 diệt cứ điểm 506 ở bắc Mường Thanh. Đại đoàn 308 giải quyết xong cứ điểm 310 ở phía tây Mường Thanh, trận địa tiến công của ta chỉ còn cách hầm chỉ huy của Đờ Cát khoảng 300m.
Bộ chỉ huy chiến dịch lệnh cho các đơn vị tổng công kích tập đoàn cứ điểm. Từ các hướng bộ đội ta tiến thẳng vào trung tâm Mường Thanh. Thế của ta như nước vỡ bờ; bộ đội ta đánh đến đâu, cờ trắng của địch xuất hiện tới đó.
17 giờ 30 phút ngày 7 tháng 5 thiếu tướng Đờ Cát cùng toàn bộ Bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm bị bắt sống. Lá cờ "Quyết chiến quyết thắng” của quân ta tung bay trên nóc hầm sở chỉ huy địch.
Địch ở các cứ điểm còn lại lũ lượt kéo cờ trắng ra hàng. Ở Hồng Cúm, lợi dụng trời tối địch tháo chạy vào rừng, ta tổ chức truy kích gọi hàng và bắt sống toàn bộ quân địch ở đây.
Kể từ ngày 13 tháng 3 đến ngày 7 tháng 5 năm 1954, sau 55 ngày đêm chiến đấu liên tục, ta đã tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Tổng số quân địch bị tiêu diệt và bị bắt là 16.200 tên, gồm 17 tiểu đoàn bộ binh và lính dù, 3 tiểu đoàn pháo binh và súng cối, 10 đại đội ngụy, nhiều đơn vị vận tải, công binh xe tăng không quân... Tổng số máy bay của địch bị bắn rơi và phá hủy tại mặt trận là 57 chiếc, ngoài ra còn có 5 chiếc bị bắn rơi trên tuyến cung cấp mặt trận. Quân ta thu toàn bộ vũ khí, kho tàng, cơ sở vật chất kỹ thuật của địch ở Điện Biên Phủ, trong đó có 28 khẩu pháo lớn, 5.915 súng các loại, 64 xe ô tô, 20.000 lít xăng dầu, 21.000 chiến dù, 20 tấn thuốc và dụng cụ quân y cùng rất nhiều đạn dược, quân cụ, máy thông tin, quân trang, quân dụng...
Trong Đông Xuân 1953-1954 và trong trận quyết chiến chiến lược Điện Biến Phủ, các lực lượng kỹ thuật quân sự đã trưởng thành, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, góp phần xứng đáng vào thắng lợi. Ngành kỹ thuật quân sự đã tổ chức bảo đảm tốt vũ khí đạn dược trang bị kỹ thuật cho các chiến trường, cho cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 và cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Ngành quân giới dã tổ chức sản xuất kịp thời vũ khí, đạn, bộ phận thay thế, quân cụ... phục vụ đơn vị. Ngành quân khí khắc phục khó khăn, bảo đảm vũ khí đạn cho đơn vị, tiếp tế, bổ sung và tổ chức sửa chữa kịp thời súng, pháo để bộ đội tác chiến liên tục, dài ngày... Cán bộ, nhân viên kỹ thuật hoạt động trong các binh chủng kỹ thuật, lần đầu tiên tham gia tác chiến hiệp đồng binh chủng đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Thông tin liên lạc bảo đảm thông suốt. Pháo binh xứng đáng là lực lượng "chân đồng, vai sắt, đánh giỏi, bắn trúng”. Bộ đội cao xạ tuy mới ra quân nhưng đã thực sự là nỗi kinh hoàng cho máy bay địch. Lực lượng vận tải thực hiện được một kỳ tích: vận chuyển một khối lượng vật chất lớn chưa từng có trên những tuyến đường dài hàng trăm ki-lô-mét với đủ loại phương tiện. Bộ đội công binh với những chiến công to lớn trong chiến dịch này khẳng định truyền thống quang vinh "mở đường thắng lợi" của mình.
Điện Biên Phủ là chiến dịch lớn nhất và là chiến thắng vĩ đại nhất của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Hậu cần nói chung và lực lượng bảo đảm kỹ thuật nói riêng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo đảm cho chiến dịch. Việc thay đổi phương châm tác chiến từ "đánh nhanh, thắng nhanh" sang "đánh chắc, tiến chắc” khiến cho công tác bảo đảm gặp nhiều khó khăn, thời gian chuẩn bị cho chiến dịch và thời gian chiến đấu của bộ đội ta kéo dài; lực lượng tham gia chiến dịch tăng dần trong quá trình chiến đấu. Mặc dù vậy, với ý chí, quyết tâm cung cấp đầy đủ vũ khí trang bị kỹ thuật cho quân và dân ta tiêu diệt địch, cán bộ, chiến sĩ làm công tác kỹ thuật đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, mọi thử thách hy sinh vận chuyển cung cấp đầy đủ vũ khí trang bị đến từng đơn vị, chiến sĩ. Tính chung toàn chiến dịch ta đã sử dụng tới 1.200 tấn đạn, 1.783 tấn xăng dầu...
Thắng lợi của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ khẳng định bước trưởng thành vượt bậc của lực lượng kỹ thuật quân sự, đồng thời để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ kỹ thuật quân sự những năm tiếp theo.
Nhà ta chuẩn bị cho lễ cũng cẩn thận chu đáo ra phết
Nẫu
Tay nào duyệt cái này đáng bị kỷ luật. Ảnh của mình đẹp bỏ xừ ra thì không dùng
Hồi các năm 198x về trước, hình tượng 3 chiến sỹ bộ đội Việt Minh phất lá cờ Quyết Chiến Quyết Thắng trên nóc hầm được dùng in trên bao thuốc lá Điện Biên.
Nhà ta chuẩn bị cho lễ cũng cẩn thận chu đáo ra phết
Nẫu
Tay nào duyệt cái này đáng bị kỷ luật. Ảnh của mình đẹp bỏ xừ ra thì không dùng
Hồi các năm 198x về trước, hình tượng 3 chiến sỹ bộ đội Việt Minh phất lá cờ Quyết Chiến Quyết Thắng trên nóc hầm được dùng in trên bao thuốc lá Điện Biên.
Em kính cụ bao thuốc
Thực tế đây là cái vỏ mềm của bao điện biên không có đầu lọc
Chuyên trang này hay quá, cụ nào rảnh ngồi chép lại lên trên này làm tư liệu cho tương lai, mình xin đăng lại 1 bài nhỏ thôi, nếu có thời gian thì làm tiếp sau này, còn lâu mới tới 7 tháng 5 mà.
Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát Dù bom đạn xương tan, thịt nát Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh... Hỡi các chị, các anh Trên chiến trường ngã xuống Máu của anh chị, của chúng ta không uổng Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng...
Sự thật về kỷ luật Việt Minh
David Halberstam, tác giả của cuốn sách mang tựa đề bác Hồ (Nhà xuất bản Random House, New York, năm 1971) đã viết về kỷ luật được những người lính Việt Minh duy trì giữa thời điểm chiến tranh khốc liệt. Trong cuốn Điện Biên Phủ - Hợp tuyển công trình khoa học (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, trang 1127-29) có đoạn trích:
Người Pháp - sau này người Mỹ cũng vậy - không hề hiểu rõ cuộc chiến tranh và đối thủ của họ. Họ tiến hành một cuộc chiến tranh hạn chế chống một nước nhỏ hơn. Ngược lại, Việt Nam tiến hành một cuộc chiến tranh vì sống còn. Địch thủ của Pháp - cũng như của Mỹ 20 năm sau - là tất cả dân tộc Việt Nam.
Quân địch ở khắp nơi. Ai cũng có thể là địch thủ. Mỗi cần vụ, mỗi người hầu trong nhà, mỗi thư ký là người Việt Nam đều có thể là tay chân của Việt Minh cộng sản. Mỗi phụ nữ trong các làng có thể là một điệp viên, báo cho Việt Mình biết một đội tuần tra Pháp đã đến chỗ nào, bao nhiêu lính, mang súng gì, nhưng không hề nói cho Pháp biết điều gì.
Biết được quân Pháp ở đâu, sẽ làm gì, Việt Minh sẽ phục kích. Phục kích là chiến thuật lợi hại của họ. Nó được áp dụng phổ biến, đạt kết quả tuyệt vời. Được nhân dân giúp đỡ, Việt Minh có thể trà trộn vào những nơi mà quân Pháp không thể làm như vậy được.
Tù binh Pháp ở Điện Biên Phủ đang được đưa về hậu phương. (Ảnh: TTXVN)
Một sĩ quan Pháp trẻ tuổi kể lại một trận bị phục kích: "Đó là một cuộc hành quyết... Đoàn xe của Pháp chạy chậm rãi và thận trọng tiến lên phía trước thăm dò thì bỗng đâu hàng nghìn Việt Minh. Trong ít phút sau đoàn quân đánh trả kịch liệt. Trận đánh vỡ ra thành hàng nghìn trận đánh tay đôi, nhưng Việt Minh quá đông. Không kể những kẻ bị giết, luôn luôn có thêm kẻ địch từ bụi rậm, hốc đá xông ra.
Mỗi chúng tôi phải trải qua những giây phút ghê sợ, khi anh cảm thấy không còn khả năng chống cự nữa. Cảm giác này pha lẫn với nhận thức được một tình trạng không thể chịu được đoàn quân đã giẫy chết. Có sự im lặng trên đoàn quân đã bị tiêu diệt. Một thứ mùi chết chóc, im lặng - mà các bạn đã biết - kèm theo tiếng rên rỉ và người ta nhận biết khi đã có một sự đổ nát lớn. Đó là sự thật đầu tiên của một cuộc thất trận.
Rồi lại hiện ra trước mặt một sự thật khác và đáng ngạc nhiên hơn nhiều: sự thật về kỷ luật của Việt Minh! Tôi dự kiến sẽ có những hành động dã man. Nhưng sau tiếng súng cuối cùng một chốc, tôi thấy một sự chu đáo kỳ lạ - lập lại trật tự hoàn toàn. Các sĩ quan của họ lượn khắp trận địa, không hề tự phụ là những người chiến thắng mà chỉ như thể là một cuộc hành quân vừa mới kết thúc và một cuộc hành quân khác đang bắt đầu. Không thể nhận ra một nét khoe khoang nào ở họ - không có lễ chiến thắng. Họ để mắt tới mọi thứ, họ ghi chép, ra lệnh cho binh lính của họ. Ở chỗ kia, binh lính mang tiểu liên dồn tù binh lại, tập hợp họ thành hàng ngũ và dẫn họ đi. Mọi việc được tiến hành không có một hành động dã man tàn bạo nào và cũng không có sự thương hại.
Cán bộ quân y của ta đang cứu chữa binh sĩ Pháp bị thương trong các hầm ngầm. (Ảnh: TTXVN)
Như vậy, mọi sự phải làm với lòng nhân đạo. Thế là họ đang ở trong một thế giới với những giá trị mới. Tôi đang đối diện với những người địa phương thuộc trật tự của cộng sản. Đây là một cái gì có bản chất tuyệt đối, một nghìn lần hơn bất cứ cái gì mà chúng tôi gọi là kỷ luật. Đáng lẽ họ đánh vào đầu mọi người, Việt Minh lại săn sóc những người bị thương khi tiếp nhận tù binh.
Đó là một chính sách không thể thất bại được, không thể chống lại được, mà kết quả lại càng tốt hơn khi áp dụng vào những kẻ địch xấu nhất, ác độc nhất, kể cả thực dân. Đó là việc giáo huấn để cải tạo những tâm hồn xấu xa....”.
Trong cuốnĐiện Biên Phủ - Hợp tuyển công trình khoa học(Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, trang 1129-30) có đoạn trích về tiếng vang của chiến thắng Điện Biên Phủ được tác giả Gioócgiơ K.Tenyhen đưa ra trong cuốnChiến tranh cách mạng của cộng sản, nhận định về chìa khóa thắng lợi của quân đội Việt Minh đã được thế giới học tập và áp dụng.
“Cái mới và phần lớn sức mạnh của Việt Nam nằm trong khái niệm rộng rãi và thực chất về quân đội cộng sản và chức năng của họ. Một sĩ quan Pháp xác định, khái niệm của người Việt Nam về chiến tranh nhân dân là “toàn bộ hoạt động nhằm đánh vào hậu phương của kẻ địch với mục đích làm yếu sức mạnh vật chất và tinh thần để làm giảm sự tự do hoạt động” của địch.
Chắc chắn quân đội Việt Minh không phải là những toán người đi lang thang, với những nhiệm vụ tùy tiện. Họ là một lực lượng được huấn luyện với nhiều nhiệm vụ riêng biệt, để thực hiện các hoạt động quân sự, các hoạt động thâm nhập và chiếm lĩnh về chính trị. Đó là chìa khóa thắng lợi của Việt Minh.
Về quan điểm quân sự của Việt Nam, tác giả nhấn mạnh, những chiến thuật của chiến tranh nhân dân chú trọng đặc biệt tới tính cơ động, vận động nhanh vào ban đêm, tiến công ồ ạt nhưng nhanh chóng, rút nhanh khỏi những trận đánh mà kết quả không chắc chắn. Các chiến thuật này được thực hiện một cách xuất sắc, thường xuyên bởi một quân đội gồm những sĩ quan và binh lính tận tụy và gan dạ. Họ sống với nhau chung một hoàn cảnh, cùng chịu đựng và chia sẻ với nhau những gian khó. Nhìn bề ngoài, khó phân biệt binh lính với sĩ quan, họ thật sự chung sức với nhau để thực hiện một lý tưởng. Người Pháp dùng chiến tranh thông thường để đối phó với họ.
Việt Minh hơn hẳn Pháp những điều lợi thế. Có cội rễ sâu xa trong dân chúng về chính trị, quen thuộc địa hình, nhân dân cung cấp tình báo cho họ mà người Pháp không thể nào có được hy vọng như thế. Đặc điểm chủng tộc khiến người lính Việt Minh chẳng khác dân thường. Dân thường có thể giúp đỡ họ về tiếp tế, liên lạc, cung cấp nhân lực, đóng thuế lương thực. Họ được che chở, còn lính Pháp không thể hoà mình vào nhân dân như lính Việt Minh được.
Dùng máy bay trinh sát để chụp ảnh là việc rất quan trọng đối với lính Pháp thì bị ngăn trở bởi cây cối rậm rạp. Người Pháp chậm thay đổi chiến thuật, như cách chống lại các khẩu pháo Việt Minh được ngụy trang, bắn trực tiếp để thay thế cách bắn gián tiếp thông thường. Pháp còn mất nhiều thời gian mới tìm hiểu và đối phó với phương pháp phục kích của Việt Minh.
Toàn bộ Bộ Chỉ huy địch ở Điện Biên Phủ, đi đầu là tướng Đờ Cát-tơ-ri, ra hàng. (Ảnh: TTXVN)
Tiền lệ của Điện Biên Phủ - với một đội quân dày dạn kinh nghiệm chiến đấu và những bài học quan trọng của họ về chiến lược, chiến thuật - chắc là không bị khối cộng sản để mất vì sự mai một của thời gian. Nó đặt ra những vấn đề gay go cho người Mỹ trong cuộc chiến tranh. Ở thời kỳ Điện Biên Phủ, Mỹ đã quyết định không can thiệp vì không có hy vọng cứu nổi người Pháp. Người Pháp đã thua. Đối thủ đã chiến thắng người Pháp nay là địch thủ của Mỹ.
Kinh nghiệm thành công của Việt Minh ở thời kỳ Điện Biên Phủ trong việc kết hợp những hình thức đấu tranh quân sự và không quân sự, những khái niệm về chiến lược, việc áp dụng vào thực tế về chiến thuật ở một trình độ cao có thể được sử dụng trong những tình huống tương lai, chắc chắn mang lại cho người Mỹ những bối rối, mà ai có thể cam đoan rằng Mỹ sẽ không thất bại.
Cần ghi nhớ sâu sắc rằng, trong các khu vực kém phát triển ở châu Phi, châu Mỹ, với trình độ văn hóa thấp kém, địa lý phức tạp kinh nghiệm tổ chức quân đội, nhưng hình thức chiến thuật đã được áp dụng của Việt Minh - rất hiển nhiên là đã đánh bại người Pháp - đặc biệt có thể được học tập và đem ra áp dụng ở cả châu Mỹ lẫn châu Phi”.
Ngày 18/3/1954: Tiến hành xây dựng trận địa tiến công, đào chiến hào chuẩn bị cho Đợt 2 Chiến dịch Điện Biên Phủ
Để chuẩn bị cho một giai đoạn tiến công mới, từ trên các triền núi cao, các chiến hào của Quân đội nhân dân Việt Nam cùng lúc phát triển khắp nơi trên cánh đồng Mường Thanh. So với trước ngày mở màn chiến dịch, việc xây dựng trận địa lần này to lớn và khó khăn gấp bội.
Theo đó, buổi sáng là giờ ngủ. Khoảng cách sau bữa cơm trưa với bữa cơm chiều là thời gian chuẩn bị vật liệu xây dựng trận địa, lên rừng đốn gỗ, chặt lá ngụy trang. Sau bữa cơm chiều, bộ đội ta từ nơi trú quân tiến ra cánh đồng. Suốt đêm là thời gian đào trận địa.
Bộ đội phải lao động cật lực từ 14 tới 18 tiếng mỗi ngày. Những đêm giá rét, đào trận địa mồ hôi vẫn tuôn chảy. Gặp những chỗ đất rắn hay nhiều sỏi đá, bàn tay các chiến sĩ phồng rộp, rớm máu. Nhưng khổ nhất vẫn là khi gặp ruộng lầy. Mọi người phải ngụp trong bể bùn, dùng tay, dùng xẻng, mũ sắt, có lúc dùng cả áo mưa để đựng bùn đổ đi. Sau đó, lại phải đóng cọc, chèn phên hai bên thành hào phòng sụt lở. Những đêm mưa, ở nơi đất trũng, nước đổ vào đường hào, mọi người bì bõm giữa bùn nước. Nước mưa chảy tràn trên mặt, nhưng vẫn không ai ngừng tay.
Các đơn vị tham gia chiến dịch nghiên cứu các vị trí đánh địch trên sa bàn trước khi vào chiến dịch. (Ảnh: TTXVN)
Khi đường hào đã kéo dài hàng chục kilômét trên cánh đồng thì không còn cách nào ngụy trang để che mắt quân địch, mỗi tấc đất chiến hào bắt đầu phải trả bằng máu. Pháo địch bắn suốt đêm vào những đường hào mà chúng đã phát hiện ban ngày. Máy bay liên tiếp thả đèn dù phát hiện những mục tiêu mới cho những trận oanh tạc. Địch đưa quân ra những trận địa ở gần, đánh bật bộ phận canh gác, san lấp những đoạn hào, gài mìn ngăn bộ đội ta đào tiếp.
Hệ thống trận địa tiến công và bao vây bao gồm những đường hào giao thông trục chạy chung quanh phân khu Mường Thanh, cắt đứt phân khu trung tâm và phân khu nam, nhiều tuyến hào giao thông có công sự chiến đấu tỏa ra từ các triền núi chung quanh tiến sát trận địa của địch, nhiều tuyến hào giao thông ngang để tăng cường khả năng liên lạc; ở những vị trí nhất định lại phải xây dựng các công sự cho hỏa lực, xây dựng hầm đạn, hầm ngủ, hầm cứu thương, v.v…
Nhiệm vụ xây dựng trận địa tiến công và bao vây được quy định như sau(Trích mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh):
Đại đoàn 308, xây dựng đường giao thông hào trục từ nam vị trí đồi Độc Lập qua Bản Kéo, Pe Nội, Nậm Bó, Bản Mé, Bản Cò Mỵ tới suối Nậm Rốm và đường giao thông hào trục từ Pe Nội vào vị trí tập kết của bộ đội phía tây Mường Thanh. Làm trận địa tiến công để chuẩn bị công kích vị trí 106.
Đại đoàn 312, xây dựng đường giao thông hào trục từ nam vị trí đồi Độc Lập nối liền với đường trục của Đại đoàn 308 qua Him Lam, Long Bua nối liền với đường trục của Đại đoàn 316. Làm trận địa tiến công, chuẩn bị công kích các vị trí D, E và 105.
Đại đoàn 316, xây dựng giao thông hào trục từ Long Bua nối liền với giao thông hào trục của Đại đoàn 312 qua Bản Bánh, Bản Ten tới suối Nậm Rốm ngang Bản Cò Mỵ, nối liền với giao thông hào trục của Đại đoàn 308, làm trận địa tiến công các vị trí A và C.
Về phía thực dân Pháp:
Lực lượng Không quân Pháp bối rối trước hoạt động khống chế sân bay và kiềm chế không quân của pháo binh, pháo cao xạ. Lô-danh, Tư lệnh Không quân Pháp ở Đông Dương báo cáo với Nava việc tiếp tế bằng đường không từ 4.000 tấn đã tăng lên tới 10.000 tấn. Dù thả xuống Điện Biên Phủ không có cách gì lấy lại, Nava phải tính đến chuyện cầu cứu Mỹ, đặt mua vải dù, phụ tùng từ Nhật Bản và Philippines để may. Lô-danh cũng chỉ thị cho phi công lái máy bay Dakota ta phải thả dù ở độ cao 2.000-3.000m để tránh đạn cao xạ của ta, đồng thời chỉ thị nghiên cứu các thả dù mở chậm.
Ngày xuất bản: 18/03/2024 Nội dung: ThS NGUYỄN NGỌC TOÁN – Viện Lịch sử quân sự, MAI THU NGỌC Trình bày:VŨ ANH TUẤN Ảnh: TTXVN
Khi dự trữ đạn 105mm và lương thực của thực dân Pháp tại Điện Biên Phủ bắt đầu cạn dần, ngày 19/3/1954, Đờ Cát điện cho Cô-nhi: “Việc mất Điện Biên Phủ là điều khó tránh khỏi trong thời gian ngắn và tính chuyện rút sang Lào”. Trong khi đó, hai máy bay Dakota tiếp tế cho Pháp tại Điện Biên Phủ hạ cánh xuống đường băng sân bay thì một chiếc bị trúng pháo kích của ta, chỉ một chiếc may mắn thoát nạn.
Trong ngày 19/3/1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi báo cáo đến Bác, đồng chí Trường Chinh và các đồng chí trong Bộ Chính trị; trong đó, báo cáo đánh giá: Đợt chiến đấu đầu tiên của quân ta là thuận lợi. Địch thất bại rất nặng, mất cả binh lực và phạm vi kiểm soát ở phân khu miền bắc, trường bay bị khống chế đến nay thì gần hoàn toàn, thương vong nhiều, thiệt hại về không quân nặng, đối phó cho đến hôm nay vẫn thường.
Về phía ta, sau 2, 3 ngày bổ sung chấn chỉnh, lực lượng gần như nguyên vẹn, lại thêm kinh nghiệm, thêm dày dặn, thêm phấn khởi, tin tưởng vào phương châm, lại thêm một số vũ khí và đạn dược lấy được của địch. Tuy vậy, qua một thời gian làm trận địa, có đến trên 100 cây số, các đơn vị chiến đấu làm xong nhiệm vụ lại phải thu dọn chiến trường vì dân công thiếu, việc cấp dưỡng lại kém, nên sức khỏe bị giảm sút, mỏi mệt...
Báo cáo nhận định, bước qua đợt 2 của giai đoạn thứ 2 là đợt xây dựng trận địa tiếp cận, hình thành thế bao vây tứ phía để đạt đến mục đích: Một là làm cho địch không tăng viện được. Hai là làm cho địch không thả dù tiếp tế được. Ba là làm cho không quân và pháo binh địch khó hoạt động. Bốn là làm cho tất cả các súng cối từ 81, 82mm trở lên của ta có thể uy hiếp tung thâm của địch, uy lực không kém trọng pháo…
Từ thực tế nêu trên, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá tình hình địch, ta; đồng thời đề xuất với Bác, đồng chí Trường Chinh, các đồng chí trong Bộ Chính trị và Trung ương các giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo động viên nhân, vật lực hậu phương chi viện cho tiền tuyến, sự phối hợp chiến trường toàn quốc với chiến trường Điện Biên Phủ, tạo động lực để quân và dân ta sớm giành thắng lợi trong Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Daniel Roussel là phóng viên thường trú báo Nhân đạo (Đảng Cộng sản Pháp) từ năm 1980 đến 1986. Sau đó nhiều năm ông trở lại Việt Nam với vai trò một nhà làm phim. Ông đã thực hiện hơn 20 bộ phim tài liệu về Việt Nam, trong đó có phim về Điện Biên Phủ, Hiệp định Paris. Được gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhiều lần kể từ năm 1980, năm 2003 ông Daniel Roussel đã làm bộ phim tài liệu “Cuộc chiến giữa Hổ và Voi”, tái hiện những diễn biến trên chiến trường Điện Biên Phủ năm xưa, nơi quân và dân Việt Nam đã làm nên một trong những chiến thắng vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc.
Đạo diễn Daniel Roussel chia sẻ:
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, quân đội Pháp đã quyết định từ bỏ cứ địa Điện Biên Phủ. Đây được coi là một bước ngoặt đầu tiên trong cuộc đấu tranh giành lại độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt Nam.
Quân đội của chế độ thực dân Pháp đã bị đánh tan bởi một quân đội nhân dân có trang bị khí tài ít hơn rất nhiều. So về cân bằng lực lượng giữa hai bên ở thời điểm đấy thì sự thất bại của Pháp là một điều khiến thế giới vô cùng kinh ngạc.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là bài học và là nguồn cảm hứng cho nhiều phong trào giải phóng dân tộc của các quốc gia bị áp bức trên toàn thế giới tại châu Phi, Nam Mỹ… có niềm tin vào chiến thắng, về sự đoàn kết của toàn thể người dân trong một đất nước có thể đánh bại được chủ nghĩa đế quốc và thực dân. Thực tế đúng như vậy khi sau đó một số quốc gia tại châu Phi đã đánh tan được chế độ thực dân.
Các đơn vị bộ binh cơ giới đang chuẩn bị xuất phát đưa quân vào Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Chiến thắng Điện Biên Phủ được coi là một chiến thắng vang dội toàn cầu và rất nhiều người biết tới sự kiện lịch sử quan trọng này. Đã có những lần tôi di chuyển bằng taxi ở nước ngoài và chính người tài xế taxi ấy cũng biết rất rõ về Đại tướng Võ Nguyên Giáp của Việt Nam. Và cũng rất ngạc nhiên vì chính người tài xế ấy đã xem bộ phim “Cuộc chiến giữa Hổ và Voi” do tôi thực hiện. Điều đó cho thấy chiến thắng Điện Biên Phủ đã vang dội khắp nơi.
Bộ phim này của tôi lấy hình tượng là một cuộc chiến giữa con hổ, biểu trưng cho sức mạnh quân đội của Việt Nam, và con voi biểu trưng cho quân đội thực dân Pháp. Bình thường trong tự nhiên, có thể là con voi sẽ chiến thắng con hổ. Nhưng mà ở đây chúng ta lại nhìn thấy một trường hợp ngoại lệ. Cũng giống như chiến dịch Điện Biên Phủ, Quân đội nhân dân Việt Nam không có quá nhiều khí tài mạnh mẽ so với phe đối địch là thực dân Pháp nhưng lại có ý chí quyết tâm giành chiến thắng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói với Đại tướng Võ Nguyên Giáp rằng: chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh. Trong đêm 24, rạng sáng 25/1/1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cảm thấy tình hình không chắc chắn với binh lực lúc bấy giờ. Nếu như khí tài không đủ mà vẫn cố ra quân thì sẽ thiệt hại rất nhiều. Do đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã quyết định là không tiến hành chiến dịch đánh nhanh thắng nhanh.
Thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp giao nhiệm vụ cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp nghiên cứu kế hoạch tác chiến và mở chiến dịch Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Đã có rất nhiều cuộc vận chuyển đạn dược và lương thực trên những chiếc xe đạp thồ để tới cứu viện cho Quân đội nhân dân Việt Nam. Những chiếc xe đạp phải chở hàng trăm tấn hàng, được đẩy bằng đường bộ, nhằm duy trì sự cầm cự trong nhiều tuần nhiều tháng.
Đã có những chiếc pháo được kéo qua những điều kiện địa hình khó khăn để đưa vào trận địa Điện Biên Phủ, phải đi qua rất nhiều địa hình đồi núi hiểm trở, thậm chí là vận chuyển trong đêm để tránh sự trinh sát của máy bay địch. Những chiếc pháo được kéo đến các trận địa mới tạo thành hình vòng cung bao vây cứ điểm.
Quân đội Việt Nam cũng tiến hành đào hầm bí mật tiến vào căn cứ chính, nhưng phải làm sao cho thật bí mật, ngụy trang che mắt địch. Sân bay tại khu vực đấy cũng đã hoàn toàn bị hủy hoại nên máy bay không thể tiếp cận được.
Đã từng có nguyên tắc không tiến hành tấn công tất cả các điểm cùng một lúc mà tiến hành tấn công từng đồi một, đánh tan cụm này xong sẽ chuyển sang cụm khác. Sau nhiều lần tiến hành các cuộc tấn công kéo dài nhiều tuần, cuộc tấn công cuối cùng diễn ra vào ngày 7/5/1954.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn nhớ rõ lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong suốt khoảng thời gian từ ngày 25/1 đến ngày mùng 7/5, quân đội Pháp vẫn có một niềm tin rằng quân đội Việt Nam sẽ chẳng thể nào tiến công được.
Có thể nói rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt niềm tin tuyệt đối vào Đại tướng Võ Nguyên Giáp, một người vô cùng thông minh và quyết liệt. Từ đó mới có những quyết định lịch sử làm nên kỳ tích Điện Biên Phủ, như quyết định thay đổi phương châm từ đánh nhanh thắng nhanh sang đánh chắc tiến chắc là một quyết định lịch sử, tạo bước ngoặt trong Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Chiến thắng Điện Biên Phủ chỉ là chiến thắng ban đầu vì mục tiêu cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn là thống nhất đất nước.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân yêu chuộng hòa bình ở ngay chính nước Pháp và nhiều nơi trên thế giới. Đó cũng là nhờ tình hữu nghị giữa các dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vun đắp. Là người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp vào năm 1920, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều ảnh hưởng và tập hợp được những người Pháp ủng hộ Việt Nam chống lại chủ nghĩa thực dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn huy hiệu "Chiến sĩ Điện Biên Phủ" cho những cán bộ, chiến sĩ có công xuất sắc trong chiến dịch Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến rất nhiều nơi, dành nhiều năm của cuộc đời để sinh sống và hoạt động tại Pháp nên hiểu rất rõ về nhân dân Pháp. Đối với các chiến sĩ cộng sản Pháp cũng như nhiều bạn bè Pháp thì đây có thể được coi là một tình đồng chí, anh em vô cùng tuyệt vời.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là bước ngoặt, tác động rất lớn đến đàm phán Hiệp định Geneva và thúc đẩy phong trào ủng hộ cuộc đấu tranh giành lại độc lập của Việt Nam và các nước thuộc địa ở Đông Dương.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp là những người có công rất lớn đối với đất nước, để thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay có thể được sống trong đất nước hòa bình. Đó là những tấm gương sáng ngời cho thế hệ trẻ ngày nay, những người được sống trong thời đại hòa bình, được tham gia vào sự nghiệp hiện đại hóa của đất nước và hội nhập quốc tế.
Giới trẻ Việt Nam hiện nay vô cùng năng động và cần tiếp nối truyền thống vẻ vang của các thế hệ đi trước, trở thành những người tiên phong trong việc duy trì hòa bình, tăng cường tình hữu nghị và đoàn kết giữa các dân tộc cũng như tham gia tích cực vào cuộc chiến chống biến đổi khí hậu, bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ Trái đất, sự đa dạng sinh học...
Nội dung: KHẢI HOÀN và MINH DUY (Phóng viên báo Nhân Dân thường trú tại Pháp) Trình bày: NHÃ NAM
Đoàn Pháo binh Tất Thắng-Lữ đoàn pháo binh 45: Chiến đấu trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ
Bước vào mùa khô năm 1953, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta bước sang năm thứ tám. Cục diện chiến trường đã có những chuyển biến quan trọng theo hướng có lợi cho ta. Để đối phó với tình hình đó, nước Pháp đã phải cử tướng Na-va sang thay tướng Xa-lăng hy vọng sẽ xoay chuyển được cục diện chiến trường.
Sau khi sang Việt Nam, Na-va đã vạch kế hoạch chiến lược quy mô lớn, quyết tâm chuyển bại thành thắng trong vòng 18 tháng với nội dung chủ yếu là: Dựa vào viện trợ Mỹ, khẩn trương xây dựng các khối quân cơ động mạnh, thực hiện phản công từng phần, tiến tới giành chủ động trên chiến trường và cố đạt được những thắng lợi quân sự có ý nghĩa chiến lược.
Thực hiện chủ trương đó, Hè Thu năm 1953, Na-va đã mở các cuộc hành quân, càn quét vào các vùng đồng bằng Bắc Bộ, Bình Trị Thiên, Nam Bộ... để đối phó với các hoạt động tiến công của ta và giành quyền chủ động trên chiến trường. Ở hướng Tây Bắc, chúng cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ nhằm xây dựng nơi đây thành một tập đoàn cứ điểm mạnh, tạo hành lang nối các vùng biên giới Lào, Thái Lan, Miến Điện và Trung Quốc, rồi từ đó tái chiếm các vùng đã bị mất ở Tây Bắc trong năm 1952 - 1953, tạo điều kiện để tiêu diệt các binh đoàn chủ lực của ta. Theo ý tưởng của Na-va, Điện Biên Phủ sẽ là một tập đoàn cứ điểm mạnh chưa từng có ở Đông Dương, là pháo đài không thể công phá, chúng cho rằng "Muốn tiến công Điện Biên Phủ, Việt minh cần phải có hoả lực pháo binh mạnh". Đây là điều mà theo kẻ địch, ta không có khả năng huy động về lực lượng phương tiện cũng như công tác bảo đảm tác chiến, đặc biệt là ta không thể đưa pháo qua các đỉnh núi cao để vào gần mục tiêu được. Trung tá Pi-rốt, chỉ huy pháo binh của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã huênh hoang tuyên bố: "... Liệu đối phương có được mấy chục khẩu pháo, mà bằng cách gì họ đưa lên đây được? Giả thiết nếu có, họ phải đặt pháo ở sườn ngoài các đỉnh bao quanh lòng chảo Điện Biên, ở đấy làm sao họ có thể bắn tới các vị trí trung tâm của pháo đài bất khả xâm phạm Điện Biên Phủ. Nếu họ dám đặt bên sườn phía trong thì khi họ bắn, ánh lửa đầu nòng sẽ làm lộ và pháo binh Pháp sẽ hủy diệt họ tức khắc".
Về phía ta, ngày 6 tháng 12 năm 1953, khi thông qua kế hoạch tác chiến năm 1954, Bộ Chính trị đã quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ và xác định đây là chiến dịch có tầm quan trọng đặc biệt nên phải giành cho được thắng lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: "Chiến dịch này là chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải tập trung hoàn thành cho kỳ được".
Trung đoàn 45 sau cuộc hành quân huyền thoại về khu căn cứ ở tỉnh Tuyên Quang đã nhanh chóng ổn định, củng cố tổ chức, học tập chỉnh quân chính trị, ôn luyện kỹ thuật, sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới.
Tháng 4 năm 1953, biên chế của Trung đoàn gồm hai tiểu đoàn 632 và 954, một đại đội chỉ huy, một trung đội quan trắc, một trung đội thông tin và một tiểu đội cảnh vệ; Đại đội 13 công binh và Đại đội 14 phòng không được điều bổ sung cho các đơn vị khác; Đại đội 119 đổi thành Đại đội 806 thuộc Tiểu đoàn 954. Các đồng chí Nguyễn Hữu Mỹ là Trung đoàn trưởng và Nguyễn Nam Thắng là Chính ủy trung đoàn.
Chấp hành nghị quyết của Bộ Chính trị và chỉ thị của Bác Hồ, cùng với các đại đoàn bộ binh, Đại đoàn công pháo 351 đã nhanh chóng làm công tác chuẩn bị cho chiến dịch. Lần đầu tiên kể tử khi thành lập, pháo binh được huy động tới mức cao nhất gồm Trung đoàn 45 pháo lựu 105 mm, Trung đoàn 675 sơn pháo (thuộc Đại đoàn 351) và các tiểu đoàn pháo trong biên chế của các đại đoàn chủ lực tham gia chiến dịch.
Cuối tháng 12 năm 1953, Trung đoàn 45 được lệnh tiến quân lên Tây Bắc tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ.
Đêm 22 tháng 12 năm 1953, Trung đoàn hành quân lên Điện Biên Phủ với tinh thần "Tới đích đúng thời gian, bảo đảm an toàn người, xe, pháo và khí tài, bí mật tuyệt đối". Đường hành quân ra trận dài trên 500 ki-lô-mét, phần lớn là đường mới mở, cầu mới bắc, phải vượt qua nhiều đèo dốc nguy hiểm như Lũng Lô, Pha Đin; qua nhiều trọng điểm thường xuyên bị máy bay địch đánh phá (Lũng Lô, Bản Chẹn, Cò Nòi). Với quyết tâm cao của cán bộ, chiến sĩ và sự hiệp đồng chặt chẽ của các lực lượng bảo đảm, sau 18 ngày đêm hành quân, ngày 7 tháng 1 năm 1954 toàn bộ trung đoàn đã tới vị trí tập kết chiến dịch ở Tuần Giáo an toàn, bí mật; hoàn thành thảng lợi nhiệm vụ hành quân.
Ngày 28 tháng 12 năm 1953, cán bộ chỉ huy Trung đoàn cùng Tư lệnh đại đoàn lên Bộ nhận kế hoạch chiến đấu, sau đó chia làm ba bộ phận đi nghiên cứu địa hình do các đồng chí Nguyễn Hữu Mỹ, Nguyễn Trung Kiên và Hồ Đệ chỉ huy. Những ngày đầu tháng 12 năm 1953, ở Điện Biên Phủ, do lực lượng địch chưa được tăng cường, trận địa phòng ngự của chúng mới được xây dựng chưa ổn định và kiên cố, Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy đã hạ quyết tâm tập trung lực lượng để tiêu diệt quân địch với phương châm “Đánh nhanh, giải quyết nhanh". Trong kế hoạch tác chiến chiến dịch Điện Biên Phủ, theo phương châm này, Bộ Tổng tư lệnh dự kiến phải sử dụng chín trung đoàn bộ binh, toàn bộ pháo binh, công binh và phòng không với số quân tham gia chiến đấu khoảng 35.000 người, thời gian chiến dịch trong khoảng bốn đến năm ngày, thời điểm nổ súng (giờ G) là 17 giờ ngày 26 tháng 1 năm 1954.
Để đưa phần lớn lực lượng lựu pháo và pháo cao xạ vào bố trí trận địa ở phía bắc tập đoàn cứ điểm của địch, Bộ chỉ huy chiến dịch chủ trương trong thời gian một ngày đêm phải mở xong con đường vắt qua núi để dùng sức người kéo pháo từ đường 41 sang đường Điện Biên đi Lai Châu đảm bảo bí mật, giành yếu tố bất ngờ. Ban chỉ huy kéo pháo được thành lập gồm các đồng chí Lê Trọng Tấn, Đại đoàn trưởng Đại đoàn 312; Phạm Ngọc Mậu, Chính ủy Đại đoàn công pháo 351; Phạm Kiệt, Phó cục trưởng Cục Bảo vệ.
Nhiệm vụ mở đường được giao cho Đại đoàn 308, một tiểu đoàn công binh của Trung đoàn 151 và năm đại đội sơn pháo của Trung đoàn pháo binh 675. Với lực lượng hơn 5.000 cán bộ chiến sĩ, chỉ trong một đêm 14 tháng 1 năm 1954 đã làm xong con đường dài 15 ki-lô-mét, rộng 3 mét từ bản Nà Nham (Ki-lô-mét 70 đường 41) men theo các sườn núi, qua nhiều dốc, đèo, núi cao (như đỉnh Pu Pha Sông 1.150 mét) nhiều vực sâu (vực Nậm Khô Hu) đến gặp đường Điện Biên đi Lai Châu ở Bản Tấu.
Nhiệm vụ kéo pháo do Đại đoàn 312 và lực lượng của Trung đoàn pháo binh 45 cùng với Trung đoàn pháo cao xạ 367 đảm nhiệm. Do yêu cầu quan trọng của việc kéo pháo, ngày 15 tháng 1 năm 1954, Ban chỉ huy kéo pháo quyết định cho kéo thử một khẩu lựu pháo và một khẩu pháo cao xạ để rút kinh nghiệm. Đêm 16 tháng 1 năm 1954 một khẩu pháo lựu 105 mm của Đại đội 802 được đưa vào kéo thử. Lúc đầu, để kéo một khẩu pháo phải sử dụng 20 chiến sĩ bộ binh, tổ chức thành hai “dây", mỗi “dây" do 10 người kéo. Các cán bộ trung đội, đại đội pháo trực tiếp chỉ huy kéo pháo. Càng lên cao, việc kéo pháo càng khó khăn hơn, tốc độ cứ chậm dần lai. Mỗi khẩu pháo phải đấu thêm hai “dây" nữa (40 người), có dốc cao quá đã phải tập trung tới 100 người; sau này cán bộ, chiến sĩ có sáng kiến dùng tời đặt trên đỉnh dốc kéo pháo để giảm bớt sức người. Cuộc vật lộn với đèo cao, mưa trơn, địch đánh phá để kéo pháo vào trận địa là một thử thách khắc nghiệt. Hàng chục, hàng trăm chiến sĩ khoẻ mạnh, cúi rạp mình theo sườn dốc, rướn hết sức để kéo, đẩy pháo theo nhịp hô của người chỉ huy “Hai, ba nào", nhưng sau mỗi nhịp hô như vậy, những “chú voi" nặng 2,5 tấn cũng chỉ nhích lên được 20 đến 30 cen-ti-mét. Vì vậy, sau một ngày đêm, mỗi khẩu pháo chỉ đi được quãng đường từ 2 đến 3 ki-lô-mét. Mỗi tấc đất trên đoạn đường này đều thấm đẫm mồ hôi, sức lực và cả máu của bộ đội. Chiến sĩ Nguyễn Văn Chức là pháo thủ thuộc Khẩu đội 3, Trung đội 2, Đại đội 806, Tiểu đoàn 2. Khi khẩu pháo của Khẩu đội 3 đang lên dốc từ từ thì bị đứt dây, kéo luôn cả mọi người đang bám dây lôi xềnh xệch trên mặt đường, không sao giữ nổi. Với tinh thần “Dũng cảm cứu pháo, còn người còn pháo", trong lúc nguy nan ấy, ba pháo thủ dũng cảm là Chức, Cứ và Ngói lao theo pháo để chèn. Nhưng pháo vẫn lao nhanh và sắp đâm xuống vực sâu. Cứ và Ngói bị hất bật ra, chỉ còn lại mình Chức. Không thể chậm trễ, đắn đo gì nữa, Chức ôm chèn lao mình vào một bánh pháo. Khẩu pháo chồm qua người Chức, mất đà đâm quặt vào gốc cây và dừng lại. Tất cả đều nghẹn ngào, xúc động cảm phục gương hy sinh của Chức. Hành động dũng cảm của liệt sĩ Nguyễn Văn Chức, người pháo thủ đầu tiên của pháo binh hy sinh cứu pháo đã nhanh chóng được truyền tới các đơn vị ở mặt trận.
Sau hai ngày kéo pháo vào trận địa, ta mới chỉ kéo được tám khẩu với quãng đường gần hai ki-lô-mét. Ngày thứ ba, ta phải rút kinh nghiệm và một loạt công việc được bổ sung như mở rộng thêm đường, hạ bớt độ dốc, thiết bị tời kéo. Hậu cần mặt trận cũng tăng thêm định lượng gạo từ tám lạng lên một ki-lô-gam cho một chiến sĩ. Ngày "N” cứ sát gần, trời bắt đầu mưa, dốc càng trơn, thật nhiều gian khổ. Đêm đêm theo tiếng “Hò dô ta nào”, "Hai ba nào", tiếng mõ tre "cốc, cốc” làm hiệu lệnh, dưới ánh trăng, hàng trăm chiến sĩ mình mặc áo trấn thủ, đầu đội mũ nan, cúi rạp người choài chân, những bắp tay cuộn lên bám chắc vào dây chão, dây cóc, dây mây, dây song để kéo pháo. Đêm tháng chạp, tiết trời khá lạnh, song mồ hôi của các chiến sĩ đã thấm ướt trên vai áo nhiều người. Chính trong cuộc kéo pháo vào đầy gian khổ ấy, nhiều đồng chí vai rớm máu, tay tước da... đã làm nảy sinh nhiều sáng kiến. Nổi bật là sáng kiến chặt cành cây có chạc buộc vào đầu càng pháo chếch theo hướng kéo pháo, khi kéo pháo thì chạc cây có tác dụng vừa đỡ càng vừa chống trôi, khi dừng thì chạc cây thành giá đỡ càng pháo; hoặc sáng kiến buộc chèn pháo lên giá pháo kéo theo bánh pháo, khi pháo dừng chèn lập tức chèn ngay bánh pháo... Những sáng kiến đó đã góp phần làm cho cuộc kéo pháo vào thắng lợi. Tất cả những hình ảnh, âm thanh của cuộc hành quân kéo pháo vào chiếm lĩnh trận địa chiến đấu đã tạo nên một bức tranh thật hùng vĩ, một không khí náo nhiệt, hừng hực khí thế quyết tâm chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc, làm vang động núi rừng Điện viên. Chính trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt ấy, lại được tận mắt chứng kiến gương dũng cảm hy sinh cứu pháo của liệt sĩ Nguyễn Văn Chức, nhạc sĩ Hoàng Vân đã sáng tác bài hát “Hò kéo pháo" nổi tiếng. Hò dô ta nào, kéo pháo ta vượt qua đèo...
Hò dô ta nào, kéo pháo ta vượt qua núi...
Dốc núi cao cao nhưng lòng quyết tâm còn cao hơn núi
Vực sâu thăm thẳm vực nào sâu bằng chí căm thù...
Sắp tới rồi đồng chí Pháo binh ơi, vinh quang thay sức người lao động...".
Đến ngày 25 tháng 1 năm 1954, qua chín ngày đêm kéo pháo gian khổ nhưng với quyết tâm cao, hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ đã vượt mọi khó khăn lập kỳ tích đưa toàn bộ số pháo của Trung đoàn (24 khẩu) vào chiếm lĩnh trận địa an toàn bí mật. Giờ "G" được hoãn lại thêm 24 giờ nữa, đến 17 giờ ngày 26 tháng 1 năm 1954. Toàn Trung đoàn khẩn trương chuẩn bị chu đáo mọi mặt cho chiến đấu.
Nhưng tình hình thực tế ở mặt trận Điện Biên Phủ lại có sự thay đổi lớn. Do địch tăng cường lức lượng cho Điện Biên Phủ lên tới 16.200 tên, các hệ thống công sự phòng ngự của địch đã được củng cố vững chắc, nên Đảng ủy và Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định thay đổi cách đánh, chuyển từ phương châm “Đánh nhanh, giải quyết nhanh" sang phương châm “Đánh chắc, tiến chắc".
Vào hồi 11 giờ ngày 26 tháng 1 năm 1954, Trung đoàn nhận được lệnh của Bộ chỉ huy chiến dịch "… Tất cả lực lượng pháo binh kéo trở lại vị trí tập kết chiến dịch cũ trên đuờng 41 ngay trong đêm 26 tháng 1 năm 1954”. Lệnh đó đến với pháo binh đã gây xáo trộn lớn về tư tưởng, bao nhiêu mồ hôi và máu đã đổ xuống, bao nhiêu gian khổ đã vượt qua, đến giờ lập công lại phải kéo pháo ra... Trước tình hình đó, Đảng ủy Trung đoàn đã họp bàn chủ trương, biện pháp lãnh đạo và quán triệt nhiệm vụ mới cho đơn vị, các chi bộ kịp thời sinh hoạt lãnh đạo việc kéo pháo ra. Cán bộ, chiến sĩ thông suốt với nhiệm vụ mới, chấp hành nghiêm túc mệnh lệnh kéo pháo ra với quyết tâm tiêu diệt địch trong chiến dịch "Trần Đình" không thay đổi.
Chập tối 26 tháng 1 năm 1954, pháo binh đồng loạt rút khỏi trận địa. Cuộc vật lộn với đèo cao, dốc thẳm lại bắt đầu. Kéo pháo vào đã vô cùng gian khổ, giờ kéo pháo ra lại càng gian khổ hơn. Quân địch cũng đã phát hiện thấy hoạt động của ta trên đường kéo pháo ra nên chúng liên tục cho máy bay trinh sát oanh tạc, ban đêm pháo địch bắn cầm canh đã gây cho ta nhiều thương vong. Sau sáu ngày đêm dưới bom đạn của quân thù và nhiều gian nan thử thách, ngày 2 tháng 2 năm 1954, Trung đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ kéo pháo ra về vị trí tập kết. Ban chỉ huy kéo pháo đánh giá đây là một thắng lợi lớn, cho ta nhiều kinh nghiệm về cơ động pháo binh và tổ chức hiệp đồng, đồng thời cũng thể hiện tình đoàn kết keo sơn giữa bộ binh, công binh và pháo binh, tạo thuận lợi để hiệp đồng chiến đấu thắng lợi sau này.
Ngày 7 tháng 2 năm 1954 (tức mồng 5 Tết âm lịch), tại khu vực tập kết, cùng với các đơn vị pháo binh, Trung đoàn tổ chức ăn Tết cho bộ đội, một cái tết “Kéo pháo vào, kéo pháo ra đại thắng lợi". Cùng hôm đó mờ sáng dưới trời mưa phùn, tại khu rừng thưa gần ki-lô-mét 62 đường Tuần Giáo - Điện Biên, đông đảo cán bộ thuộc hai trung đoàn Tất thắng và Hương Thủy (Trung đoàn cao xạ 367) vui mừng đón Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đến thăm. Đại tướng nhiệt liệt biểu dương các đơn vị đã bảo vệ an toàn, nguyên vẹn 24 khẩu lựu pháo, 24 khẩu cao pháo, tài sản quý giá của quân đội ta. Về lý do tại sao phải kéo pháo ra, Đại tướng giải thích ngắn gọn: đó là để tiếp tục chuẩn bị lại cho đầy đủ hơn bảo đảm đánh chắc thắng. Sau khi chuyển lời chúc Tết của Bác Hồ, của Trung ương Đảng, Chính phủ đến cán bộ, chiến sĩ, Đại tướng căn dặn:
“… thời gian qua, các đồng chí đã làm tròn nhiệm vụ hành quân ra trận, các đồng chí đã làm tròn nhiệm vụ chuyển pháo đến vị trí tập kết, những nhiệm vụ đó coi như nhiệm vụ chiến đấu... Để giúp xây dựng Binh chủng, rèn luyện tác phong chiến đấu, hoàn thành nhiệm vụ sắp tới, tôi dặn các đồng chí mấy điểm:
-…
- Phải hiệp đồng chặt chẽ với bộ binh. Nhiệm vụ của trọng pháo và pháo cao xạ là cùng bộ binh hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt địch...
- Phải ra sức học tập kỹ thuật, bắn thật trúng đích (Không bắn thì thôi, nếu đã bắn thì nhất định phải trúng đích) làm cho quân địch phải khiếp sợ Pháo binh ta...".
Những lời căn dặn ân tình của Đại tướng nhân ngày đầu xuân năm ấy vừa là chỉ thị chiến đấu của pháo binh trong chiến dịch Điện viên Phủ, đồng thời là phương hướng để xây dựng và chiến đấu của Binh chủng Pháo binh sau này. Trung đoàn pháo binh Tất thắng tiếp tục quán triệt sâu sắc tình hình nhiệm vụ và triển khai làm công tác chuẩn bị mọi mặt cho cuộc chiến đấu mới.
Để đưa pháo từ vị trí tập kết vào chiếm lĩnh trận địa bắn, ngày 10 tháng 2 năm 1954, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định mở năm tuyến đường để dùng xe kéo pháo, đó là: đường đi Pú Hồng Mèo dài 8 ki-lô-mét, đường đi Tà Lựng dài 27 ki-lô-mét, đường đi từ bản Xin đến Bản Tấu dài 18 ki-lô-mét, đường đi từ Mường Phăng đến Na Nhan dài 7 ki-lô-mét, đường đi Nà Lời dài 3 ki-lô-mét.
Đây là những con đường quân sự làm gấp dựa vào các sườn núi bao quanh Điện Biên Phủ, nằm trong tầm hoạt động của pháo binh địch. Do đó, việc làm đường được đảm bảo hết sức bí mật, ngụy trang kín đáo theo kiểu “giàn mướp" nên địch không phát hiện được. Đồng thời, các công sự trận địa bắn cũng được triển khai thực hiện. Các chiến sĩ bộ binh, pháo binh, công binh lao động quên mình, suốt ngày đêm khoét núi đào hầm, lấy gỗ để xây dựng công sự trận địa kiên cố. Khối lượng đào công sự cho một hầm khẩu đội trung bình là 200 mét khối đất đá bao gồm cả hầm pháo, hầm đạn, hầm người và các giao thông hào. Để xây dựng một trận địa, cần tới 200 cán bộ, chiến sĩ lao động liên tục từ 10 đến 15 ngày đêm, gối đất nằm sương, ăn đói, nhịn khát, đo đạc hàng trăm mục tiêu, chọn và chuẩn bị công sự cho hàng chục đài quan sát, tổ chức mạng dây thông tin liên lạc dài hàng trăm ki-lô-mét nhằm chuẩn bị tốt cho sự toàn thắng của chiến dịch.
Ngày 4 tháng 3 năm 1954, toàn bộ hệ thống đường cơ động và công sự trận địa bắn đã hoàn thành. Theo lệnh của trên, Đại đội 806 của Trung đoàn được Đại đoàn công pháo chọn làm đơn vị đột phá thử nghiệm việc chiếm lĩnh trận địa bằng xe kéo pháo vào đêm 5 tháng 3 năm 1954. Để đảm bảo bí mật bất ngờ, Trung đoàn đã cử chiến sĩ trinh sát bí mật vào tận căn cứ Him Lam, ngoài này ta nổ máy kéo pháo thử, khi trinh sát báo cáo về không nghe thấy tiếng động cơ mới cho tiến hành kéo pháo. Từ mờ tối đến 23 giờ, bốn xe pháo của Đại đội 806 đã chiếm lĩnh trận địa xong, yếu tố bí mật bất ngờ được bảo đảm.
Ngày 6 tháng 3 năm 1954, Trung đoàn 45 bắt đầu cho các đơn vị tổ chức chiếm lĩnh trận địa. Sáu đại đội lựu pháo 105 của Trung đoàn được bố trí thành một vòng cung khoảng 30 ki-lô-mét từ Đông Nam đến Tây Bắc cánh đồng Mường Thanh, mỗi trận địa cách nhau từ bốn đến năm ki-lô-mét, chính diện của một trận địa từ 250 đến 400 mét. Hai đại đội 801, 802 ở dãy núi Tà Lèng, Đại đội 803 ở Bản Tấu, Đại đội 804 ở Nà Lời, Đại đội 806 ở cao điểm 684 Nà Lời, Đại đội 805 ở Phú Hồng Mèo. Để chiếm lĩnh trận địa được bí mật, chỉ được dùng xe kéo pháo vào cách trận địa ba ki-lô-mét, rồi dùng sức người tiếp tục đưa pháo vào công sự. Đến tối 9 tháng 3 năm 1954 toàn bộ pháo của Trung đoàn đã chiếm lĩnh xong, mọi công tác chuẩn bị chu đáo, sẵn sàng chờ lệnh nổ súng.
Nhiệm vụ chiến đấu của Trung đoàn được cấp trên giao rõ: Chế áp pháo binh địch, khống chế sân bay, phá hoại sở chỉ huy và kho tàng, chi viện cho bộ binh chiến đấu.
Đúng 17 giờ 5 phút ngày 13 tháng 3 năm 1954, cuộc tiến công lớn vào tập đoàn cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ bắt đầu. Đại đội 806 do đại đội trưởng Trần Kính chỉ huy đã vinh dự được bắn phát đạn đầu tiên vào Him Lam mở màn cho chiến dịch. Tiếp đó 234 khẩu pháo, cối các loại đồng loạt bắn vào sân bay, sở chỉ huy tập đoàn cứ điểm, các trận địa pháo binh địch, bắt đầu đợt tập kích hoả lực "Sấm rền" kéo dài một giờ đồng hồ. Ngay 15 phút đầu, hỏa lực pháo binh ta đã gây cho địch tổn thất nặng, tạo điều kiện cho bộ binh thực hành xung phong tiến công đánh chiếm cụm cứ điểm Him Lam.
Him Lam là một cụm cứ điểm kiên cố án ngữ đường Tuần Giáo và Điện Biên Phủ và là tiền đồn bảo vệ khu sân bay Mường Thanh, lực lượng địch ở đây gồm một tiểu đoàn Âu Phi do tên trung tá Giô-sê chỉ huy. Đại đội 804 và 806 có nhiệm vụ trực tiếp chi viện cho các trung đoàn bộ binh 141 và 209 (Đại đoàn 312) đánh vào cứ điểm này. Pháo binh ta đã bắn rất trúng vào các lô cốt hầm chỉ huy, khu trung tâm thông tin, làm cho bọn địch vô cùng khiếp sợ, tháo chạy tán loạn. Các chiến sĩ bộ binh, lần đầu tiên nhìn thấy pháo ta bắn trúng đồn địch, nhảy lên reo hò vỗ tay hoan hô. Bộ chỉ huy chiến dịch đã gửi điện khen Đại đội 806 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bắn mở màn.
Các đơn vị pháo khác của Trung đoàn cùng với pháo của mặt trận đồng loạt nổ súng vào phân khu trung tâm sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm. Các căn cứ địch bị chìm trong làn bão đạn. Kết quả đợt bắn đầu tiên của pháo binh ta vào Him Lam đã làm tên đồn trưởng Him Lam là Giô-sê và đồn phó Pác-di bị trúng đạn chết ngay tại chỗ.
Ngay trận đầu, bộ binh và pháo binh đã hiệp đồng chặt chẽ. Với hoả lực pháo binh mạnh, tinh thần chiến đấu dũng cảm của bộ đội nên đến 23 giờ 30 phút, toàn bộ cứ điểm Him Lam đã bị ta tiêu diệt. Kết quả, ta đã tiêu diệt 200 tên địch, bắt sống 286 tên lính Âu Phi và 144 tên ngụy, thu toàn bộ vũ khí trang bị. Các trận địa pháo ở Mường Thanh bị tê liệt, năm máy bay bị phá hủy, nhiều kho xăng dầu bị đốt cháy. Đại đội 803 và 806 đã bắn cháy hai máy bay đa-cô-ta, hai máy bay Hen-cát của địch. Với chiến công đó, Đại đội 803 và Đại đội 806 đã được thưởng Huân chương Quân công hạng ba.
Chiến thắng giòn giã của trận mở đầu đã cổ vũ mạnh mẽ khí thế và quyết tâm chiến đấu của cả mặt trận và của Trung đoàn.
Ngày hôm sau, 14 tháng 3, ta tiến công cứ điểm Độc Lập. Đại đội 803 lại tiếp tục bắn chi viện cho Trung đoàn 165 (Đại đoàn 312) và Trung đoàn 88 (Đại đoàn 308) đánh chiếm đồi Độc Lập. Với hơn 100 viên đạn, đại đội đã bắn chính xác vào các mục tiêu, sau đó chuyển sang bắn chế áp vào điểm đột phá khẩu, mở cửa cho bộ binh xung phong, rồi chuyển làn bắn sở chỉ huy và trận địa pháo binh địch. Đến 7 giờ ngày 15 tháng 3, quân ta đã chiếm được đồi Độc Lập, nhưng ngay sau đó địch lại huy động hai tiểu đoàn và bảy xe tăng cứu viện. Pháo ta được lệnh đánh và đã bắn trúng đội hình địch. Trận phản kích cứu viện của địch bị bẻ gấy. Trong trận này, năm đại đội lính Âu Phi đã bị tiêu diệt và bắt sống. Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi điện khen: "Trong cuộc chiến đấu thứ hai, pháo binh đã hoàn thành nhiệm vụ phối hợp với bộ binh một cách vẻ vang, chỉ trong vòng hai ngày, pháo binh đã làm cho địch kinh hoàng và trở thành một quân đội có kinh nghiệm, các đồng chí cần cô gắng hơn nữa và thu được nhiều thắng lợi mới".
Với thất bại liên tiếp, lại bị Đờ Cát-xtơ-ri khiển trách vì không hoàn thành nhiệm vụ dập tắt hoả lực của Việt Minh, tên quan năm Pi-rốt chỉ huy toàn bộ pháo binh của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã tự sát bằng một quả lựu đạn.
Mất Him Lam và Độc Lập, hai vị trí mạnh án ngữ vòng ngoài rất quan trọng của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, bọn địch rất hoang mang dao động. Ngày 17 tháng 3, ta tiến công Bản Kéo. Đại đội 803 bắn liên tiếp hai đợt hoả lực mạnh làm cho bọn địch vô cùng khiếp sợ, ba đại đội ngụy - Thái đã ra hàng, số còn lại bỏ chạy về Mường Thanh, bị Đại đội 802 bắn truy kích và bị bộ binh ta tiêu diệt gần hết. Uy lực mạnh mẽ của pháo binh ta đã làm cho địch bất ngờ và hoang mang khiếp sợ đến cao độ, chính bọn tù hàng binh ở Bản Kéo đã phải thú nhận rằng từ tên quan ba chỉ huy đến bọn cai đội và binh lính đều run sợ trước hoả lực của pháo binh ta. Tên quan hai Mi-sen đã phải tự tay cầm búa phá một khẩu đại bác 57 mm và một khẩu 12,7 mm không cho bắn vì sợ "Việt Minh bắn đại bác thì chết hết".
Trong thời gian này, các đơn vị của Trung đoàn còn bắn vào các sân bay của địch, Đại đội 802 đã bắn cháy bốn máy bay Hen-cát, một xe tăng; Đại đội 803 bắn cháy một máy bay đa-cô-ta, một máy bay "bà già", phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch. Như vậy, chỉ trong bốn ngày đầu chiến dịch, tuyến phòng thủ phía bắc của địch đã bị tiêu diệt hoàn toàn, mở toang cánh cửa cho quân ta tiến đánh vào khu trung tâm. Đợt một của chiến dịch đã kết thúc thắng lợi, pháo binh ta bước đầu đã thực hiện được lời căn dặn của Đại tướng Tổng Tư lệnh: “... Làm cho kẻ địch khiếp sợ pháo binh Việt Nam". Bộ đội Pháo binh vinh dự được đón nhận cờ "Quyết chiến, quyết thắng" của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đại đoàn công pháo quyết định trao vinh dự đó cho Trung đoàn pháo binh 45 và lễ đón nhận cờ đã được tổ chức ngay trên trận địa của Đại đội 806.
Bước vào đợt hai của chiến dịch, theo yêu cầu của Bộ chỉ huy chiến dịch, pháo binh nhanh chóng điều chỉnh đội hình và tăng thêm lực lượng để chi viện cho bộ binh đánh vào các cứ điểm, chia cắt từng khu vực, thắt chặt vòng vây, khống chế đường không, chế áp các trận địa pháo của địch ở Mường Thanh, Hồng Cúm, chi viện cho bộ binh đánh địch phản kích.
Đợt tiến công thứ hai của chiến dịch mở đầu bằng việc đánh chiếm các cứ điểm án ngữ phía Đông của khu trung tâm Mường Thanh gồm: A1, C1, C4, D1 và E1; kiềm chế pháo binh địch ở Mường Thanh, Hồng Cúm.
Đội hình chiến đấu của Trung đoàn có sự điều chỉnh mới: di chuyển, xây dựng trận địa lên phía trước. Đại đội 801, 802 (Tiểu đoàn 632) rời trận địa ở Tà Long sang phía tây sau Bản Kéo. Đại đội 804 tiểu đoàn 954) ở cao điểm 687 di chuyển lên Him Lam. Đại đội 805 di chuyển từ đỉnh Phú Hồng Mèo xuống chân phía nam vào gần phía Hồng Cúm 2 ki-lô-mét. Đài chỉ huy pháo binh được xây dựng ở Long Bua, Bản Kéo.
Lúc 17 giờ ngày 30 tháng 3, pháo binh ta bắn chuẩn bị 30 phút vào các cao điểm ở phía đông và sở chỉ huy Đờ Cát-xtơ-ri. Trung đoàn 45 đồng loạt nã pháo vào các khu vực đồi D, đồi E, bắn trúng sở chỉ huy, phá hủy nhiều công sự và hoả điểm, chi viện cho bộ binh xung phong diệt địch. Đại đội 801 bắn chi viện cho Đại đoàn 316 đánh chiếm đồi A1 và C1. Đại đội 806 cùng một lúc phải thực hiện hai nhiệm vụ: Bắn chi viện cho Trung đoàn 209 đánh chiếm đồi D, chế áp trận địa pháo binh địch số 307, các chiến sĩ thông tin đã truyền đạt khẩu lệnh sửa bắn rất chính xác.
Ở khu vực đồi A1, C1, trận đánh diễn ra rất quyết liệt. Địch dựa vào công sự vững chắc ngoan cố chống trả quyết liệt. Ta kiên quyết tiến công đánh chiếm cho bằng được. Hai bên tranh chấp nhau từng tấc đất, từng mỏm đồi, pháo ta bắn chi viện cho bộ binh đánh từng điểm cao một và cuối cùng cả hai vị trí trên, ta và địch mỗi bên chiếm một nửa.
Ở hướng điểm cao 105 và 106 bắc sân bay Mường Thanh, các cuộc chiến đấu cũng diễn ra vô cùng ác liệt Đại đội 802 và 803 lần lượt bắn chi viện cho Trung đoàn 36 (Đại đoàn 308) và Trung đoàn 165 (Đại đoàn 312) đánh địch ở điểm cao 106. Ngày 14 tháng 4, ba đại đội 801, 804 và 806 lại tập kích hoả lực dồn dập khóa chặt các trận địa pháo của địch. Tại khu vực điểm cao 105, bộ binh ta ngày càng khép chặt vòng vây, cắt đứt đường tiếp tế trên bộ của địch. Đại đội 802 mỗi ngày bắn dồn dập hàng chục viên đạn vào công sự địch, làm cho chúng không chịu nổi trước hoả lực của pháo binh ta và có ý định tháo chạy. Địch ở Mường Thanh điều quân đến tăng viện nhưng lại bị pháo binh ta bắn chặn, tạo điều kiện cho bộ binh của Đại đoàn 312 xung phong tiêu diệt hơn 60 tên, bắn cháy 1 xe tăng. Đến 8 giờ sáng ngày 18 tháng 4, ta đã làm chủ hoàn toàn điểm cao 105.
Tại điểm cao 206, Trung đoàn 36 (Đại đoàn 308) vây ép mạnh quân địch. Lúc 12 giờ đêm 22 tháng 4, Đại đội 803 nã pháo dồn dập vào cứ điểm này, sau đó bắn yểm trợ cho bộ binh tiến công đánh sâu vào căn cứ địch, bắt sống 98 tên (trong đó có một tên quan hai) rồi phát triển chiếm sân bay, tạo thành thế bao vây chia cắt địch ở lòng chảo Điện Biên. Mất sân bay, tiếp tế bằng đường không của địch bị cắt đứt. Tướng Đờ Cát xtơ ri hốt hoảng điện về Hà Nội: "Chiếc dạ dày của Điện Biên Phủ đã bị thủng".
Để cứu vãn nguy cơ bị tiêu diệt, địch tung quân ra phản kích hòng chiếm lại các vị trí đã mất. Sáng sớm ngày 23 tháng 4, chúng huy động bảy đại đội cùng với bốn xe tăng để phản kích lại quân ta. Đúng như kế hoạch đã dự kiến và được chuẩn bị trước, ba đại đội lựu pháo 802, 803, 806 cùng với một số đơn vị pháo của mặt trận đã bắn liên tục trong gần một ngày vào các mũi phản kích của địch, cùng với bộ binh đã đánh tan ba đợt phản kích lớn, tiêu diệt gần hai tiểu đoàn cơ động và một số xe tăng, làm cho địch từ đó về sau không dám tung lực lượng ra phản kích lớn và phải chuyển vào cố thủ phòng ngự.
Vừa chi viện cho bộ binh đánh địch, Trung đoàn còn dùng pháo bắn kiềm chế sân bay, tiêu diệt nhiều sinh lực, phá hủy nhiều kho tàng, bắn cháy một trực thăng và ba máy bay "bà già", làm cho địch ngày đêm căng thẳng.
Trong quá trình chiến đấu, để nghi binh địch, bảo vệ trận địa, Trung đoàn đã tổ chức nhiều trận địa giả, thu hút hàng chục tấn bom, hàng ngàn viên đạn đại bác của địch, tạo điều kiện thuận lợi cho các trận địa chính chiến đấu. Các chiến sĩ thông tin thường xuyên giữ vững liên lạc, bất chấp đạn bom nguy hiểm đảm bảo thông suốt trong quá trình chỉ huy chiến đấu. Có đồng chí đã anh dũng hy sinh ngay bên đường dây đang sửa.
Đợt hai của chiến dịch kéo dài hơn một tháng trời, cuộc chiến đấu giữa ta và địch rất ác liệt để giành giật từng tấc đất, thước hào. Chính trong hoàn cảnh đó đã xuất hiện tư tưởng hữu khuynh tiêu cực trong bộ đội. Bộ chỉ huy mặt trận đã mở một đợt giáo dục chính trị tư tưởng, đấu tranh để khắc phục những tư tưởng tiêu cực, nâng cao sức chiến đấu của bộ đội, củng cố quyết tâm chiến đấu tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Việc tiếp tế đạn pháo từ hậu phương cũng gặp khó khăn nên việc sử dụng đạn phải rất tiết kiệm, hạn chế. Có trường hợp cấp trên phải quyết định bắn đến từng viên đạn. Để góp phần khắc phục khó khăn đó, một phong trào thi đua đoạt dù tiếp tế đạn pháo của địch được phát động trên toàn mặt trận. Máy bay địch bị phòng không ta khống chế về tầm bay nên hầu hết dù bị lạc trong trận địa của quân ta. Các chiến sĩ bộ binh đoạt được đạn pháo của địch đã kịp thời chuyển tới các trận địa pháo.
Trong quá trình chiến đấu, các đại đội pháo của Trung đoàn đã có nhiều sáng kiến cải tiến để chỉ huy bắn có hiệu quả, như Đại đội 806 đã vận dụng rộng rãi cách chuẩn bị phần tử vào mục tiêu mới bằng phương pháp chuyển di là cách bắn chưa được huấn luyện thời bấy giờ. Khi bắn các mục tiêu, đạn thường lệch khỏi đường quan mục, thông thường người chỉ huy sửa hướng trước đưa đạn vào đường quan mục, sau đó mới sửa tầm theo quy tắc bắn để đưa đạn vào mục tiêu, thì nay sửa trực tiếp cả tầm và hướng đưa đạn vào mục tiêu ngay. Vì vậy khi bắn mỗi mục tiêu dù cũ hay mới, cố định hay vận động, thường chỉ bắn từ năm đến bảy phát, cá biệt có khi chỉ ba phát đã có đạn trúng.
Cuộc tiến công đánh chiếm các cứ điểm phía Đông của khu trung tâm Mường Thanh diễn ra quyết liệt, ta vừa chiếm xong, địch lập tức phản kích tái chiếm, giành đi giật lại nhiều lần. Lúc này là vào cuối tháng 4 năm 1954, địch vẫn giữ được hai phần ba các cứ điểm A1, C1, C2, nhưng tinh thần binh lính địch thì đã bị rêu rã. Tình hình quân Pháp ở Điện Biên Phủ đã trở nên vô cùng nguy khốn. Na-va và Cô-nhi vạch “Kế hoạch chim ưng" hòng phá vây, rút chạy sang Thượng Lào.
Trước tình hình đó, Bộ chỉ huy mặt trận phát động một đợt thi đua mới bắt đầu từ ngày 1 tháng 5 đến ngày 19 tháng 5 để lập thành tích chào mừng ngày Quốc tế lao động và mừng ngày sinh của Bác Hồ. Đợt tiến công thứ ba của quân ta bắt đầu.
Chiều 1 tháng 5, các đơn vị của Trung đoàn bắt đầu nổ súng. Đại đội 804 bắn vào đồi C1. Đại đội 806 bắn vào mục tiêu quân địch ở điểm cao 505. Đại đội 802 bắn vào mục tiêu 811. Được pháo binh chi viện, bộ binh ta xung phong nhanh chóng đánh chiếm các vị trí của địch, mặc dù chúng cố gắng mở những cuộc phản xung phong nhỏ nhưng đều bị ta bẻ gầy. Vòng vây của quân ta ngày càng xiết chặt, giờ cáo chung của quân địch đã đến gần.
Bộ chỉ huy mặt trận quyết định hoàn thành nhiệm vụ đợt tiến công thứ ba, chuẩn bị đầy đủ điều kiện chuyển sang tổng công kích.
Mệnh lệnh tác chiến của Bộ chỉ huy mặt trận ngày 5 tháng 5 quy định: "Đúng 20 giờ 30 phút ngày 6 tháng 5, toàn mặt trận bắt đầu nổ súng, lấy tiếng nổ của khối bộc phá ta cài đặt trong lòng hầm ngầm cứ điểm A1 làm hiệu lệnh tiến công".
Vào lúc 18 giờ ngày 6 tháng 5, cán bộ chiến sĩ nhận được lệnh động viên của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Kiên quyết tiêu diệt cứ điểm Điện Biên Phủ để lập công mừng sinh nhật Bác”. Không khí thi đua giết giặc lập công sôi động hẳn lên.
Các đại đội pháo của Trung đoàn được phân công bắn phá hoại các cứ điểm A1, C1, 506, 507 ở phía đông; Căng Na, Nà Noọng, 310 ở phía tây; chuẩn bị chi viện cho bộ binh tiến công tiêu diệt địch. Đại đội 806 bắn đạn khói vào cầu Mường Thanh để chỉ mục tiêu cho pháo hoả tiễn.
Lúc 20 giờ 30 phút ngày 6 tháng 5, khối bộc phá gần một tấn thuốc nổ đặt trong hầm ngầm cứ điểm A1 nổ vang. Lệnh tiến công bắt đầu. Trung đoàn pháo binh 45 tổ chức một đợt tập kích hoả lực trên toàn mặt trận. Pháo ta bắn vô cùng mãnh liệt, vang động cả núi rừng.
Đại đội 801 bắn chi viện cho bộ binh ở đồi A1. Đại đội 804 bắn vào Châu Ún. Đại đội 806 bắn vào cứ điểm 105, sau đó chuyển làn bắn truy kích quân địch rút chạy từ cứ điểm C2 về Mường Thanh, buộc 600 quân địch phải hạ súng đầu hàng.
Sáng ngày 7 tháng 5, bộ binh ta tiến vào khu trung tâm, quân ta đi đến đâu, địch kéo cờ trắng ra hàng tới đó. Địch rút chạy từ tả ngạn sông Nậm Rốm về Mường Thanh, Đại đội 806 và Đại đội 804 được lệnh bắn chặn địch trước cầu Mường Thanh.
15 giờ, mệnh lệnh tổng công kích của Bộ chỉ huy mặt trận được truyền xuống tất cả các đơn vị. Pháo binh phối hợp với bộ binh dồn dập tiến công, tiếng hô xung phong và tiếng reo hò vang dậy, các mũi tiến công của bộ binh ào ào như vũ bão vào các vị trí còn lại của địch, quân ta nhanh chóng làm chủ toàn bộ chiến trường.
Vào lúc 1 7 giờ 30 phút, tướng Đờ Cát-xtơ-ri cùng toàn thể Bộ tham mưu quân Pháp ở cứ điểm Điện Biên Phủ đã bị quân ta bắt sống. Khoảng một vạn quân địch còn lại đều bị bắt làm tù binh. Lá cờ "Quyết chiến, quyết thắng" của Chủ tịch Hồ Chí Minh trao cho bộ đội trước khi bước vào chiến dịch tung bay trên nóc hầm của tướng giặc, đánh dấu giờ phút vinh quang của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.
Qua 55 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, Trung đoàn pháo binh 45 đã cùng với các lực lượng của mặt trận tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch; bắn rơi và phá hủy 62 máy bay, nhiều xe tăng, 39 khẩu pháo các loại, thu hồi 28 khẩu pháo, 3 xe tăng, 5.915 súng các loại, 64 xe quân sự... cùng nhiều phương tiện chiến tranh khác của địch.
Trong Lễ duyệt binh mừng chiến thắng Điện Biên Phủ tại Mường Phăng ngày 13 tháng 5 năm 1954, Đại đội 806 của Trung đoàn vinh dự được bắn những loạt đạn chào mừng và cử đồng chí Bạch Ngọc Giáp, lúc đó là trung đội trưởng Trung đội chỉ huy Đại đội 806 đại diện cho bộ đội pháo binh về Việt Bắc báo cáo thành tích với Trung ương Đảng và chúc thọ Bác Hồ.
Như vậy, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Trung đoàn pháo binh 45 đã tham gia ba đợt công kích lớn vào các căn cứ Him Lam, sân bay Mường Thanh, đồi Độc Lập và tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ; ngoài ra còn tham gia nhiều trận bắn chế áp, kiềm chế địch để bộ binh phát triển chiến đấu. Trong chiến dịch này, Đại đội 806 vinh dự được bắn phát đạn đầu tiên trong trận tiến công địch phòng ngự công sự vững chắc tại Him Lam vào hồi 17 giờ 5 phút ngày 13 tháng 3 năm 1954 mở màn cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Tham gia cùng với Đại đội 806 còn có các đại đội 801, 802, 803, 804 trực tiếp chi viện cho các đại đoàn 308, 312, 316 đánh địch.
Kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ, với thành tích chiến đấu xuất sắc, Trung đoàn vinh dự được nhận cờ “Quyết chiến, quyết thắng", giải thưởng luân lưu của Chủ tịch Hồ Chí Minh (Cờ tặng cho Đại đoàn công pháo 351. Do lập công xuất sắc, Trung đoàn 45 được Đại đoàn giao giữ cờ luân lưu). Có năm đại đội được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba, 10 Huân chương Chiến công và nhiều cán bộ, chiến sĩ được tặng thưởng Huân chương các loại.
Cuộc chiến đấu đầy mưu trí, sáng tạo, dũng cảm, ngoan cường và những chiến công của Trung đoàn đã minh chứng cho sự trưởng thành và tiến bộ vượt bậc của quân đội ta, trong đó có Bộ đội Pháo binh trên các phương diện về xây dựng nhân tố chính trị tinh thần; xây dựng, bố trí lực lượng và nghệ thuật quân sự Đồng thời, Trung đoàn đã rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm quý về xây dựng và chiến đấu, như: Bài học về coi trọng giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, bám sát diễn biến chiến đấu của bộ đội, xây dựng và thường xuyên củng cố ý chí quyết tâm chiến đấu cao, khắc phục khó khăn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Bài học về xây dựng lực lượng tăng cường vũ khí trang bị kỹ thuật, hoàn thiện tổ chức biên chế, huấn luyện cán bộ, chiến sĩ làm chủ vũ khí trang bị mới. Bài học về bố trí lực lượng pháo binh trong chiến đấu, giữ được yếu tố bất ngờ để sử dụng vào những trận đánh và thời cơ quyết định, gây cho địch những tổn thất nặng nề và nhanh chóng suy sụp tinh thần chiến đấu. Bài học về nghệ thuật tác chiến pháo binh như nghi binh làm trận địa giả để lừa địch, hiệp đồng chiến đấu với bộ binh, đưa pháo vào gần mục tiêu để bắn thẳng, bắn cấp tập hiệu lực không qua bắn thử. Bài học về tranh thủ huấn luyện trong quá trình chiến đấu; chuẩn bị kỹ thuật cho chiến đấu pháo binh phải toàn diện, tỷ mỷ, chính xác... nhằm nâng cao uy lực và hiệu quả chiến đấu của pháo binh như nhận xét của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Pháo binh ta tuy nhỏ nhưng đã có một tác dụng lớn trong chiến dịch Điện Biên Phủ".
Sau ngày chiến thắng ở Điện Biên Phủ, Trung đoàn 45 trở về căn cứ ở Tuyên Quang và tổ chức Đại hội mừng công. Trong báo cáo tổng kết đọc tại lễ mừng công của Trung đoàn có đoạn nêu rõ. “Vượt qua nhũng thử thách gay go, ác liệt, cán bộ, chiến sĩ một lòng một dạ trung thành với sự nghiệp cách mạng, xây dựng ý chí chiến đấu cao; đánh giỏi, bắn trúng, đánh liên tục, giành thắng lợi giòn giã. Đoàn kết hiệp đồng tốt, chi viện đắc lực cho bộ binh và các đơn vị bạn đánh thắng. Có tinh thần yêu quý giữ gìn bảo quản cơ sở vật chất vũ khí, khí tài. Tô thắm thêm truyền thống "Tất thắng" mà Bác Hồ đã khen tặng, trưởng thành lên một bước mới về trình độ hiệp đồng tác chiến quân binh chủng, về khả năng cơ động và trình độ kỹ thuật chiến thuật pháo binh”.
Qua thử thách trong khói lửa của chiến tranh ác liệt với ý chí quyết thắng, dũng cảm kiên cường bản chất cách mạng của cán bộ, chiến sĩ trong Trung đoàn lại toả sáng, tô thắm truyền thống “Đoàn kết, tất thắng, đánh giỏi, bắn trúng" của Trung đoàn.
Trích: Lịch sử Đoàn Pháo binh Tất Thắng-Lữ đoàn pháo binh 45 (1945-2005)
“Bầy chuột sông Nậm Rốm” - les rats de la Nam Youn
“Bầy chuột sông Nậm Rốm” - les rats de la Nam Youn là danh từ mà báo chí Pháp đặt cho những người lính của Pháp đã bỏ trốn khỏi căn cứ Điện Biên Phủ và sống lay lắt bên bờ sông, ngoài hàng rào của căn cứ. Họ không thể trốn đi xa hơn vì bên ngoài còn có vòng vây của quân đội Việt Nam.
Những người bị gọi là “chuột” phải sống lẩn lút, tự đào hố tránh bom đạn bên bờ sông. Thức ăn của họ là do săn nhặt hoặc đánh cắp các dù tiếp tế của quân đội Pháp cho Điện Biên Phủ bị rơi ra ngoài vòng rào cứ điểm. Các dù này được thả vào ban đêm nhưng quân trong cứ điểm phải chờ tới sáng mới mang xe và người ra nhặt.
Trong đêm những người trốn tránh đã đến thăm các kiện hàng trước khi quân Pháp ra nhặt và họ lựa những kiện hàng có thức ăn khuân về nơi bí mật để cất giấu ăn dần, chia sẻ với những nạn nhân mới gia nhập đội quân. Đội quân đào ngũ này ước tính có khoảng một nghìn người, gồm người Thái, người Việt, người Bắc Phi, người Ả Rập, người Châu Âu.
Trích hồi ký “Thời điểm của những sự thật” (Le temps des vérités) của Henri Navarre, đoạn những ngày sau đợt tấn công đầu tiên của Quân đội Việt Nam vào Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (từ ngày 13/3 đến 17/3/1954).
“Trong những ngày tiếp theo, có nhiều biếu hiện hoang mang dao động trong hàng ngũ chúng tôi ở Điện Biên Phủ.
Đại tá chỉ huy pháo binh của tập đoàn cứ điểm, một sỹ quan cao cấp rất thạo việc và tự trọng, thấy những dự đoán về sử dụng pháo binh của mình bỗng đổ vỡ, và không thể chịu đựng được sự nhục nhã mà ông cho là thuộc phần trách nhiệm của mình, đã tự vẫn.
Nhiều vụ đào ngũ đã xảy ra ở nhiều đơn vị: Bắc Phi, Việt Nam và đặc biệt là Thái. Những kẻ đào ngũ trốn vào những căn hầm tự đào lấy ở dọc sông Nậm Rốm. Đến cuối trận đánh, nơi ấy đã biến thành một "khu dân cư" với vài trăm "cư dân", sống bằng những thứ cướp đoạt được. Người ta gọi chúng là "những con chuột sông Nậm Rốm".
Trong những đơn vị chất lượng trung bình hoặc chỉ huy lỏng lẻo, nhất là những đơn vị đông lính Việt Nam, tinh thần tỏ ra tồi tệ. Chỉ trong ít ngày, hai tiếu đoàn Thái đã bỏ chạy. Ở Isabelle (tức Phân khu Nam - Hồng Cúm) vào cuối trận đánh, xảy ra hiện tượng kháng lệnh ở ngay một tiểu đoàn Algeri. Sau nhờ sự kiên quyết kết hợp với sự mềm dẻo của chỉ huy cụm cứ điểm là Trung tá Lalande, mà sự việc đã được giải quyết và không gây hậu quả nghiêm trọng, song hiện tượng xấu này đã nhiều người biết.”