Có lẽ chúng ta phải đi ngược một chút về
CON ĐƯỜNG DẪN TỚI THẾ CHIẾN I
Thế chiến I một cuộc chiến mà mọi người khi đó kỳ vọng nói: Một cuộc chiến để chấm dứt mọi cuộc chiến.
Nhưng cuối cùng nó không chấm dứt chiến tranh mà lại là khởi đầu cho cuộc thế chiến tiếp theo
Маруся идет в школу
Dưới đây là bản đồ trước thế chiến I. Có thể thấy không có mấy nước Baltic, Ukraina và Balan nằm trong Đế chế Nga
Dưới đây là bản đồ hình thành các nước sau thế chiến I để các Cụ dễ so sánh
Маруся идет в школу
Dưới đây là bản đồ trước thế chiến I. Có thể thấy không có mấy nước Baltic, Ukraina và Balan nằm trong Đế chế Nga
Dưới đây là bản đồ hình thành các nước sau thế chiến I để các Cụ dễ so sánh
Hoá ra Tiệp Khắc là một phần của Áo từ hồi còn Đế chế Phổ (Đức Áo Hung) à cụ, toàn nước khá lớn và lớn, thảo nào đội TQ nó quy kết rằng Anh và Mỹ là nhóm Anglo Saxon là những nước biển đảo luôn muốn gây hỗn loạn ở các nước lục địa, dựa vào cách trở của đại dương mang rắc rối đến lục địa và chia nhỏ các nước trong lục địa ra để trục lợi, mỗi lần tạo được chiến tranh quy mô lớn đều khiến nhiều nước tan thành các nước nhỏ khác.
Hoá ra Tiệp Khắc là một phần của Áo từ hồi còn Đế chế Phổ (Đức Áo Hung) à cụ,
Lịch sử Tiệp khắc được tính từ 1918, là phần đất của Áo- Hung được chia ra sau khi Đưc-Áo-Hung thua ở thế chiến I
Маруся идет в школу
Trước khi chiến tranh thế giới I nổ ra, Châu Âu sống trong một xã hội rất lạc quan về một tương lai rực rỡ, hướng tới một "Thiên đường" trên trái đất.
Thế chiến I không những đã tiêu diệt hàng triệu sinh mạng mà nó đồng thời tiêu diệt luôn ý tưởng lạc quan về một xã hội cấp tiến ở Châu Âu.
Thế chiến I có nguyên nhân sâu xa từ sự bất đồng giữa các liên minh ở Châu Âu.
Năm 1870 sự cân bằng về quyền lực ở Châu Âu bắt đầu chao đảo khi liên minh Phổ chiến thắng trong cuộc chiến Phổ-Pháp. Lo sợ khối liên minh Pháp sẽ phục thù, Phổ bắt đầu tìm cách cô lập Pháp.
Năm 1879 Đức ủng hộ Áo trong cuộc chiến với Nga trong việc Nga bành trướng ở vùng Balkans
Năm 1991 Ý tham gia cùng với Đức-Áo để tạo nên một liên minh tay ba với tham vọng củng cố quyền lực của Ý trong khu vực Địa Trung Hải và ở Châu Phi
BẢN ĐỒ CÁC LIÊN MINH
Châu Âu được chia thành hai nhóm quyền lực chính. Nhóm Đức-Áo-Ý đối đầu nhóm Pháp-Nga-ANH
Маруся идет в школу
Sơ đồ dưới đây cho thấy sự nhằng nhịt của các mối quan hệ giữa các nước.
Hỗ trợ, hiệp ước, liên minh. Giờ lại có thêm Thổ nhĩ kỳ như là một cực thứ 3. Sự xuất hiện của Thổ nhĩ ký không khác gì vai trò của Thổ hiện nay.
Ngay cả mối quan hệ Nga Serbia cũng đã xuất hiện từ thời đó thể hiện bằng sự trợ giúp của Nga cho Serbia
Маруся идет в школу
Các nước bắt đầu chạy đua vũ trang để đảm bảo an ninh cho mình và như là một sự đe dọa tới đối phương. Việc này càng làm cho tình hình ngày càng trở nên căn thẳng hơn.
Thế chiến I chính là sự trở mình của một thế giới cũ thành thế giới mới.
Hình ảnh dưới đây là một kỵ Binh Đức, cưỡi ngữa, mang giáo dài và đeo mặt nạ phòng độc. Một sự kết hợp giữa cũ và mới
Маруся идет в школу
Cá nhân cáu là người không thích môn lịch sử bởi chỉ thấy từ nó những sự kiện khô khan.
Việc cháu có trong tay những tư liệu về cuộc thế chiến I và thế chiến II là đi tìm câu trả lời cho một Cụ trên này về hiệp ước tương trợ giữa Tiệp và Liên xô.
Nhưng càng đọc các tư liệu về thế chiến I và II càng thấy giật mình vì thấy các vấn đề nó tuy cũ mà không cũ. Các sự kiện, các vấn đề có vẻ được lập lại tại thời điểm này với một cái áo mới, sự tham gia của các nước có thể thay đổi, các bên thay đổ (phe, phái)i, nhưng quy mô thì lớn hơn rất nhiều. Cho nên nhiều Cụ ủng hộ thuyết về thế chiến III là có cái lý của nó.
Маруся идет в школу
Những con người có ảnh hưởng lớn tới Thế chiến I
HOẢNG ĐẾ ĐỨC (1888-1918) WILLHELM II
-Ông là người mong muốn nước Đức "Có một vị thế trong ánh dương (Place in the sun), một kiểu quyển lục Biển như Đế quốc Anh"
-Đối thủ của ông là Otto Eduard Leopold von Bismarck-Schönhausen (BISMARCK), một người người mong muốn nước Đức chỉ cần có quyền lực trên Lục địa (để mặc cho Anh quốc có quyền lực như một đế quốc Biển).
- Năm 1890 Ông sa thải Bismarck và đây chính là thời điểm mà nước Đức chuyển từ xu hướng chính trị hòa bình sang quyền lực của quân đội.
Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (Kaiser) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng thời cũng là vị Quốc vương cuối cùng của Vương quốc Phổ, trị vì từ năm 1888 cho đến năm 1918. Ông là một trong những nhân vật chủ chốt trong lịch sử châu Âu vào thế kỷ 20, và những chính sách của ông đóng vai trò quyết định đối với sự bùng nổ của cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.[1] Thuở thiếu thời, ông lâm vào sự mâu thuẫn gay gắt đối với song thân của ông, và đặc biệt là mẹ của ông - Công chúa Victoria, con gái cả của Nữ hoàng Victoria nước Anh.[2] Ông lên nối ngôi lúc đã gần 30 tuổi và hai năm sau đó ông sa thải Thủ tướng Otto von Bismarck do bất đồng với chính sách ngoại giao khôn khéo của Bismarck.[2] Wilhelm II thực hiện chính sách cô lập nước Đức, tạo điều kiện cho Nga liên minh với Pháp vào năm 1894.[3] Ông là người có chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa dân tộc cùng với mong muốn xây dựng lực lượng hải quân mạnh nhằm đưa nước Đức trở thành cường quốc hàng đầu thế giới.[4]
Wilhelm II là một trong những danh nhân lịch sử có sức hút lớn nhất đối với hậu thế.[5] Là người có tính cách mâu thuẫn, ông mong muốn trở thành một vị vua - chiến binh lỗi lạc nhưng lại yếu ớt. Thừa hưởng Đế quốc Đức hùng mạnh, ông quyết tâm mở mang nền văn hóa, nghệ thuật, nhạc kịch và kiến trúc, với không ít thành công. Chính sách này khiến ông tự coi mình là vị "Hoàng đế hiếu hòa" (Friedenskaiser). Tuy không thích người Do Thái nhưng vị Hoàng đế khoan dung một nhóm doanh nghiệp Do Thái bởi lẽ ông nhận thấy tầm quan trọng của họ.[6] Với tính khí khác thường, ông thường nói thế này nhưng lại làm thế khác.[7] Ông cũng khuếch trương xây dựng lực lượng Hải quân Đức, và cuộc chạy đua hải quân giữa Đế quốc Đức và Đế quốc Anh chính là một nhân tố quan trọng dẫn đến quan hệ ngoại giao tồi tệ giữa chính phủ 2 nước.[8] Cho đến năm 1914, nước Đức đã có nền kinh tế vượt trội so với Anh, và lớn mạnh hơn bất kỳ một liệt cường nào khác - một thành tựu lẫy lừng của triều đại Wilhelm II. Trong khi ấy chính sách cô lập nước Đức của ông gặp một hậu quả là nước Anh liên minh với Nga và Pháp, mặc dù Đế quốc Áo-Hung ủng hộ Đức.[6] Wilhelm II cũng thiết lập liên minh với Đế quốc Ottoman của người Thổ Nhĩ Kỳ.[9]
Dù có người tố cáo ông là kẻ gây ra cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, thực chất ông đã không ít lần ngăn cản sự bùng nổ và tiếp diễn của cuộc chiến này kể từ khi xảy ra những mầm mống của nó, và cả lúc nó đang tiếp diễn.[8] Trong chiến tranh, vai trò Tổng tư lệnh tối cao của ông chỉ còn là danh nghĩa, bị các tướng lĩnh Đức chi phối.[10] Do sự phối hợp kém của đồng minh và những sai lầm về chiến lược quân sự của mình, các chiến dịch của Đức nhằm đánh nhanh, thắng nhanh đều phá sản. Năm 1918, quân Anh, Pháp, Mỹ phản công trên khắp mặt trận, đồng thời cách mạng nổ ra chống lại chế độ Wilhelm.[11][12] Wilhelm buộc phải thoái vị vào năm 1918 và sang Hà Lan tị nạn. Kể từ năm 1920, ông sinh sống tại nhà riêng ở Doorn trên đất khách quê người. Khi ấy, ông vẫn luôn khao khát về nước khôi phục nền quân chủ, nhưng khi nhận thấy Đức Quốc xã không muốn điều này xảy ra, ông cắt đứt quan hệ với chính phủ Đức Quốc xã vào năm 1934, và ông vẫn an trí tại Hà Lan cho đến khi qua đời vào năm 1941 trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai.[7]
BISMARCK
Otto Eduard Leopold von Bismarck-Schönhausen[2] (1 tháng 4 năm 1815 – 30 tháng 7 năm 1898) là một chính trị gia người Đức, ông là người lãnh đạo nước Đức và châu Âu từ năm 1862 đến năm 1890, khi bị vua Wilhelm II ép từ chức. Năm 1871, sau chiến thắng các cuộc chiến tranh với Đan Mạch (1864), Áo (1866) và Pháp (1870 – 1871), ông đã thống nhất các bang Đức (ngoại trừ Đế quốc Áo) thành một Đế quốc Đức hùng mạnh dưới sự lãnh đạo của Phổ. Sau đó, ông xây dựng cục diện cân bằng quyền lực, duy trì thành công nền hòa bình ở châu Âu từ năm 1871 đến 1914. Trong cuốn tiểu sử Bismarck: A Life, sử gia Hoa Kỳ Jonathan Steinberg nhìn nhận ông là "thiên tài chính trị thế kỷ 19"[3].
Trên cương vị là Thủ tướng Phổ từ năm 1862 tới năm 1890, Bismarck đã khơi mào các cuộc chiến đưa thế lực của Phổ vượt lên Áo và Pháp; đồng thời biến Phổ thành nhà nước lãnh đạo, dẫn dắt các nhà nước khác thuộc dân tộc Đức. Thắng lợi của Phổ trong các chiến tranh do ông phát động cũng đè bẹp sự phản kháng của phe tự do trong Quốc hội Phổ đối với chính sách mở rộng quân đội của vua Wilhelm I[4]. Vào năm 1867, ông cũng trở thành Thủ tướng Liên bang Bắc Đức. Otto von Bismarck trở thành vị Thủ tướng đầu tiên của một nước Đức thống nhất sau Hiệp ước Versailles (1871) và chèo lái hầu hết các vấn đề chính sự của đất nước cho đến khi bị tân Hoàng đế Wilhelm II sa thải vào năm 1890.
Đường lối ngoại giao thực dụng (Realpolitik) và cai trị nghiêm khắc của Bismarck mang lại cho ông biệt danh "Thủ tướng Sắt" (Eiserne Kanzler). Nhà ngoại giao Hoa Kỳ Henry Kissinger ghi nhận:
Ông thực hiện chính sách cân bằng quyền lực để duy trì sự ổn định của nước Đức và châu Âu trong các thập niên 1870 và 1880. Ông đã gây dựng một quốc gia dân tộc mới, đồng thời hình thành nhà nước phúc lợi đầu tiên trên thế giới thông qua đạo luật thiết lập chế độ lương hưu cho người lao động vào năm 1889[6].
Mặc dù bản thân Bismarck không ưa chủ nghĩa thực dân vì ông coi việc sở hữu thuộc địa là một gánh nặng cho Đức, ông buộc phải miễn cưỡng xây dựng nên một đế quốc hải ngoại vào lúc cả tầng lớp thống trị lẫn đại chúng đều đã yêu cầu thực hiện điều đó; Bismarck ban đầu cũng phản đối việc Đức sáp nhập Alsace–Lorraine từ Pháp vì nó sẽ gây ra mối thù hằn của Pháp với Đức, điều mà sẽ trở thành 1 sự thực sau này.
Bismarck, một tín đồ Luther mộ đạo, luôn trung thành với Wilhelm I, đổi lại nhà vua luôn tin dùng và tán đồng với các đường lối của Bismarck. Khi Đế quốc Đức mới thành lập, ông đã cho thực hiện quyền phổ thông đầu phiếu đối với nam giới, Bismarck không ưa chuộng nền dân chủ và cai trị đất nước thông qua một guồng máy chính trị vững mạnh, bài bản với quyền lực nằm trong tay tầng lớp ưu tú Junker đại diện cho giới quý tộc địa chủ ở miền đông.
Bản thân Bismarck cũng là một địa chủ quý tộc Junker, với phẩm chất linh hoạt và độc đoán. Ông có tầm nhìn xa về quốc nội và quốc tế, và cả khả năng nhìn nhận vấn đề trước mắt, khả năng giải quyết cùng lúc nhiều vấn đề phức tạp.
Là trụ cột của "chủ nghĩa bảo thủ cách mạng"[1] Bismarck đã trở thành người hùng trong mắt của những người dân tộc chủ nghĩa Đức. Họ xây dựng hàng trăm đài tưởng niệm để ca ngợi sự mẫu mực của một nhà lãnh đạo bảo thủ.
Các nhà sử học thường ca ngợi ông là nhà chính khách đã giữ vững nền hòa bình ở châu Âu, là người đóng vai trò chủ chốt trong quá trình thống nhất nước Đức và đồng thời là cha đẻ của bộ máy quân đội và chính quyền trứ danh của nhà nước Đức.
Маруся идет в школу
CUỘC CHẠY ĐUA VŨ TRANG GIỮA ANH-ĐỨC
-Chủ nghĩa quân đội chính là điều đã dẫn dắt Châu Âu tới cuộc chiến
- Trong khi người Anh luôn coi trọng hải quân, và chính sách hải quân Anh là: Hạm đội của Anh phải luôn lớn hơn hạm đội của hai nước đổi thủ cộng lại
- Điều này đã bị phá vỡ vào năm 1898, KHi Hoàng đế Wilhelm II bắt đầu mở rộng lực lượng hải quân Đức để đảm bảo hàng hải cho Đức cũng như các thuộc địa của Đức.Điều này đã de dọa nghiêm trọng tới quyền lực của Anh.
- Để thấy rõ diều này, chúng ta cần biết rằng, trong thế chiến I, cả Đức và Anh đều sở hữu những thiết giáp hạp với khả năng vượt trội về tầm bắn, uy lực, và năng lực hoạt động
- Vào những năm 1914 luật nghĩa vụ quân sự đã trở nên phổ biến ở Châu Âu, nhưng nước Anh vẫn là một ngoại lệ. Quân số thường trực của Châu Âu đã tăng gấp đôi từ những năm 1890-1914
BẢNG SO SÁNH CHO THẤY VIỆC TĂNG QUÂN CỦA CÁC NƯỚC TỪ NĂM 1870-1914
Hầu hết nhân lực quân đội của Châu Âu được tuyển dụng từ nông dân vì lực lượng từ các thành phố không đáp ứng dược yêu cầu về sức khỏe (Có thể là do kinh tế phát triển nên ăn chơi quá).
-Bên cạnh đó nói chung các tầng lớp lãnh đạo Đức không mấy tin tưởng vào sự trung thành của tầng lớp thanh niên ở các thành phố.
Маруся идет в школу
HUY ĐỘNG VÀ CHUẨN BỊ KẾ HOẠCH
Quân đội Châu Âu hiện đại có xu hướng vận hành theo kiểu Phổ, đó là sự tổng hợp của việc huy động các lực lượng và kế hoạch chiến lược; Chính xác về mặt thời gian và triển khai theo đường sắt.
Để di chuyển một Tập đoàn quân của Đức (2,5% quân số Của Đức) thì cần số lượng toa xe như sau:
Chỉ huy: 170 toa
Binh lính: 965 toa
Kỵ binh: 2960 toan
Pháo binh: 1915 toa
Tức là cần 140 đoàn tàu, trung bình một đoàn tàu gồm 42 toa. Đồng thời cần tới 6000 toa để vận chuyển quân nhu
Маруся идет в школу
CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC ĐẪN TỚI SỰ CĂNG THẲNG GIỮA CÁC TRUNG TÂM QUYỀN LỰC TẠI KHU VỰC CHÂU PHI
- Hội nghị tại Berlin năm 1885: Việc nước Đức chậm chân trong việc trở thành một Đế quốc đã dẫn tới việc Ông Bismarck thiết lập các quy định để tăng cường hình ảnh và sức mạnh của Đức tại Châu Phi.
- Bức điện tín của Hoàng đế Đức (1902): Bức điện chúc mừng chiến thắng Boers trước binh lính Anh tại Nam Phi đã làm người Anh tức giận.
- 1906: Hội nghị Algieria đã tạo nên cuộc khủng hoảng Maroc đầu tiên (Anh và Nga ủng hộ Pháp như là một bên bảo hộ cho Maroc)
- Cuộc khủng hoảng Maroc lân thứ hai (1911): Dưới áp lực của Đức, Pháp buộc phải đồng ý để Đức lấy một phần Congo để đổi lấy việc bảo hộ của Pháp tại Maroc)
Bức biếm họa dưới đây diễn giải nguyên nhân dẫn tới thế chiến I
Chúng ta có thể thấy câu chuyện tương tự như bây giờ, chỉ có điều trước kia là Serbia, ngày nay là Ukr. Bây giờ một bên là Nga, còn bên còn lại là Tây Âu và Mỹ
Маруся идет в школу
CHỦ NGHĨA DÂN TỘC ĐÃ TẠO NÊN MỘT THÙNG THUỐC SÚNG TẠI BALKAN
- Đế chế Thổ (Ottoman) hay còn gọi là nhược quốc rút khỏi khu vực Balkan tạo nên một khoảng trống quyền lực
- Cuộc chiến Balkan lần thứ nhất (1912)- Nga ủng hộ liên quân Balkan, Thổ thua và mất lãnh thổ
- Cuộc chiên Balkan lần thứ hai: (1913): Serbia chiến đấu chống lại Bulgaria tại khu vực Macedonia. Serbia và Hy lạp thắng
- Cuộc chiên Balkan lần thứ 3: giữa Áo và Serbia và cuộc chiến này đã dẫn tới Thế chiến I vào mùa hẹ năm 1914
CHỦ NGHĨA DÂN TỘC
Sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc đã không tạo nên tư tưởng tự do và đoàn kết trong thế ký 19
Có một luồng tư tưởng đáng để chúng ta suy ngấm ở đây:
Một số nhà Sử học cho rằng: phái Bảo thủ, do lo sợ cách mạng xã hội đã sử dụng chiến tranh để hóa giải các mâu thuẫn nội bộ
Маруся идет в школу
SỰ BÙNG NỔ CỦA THẾ CHIẾN I
- Cuộc chiến Balkan năm 1908 và năm 1913 đã làm gia tăng sự căng thẳng ở khu vực
- Mong muốn của người Serbia để tạo nên một quốc gia Serbia lớn mạnh đã bị Áo chống lại. Tuy nhiên người Nga lại ủng hộ Serbia.
ÁM SÁT ĐẠI CÔNG TƯỚC ÁO
Vào ngày 28 tháng 6 năm 1914, người thừa kế ngai vàng Áo, Đại Công Tước Francis Ferdinand và Vợ là Sophia đã bị ám sát tại Sarajevo bởi Gavrilo Princip, người này là thành viên của Nhóm Dân tộc chủ nghĩa Serbia có tên gọi Bàn tay đen (Black Hand)
Đám tang của Đại công tước Franz Ferdinand
Nhà nước Áo không có bằng chứng là nhà nước Serbia có tham dự vào việc ám sát này, nhưng nước Áo muốn trả thù bằng một cuộc chiến để phá hủy quyền lực của Serbia.
Lời bình: Thật là phiến diện nếu chúng ta chỉ nhìn vào một sự kiến để kết luận nguyên nhân của một sự việc. Rõ ràng trên bình diện quốc tế, nguyên nhân thực sự phức tạp hơn nhiều. Nhiều sự việc cần thời gian để giải mã.
Маруся идет в школу
-Nước Áo sợ rằng Nga sẽ cản trở cuộc chiến nên đã tìm đến sự giúp đỡ của vua Phổ.
Vua Phổ William II đã đồng ý với Áo là sẽ đánh lại Nga để ủng hộ cuộc chiến của Áo.
TỐI HẬU THƯ
Với sự chống lưng của Phổ, Áo đã đưa một tối hậu thư cho Serbia với các điều kiện mà phía Serbia không thể chấp nhận được và đã từ chối. Áo sau đó đa tuyên bố chiến tranh với Serbia vào ngày 23 tháng 07
Hình ảnh Quân đội Áo rút lui về hướng Albania
PHẢN ỨNG CỦA NGA
Ngày 28 tháng 7 Nga đã huy động một phần quân đội để đánh lại Áo
THÊM TỐI HẬU THƯ
- Đức đưa ra tối hậu thư với Nga, yêu cầu Nga không tham chiến, nếu không sẽ đối mặt với chiến tranh
- Nga Không chấp thuận yêu cầu của Đức và Đức tuyên chiến với Nga vào ngày 1 tháng 8
Điểm qua một số vấn đề trước cuộc chiến:
- Một số nhà kinh tế học đã đưa ra dự báo trước cuộc chiến rằng: Điều kiện kinh tế không cho phép cuộc chiến diễn ra trên diện rộng, nếu xẩy ra chiến tranh thì nó sẽ diễn ra rất ngắn, với quy mô nhỏ.
- Rất nhiều chính trị gai lão luyện tin tưởng rằng với một số giải pháp ngoại giao hợp lý, chiến tranh sẽ khó nổi ra hoặc nếu co diễn ra thi sẽ rất ngắn.
- Việc tuyên truyền của các nước đã làm khuấy động cảm xúc của xã hội và lợi dụng cảm xúc đó để làm tăng cơn sốt chiến tranh
- Thậm chí nhiều nhà xã hội học, lãnh đạo giới lao động đã đóng góp vào nguyên nhân của cuộc chiến trong các cuộc vận động đòi công bằng và trả thù.
- Suy nghĩ lạc quan: Nhiều người tin rằng cuộc chiến sẽ chỉ diễn ra trong vài tuần với lý luận rằng: Sau thời Napoleon, các cuộc chiến đều diễn ra nhanh gọn.
Lời bình:
Đến đây, Các Cụ có thể thấy cuộc chiến ở Ukr ngày nay cũng có những vấn đề, sự kiện, hiện tượng, hành động giống như những gì đã xẩy ra cách đây cả trăm năm.
-Mâu thuẫn
-Quyền lực
-Tối hậu thư (bây giờ là "lằn ranh đỏ")
-Cuộc chiến 72 giờ (như các Tím vấn rêu rao)
-Khuấy động chứng "Sợ Nga" để vận động, tranh cử, tuyên truyền
Маруся идет в школу






























