Những luận điệu lật...
 
Notifications
Clear all

Những luận điệu lật sử, bẻ sử và thông tin để phản bác chúng

15 Bài viết
9 Thành viên
83 Likes
261 Lượt xem
emperortan
(@emperortan)
Thiếu niên
Cư dân
Tài sản: 1989.02
Tham gia: 1 năm trước
Bài viết: 165
Topic starter  

Kính thưa các cụ. Thời gian qua khi theo dõi các kênh thông tin khắp cõi, từ mạng đến tivi, từ báo chí đến bà bán rau, từ chính trị gia đến các cháu cấp 2 còn hôi sữa... em thấy cực kỳ quan ngại rằng đang nổi lên một trào lưu truyền bá các thông tin sai sự thật về lịch sử. Không nói đến khía cạnh tranh cãi của lịch sử, nhưng cái đáng bàn ở đây là việc bẻ sử ở cả những vấn đề được thống nhất cao trong giới sử học quốc tế, để phục vụ các mục đích nào đó hoặc đơn thuần là do bị nhồi sọ.

Em xin lập thớt này để các cụ có nhiều thông tin đóng góp những kiến thức và nguồn thông tin quý để giúp chính chúng ta khi đối mặt với vấn đề này có thể nhanh chóng đưa ra các thông tin phản bác.

Em xin bắt đầu với luận điệu bẻ sử số 1 liên quan đến chủ đề Thế chiến 2:

- Không có Lend - Lease của Mỹ thì Liên Xô không thể chiến thắng phát xít Đức.

Phản bác:

Trong lịch sử thực tế của Thế chiến thứ hai, Liên Xô đã đánh bại Đức Quốc xã . Không có phần Lend-Lease nào của Hoa Kỳ được giao cho Liên Xô trong năm quan trọng nhất là 1941 đối với Liên Xô.

Liên Xô đã mất khoảng 3 triệu binh sĩ trong 6 tháng năm 1941, gần như toàn bộ Lực lượng Không quân Đỏ, phần lớn xe tăng, số lượng lớn đại bác/thiết bị/vật tư và vùng lãnh thổ rộng lớn. Tuy nhiên, tổng số hàng hóa Lend-Lease của Hoa Kỳ giao cho Liên Xô vào năm 1942 vẫn ít hơn/không đáng kể so với sản lượng chiến tranh của Liên Xô được thu hồi ồ ạt và tăng quy mô trong năm 1942.

Nó còn bổ sung thêm vào bức tranh ít/không đáng kể, đặc biệt là 'xe tăng M3 Lee w. Súng 37mm' được giao vào năm 1942, là loại xe tăng duy nhất được Hoa Kỳ giao vào năm 1942, đã lỗi thời so với các loại xe tăng 'Panzer III' và 'Panzer IV' của Wehrmacht. M3 được Liên Xô đặt biệt danh là “Chiếc quan tài cho sáu người”. Liên Xô đặc biệt thiếu xe tăng và máy bay vào năm 1942 sau những tổn thất nặng nề năm 1941.

Việc tài trợ "hàng triệu chiếc ủng" cũng là một sự cường điệu mạnh mẽ. Trên thực tế, có 0,99 triệu đôi ủng có tên “Giày, dịch vụ, quân nhân” trong danh sách Lend-Lease của Mỹ được giao cho Liên Xô (trong khi Anh nhận được 1,5 triệu đôi cùng loại). Con số được cho là “hàng triệu” đôi ủng có lẽ bắt nguồn từ 13,5 triệu “Giày, viện trợ chiến tranh của Nga” được giao cho lực lượng lao động dân sự Liên Xô và những thường dân khác.

 

Tuy nhiên, số liệu 2000 đầu máy xe lửa Lend-Lease của Hoa Kỳ là đúng. Nhưng chúng được chuyển giao muộn nhất là vào năm 1944–1945, phần lớn là vào nửa cuối năm 1944 - Rất lâu sau khi Liên Xô đánh bại Đức Quốc xã về mặt chiến lược và cũng về mặt chiến thuật, đẩy lùi quân Đức vài trăm km trên toàn bộ mặt trận phía đông, đặc biệt là phần phía nam và trung tâm của nó. Điều tương tự ở một mức độ nào đó cũng có thể áp dụng đối với “Xe tải” được tập trung nhiều. Liên Xô có đủ số lượng xe tải trong giai đoạn 1939-1941. Nhưng đã mất rất nhiều trong số đó vào năm 1941. Liên Xô đã sản xuất khoảng 250.000 xe tải trong suốt cuộc chiến. Con số này gần bằng 60% tổng số xe tải trong chương trình Lend-Lease tại Mỹ. Những chiếc xe tải thực sự được sử dụng để vận chuyển địa phương. Trong khi các phương tiện vận tải khác  được thực hiện bằng các chuyến tàu được dỡ hàng càng gần tiền tuyến nơi có nhu cầu.

Việc phân phối nguyên vật liệu, hàng hóa, nhân lực, v.v. trong nước cũng được thực hiện tương tự bằng tàu hỏa. Những chiếc xe tải Lend-Lease của Hoa Kỳ cung cấp vào năm 1942 được hỗ trợ để thay thế những chiếc bị mất vào năm 1941. Sau đó vào năm 1943–1944 với mục đích tương tự cho Hồng quân tăng từ 7–8 triệu binh sĩ lên 10–11 triệu binh sĩ. Và cũng từ đầu năm 1943 trở đi đã giảm bớt việc sử dụng tương đối ngựa kéo cho các phương tiện vận tải địa phương từ các đoàn tàu cung cấp cho các kho địa phương cho tiền tuyến. Việc vận chuyển bằng xe tải trong Thế chiến thứ hai nhìn chung chỉ nhanh hơn khoảng 2–4 lần so với ngựa kéo. Trong khi ở điều kiện địa hình rộng lớn của Liên Xô, mùa đông với những con đường xấu trơn trượt băng giá được xây dựng để vận chuyển ngựa và trong tuyết dày, cũng như trong suốt vài tuần mùa xuân và mùa thu kéo dài vô tận các mùa 'biển bùn', ngựa kéo dùng thường xuyên hơn và hiệu quả hơn nhiều so với xe tải.

Liên Xô cuối cùng đã đánh bại Đức Quốc xã về mặt chiến lược sau trận Stalingrad tháng 1 năm 1943 và trận Kursk tháng 7 năm 1943, những chiến thắng chiến lược. Kể từ đó, quân Đức buộc phải rút lui liên tục về Berlin và thất bại cuối cùng không thể tránh khỏi. Đây là tình hình chiến lược vào giữa năm 1943 - trước đó - Lend-Lease của Hoa Kỳ chưa đạt được bất kỳ đợt giao hàng tương đối đáng kể nào. Điều này thực tế có thể áp dụng cho toàn bộ hoạt động giao hàng Lend-Lease của Hoa Kỳ cho Liên Xô. Cụm từ thường được sử dụng đối với Đức Quốc xã - “Quá ít, quá muộn” - cũng được áp dụng cho chương trình Lend-Lease của Hoa Kỳ đối với Liên Xô. Nó không ảnh hưởng quá nhiều đến khả năng của Liên Xô trong việc tự mình đánh bại Đức Quốc xã. Liên Xô đã thực hiện khoảng 85–90% tổng công việc đó. Tổng số tiền Lend-Lease của Hoa Kỳ được giao cho Liên Xô chỉ chiếm khoảng 5-6% tổng sản lượng chiến tranh của Liên Xô. Phần lớn được chuyển giao trong giai đoạn 1943–1945. Tuy nhiên, nó đã mang lại hiệu ứng tâm lý tích cực từ đầu năm 1942.

Chính nước Anh đã nhận được cả phần lớn tuyệt đối và tương đối trong chương trình Lend-Lease của Hoa Kỳ chứ không phải Liên Xô. Anh nhận được khoảng 60% nhưng chỉ đóng góp công sức vào khoảng 2–5% trên chiến trường Thế chiến thứ hai 1941–45 ở Châu Âu. Liên Xô nhận được khoảng 22% tổng số và đã đóng góp rất nhiều, vào khoảng 80–98% trên các chiến trường 1941–1945 ở Châu Âu. Nhiên liệu được giao cho Liên Xô trong lịch sử thực tế chiếm khoảng 0,3% giá trị tổng giá trị Lend-Lease của Hoa Kỳ giao cho Liên Xô. Do đó, khá đơn giản để thấy mức độ rất nhỏ - không đáng kể - về việc Hoa Kỳ hỗ trợ nhiên liệu cung cấp nhiên liệu cho Liên Xô… Nhiên liệu được cung cấp là nhiên liệu có chỉ số octan cao cho các máy bay do Hoa Kỳ cung cấp, được trang bị động cơ yêu cầu nhiên liệu có chỉ số octan cao. Trong khi tất cả các động cơ máy bay của Liên Xô (và các loại động cơ xăng khác) chỉ yêu cầu nhiên liệu có chỉ số octan thấp hơn. Do đó, Liên Xô không sản xuất nhiên liệu có chỉ số octan cao và không thể ưu tiên chế tạo loại nhiên liệu đó cho số ít máy bay Mỹ cung cấp cho Liên Xô. (nhìn vào một trong các bảng dưới đây cũng sẽ tìm thấy chính xác số lượng máy bay Mỹ được giao cho Liên Xô. Tổng con số này bằng khoảng 7,5% sản lượng máy bay của chính Liên Xô trong giai đoạn 1941–1945).

 

image
image
image
image
image
image

   
Big bang, U Cay, dung773vit and 12 people reacted
Trích dẫn
camly12
(@camly12)
Nhi đồng
Cư dân
Tài sản: 1505.83
Tham gia: 12 tháng trước
Bài viết: 51
 

Mong cụ thớt tiếp tục phát huy


   
emperortan, U Cay, flash001 and 3 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
emperortan
(@emperortan)
Thiếu niên
Cư dân
Tài sản: 1989.02
Tham gia: 1 năm trước
Bài viết: 165
Topic starter  

Luận điệu thứ 2:

- Chiến tranh Việt Nam là nội chiến giữa Bắc và Nam do xung đột về ý thức hệ.

 

Phản bác:

Nguồn https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/dau-tranh-phan-bac-cac-luan-dieu-sai-trai-thu-dich/chi-tiet/-/asset_publisher/YqSB2JpnYto9/content/phe-phan-cac-quan-diem-sai-trai-xuyen-tac-cuoc-khang-chien-chong-my-cuu-nuoc-cua-dan-toc-viet-nam-la-noi-chien-

Chiến tranh xâm lược Việt Nam 1954 - 1975 trước hết và căn bản khởi phát từ lợi ích bên trong của đế quốc Mỹ, từ chiến lược toàn cầu của Mỹ mà căn nguyên sâu xa là xuất phát từ bản chất chế độ chính trị cường quyền

Với mưu đồ xâm lược, khi Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết (tháng 7-1954), đế quốc Mỹ đã thực hiện phá hoại công cuộc hòa bình, thống nhất nước Việt Nam. R.S. Mắc Na-ma-ra, cựu Bộ trưởng Quốc phòng, một trong những kiến trúc sư hàng đầu của Mỹ về chiến tranh Việt Nam, đã nhắc đến quan điểm của Ai-xen-hao được thể hiện qua diễn văn của J.F. Ken-nơ-đi (công bố năm 1956), rằng “Việt Nam là hòn đá tảng của Thế giới tự do ở Đông Nam Á. Đó là con đẻ của chúng ta. Chúng ta không thể từ bỏ nó, không thể phớt lờ những nhu cầu của nó”(1). Trong bối cảnh lịch sử mới, Việt Nam có vị trí quan trọng đối với Mỹ: Nơi thử thách vai trò, sức mạnh to lớn của một đế quốc hàng đầu từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, là sự tiếp tục và cao nhất chính sách thực dân mới của Mỹ, thực hiện “Học thuyết Truman” (năm 1947) nhằm bảo đảm “an ninh quốc gia” và “bao vây chủ nghĩa cộng sản”. Một nhà nghiên cứu trong bài viết “Chiến tranh Việt Nam là gì?”, đăng trên báo The New York Times, ngày 26-3-2018, đưa ra nhận xét: “Cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam không phải là một cuộc xung đột cục bộ, cô lập, không liên quan đến an ninh quốc gia của Mỹ, mà là một cuộc chiến không thể tách rời với ưu tiên cao nhất của quốc gia - cuộc chiến chống Cộng sản trên toàn cầu trong chiến tranh lạnh”(2); “các nhà hoạch định chính sách cảnh báo rằng nếu miền Nam Việt Nam rơi vào tay chủ nghĩa Cộng sản, các nước láng giềng chắc chắn sẽ lần lượt gục ngã, lần lượt như một hàng quân cờ domino”(3).

Từ năm 1950, Mỹ chính thức can thiệp vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Phái bộ cố vấn viện trợ quân sự Đông Dương (MAAG) của Mỹ bắt đầu viện trợ quân sự cho Pháp, từ 52 tỷ phrăng lên tới 751 tỷ phrăng năm 1954, chiếm 73,9% chi phí chiến tranh(4). Tiếp đó, Mỹ nhanh chóng gạt Pháp, trực tiếp tiến hành tổ chức quân đội, chính quyền mới, tiến hành bầu cử riêng rẽ ở miền Nam Việt Nam (đầu năm 1955), lập ra cái gọi là chính thể “Việt Nam Cộng hòa”, âm mưu chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, căn cứ quân sự của Mỹ.

Chính giới Mỹ đã đặt “vấn đề Việt Nam” vào trong luận thuyết của “chiến tranh lạnh”. Dùng biện pháp chiến tranh để thôn tính miền Nam Việt Nam, Mỹ không chỉ nhằm áp đặt ách thống trị chủ nghĩa thực dân mới, mà còn nhằm thực hiện chiến lược toàn cầu “ngăn chặn” chủ nghĩa cộng sản, đàn áp phong trào giải phóng dân tộc. Ngoài ra, Mỹ còn tính toán tới lợi ích kinh tế mà các tập đoàn tư bản công nghiệp, tài chính hùng mạnh của Mỹ thu được qua cuộc chiến này; đồng thời, tính toán tới sự răn đe đối với Liên Xô, Trung Quốc và phong trào giải phóng dân tộc. Mục tiêu chiến lược toàn cầu và lợi ích của giới tư bản Mỹ, vì vậy, là các nhân tố quyết định hành động chiến tranh và thúc đẩy chiều hướng leo thang chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam.

Đế quốc Mỹ (và cả thực dân Pháp trước đó) tìm cách lôi kéo đồng minh, đẩy mạnh xây dựng quân đội và chính quyền tay sai, vừa mua chuộc, lôi kéo (rêu rao Mỹ chỉ là đồng minh), vừa uy hiếp và khi cần thì cũng không ngần ngại tổ chức đảo chính, thủ tiêu những chính trị gia không vâng lời, nhằm giữ quyền lãnh đạo của mình... Mặt khác, Mỹ coi trọng việc xây dựng cơ sở xã hội, dựa vào các thế lực thù địch, những phần tử phản động đội lốt tôn giáo, vừa tạo chỗ đứng, tạo thế hợp pháp ở bên trong để che giấu bộ mặt thực dân, vừa tích cực tổ chức huấn luyện đội quân viễn chinh, lập các căn cứ, khối liên minh quân sự ở bên ngoài... Khi tất cả các thủ đoạn không đạt được mục tiêu đề ra, hoặc kém hiệu quả, Mỹ đẩy tới hành động quân sự, dùng biện pháp chiến tranh là chủ yếu. Tháng 2-1962, Mỹ thành lập Bộ tư lệnh viện trợ Hoa Kỳ ở Việt Nam, đến tháng 7-1965, đổi thành Bộ tư lệnh lục quân Hoa Kỳ tại Việt Nam, trực tiếp chỉ huy đội quân viễn chinh Mỹ, quân đội Việt Nam Cộng hòa và quân đồng minh trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Mỹ đã tiêu tốn vào cuộc chiến 676 tỷ USD(5); cử 6,6 triệu lượt quân tham chiến; huy động 70% lục quân, 60% lính thủy đánh bộ, 40% hải quân, 60% không quân(6); trên 72 nghìn quân(7) các nước đồng minh Mỹ tham gia cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam(8). Với những vũ khí mới nhất, với khối lượng lớn bom đạn, chất độc hóa học, chất độc da cam, quân đội Mỹ đã tiến hành càn quét, đốt phá, và giết hại nhiều dân thường. Từ năm 1961 đến năm 1971, quân đội Mỹ đã tiến hành 19.905 phi vụ, phun rải khoảng 80 triệu lít chất độc hóa học(9). Cùng với việc đưa quân vào miền Nam, Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại vô cùng khốc liệt đối với miền Bắc Việt Nam.

Đế quốc Mỹ áp đặt phương thức thống trị thực dân kiểu mới, giấu mặt, cai trị trá hình, nuôi dưỡng và dựng lên chính quyền bù nhìn từ Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu. Từ năm 1955 đến năm 1961, đế quốc Mỹ đã viện trợ cho chính quyền miền Nam Việt Nam 7 tỷ USD(10). Những năm 1955 - 1956, Mỹ chi 414 triệu USD xây dựng các lực lượng thường trực quân đội Việt Nam Cộng hòa gồm 170.000 người và lực lượng cảnh sát với 75.000 người. 80% ngân sách quân sự của chính quyền Ngô Đình Diệm do Mỹ viện trợ(11). Trong giai đoạn 1962 - 1974, Mỹ đã viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa 21.336 triệu USD (bao gồm cả viện trợ kinh tế và viện trợ quân sự)(12).

Một thực tế rõ ràng là, tuy Mỹ coi lực lượng tay sai ở miền Nam Việt Nam là những người “quốc gia chủ nghĩa”, nhưng chưa bao giờ thực sự coi trọng những lực lượng này. Mỹ chỉ xem họ như những quân cờ trên bàn cờ chiến lược của mình. Một khi quân cờ nào không còn hữu dụng nữa thì Mỹ sẵn sàng thay thế, vứt bỏ họ. Một học giả Mỹ đánh giá: “Quan hệ đồng minh Mỹ - Diệm là một sản phẩm của tính toán địa chính trị của Mỹ thời chiến tranh lạnh”, và “việc Mỹ can thiệp sâu vào Đông Dương xuất phát từ các quan ngại về sự bành trướng Xô-viết”(13). Ngay những quan chức cấp cao của chính quyền Sài Gòn cũng nhận thức được thân phận làm tay sai cho Mỹ của mình, và nhận ra cuộc chiến này là cuộc chiến của người Mỹ chống lại nhân dân Việt Nam: “Ông Mỹ luôn luôn đứng ra làm sân khấu, làm “kép nhất”. Vì vậy ai cũng cho rằng thực chất đây là cuộc chiến tranh của người Mỹ và chúng tôi là những kẻ đánh thuê”(14). Giới chóp bu của chế độ Sài Gòn chỉ được tự do trong giới hạn mà Mỹ cho phép. Cái gọi là chính thể “Việt Nam Cộng hòa” là chính quyền do người Mỹ dựng lên, nuôi dưỡng và điều khiển để phục vụ cho chiến tranh xâm lược. Ngay cả sau năm 1973, khi quân đội Mỹ và đồng minh phải rút khỏi miền Nam Việt Nam, thì mục tiêu phục vụ cho quyền lợi của người Mỹ của chính quyền và quân đội Sài Gòn ở miền Nam vẫn không hề thay đổi. Tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu - lực lượng tưởng chừng được Mỹ ủng hộ nhất quán nhất, cuối cùng cũng cay đắng thừa nhận trong phát biểu từ chức Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ngày 21-4-1975, rằng: Mỹ là một đồng minh “thất hứa, thiếu công bằng, thiếu chính nghĩa, vô nhân đạo đối với một đồng minh đang chịu đau khổ, trốn tránh trách nhiệm của một đại cường quốc”(15). Một nghiên cứu nước ngoài chỉ rõ“Nếu không có sự can thiệp của Mỹ, thật khó có thể tưởng tượng rằng miền Nam Việt Nam đã ra đời hoặc nếu có thì sẽ tồn tại được bao lâu”(16).

Từ tất cả những điều đã trình bày trên đây, có thể thấy rõ rằng, đế quốc Mỹ đã chống lại sự nghiệp thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam, chống lại tất cả những ai ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh và mong muốn độc lập, hòa bình, thống nhất của Việt Nam. Rõ ràng, đế quốc Mỹ đã chà đạp luật pháp quốc tế, trắng trợn xâm phạm lãnh thổ Việt Nam, và vì thế, trở thành đối tượng đấu tranh trước hết trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc của nhân dân Việt Nam.

Nhân dân Sài Gòn đổ ra đường, nồng nhiệt chào đón Quân giải phóng tiến vào giải phóng Thành phố, ngày 30-4-1975 _Ảnh: TTXVN

Tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam

Cuộc đấu tranh nhằm thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 là cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, đồng thời đấu tranh nhằm loại bỏ những thế lực đi ngược lại lợi ích quốc gia - dân tộc và nguyện vọng nhân dân. Trên bình diện quốc tế, đó là một bộ phận của cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức, nhằm khẳng định và bảo vệ quyền tự quyết của dân tộc mình. Trong bối cảnh của cuộc “chiến tranh lạnh”, cuộc đấu tranh thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam là một bộ phận của cuộc đối đầu quyết liệt giữa phe tư bản chủ nghĩa và phe xã hội chủ nghĩa.

Nhằm đạt mục tiêu hòa bình, thống nhất đất nước, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nhân dân Việt Nam đã nghiêm chỉnh chấp hành Hiệp định Giơ-ne-vơ. Tháng 6-1955, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố sẵn sàng mở hội nghị hiệp thương với chính quyền Sài Gòn, nhưng không được đáp ứng. Tháng 7-1956, sau khi yêu cầu đàm phán không được chính quyền Ngô Đình Diệm trả lời, thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa yêu cầu các đồng chủ tịch Hội nghị Giơ-ne-vơ tổ chức một cuộc hội nghị mới. Các yêu cầu đàm phán với chính quyền Ngô Đình Diệm tiếp tục được phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiên trì nêu lên(17), nhưng đều bị từ chối.

Chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp dã man các phong trào hòa bình, bắt bớ, truy bức, giết hại những người yêu nước ở khắp miền Nam, từ năm 1954 đến năm 1959, 466.000 người cộng sản và người yêu nước bị bắt, 400.000 người bị tù đày và có 68.000 người bị giết hại(18). Một báo cáo của Việt Nam Cộng hòa năm 1960 đưa ra con số những người cộng sản bị bắt giữ từ năm 1954 là 48.200 người; một công bố năm 1961 ghi nhận tổng số người bị bắt giữ và thiệt mạng dưới bàn tay lực lượng an ninh chính quyền Sài Gòn lên tới trên 60.000 người(19).

Đối diện với tình hình trong nước, quốc tế vô cùng khó khăn, phức tạp, những năm 1954 - 1959, Đảng Lao động Việt Nam vẫn kiên trì đấu tranh bằng phương pháp hòa bình để thống nhất đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định hòa bình, thống nhất nước nhà là nguyện vọng tha thiết, phải tranh thủ mọi thời cơ để thống nhất một cách hòa bình. Đấu tranh vũ trang chỉ buộc phải thực hiện khi không còn con đường nào khác. Quyết tâm thực hiện thống nhất đất nước được khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9-1960): “Dân tộc ta là một, nước Việt Nam là một. Nhân dân ta nhất định sẽ vượt tất cả mọi khó khăn và thực hiện kỳ được “thống nhất đất nước, Nam, Bắc một nhà””(20).

Trong bối cảnh phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có những bất đồng, xuất hiện chủ nghĩa xét lại, tâm lý sợ Mỹ, ngại đối đầu với Mỹ, biểu hiện ở xu hướng hòa hoãn, chung sống hòa bình, thủ tiêu đấu tranh vũ trang..., Đảng Lao động Việt Nam đã đề ra đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo để lãnh đạo, chỉ đạo toàn dân, toàn quân trên cả hai miền trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sự nghiệp chính nghĩa bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là động lực cơ bản có sức cuốn hút mạnh mẽ và tập hợp lực lượng rộng lớn - toàn thể cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tạo thành khối đoàn kết thống nhất trong cuộc đấu tranh chung.

Ở miền Nam, năm 1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập. Tháng 6-1969, tại Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập(21). Đây là cơ quan quyền lực tập trung cao nhất đại diện cho cách mạng miền Nam, là thể hiện ý chí của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đại diện cho ý chí, nguyện vọng thống nhất của toàn thể nhân dân miền Nam Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam. Chính phủ có nhiệm vụ đoàn kết nhân dân miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ, lật đổ chính quyền tay sai, đưa miền Nam Việt Nam phát triển theo con đường độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, phồn vinh, tiến tới thống nhất đất nước. Chính phủ cách mạng lâm thời là một đối trọng với chính quyền Sài Gòn tại Hội nghị Pa-ri, làm thất bại âm mưu xưng danh “đại diện hợp pháp duy nhất” cho miền Nam của Mỹ và chính quyền tay sai. Dưới ngọn cờ chính nghĩa của Chính phủ cách mạng lâm thời, các phong trào vận động nhân dân, trí thức đã kết thành một sức mạnh rộng lớn, tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, vì một mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đến cuối năm 1972, Chính phủ cách mạng lâm thời được 30 nước trên thế giới chính thức công nhận(22), với tư cách là đại diện chân chính, hợp pháp duy nhất của nhân dân miền Nam.

Dù phải chịu tác động bởi mâu thuẫn, bất đồng trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế khi đó, nhưng Việt Nam vẫn giữ vững đường lối độc lập, tự chủ, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết; xử lý các mối quan hệ một cách đúng đắn, mềm dẻo; coi trọng, kiên trì vấn đề đoàn kết quốc tế. Quan điểm nhất quán của Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là tranh thủ sự ủng hộ và viện trợ cao nhất của các nước xã hội chủ nghĩa, trước hết là Liên Xô và Trung Quốc, nhưng không lôi kéo các nước xã hội chủ nghĩa vào trực tiếp tham chiến ở Việt Nam. Từ khoảng giữa năm 1972, viện trợ của Liên Xô, Trung Quốc cho Việt Nam đều bị cắt giảm mạnh. Việt Nam nhận thức được sự chuyển dịch trong quan hệ tam giác giữa ba cường quốc là Mỹ, Liên Xô và Trung Quốc. Trong khi khai thác mặt tích cực của các nước ủng hộ công cuộc kháng chiến, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn đề cao cảnh giác, hạn chế tối đa mặt tiêu cực trong mối quan hệ đó. Vì thế, khi hai nước lớn giảm dần sự viện trợ, Việt Nam vẫn kiên quyết giữ vững mục tiêu của mình.

Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ hơn sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, vạch trần tội ác xâm lược của kẻ thù được che giấu dưới mọi hình thức, để thức tỉnh lương tri nhân loại tiến bộ. Phong trào nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ xâm lược, hình thành từ cuối năm 1964, đã nhanh chóng mở rộng, phát triển mạnh mẽ từ khi đế quốc Mỹ đưa quân vào miền Nam và tiến hành dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc. Đó là lực lượng chính trị hùng hậu, đã tác động sâu sắc đến chính sách và thái độ hiếu chiến của nhiều chính phủ trên thế giới đối với vấn đề chiến tranh Việt Nam. Chưa bao giờ trên thế giới xuất hiện một phong trào ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của một dân tộc lại có quy mô rộng lớn như phong trào quốc tế ủng hộ nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước.

Việc Mỹ áp đặt chế độ thống trị thuộc địa kiểu mới ở miền Nam Việt Nam, gây chiến tranh tàn phá đất nước Việt Nam, là cuộc chiến tranh xâm lược đối với một quốc gia độc lập có chủ quyền. Nguồn gốc chiến tranh là mưu đồ chính trị và trực tiếp là từ hành động xâm lược Việt Nam của chính giới Mỹ, chứ không phải xuất phát từ mâu thuẫn trong nội bộ dân tộc Việt Nam.

Bắc - Nam sum họp (Ảnh chụp năm 1975 tại huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu, các bà mẹ miền Bắc và miền Nam gặp nhau nhân dịp thống nhất đất nước)_Ảnh: TTXVN

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến hành cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, nhận được sự ủng hộ, giúp sức của Liên Xô, Trung Quốc và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, các lực lượng dân chủ, tiến bộ, yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới, nhưng đó thực sự là cuộc chiến đấu của chính bản thân nhân dân Việt Nam, không có sự tham gia trực tiếp của nước ngoài. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước là thắng lợi của tư duy chiến lược độc lập, tự chủ, sáng tạo, của sách lược ứng xử khôn khéo, kiên quyết và hiệu quả của Đảng Lao động Việt Nam và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Lịch sử cuộc chiến tranh đã lùi xa, việc nhận thức đúng bản chất của nó cho phép mỗi người dân Việt Nam, dù trước đây đứng ở phía bên nào của cuộc chiến, cũng có quyền tự hào về truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Những ai cho rằng trong cuộc trường chinh giải phóng, thống nhất, giữ vững toàn vẹn lãnh thổ ở Việt Nam có yếu tố “nội chiến” thì thực chất, đó chỉ là sự cố tình đánh tráo khái niệm, ngoảnh mặt làm ngơ trước sự thật lịch sử, sẽ dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng trong nhận thức lịch sử, xuyên tạc một trong những trang lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc./.

--------------------

(1) R.S. Mc Namara:Nhìn lại quá khứ - Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 44
(2), (3) Christian G. Appy:“What Was the Vietnam War About?”,The New York Times, ngày 26-3-2018, https://www.nytimes.com/2018/03/26/opinion/what-was-the-vietnam-war-about.html
(4) Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh - trực thuộc Bộ Chính trị:Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp: Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 447
(5) Theo số liệu của Viện Quốc tế nghiên cứu chiến tranh (IISS) Luân Đôn, chi phí cho chiến tranh lên tới 720 tỷ USD. Xem: Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh - trực thuộc Bộ Chính trị:Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1975: Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 496
(6), (7) Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh - trực thuộc Bộ Chính trị:Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1975: Thắng lợi và bài học,Sđd,  tr. 508
(8) Hàn Quốc, Phi-líp-pin, Ô-xtrây-li-a, Thái Lan, Niu Di-lân
(9) 61% trong số đó là chất da cam, chứa 366 kg đi-ô-xin xuống gần 26.000 thôn, bản, với diện tích hơn 3,06 triệu héc-ta; trong đó 86% diện tích bị phun rải hơn hai lần, 11% diện tích bị phun rải hơn 10 lần. Xem:Nỗi đau da cam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 21
(10) Robert S.Mc Na-ma-ra:Nhìn lại quá khứ - Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam,Sđd, tr. 44
(11) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam:Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975, tập I - Nguyên nhân chiến tranh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 117
(12) Gấp 10 lần số lượng viện trợ cho Đài Loan (Trung Quốc) (2.109 triệu USD) và gần 3 lần mức viện trợ cho Hàn Quốc (7.277 triệu USD). Theo Douglas C. Dacy:Foreign aid, war and economic development South Vietnam 1955 - 1975, Cambridge University Press, 1986, tr. 245
(13) Edward Miller:Liên minh sai lầm: Ngô Đình Diệm, Mỹ và số phận Nam Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 17
(14) Lý Nhân:Nguyễn Cao Kỳ trở về đất mẹ, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2007, tr. 252
(15) Lời phát biểu từ chức của Nguyễn Văn Thiệu ngày 21-4-1975. Xem https://www.youtube.com/watch?v=_OTSQ4F0GHM
(16) Christian G. Appy:“What Was the Vietnam War About?”,Tlđd
(17) Tại các thời điểm: tháng 6 và tháng 7-1957, tháng 3 và tháng 12-1958, tháng 7-1959 và tháng 7-1960.
(18) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam:Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 - 1975, tập 2 - Chuyển chiến lược, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 178
(19) Goerges Chaffard:Indochine: Dix ans d’indépendance, Paris: Calmann-Lévy, 1964, tr. 168 - 169; vàSeven Years of the Ngo Dinh Diem Administration, 1954 - 1961, SaiGon: Information Printing Ofice, 1961, tr. 182 - 185. Dẫn theo  Edward Miller:Liên minh sai lầm: Ngô Đình Diệm, Mỹ và số phận Nam Việt Nam,Sđd, tr. 505 (Edward Miller là Giáo sư lịch sử tại Đại học Dartmouth, bang New Hampshire, Mỹ)
(20) Hồ Chí Minh:Toàn tập,Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 674
(21) Ban Chỉ đạo biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam:Lịch sử Chính phủ ViệtNam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 2, tr. 428
(22) “Báo cáo của Bộ Ngoại giao Cộng hòa miền Nam Việt Nam về hoạt động đối ngoại của Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong năm 1972”, BáoNhân Dân, ngày 24-1-1973. Đến cuối năm 1975, hơn 50 nước trên thế giới công nhận và lập quan hệ ngoại  giao với Chính phủ cách mạng lâm thời.

 

Còn thông tin và ý kiến bổ sung, mong các cụ đóng góp!


   
U Cay, friendship2k, flash001 and 7 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
Bigmoto
(@bigmoto)
Công dân
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 5272.93
Tham gia: 1 năm trước
Bài viết: 1189
 

Chủ đề hay đấy cụ, em hóng!


   
meotamthe, U Cay, flash001 and 2 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
CMYK77
(@cmyk77)
Thiếu niên
Cư dân
Tài sản: 2519.71
Tham gia: 1 năm trước
Bài viết: 128
 

Chuẩn bị cho ngày chiến thắng Điện Biên lừng lẫy mà bọn nó còn lải nhải bịa ra các con số thất thiệt. 


   
meotamthe, U Cay, flash001 and 3 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
Hóng hớt
(@toidihong)
Trung niên
Được ưa thích
Ngồi lê đôi mách hóng hớt
Trung lưu
Tài sản: 16787.2
Tham gia: 1 năm trước
Bài viết: 2951
 

Em lại ngồi hóng các cụ đập tan lũ bẻ sử.


   
meotamthe, U Cay, flash001 and 1 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
meotamthe
(@meotamthe)
Trưởng thành
Được ưa thích
Đạo khả đạo phi thường đạo
Trung lưu
Tài sản: 11370.48
Tham gia: 1 năm trước
Bài viết: 2366
 

Chủ đề gọi chiến tranh xâm lược Việt Nam là nội chiến của Việt Nam em vẫn nói với F1, giả sử đối phương có nội chiến mà anh lại đem quân vào tham dự cuộc nội chiến đấy, về bề ngoài có thể tự nói đó là tham gia vào nội chiến của nước khác, nhưng về bản chất, đó là nhân đối phương có nội loạn mà đem quân vào cướp, lịch sử Việt Nam chứng kiến rất nhiều cuộc xâm lược như vậy, ví dụ như cuộc xâm lược của nhà Minh đối với nhà Hồ của Việt Nam. Vì vậy, chiến tranh tại Việt Nam của Mỹ bản chất là xâm lược, chỉ có điều cách tiếp cận và khởi động nó không giống các cuộc xâm lược khác, nhưng bản chất xâm lược là không thay đổi, không bỗng dưng mà quân Mỹ mất hơn 50K quân chết trận tại Việt Nam. Thêm nữa, các tài liệu giải mật sau này có đề cập đến nội dung trao đổi của Kissinger với Chu Ân Lai nhằm khiến Trung Quốc tác động đến Việt Nam để Việt Nam chấp nhận cho quân Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam thông qua đàm phán nhằm tránh khỏi kết cục thua chạy khỏi Việt Nam, nhờ có cuộc rút quân như vậy, Mỹ mới có vốn để sáng tạo ra lý luận chiến tranh Việt Nam là nội chiến của Việt Nam, từ đó mới có cách giải thích để né tránh thực tế xâm lược Việt Nam của Mỹ và thực tế thua trận tại cuộc chiến xâm lược Việt Nam của Mỹ.

Từ hồi F1 nhà em học tiếng Anh, em đã phải thường xuyên nói về vấn đề chiến tranh, khái niệm chiến tranh từ xưa đến nay với F1 để nó hiểu chiến tranh vốn không thay đổi về bản chất và cách thức thực hiện, có chăng nó sẽ khác biệt theo cách tuyên truyền thông tin của các bên, nhưng nếu hiểu rõ nguyên lý của chiến tranh thì sẽ nhận ra rõ ràng động cơ của cuộc chiến và vai trò của các bên trong cuộc chiến đó, khi hiểu được sẽ không còn lẫn lộn khái niệm do bị tuyên truyền thông tin làm nhiễu nữa.


   
U Cay, friendship2k, odlead and 7 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
emperortan
(@emperortan)
Thiếu niên
Cư dân
Tài sản: 1989.02
Tham gia: 1 năm trước
Bài viết: 165
Topic starter  

Giá có thể tạo ra các thớt con trong thớt chính thì hay quá, các cụ có thể bàn tán bổ sung thoải mái vào từng chủ đề một. Còn giờ e chỉ biết làm kiểu mỗi còm là 1 luận điểm và phản bác luôn tại còm đó, còn các còm bổ sung của các cụ nhiều khi sẽ bị lạc trôi khi thớt có ngày càng nhiều luận điểm mới để phản bác.


   
U Cay, flash001, Hóng hớt and 1 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
meotamthe
(@meotamthe)
Trưởng thành
Được ưa thích
Đạo khả đạo phi thường đạo
Trung lưu
Tài sản: 11370.48
Tham gia: 1 năm trước
Bài viết: 2366
 

Đăng bởi: @emperortan

Giá có thể tạo ra các thớt con trong thớt chính thì hay quá, các cụ có thể bàn tán bổ sung thoải mái vào từng chủ đề một. Còn giờ e chỉ biết làm kiểu mỗi còm là 1 luận điểm và phản bác luôn tại còm đó, còn các còm bổ sung của các cụ nhiều khi sẽ bị lạc trôi khi thớt có ngày càng nhiều luận điểm mới để phản bác.

Cụ có thể làm mục lục để ở trang 1 của thớt để update các nội dung nhỏ, nhưng hình như sửa bài 1 cũng không được nữa rồi, nhờ cụ admin trợ giúp cho riêng còm số 1 được phép sửa không biết có khả thi không.

 


   
emperortan, U Cay, flash001 and 1 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
emperortan
(@emperortan)
Thiếu niên
Cư dân
Tài sản: 1989.02
Tham gia: 1 năm trước
Bài viết: 165
Topic starter  

Luận điệu số 3:
- Trung Quốc mang quân đội (khoảng 300.000 quân) sang bảo vệ Bắc Việt, nên về bản chất cũng chẳng hơn gì VNCH nhờ ngoại bang là Mỹ mang quân và chư hầu sang giúp.

 

Phản bác:

Không thể phủ nhận vai trò to lớn của Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Công hòa Nhân dân Trung Hoa (CHND Trung Hoa) là quốc gia sớm nhất và đầu tiên có quan hệ, giúp đỡ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (ngày 18-1-1950, nước CHND Trung Hoa công nhận Việt Nam). Và ngược lại, Việt Nam Dân chủ cộng hòa cũng là một trong những nước đầu tiên công nhận và đặt quan hệ chính thức với nước CHND Trung Hoa (ngày 15-1-1950, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra tuyên bố công nhận nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa).

Qua các cuộc tiếp xúc trao đổi, Việt Nam đều bày tỏ mong muốn tăng cường tình đoàn kết hữu nghị với bạn, thực hiện sự phối hợp chặt chẽ giữa hai nước trong các hoạt động quốc tế và đấu tranh ngoại giao; mong muốn Trung Quốc tiếp tục giúp đỡ Việt Nam về vốn, vật chất, kinh nghiệm cho sự nghiệp xây dựng miền Bắc và củng cố nâng cao tiềm lực quốc phòng, thực hiện đấu tranh hòa bình giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Về cơ bản, các nhà lãnh đạo Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc hoàn toàn nhất trí và có những ý kiến đóng góp rất thiết thực vào những đề xuất về đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam do Đảng Lao động Việt Nam đề ra; hoàn toàn ủng hộ sự nghiệp chống Mỹ cứu nước mà nhân dân Việt Nam đang tiến hành. Chính vì vậy, mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc giúp đỡ khá lớn cả về viện trợ quân sự lẫn kinh tế. Nguồn vốn này cùng với nguồn vốn do Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác viện trợ đã góp phần quan trọng bảo đảm cho miền Bắc Việt Nam hoàn thành thắng lợi các kế hoạch khôi phục, phát triển kinh tế và quốc phòng an ninh ngay từ những năm đầu sau giải phóng.

Cuối năm 1954, đầu năm 1955, ngay khi miền Bắc vừa được giải phóng, nhân dân gặp khó khăn về mọi mặt (theo thống kê chưa đầy đủ đến tháng 10 năm 1954, miền Bắc đã có gần nửa triệu người bị đói) thì Tổng hội cứu tế Trung Quốc đã kịp thời gửi 10.000 tấn gạo, 5 triệu thước vải cho nhân dân Việt Nam. Tuy số lượng không lớn, nhưng sự giúp đỡ kịp thời ấy có ý nghĩa rất lớn. Đó là nguồn động viên và trực tiếp góp phần giúp nhân dân miền Bắc Việt Nam vượt qua những ngày đầu khó khăn sau giải phóng. Những năm tiếp sau, Trung Quốc tổ chức nhiều đoàn chuyên gia sang giúp Việt Nam trong công cuộc khôi phục phát triển kinh tế, giáo dục, văn hóa xã hội… Nhận đào tạo ngắn hạn và dài hạn hàng nghìn học viên Việt Nam tại các cơ sở đào tạo của Trung Quốc.

Về viện trợ kinh tế: Từ năm 1954 đến năm 1964, Chính phủ Trung Quốc giúp vốn khôi phục hệ thống đường sắt, bến tàu, tu sửa cầu đường, xây dựng nhà máy dệt, nhà máy thuộc da, nhà máy giấy, một số nông trường… với trị giá 1.224 nghìn triệu đồng trong 5 năm (1955-1960).

Ngày 31-1-1961, tại Bắc Kinh, thay mặt Chính phủ Việt Nam, đồng chí Nguyễn Duy Trịnh, Phó Thủ tướng, kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước đã cùng đồng chí Bạc Nhất Ba, Phó Thủ tướng, kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước nước CHND Trung Hoa ký Hiệp định Trung Quốc cho Việt Nam vay dài hạn 141.750.000 Rúp chuyển đổi trong 7 năm (1961-1967) để thanh toán các khoản viện trợ kỹ thuật trong xây dựng và mở rộng 28 xí nghiệp gồm luyện kim, công nghiệp nhẹ, đường sắt. Ngoài ra, Trung Quốc còn giúp Việt Nam khảo sát, xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện cùng toàn bộ vốn cây, con giống, tài liệu khoa học kỹ thuật phục vụ cho việc xây dựng 8 nông trường chăn nuôi, trồng trọt đầu tiên của quân đội… Có thể nói nhiều cơ sở công nghiệp đầu tiên trên miền Bắc đều đã được xây dựng từ nguồn vốn này.

Về viện trợ quân sự: Trong những năm này, Việt Nam đã nhận được một khối lượng vũ khí, đạn dược, trang thiết bị kỹ thuật và hậu cần tương đối lớn. Tổng trọng lượng trang thiết bị quân sự và vật tư hậu cần mà Trung Quốc đã viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam lên tới 58.953 tấn, trị giá 382 triệu NDT. Cụ thể các năm như sau: năm 1954 (tính từ ngày 1-6-1954 trở đi) 16.734 tấn; năm 1955 là 6.546 tấn, trị giá 23.316.000 NDT; năm 1956 là 1.380 tấn, trị giá 14.423.000 NDT; năm 1957 là 4.019 tấn, trị giá 22.682.000 NDT; năm 1958 là 4.410 tấn, trị giá 39.336.000 NDT; năm 1959 là 1.672 tấn, trị giá 25.608.000 NDT; năm 1960 là 1.562 tấn, trị giá 18.898.000 NDT; năm 1961 là 6.234 tấn, trị giá 30.276.000 NDT; năm 1962 là 2.717 tấn, trị giá 44.332.000 NDT; năm 1963 là 3.538 tấn, trị giá 40.150.000 NDT; năm 1964 là 10.141 tấn, trị giá 122.983.000 NDT.

Tuy nhiên, có thể do nhiều lý do mà nguồn viện trợ quân sự của Trung Quốc dành cho Việt Nam qua từng năm rất khác nhau cả về số lượng, chất lượng và chủng loại. Cụ thể từ cuối năm 1959 đến những năm đầu 1960, Việt Nam thực hiện chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng ở miền Nam thì cũng là hai năm Việt Nam nhận được khối lượng và giá trị các mặt hàng viện trợ ít nhất so với các năm trước và sau đó. Vũ khí, loại phương tiện rất cần thiết cho chiến trường và trong chiến đấu thì Việt Nam nhận được rất nhỏ giọt, theo chiều hướng thường năm trước cao hơn năm sau. Chẳng hạn năm 1959, Việt Nam nhận được 429 tấn vũ khí, thì đến năm 1960 chỉ còn 229 tấn. Năm 1961 tụt xuống còn 188 tấn. Năm 1962 là 162 tấn. Sang năm 1963 chỉ còn 79 tấn, nhưng tới năm 1964 lại tăng vọt lên 753 tấn.

Không chỉ viện trợ vũ khí, vật tư hậu cần mà Trung Quốc còn giúp ta từ thiết kế, cung cấp nguyên vật liệu, thi công xây dựng, cung cấp máy móc thiết bị, nguyên liệu sản xuất, tài liệu sản xuất cho hai xưởng sửa chữa pháo và khí tài quang học (Z1) tại huyện Trấn Yếu, tỉnh Yên Bái trị giá 700.116 rúp và xưởng sửa chữa đạn (Z2) tại huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang trị giá 418.000 rúp. Các công trình công nghiệp quân sự này đã nhanh chóng đưa vào sản xuất và phát huy tác dụng. Ngoài ra, Trung Quốc còn nhận đào tạo hàng nghìn học viên quân sự Việt Nam tại các trường quân sự của Trung Quốc như đã kể trên; giúp thành lập huấn luyện và trang bị trung đoàn không quân Việt Nam đầu tiên ở Mông Tự, lập các căn cứ dự phòng và chuyển tiếp vật chất ở đảo Hải Nam. Tại các lĩnh vực, ngành chủ chốt trong quân đội đều có mặt các chuyên gia Trung Quốc hướng dẫn, giúp đỡ. Tuy số lượng không nhiều, tính đến ngày 26 tháng 4 năm 1961, tổng số chuyên gia Trung Quốc đã từng công tác hoặc hiện đang công tại Việt Nam là 566 người nhưng cùng với sự giúp đỡ về vũ khí trang bị, phương tiện chiến tranh đã trực tiếp góp phần vào việc tăng cường tiềm lực quốc phòng và xây dựng một số ngành, lĩnh vực chủ chốt của Quân đội nhân dân Việt Nam trong những năm tháng buổi đầu tiên lên chính quy hiện đại.

Bên cạnh sự giúp đỡ về vật chất, Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc còn dành cho Việt Nam sự ủng hộ to lớn về chính trị. Trung Quốc là một trong những quốc gia đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa của đế quốc Mỹ ở Việt Nam. Với thái độ kiên quyết ủng hộ Việt Nam kháng chiến, các nhà lãnh đạo và nhân dân Trung Quốc đã tổ chức nhiều hoạt động phong phú biểu hiện tình đoàn kết hữu nghị với nhân dân Việt Nam.

 

Nguồn: https://www.qdnd.vn/ho-so-su-kien/dai-tuong-vo-nguyen-giap/tim-hieu-su-giup-do-cua-trung-quoc-cho-viet-nam-trong-nhung-nam-dau-khang-chien-chong-my-cuu-nuoc-1954-1964-260873

 

Hiện, nhiều đối tượng cả ở Trung Quốc, Việt Nam và nước ngoài khi sử dụng luận điệu trên thường dẫn chứng tài liệu "The Dragon in the Jungle: The Chinese Army in the Vietnam War" của giáo sư Xiaobing Li, đại học Central Oklahoma, Mỹ,trong đó có thông tin "Ngày 9/6/1965, những người lính Trung Quốc đầu tiên sang Bắc Việt. Từ 1965 tới 1970, Trung Quốc đưa 320.000 lính sang Việt Nam để giúp đỡ Bắc Việt". Tuy nhiên, phải nhấn mạnh, tác giả không hề tham khảo nguồn thông tin từ phía Việt Nam mà sử dụng nguồn tài liệu từ phía Trung Quốc. Tác giả từng phục vụ trong Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc. Điều này khiến thông tin trở nên 1 chiều, thiếu tin cậy.

Tại Việt Nam, không hề có bằng chứng hay nhân chứng nào cho thấy từng tồn tại đội quân vũ trang lên tới 300.000 quân của Trung Quốc tại Bắc Việt Nam giai đoạn này. Đây có thể là số lượng quân nhân và kỹ thuật viên Trung Quốc sang hỗ trợ kỹ thuật, xây dựng đường sá, cơ sở vật chất và đào tạo, hướng dẫn chiến đấu cho Việt Nam chứ không có mục đích trực tiếp tham gia chiến đấu. Số lượng 300.000 một là chưa thể kiểm chứng, hai là đây nhiều khả năng là số liệu cộng dồn (tức đây là tổng số người được luân chuyển liên tục chứ không phải con số thường trực tại một thời điểm).

Cũng có thông tin Trung Quốc cử 2 sư đoàn phòng không đến hỗ trợ Việt Nam và bắn hạ nhiều máy bay Mỹ, cái này thì hiện cá nhân tôi chưa tìm được nguồn đáng tin cậy của Việt Nam để kiểm chứng.


Rất mong các cụ trong otonet nếu có thông tin khác có thể bổ sung hoặc chỉnh sửa!

 

 


   
Big bang, U Cay, Bigmoto and 4 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
Bigmoto
(@bigmoto)
Công dân
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 5272.93
Tham gia: 1 năm trước
Bài viết: 1189
 

Đăng bởi: @emperortan

Luận điệu số 3:
- Trung Quốc mang quân đội (khoảng 300.000 quân) sang bảo vệ Bắc Việt, nên về bản chất cũng chẳng hơn gì VNCH nhờ ngoại bang là Mỹ mang quân và chư hầu sang giúp.

 

Phản bác:

Không thể phủ nhận vai trò to lớn của Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Công hòa Nhân dân Trung Hoa (CHND Trung Hoa) là quốc gia sớm nhất và đầu tiên có quan hệ, giúp đỡ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (ngày 18-1-1950, nước CHND Trung Hoa công nhận Việt Nam). Và ngược lại, Việt Nam Dân chủ cộng hòa cũng là một trong những nước đầu tiên công nhận và đặt quan hệ chính thức với nước CHND Trung Hoa (ngày 15-1-1950, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra tuyên bố công nhận nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa).

Qua các cuộc tiếp xúc trao đổi, Việt Nam đều bày tỏ mong muốn tăng cường tình đoàn kết hữu nghị với bạn, thực hiện sự phối hợp chặt chẽ giữa hai nước trong các hoạt động quốc tế và đấu tranh ngoại giao; mong muốn Trung Quốc tiếp tục giúp đỡ Việt Nam về vốn, vật chất, kinh nghiệm cho sự nghiệp xây dựng miền Bắc và củng cố nâng cao tiềm lực quốc phòng, thực hiện đấu tranh hòa bình giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Về cơ bản, các nhà lãnh đạo Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc hoàn toàn nhất trí và có những ý kiến đóng góp rất thiết thực vào những đề xuất về đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam do Đảng Lao động Việt Nam đề ra; hoàn toàn ủng hộ sự nghiệp chống Mỹ cứu nước mà nhân dân Việt Nam đang tiến hành. Chính vì vậy, mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc giúp đỡ khá lớn cả về viện trợ quân sự lẫn kinh tế. Nguồn vốn này cùng với nguồn vốn do Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác viện trợ đã góp phần quan trọng bảo đảm cho miền Bắc Việt Nam hoàn thành thắng lợi các kế hoạch khôi phục, phát triển kinh tế và quốc phòng an ninh ngay từ những năm đầu sau giải phóng.

Cuối năm 1954, đầu năm 1955, ngay khi miền Bắc vừa được giải phóng, nhân dân gặp khó khăn về mọi mặt (theo thống kê chưa đầy đủ đến tháng 10 năm 1954, miền Bắc đã có gần nửa triệu người bị đói) thì Tổng hội cứu tế Trung Quốc đã kịp thời gửi 10.000 tấn gạo, 5 triệu thước vải cho nhân dân Việt Nam. Tuy số lượng không lớn, nhưng sự giúp đỡ kịp thời ấy có ý nghĩa rất lớn. Đó là nguồn động viên và trực tiếp góp phần giúp nhân dân miền Bắc Việt Nam vượt qua những ngày đầu khó khăn sau giải phóng. Những năm tiếp sau, Trung Quốc tổ chức nhiều đoàn chuyên gia sang giúp Việt Nam trong công cuộc khôi phục phát triển kinh tế, giáo dục, văn hóa xã hội… Nhận đào tạo ngắn hạn và dài hạn hàng nghìn học viên Việt Nam tại các cơ sở đào tạo của Trung Quốc.

Về viện trợ kinh tế: Từ năm 1954 đến năm 1964, Chính phủ Trung Quốc giúp vốn khôi phục hệ thống đường sắt, bến tàu, tu sửa cầu đường, xây dựng nhà máy dệt, nhà máy thuộc da, nhà máy giấy, một số nông trường… với trị giá 1.224 nghìn triệu đồng trong 5 năm (1955-1960).

Ngày 31-1-1961, tại Bắc Kinh, thay mặt Chính phủ Việt Nam, đồng chí Nguyễn Duy Trịnh, Phó Thủ tướng, kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước đã cùng đồng chí Bạc Nhất Ba, Phó Thủ tướng, kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước nước CHND Trung Hoa ký Hiệp định Trung Quốc cho Việt Nam vay dài hạn 141.750.000 Rúp chuyển đổi trong 7 năm (1961-1967) để thanh toán các khoản viện trợ kỹ thuật trong xây dựng và mở rộng 28 xí nghiệp gồm luyện kim, công nghiệp nhẹ, đường sắt. Ngoài ra, Trung Quốc còn giúp Việt Nam khảo sát, xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện cùng toàn bộ vốn cây, con giống, tài liệu khoa học kỹ thuật phục vụ cho việc xây dựng 8 nông trường chăn nuôi, trồng trọt đầu tiên của quân đội… Có thể nói nhiều cơ sở công nghiệp đầu tiên trên miền Bắc đều đã được xây dựng từ nguồn vốn này.

Về viện trợ quân sự: Trong những năm này, Việt Nam đã nhận được một khối lượng vũ khí, đạn dược, trang thiết bị kỹ thuật và hậu cần tương đối lớn. Tổng trọng lượng trang thiết bị quân sự và vật tư hậu cần mà Trung Quốc đã viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam lên tới 58.953 tấn, trị giá 382 triệu NDT. Cụ thể các năm như sau: năm 1954 (tính từ ngày 1-6-1954 trở đi) 16.734 tấn; năm 1955 là 6.546 tấn, trị giá 23.316.000 NDT; năm 1956 là 1.380 tấn, trị giá 14.423.000 NDT; năm 1957 là 4.019 tấn, trị giá 22.682.000 NDT; năm 1958 là 4.410 tấn, trị giá 39.336.000 NDT; năm 1959 là 1.672 tấn, trị giá 25.608.000 NDT; năm 1960 là 1.562 tấn, trị giá 18.898.000 NDT; năm 1961 là 6.234 tấn, trị giá 30.276.000 NDT; năm 1962 là 2.717 tấn, trị giá 44.332.000 NDT; năm 1963 là 3.538 tấn, trị giá 40.150.000 NDT; năm 1964 là 10.141 tấn, trị giá 122.983.000 NDT.

Tuy nhiên, có thể do nhiều lý do mà nguồn viện trợ quân sự của Trung Quốc dành cho Việt Nam qua từng năm rất khác nhau cả về số lượng, chất lượng và chủng loại. Cụ thể từ cuối năm 1959 đến những năm đầu 1960, Việt Nam thực hiện chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng ở miền Nam thì cũng là hai năm Việt Nam nhận được khối lượng và giá trị các mặt hàng viện trợ ít nhất so với các năm trước và sau đó. Vũ khí, loại phương tiện rất cần thiết cho chiến trường và trong chiến đấu thì Việt Nam nhận được rất nhỏ giọt, theo chiều hướng thường năm trước cao hơn năm sau. Chẳng hạn năm 1959, Việt Nam nhận được 429 tấn vũ khí, thì đến năm 1960 chỉ còn 229 tấn. Năm 1961 tụt xuống còn 188 tấn. Năm 1962 là 162 tấn. Sang năm 1963 chỉ còn 79 tấn, nhưng tới năm 1964 lại tăng vọt lên 753 tấn.

Không chỉ viện trợ vũ khí, vật tư hậu cần mà Trung Quốc còn giúp ta từ thiết kế, cung cấp nguyên vật liệu, thi công xây dựng, cung cấp máy móc thiết bị, nguyên liệu sản xuất, tài liệu sản xuất cho hai xưởng sửa chữa pháo và khí tài quang học (Z1) tại huyện Trấn Yếu, tỉnh Yên Bái trị giá 700.116 rúp và xưởng sửa chữa đạn (Z2) tại huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang trị giá 418.000 rúp. Các công trình công nghiệp quân sự này đã nhanh chóng đưa vào sản xuất và phát huy tác dụng. Ngoài ra, Trung Quốc còn nhận đào tạo hàng nghìn học viên quân sự Việt Nam tại các trường quân sự của Trung Quốc như đã kể trên; giúp thành lập huấn luyện và trang bị trung đoàn không quân Việt Nam đầu tiên ở Mông Tự, lập các căn cứ dự phòng và chuyển tiếp vật chất ở đảo Hải Nam. Tại các lĩnh vực, ngành chủ chốt trong quân đội đều có mặt các chuyên gia Trung Quốc hướng dẫn, giúp đỡ. Tuy số lượng không nhiều, tính đến ngày 26 tháng 4 năm 1961, tổng số chuyên gia Trung Quốc đã từng công tác hoặc hiện đang công tại Việt Nam là 566 người nhưng cùng với sự giúp đỡ về vũ khí trang bị, phương tiện chiến tranh đã trực tiếp góp phần vào việc tăng cường tiềm lực quốc phòng và xây dựng một số ngành, lĩnh vực chủ chốt của Quân đội nhân dân Việt Nam trong những năm tháng buổi đầu tiên lên chính quy hiện đại.

Bên cạnh sự giúp đỡ về vật chất, Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc còn dành cho Việt Nam sự ủng hộ to lớn về chính trị. Trung Quốc là một trong những quốc gia đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa của đế quốc Mỹ ở Việt Nam. Với thái độ kiên quyết ủng hộ Việt Nam kháng chiến, các nhà lãnh đạo và nhân dân Trung Quốc đã tổ chức nhiều hoạt động phong phú biểu hiện tình đoàn kết hữu nghị với nhân dân Việt Nam.

 

Nguồn: https://www.qdnd.vn/ho-so-su-kien/dai-tuong-vo-nguyen-giap/tim-hieu-su-giup-do-cua-trung-quoc-cho-viet-nam-trong-nhung-nam-dau-khang-chien-chong-my-cuu-nuoc-1954-1964-260873

 

Hiện, nhiều đối tượng cả ở Trung Quốc, Việt Nam và nước ngoài khi sử dụng luận điệu trên thường dẫn chứng tài liệu "The Dragon in the Jungle: The Chinese Army in the Vietnam War" của giáo sư Xiaobing Li, đại học Central Oklahoma, Mỹ,trong đó có thông tin "Ngày 9/6/1965, những người lính Trung Quốc đầu tiên sang Bắc Việt. Từ 1965 tới 1970, Trung Quốc đưa 320.000 lính sang Việt Nam để giúp đỡ Bắc Việt". Tuy nhiên, phải nhấn mạnh, tác giả không hề tham khảo nguồn thông tin từ phía Việt Nam mà sử dụng nguồn tài liệu từ phía Trung Quốc. Tác giả từng phục vụ trong Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc. Điều này khiến thông tin trở nên 1 chiều, thiếu tin cậy.

Tại Việt Nam, không hề có bằng chứng hay nhân chứng nào cho thấy từng tồn tại đội quân vũ trang lên tới 300.000 quân của Trung Quốc tại Bắc Việt Nam giai đoạn này. Đây có thể là số lượng quân nhân và kỹ thuật viên Trung Quốc sang hỗ trợ kỹ thuật, xây dựng đường sá, cơ sở vật chất và đào tạo, hướng dẫn chiến đấu cho Việt Nam chứ không có mục đích trực tiếp tham gia chiến đấu. Số lượng 300.000 một là chưa thể kiểm chứng, hai là đây nhiều khả năng là số liệu cộng dồn (tức đây là tổng số người được luân chuyển liên tục chứ không phải con số thường trực tại một thời điểm).

Cũng có thông tin Trung Quốc cử 2 sư đoàn phòng không đến hỗ trợ Việt Nam và bắn hạ nhiều máy bay Mỹ, cái này thì hiện cá nhân tôi chưa tìm được nguồn đáng tin cậy của Việt Nam để kiểm chứng.


Rất mong các cụ trong otonet nếu có thông tin khác có thể bổ sung hoặc chỉnh sửa!

 

 

Vụ cử sư đoàn PK em cũng chỉ nghe đồn, và hình như ko bắn được mây bay Mỹ nào thì phải.

Còn chuyên gia, công nhân TQ sang thì có. Cơ quan các cụ nhà em từng có chuyên gia và công nhân TQ sang vừa thi công vừa hướng dẫn VN làm hệ thống bể chứa xăng dầu.

 


   
Phan khoi lon, Big bang, U Cay and 1 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
Ktqsminh
(@ktqsminh)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu
Tài sản: 10452.76
Tham gia: 1 năm trước
Bài viết: 1526
 

Đăng bởi: @bigmoto

Đăng bởi: @emperortan

Luận điệu số 3:
- Trung Quốc mang quân đội (khoảng 300.000 quân) sang bảo vệ Bắc Việt, nên về bản chất cũng chẳng hơn gì VNCH nhờ ngoại bang là Mỹ mang quân và chư hầu sang giúp.

 

Phản bác:

Không thể phủ nhận vai trò to lớn của Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Công hòa Nhân dân Trung Hoa (CHND Trung Hoa) là quốc gia sớm nhất và đầu tiên có quan hệ, giúp đỡ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (ngày 18-1-1950, nước CHND Trung Hoa công nhận Việt Nam). Và ngược lại, Việt Nam Dân chủ cộng hòa cũng là một trong những nước đầu tiên công nhận và đặt quan hệ chính thức với nước CHND Trung Hoa (ngày 15-1-1950, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra tuyên bố công nhận nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa).

Qua các cuộc tiếp xúc trao đổi, Việt Nam đều bày tỏ mong muốn tăng cường tình đoàn kết hữu nghị với bạn, thực hiện sự phối hợp chặt chẽ giữa hai nước trong các hoạt động quốc tế và đấu tranh ngoại giao; mong muốn Trung Quốc tiếp tục giúp đỡ Việt Nam về vốn, vật chất, kinh nghiệm cho sự nghiệp xây dựng miền Bắc và củng cố nâng cao tiềm lực quốc phòng, thực hiện đấu tranh hòa bình giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Về cơ bản, các nhà lãnh đạo Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc hoàn toàn nhất trí và có những ý kiến đóng góp rất thiết thực vào những đề xuất về đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam do Đảng Lao động Việt Nam đề ra; hoàn toàn ủng hộ sự nghiệp chống Mỹ cứu nước mà nhân dân Việt Nam đang tiến hành. Chính vì vậy, mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc giúp đỡ khá lớn cả về viện trợ quân sự lẫn kinh tế. Nguồn vốn này cùng với nguồn vốn do Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác viện trợ đã góp phần quan trọng bảo đảm cho miền Bắc Việt Nam hoàn thành thắng lợi các kế hoạch khôi phục, phát triển kinh tế và quốc phòng an ninh ngay từ những năm đầu sau giải phóng.

Cuối năm 1954, đầu năm 1955, ngay khi miền Bắc vừa được giải phóng, nhân dân gặp khó khăn về mọi mặt (theo thống kê chưa đầy đủ đến tháng 10 năm 1954, miền Bắc đã có gần nửa triệu người bị đói) thì Tổng hội cứu tế Trung Quốc đã kịp thời gửi 10.000 tấn gạo, 5 triệu thước vải cho nhân dân Việt Nam. Tuy số lượng không lớn, nhưng sự giúp đỡ kịp thời ấy có ý nghĩa rất lớn. Đó là nguồn động viên và trực tiếp góp phần giúp nhân dân miền Bắc Việt Nam vượt qua những ngày đầu khó khăn sau giải phóng. Những năm tiếp sau, Trung Quốc tổ chức nhiều đoàn chuyên gia sang giúp Việt Nam trong công cuộc khôi phục phát triển kinh tế, giáo dục, văn hóa xã hội… Nhận đào tạo ngắn hạn và dài hạn hàng nghìn học viên Việt Nam tại các cơ sở đào tạo của Trung Quốc.

Về viện trợ kinh tế: Từ năm 1954 đến năm 1964, Chính phủ Trung Quốc giúp vốn khôi phục hệ thống đường sắt, bến tàu, tu sửa cầu đường, xây dựng nhà máy dệt, nhà máy thuộc da, nhà máy giấy, một số nông trường… với trị giá 1.224 nghìn triệu đồng trong 5 năm (1955-1960).

Ngày 31-1-1961, tại Bắc Kinh, thay mặt Chính phủ Việt Nam, đồng chí Nguyễn Duy Trịnh, Phó Thủ tướng, kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước đã cùng đồng chí Bạc Nhất Ba, Phó Thủ tướng, kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước nước CHND Trung Hoa ký Hiệp định Trung Quốc cho Việt Nam vay dài hạn 141.750.000 Rúp chuyển đổi trong 7 năm (1961-1967) để thanh toán các khoản viện trợ kỹ thuật trong xây dựng và mở rộng 28 xí nghiệp gồm luyện kim, công nghiệp nhẹ, đường sắt. Ngoài ra, Trung Quốc còn giúp Việt Nam khảo sát, xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện cùng toàn bộ vốn cây, con giống, tài liệu khoa học kỹ thuật phục vụ cho việc xây dựng 8 nông trường chăn nuôi, trồng trọt đầu tiên của quân đội… Có thể nói nhiều cơ sở công nghiệp đầu tiên trên miền Bắc đều đã được xây dựng từ nguồn vốn này.

Về viện trợ quân sự: Trong những năm này, Việt Nam đã nhận được một khối lượng vũ khí, đạn dược, trang thiết bị kỹ thuật và hậu cần tương đối lớn. Tổng trọng lượng trang thiết bị quân sự và vật tư hậu cần mà Trung Quốc đã viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam lên tới 58.953 tấn, trị giá 382 triệu NDT. Cụ thể các năm như sau: năm 1954 (tính từ ngày 1-6-1954 trở đi) 16.734 tấn; năm 1955 là 6.546 tấn, trị giá 23.316.000 NDT; năm 1956 là 1.380 tấn, trị giá 14.423.000 NDT; năm 1957 là 4.019 tấn, trị giá 22.682.000 NDT; năm 1958 là 4.410 tấn, trị giá 39.336.000 NDT; năm 1959 là 1.672 tấn, trị giá 25.608.000 NDT; năm 1960 là 1.562 tấn, trị giá 18.898.000 NDT; năm 1961 là 6.234 tấn, trị giá 30.276.000 NDT; năm 1962 là 2.717 tấn, trị giá 44.332.000 NDT; năm 1963 là 3.538 tấn, trị giá 40.150.000 NDT; năm 1964 là 10.141 tấn, trị giá 122.983.000 NDT.

Tuy nhiên, có thể do nhiều lý do mà nguồn viện trợ quân sự của Trung Quốc dành cho Việt Nam qua từng năm rất khác nhau cả về số lượng, chất lượng và chủng loại. Cụ thể từ cuối năm 1959 đến những năm đầu 1960, Việt Nam thực hiện chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng ở miền Nam thì cũng là hai năm Việt Nam nhận được khối lượng và giá trị các mặt hàng viện trợ ít nhất so với các năm trước và sau đó. Vũ khí, loại phương tiện rất cần thiết cho chiến trường và trong chiến đấu thì Việt Nam nhận được rất nhỏ giọt, theo chiều hướng thường năm trước cao hơn năm sau. Chẳng hạn năm 1959, Việt Nam nhận được 429 tấn vũ khí, thì đến năm 1960 chỉ còn 229 tấn. Năm 1961 tụt xuống còn 188 tấn. Năm 1962 là 162 tấn. Sang năm 1963 chỉ còn 79 tấn, nhưng tới năm 1964 lại tăng vọt lên 753 tấn.

Không chỉ viện trợ vũ khí, vật tư hậu cần mà Trung Quốc còn giúp ta từ thiết kế, cung cấp nguyên vật liệu, thi công xây dựng, cung cấp máy móc thiết bị, nguyên liệu sản xuất, tài liệu sản xuất cho hai xưởng sửa chữa pháo và khí tài quang học (Z1) tại huyện Trấn Yếu, tỉnh Yên Bái trị giá 700.116 rúp và xưởng sửa chữa đạn (Z2) tại huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang trị giá 418.000 rúp. Các công trình công nghiệp quân sự này đã nhanh chóng đưa vào sản xuất và phát huy tác dụng. Ngoài ra, Trung Quốc còn nhận đào tạo hàng nghìn học viên quân sự Việt Nam tại các trường quân sự của Trung Quốc như đã kể trên; giúp thành lập huấn luyện và trang bị trung đoàn không quân Việt Nam đầu tiên ở Mông Tự, lập các căn cứ dự phòng và chuyển tiếp vật chất ở đảo Hải Nam. Tại các lĩnh vực, ngành chủ chốt trong quân đội đều có mặt các chuyên gia Trung Quốc hướng dẫn, giúp đỡ. Tuy số lượng không nhiều, tính đến ngày 26 tháng 4 năm 1961, tổng số chuyên gia Trung Quốc đã từng công tác hoặc hiện đang công tại Việt Nam là 566 người nhưng cùng với sự giúp đỡ về vũ khí trang bị, phương tiện chiến tranh đã trực tiếp góp phần vào việc tăng cường tiềm lực quốc phòng và xây dựng một số ngành, lĩnh vực chủ chốt của Quân đội nhân dân Việt Nam trong những năm tháng buổi đầu tiên lên chính quy hiện đại.

Bên cạnh sự giúp đỡ về vật chất, Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc còn dành cho Việt Nam sự ủng hộ to lớn về chính trị. Trung Quốc là một trong những quốc gia đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa của đế quốc Mỹ ở Việt Nam. Với thái độ kiên quyết ủng hộ Việt Nam kháng chiến, các nhà lãnh đạo và nhân dân Trung Quốc đã tổ chức nhiều hoạt động phong phú biểu hiện tình đoàn kết hữu nghị với nhân dân Việt Nam.

 

Nguồn: https://www.qdnd.vn/ho-so-su-kien/dai-tuong-vo-nguyen-giap/tim-hieu-su-giup-do-cua-trung-quoc-cho-viet-nam-trong-nhung-nam-dau-khang-chien-chong-my-cuu-nuoc-1954-1964-260873

 

Hiện, nhiều đối tượng cả ở Trung Quốc, Việt Nam và nước ngoài khi sử dụng luận điệu trên thường dẫn chứng tài liệu "The Dragon in the Jungle: The Chinese Army in the Vietnam War" của giáo sư Xiaobing Li, đại học Central Oklahoma, Mỹ,trong đó có thông tin "Ngày 9/6/1965, những người lính Trung Quốc đầu tiên sang Bắc Việt. Từ 1965 tới 1970, Trung Quốc đưa 320.000 lính sang Việt Nam để giúp đỡ Bắc Việt". Tuy nhiên, phải nhấn mạnh, tác giả không hề tham khảo nguồn thông tin từ phía Việt Nam mà sử dụng nguồn tài liệu từ phía Trung Quốc. Tác giả từng phục vụ trong Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc. Điều này khiến thông tin trở nên 1 chiều, thiếu tin cậy.

Tại Việt Nam, không hề có bằng chứng hay nhân chứng nào cho thấy từng tồn tại đội quân vũ trang lên tới 300.000 quân của Trung Quốc tại Bắc Việt Nam giai đoạn này. Đây có thể là số lượng quân nhân và kỹ thuật viên Trung Quốc sang hỗ trợ kỹ thuật, xây dựng đường sá, cơ sở vật chất và đào tạo, hướng dẫn chiến đấu cho Việt Nam chứ không có mục đích trực tiếp tham gia chiến đấu. Số lượng 300.000 một là chưa thể kiểm chứng, hai là đây nhiều khả năng là số liệu cộng dồn (tức đây là tổng số người được luân chuyển liên tục chứ không phải con số thường trực tại một thời điểm).

Cũng có thông tin Trung Quốc cử 2 sư đoàn phòng không đến hỗ trợ Việt Nam và bắn hạ nhiều máy bay Mỹ, cái này thì hiện cá nhân tôi chưa tìm được nguồn đáng tin cậy của Việt Nam để kiểm chứng.


Rất mong các cụ trong otonet nếu có thông tin khác có thể bổ sung hoặc chỉnh sửa!

 

 

Vụ cử sư đoàn PK em cũng chỉ nghe đồn, và hình như ko bắn được mây bay Mỹ nào thì phải.

Còn chuyên gia, công nhân TQ sang thì có. Cơ quan các cụ nhà em từng có chuyên gia và công nhân TQ sang vừa thi công vừa hướng dẫn VN làm hệ thống bể chứa xăng dầu.

 

Trung Quốc có cử các đơn vị pháo phòng không sang bảo vệ các đơn vị làm đường của họ. 

Nếu nói có đơn vị tham chiến thực sự là trung đoàn máy bay tiêm kích của Triều Tiên đóng tại sân bay Kép. 

 


   
Trả lờiTrích dẫn
(@big-bang)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu
Tài sản: 14215.72
Tham gia: 1 năm trước
Bài viết: 2524
 

Đăng bởi: @meotamthe

Chủ đề gọi chiến tranh xâm lược Việt Nam là nội chiến của Việt Nam em vẫn nói với F1, giả sử đối phương có nội chiến mà anh lại đem quân vào tham dự cuộc nội chiến đấy, về bề ngoài có thể tự nói đó là tham gia vào nội chiến của nước khác, nhưng về bản chất, đó là nhân đối phương có nội loạn mà đem quân vào cướp, lịch sử Việt Nam chứng kiến rất nhiều cuộc xâm lược như vậy, ví dụ như cuộc xâm lược của nhà Minh đối với nhà Hồ của Việt Nam. Vì vậy, chiến tranh tại Việt Nam của Mỹ bản chất là xâm lược, chỉ có điều cách tiếp cận và khởi động nó không giống các cuộc xâm lược khác, nhưng bản chất xâm lược là không thay đổi, không bỗng dưng mà quân Mỹ mất hơn 50K quân chết trận tại Việt Nam. Thêm nữa, các tài liệu giải mật sau này có đề cập đến nội dung trao đổi của Kissinger với Chu Ân Lai nhằm khiến Trung Quốc tác động đến Việt Nam để Việt Nam chấp nhận cho quân Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam thông qua đàm phán nhằm tránh khỏi kết cục thua chạy khỏi Việt Nam, nhờ có cuộc rút quân như vậy, Mỹ mới có vốn để sáng tạo ra lý luận chiến tranh Việt Nam là nội chiến của Việt Nam, từ đó mới có cách giải thích để né tránh thực tế xâm lược Việt Nam của Mỹ và thực tế thua trận tại cuộc chiến xâm lược Việt Nam của Mỹ.

Từ hồi F1 nhà em học tiếng Anh, em đã phải thường xuyên nói về vấn đề chiến tranh, khái niệm chiến tranh từ xưa đến nay với F1 để nó hiểu chiến tranh vốn không thay đổi về bản chất và cách thức thực hiện, có chăng nó sẽ khác biệt theo cách tuyên truyền thông tin của các bên, nhưng nếu hiểu rõ nguyên lý của chiến tranh thì sẽ nhận ra rõ ràng động cơ của cuộc chiến và vai trò của các bên trong cuộc chiến đó, khi hiểu được sẽ không còn lẫn lộn khái niệm do bị tuyên truyền thông tin làm nhiễu nữa.

Cụ cần thêm thông tin việc Mỹ giúp Pháp vũ khí, máy bay để đánh lại Việt Minh là đủ biết Mỹ muốn gì rồi.

Việc Mỹ từ chối công nhận độc lập của Việt nam khi ông Hồ viết thư cho Mỹ cũng đủ để nói lên Mỹ nhìn nhận về Việt nam thế nào.

 

Маруся идет в школу


   
Trả lờiTrích dẫn
(@langtubachkhoa)
Lão niên
Được ưa thích
Bá tước Phương Nam – langtubachkhoa
Trung lưu rank 2
Tài sản: 40575.5
Tham gia: 1 năm trước
Bài viết: 11409
 

Đăng bởi: @emperortan

Kính thưa các cụ. Thời gian qua khi theo dõi các kênh thông tin khắp cõi, từ mạng đến tivi, từ báo chí đến bà bán rau, từ chính trị gia đến các cháu cấp 2 còn hôi sữa... em thấy cực kỳ quan ngại rằng đang nổi lên một trào lưu truyền bá các thông tin sai sự thật về lịch sử. Không nói đến khía cạnh tranh cãi của lịch sử, nhưng cái đáng bàn ở đây là việc bẻ sử ở cả những vấn đề được thống nhất cao trong giới sử học quốc tế, để phục vụ các mục đích nào đó hoặc đơn thuần là do bị nhồi sọ.

Em xin lập thớt này để các cụ có nhiều thông tin đóng góp những kiến thức và nguồn thông tin quý để giúp chính chúng ta khi đối mặt với vấn đề này có thể nhanh chóng đưa ra các thông tin phản bác.

Em xin bắt đầu với luận điệu bẻ sử số 1 liên quan đến chủ đề Thế chiến 2:

- Không có Lend - Lease của Mỹ thì Liên Xô không thể chiến thắng phát xít Đức.

Phản bác:

Trong lịch sử thực tế của Thế chiến thứ hai, Liên Xô đã đánh bại Đức Quốc xã . Không có phần Lend-Lease nào của Hoa Kỳ được giao cho Liên Xô trong năm quan trọng nhất là 1941 đối với Liên Xô.

Liên Xô đã mất khoảng 3 triệu binh sĩ trong 6 tháng năm 1941, gần như toàn bộ Lực lượng Không quân Đỏ, phần lớn xe tăng, số lượng lớn đại bác/thiết bị/vật tư và vùng lãnh thổ rộng lớn. Tuy nhiên, tổng số hàng hóa Lend-Lease của Hoa Kỳ giao cho Liên Xô vào năm 1942 vẫn ít hơn/không đáng kể so với sản lượng chiến tranh của Liên Xô được thu hồi ồ ạt và tăng quy mô trong năm 1942.

Nó còn bổ sung thêm vào bức tranh ít/không đáng kể, đặc biệt là 'xe tăng M3 Lee w. Súng 37mm' được giao vào năm 1942, là loại xe tăng duy nhất được Hoa Kỳ giao vào năm 1942, đã lỗi thời so với các loại xe tăng 'Panzer III' và 'Panzer IV' của Wehrmacht. M3 được Liên Xô đặt biệt danh là “Chiếc quan tài cho sáu người”. Liên Xô đặc biệt thiếu xe tăng và máy bay vào năm 1942 sau những tổn thất nặng nề năm 1941.

Việc tài trợ "hàng triệu chiếc ủng" cũng là một sự cường điệu mạnh mẽ. Trên thực tế, có 0,99 triệu đôi ủng có tên “Giày, dịch vụ, quân nhân” trong danh sách Lend-Lease của Mỹ được giao cho Liên Xô (trong khi Anh nhận được 1,5 triệu đôi cùng loại). Con số được cho là “hàng triệu” đôi ủng có lẽ bắt nguồn từ 13,5 triệu “Giày, viện trợ chiến tranh của Nga” được giao cho lực lượng lao động dân sự Liên Xô và những thường dân khác.

 

Tuy nhiên, số liệu 2000 đầu máy xe lửa Lend-Lease của Hoa Kỳ là đúng. Nhưng chúng được chuyển giao muộn nhất là vào năm 1944–1945, phần lớn là vào nửa cuối năm 1944 - Rất lâu sau khi Liên Xô đánh bại Đức Quốc xã về mặt chiến lược và cũng về mặt chiến thuật, đẩy lùi quân Đức vài trăm km trên toàn bộ mặt trận phía đông, đặc biệt là phần phía nam và trung tâm của nó. Điều tương tự ở một mức độ nào đó cũng có thể áp dụng đối với “Xe tải” được tập trung nhiều. Liên Xô có đủ số lượng xe tải trong giai đoạn 1939-1941. Nhưng đã mất rất nhiều trong số đó vào năm 1941. Liên Xô đã sản xuất khoảng 250.000 xe tải trong suốt cuộc chiến. Con số này gần bằng 60% tổng số xe tải trong chương trình Lend-Lease tại Mỹ. Những chiếc xe tải thực sự được sử dụng để vận chuyển địa phương. Trong khi các phương tiện vận tải khác  được thực hiện bằng các chuyến tàu được dỡ hàng càng gần tiền tuyến nơi có nhu cầu.

Việc phân phối nguyên vật liệu, hàng hóa, nhân lực, v.v. trong nước cũng được thực hiện tương tự bằng tàu hỏa. Những chiếc xe tải Lend-Lease của Hoa Kỳ cung cấp vào năm 1942 được hỗ trợ để thay thế những chiếc bị mất vào năm 1941. Sau đó vào năm 1943–1944 với mục đích tương tự cho Hồng quân tăng từ 7–8 triệu binh sĩ lên 10–11 triệu binh sĩ. Và cũng từ đầu năm 1943 trở đi đã giảm bớt việc sử dụng tương đối ngựa kéo cho các phương tiện vận tải địa phương từ các đoàn tàu cung cấp cho các kho địa phương cho tiền tuyến. Việc vận chuyển bằng xe tải trong Thế chiến thứ hai nhìn chung chỉ nhanh hơn khoảng 2–4 lần so với ngựa kéo. Trong khi ở điều kiện địa hình rộng lớn của Liên Xô, mùa đông với những con đường xấu trơn trượt băng giá được xây dựng để vận chuyển ngựa và trong tuyết dày, cũng như trong suốt vài tuần mùa xuân và mùa thu kéo dài vô tận các mùa 'biển bùn', ngựa kéo dùng thường xuyên hơn và hiệu quả hơn nhiều so với xe tải.

Liên Xô cuối cùng đã đánh bại Đức Quốc xã về mặt chiến lược sau trận Stalingrad tháng 1 năm 1943 và trận Kursk tháng 7 năm 1943, những chiến thắng chiến lược. Kể từ đó, quân Đức buộc phải rút lui liên tục về Berlin và thất bại cuối cùng không thể tránh khỏi. Đây là tình hình chiến lược vào giữa năm 1943 - trước đó - Lend-Lease của Hoa Kỳ chưa đạt được bất kỳ đợt giao hàng tương đối đáng kể nào. Điều này thực tế có thể áp dụng cho toàn bộ hoạt động giao hàng Lend-Lease của Hoa Kỳ cho Liên Xô. Cụm từ thường được sử dụng đối với Đức Quốc xã - “Quá ít, quá muộn” - cũng được áp dụng cho chương trình Lend-Lease của Hoa Kỳ đối với Liên Xô. Nó không ảnh hưởng quá nhiều đến khả năng của Liên Xô trong việc tự mình đánh bại Đức Quốc xã. Liên Xô đã thực hiện khoảng 85–90% tổng công việc đó. Tổng số tiền Lend-Lease của Hoa Kỳ được giao cho Liên Xô chỉ chiếm khoảng 5-6% tổng sản lượng chiến tranh của Liên Xô. Phần lớn được chuyển giao trong giai đoạn 1943–1945. Tuy nhiên, nó đã mang lại hiệu ứng tâm lý tích cực từ đầu năm 1942.

Chính nước Anh đã nhận được cả phần lớn tuyệt đối và tương đối trong chương trình Lend-Lease của Hoa Kỳ chứ không phải Liên Xô. Anh nhận được khoảng 60% nhưng chỉ đóng góp công sức vào khoảng 2–5% trên chiến trường Thế chiến thứ hai 1941–45 ở Châu Âu. Liên Xô nhận được khoảng 22% tổng số và đã đóng góp rất nhiều, vào khoảng 80–98% trên các chiến trường 1941–1945 ở Châu Âu. Nhiên liệu được giao cho Liên Xô trong lịch sử thực tế chiếm khoảng 0,3% giá trị tổng giá trị Lend-Lease của Hoa Kỳ giao cho Liên Xô. Do đó, khá đơn giản để thấy mức độ rất nhỏ - không đáng kể - về việc Hoa Kỳ hỗ trợ nhiên liệu cung cấp nhiên liệu cho Liên Xô… Nhiên liệu được cung cấp là nhiên liệu có chỉ số octan cao cho các máy bay do Hoa Kỳ cung cấp, được trang bị động cơ yêu cầu nhiên liệu có chỉ số octan cao. Trong khi tất cả các động cơ máy bay của Liên Xô (và các loại động cơ xăng khác) chỉ yêu cầu nhiên liệu có chỉ số octan thấp hơn. Do đó, Liên Xô không sản xuất nhiên liệu có chỉ số octan cao và không thể ưu tiên chế tạo loại nhiên liệu đó cho số ít máy bay Mỹ cung cấp cho Liên Xô. (nhìn vào một trong các bảng dưới đây cũng sẽ tìm thấy chính xác số lượng máy bay Mỹ được giao cho Liên Xô. Tổng con số này bằng khoảng 7,5% sản lượng máy bay của chính Liên Xô trong giai đoạn 1941–1945).

 

image
image
image
image
image
image

 

Bổ sung

Cùng với việc nhận hàng lend-lease từ các nước đồng minh, Liên Xô cũng viện trợ ngược cho các nước này. Trong các năm chiến tranh, các nước đồng minh cũng đã nhận từ Liên Xô 300.000 tấn quặng crom và mangan, gỗ, vàng và bạch kim. Liên Xô đã cung cấp một số lượng không rõ các lô hàng khoáng sản quý hiếm cho Hoa Kỳ như một hình thức chi trả cho hàng lend-lease do Mỹ cung cấp, điều này đã được thỏa thuận trước khi ký kết nghị định thư đầu tiên vào ngày 1 tháng 10 năm 1941. Một số trong những lô hàng này đã bị phát hiện bởi người Đức. Vào tháng 5 năm 1942, HMS Edinburgh bị chìm trong khi mang theo 4,5 tấn vàng của Liên Xô chở đến cho Hoa Kỳ. Vào tháng 6 năm 1942, SS Port Nicholson bị chìm trên đường từ Halifax, Nova Scotia đến New York, trên tàu chở rất nhiều bạch kim, vàng và kim cương công nghiệp của Liên Xô, xác tàu được phát hiện năm 2008

 


   
emperortan and is3 reacted
Trả lờiTrích dẫn
emperortan
(@emperortan)
Thiếu niên
Cư dân
Tài sản: 1989.02
Tham gia: 1 năm trước
Bài viết: 165
Topic starter  

Luận điệu số 3:
Liên Xô thực ra đã liên minh với phát xít Đức chứ chẳng phải dạng tốt đẹp gì. 2 bên đã ký hiệp ước Molotov-Ribbentrop, thể hiện Liên xô muốn về phe với phát xít.

Phản bác:
Thứ nhất, Hiệp ước Molotov-Ribbentrop ký tháng 8/1939 không phải là hiệp ước đồng minh, mà nó là hiệp ước không xâm phạm giữa hai bên.
Thứ hai, việc ký hiệp ước với Đức giai đoạn đó không hề là cá biệt, các nước phương tây khác đã ký hàng loạt hiệp ước tương tự với Đức. Cụ thể:

GNPkaThWgAAj2M5

 Trước đó, còn nhiều thông tin cho thấy những hỗ trợ về tài chính của Mỹ, Anh đối với Đức (cái này không nhớ ở đâu, mong cụ nào có thì tiếp tục bổ sung, chia sẻ).


   
Trả lờiTrích dẫn
Chia sẻ: