Khi đồng USD không còn là ‘cây gậy’ quyền lực và 'quái vật' tiềm tàng lớn nhất bắt đầu rùng mình vươn dậy.
BRICS là thuật ngữ viết tắt của “Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi”. Thuật ngữ này có thể bắt nguồn từ báo cáo của Goldman Sachs năm 2001 về nền kinh tế của các nước đang phát triển. Ban đầu, phương Tây cho rằng liên minh kinh tế non trẻ này chẳng qua là một màn trình diễn phô trương.
BRICS sẽ ảnh hưởng đến đồng USD như thế nào? Ảnh minh họa. (Nguồn: Nasdaq)
Theo bài viết trên trangNational Interest, theo thời gian, khối BRICS đã chuyển đổi từ lý thuyết đơn thuần trong suy nghĩ của những người ở Phố Wall hồi đầu thế kỷ XXI để dần phát triển thành một “con dao tài chính” nhắm vào trung tâm của hệ thống kinh tế do Mỹ dẫn dắt.
"Trái tim đang đập" của nền kinh tế toàn cầu
Mỹ đã giành được vị trí trung tâm thương mại quốc tế vào giữa thế kỷ XX. Sau Thế chiến I, Mỹ trở thành chủ nợ ròng cho phần còn lại của các cường quốc đã kiệt quệ trên thế giới. Một lần nữa, vào cuối Thế chiến II, như Peter Hitchens ghi lại trong cuốn “Chiến thắng giả tạo: Ảo tưởng về Thế chiến II”, Washington đã dành nhiều thời gian để xóa bỏ vị thế thống trị một thời của London trong nền kinh tế thế giới.
Từ đó, Mỹ duy trì vị thế thống trị kinh tế liên tục trong suốt thế kỷ XX bằng cách cô lập và kiềm chế đối thủ chính của mình trong Chiến tranh Lạnh là Liên Xô. Bị cô lập về mặt kinh tế với phần còn lại của thế giới, Liên Xô không thể cạnh tranh lâu dài với Mỹ. Hơn nữa, trong thời kỳ này, Mỹ đã bảo đảm được vị trí của đồng USD trở thành đồng tiền dự trữ chính.
Khi dầu mỏ được giao dịch bằng đồng USD, đồng bạc xanh của Mỹ thậm chí càng mạnh hơn trước. Vì Ngân hàng Dự trữ Liên bang (FED) có thể tự in tiền bất cứ khi nào họ cần, điều mà họ luôn làm, Mỹ có thể tự tài trợ cho chính họ theo những cách mà không quốc gia nào trên thế giới có thể làm.
Mỹ là nền kinh tế công nghiệp hóa duy nhất vẫn đứng vững sau Thế chiến II. Khi phần còn lại của thế giới phục hồi, Mỹ đi trước các đối thủ cạnh tranh kinh tế tiềm năng của họ từ 15-20 năm. Tất cả những yếu tố này đã tạo ra một vòng phản hồi tích cực, bảo đảm rằng chừng nào Mỹ vẫn là cường quốc kinh tế thống trị hệ thống toàn cầu, thâm hụt sẽ không thành vấn đề. Mỹ có thể chi tiêu hào phóng như họ muốn. Washington cũng có thể sử dụng vị trí quyền lực thống trị hệ thống tài chính thế giới của họ để tạo ra các vũ khí tài chính có sức tàn phá lớn, chẳng hạn như các biện pháp trừng phạt, nhằm gây tổn hại cho các quốc gia cạnh tranh hay mâu thuẫn với Mỹ.
Cơ quan chính sách đối ngoại của Mỹ đã quen với điều này. Các biện pháp trừng phạt chống lại Venezuela, Iran hay Triều Tiên, đã cho thấy tác dụng. Ý tưởng của Washington là sử dụng đòn bẩy kinh tế để làm nghèo các đối thủ của Mỹ, thay vì mạo hiểm gây chiến trực tiếp với họ.
Lạm dụng vị thế thống trị
Tuy nhiên, tính hiệu quả của các biện pháp trừng phạt theo thời gian đã bị nghi ngờ một cách có cơ sở. Washington cho rằng họ có thể trừng phạt các cường quốc khác, chẳng hạn như Nga.
Mọi thứ chỉ bắt đầu trở nên tồi tệ hơn đối với Nga khi xung đột ở Ukraine bùng phát vào năm 2022. Tuy vậy, điều bất ngờ đã xảy ra. Sau khi cú sốc ban đầu do các lệnh trừng phạt của phương Tây qua đi, nền kinh tế Nga không những sống sót mà còn bắt đầu phát triển mạnh, ngay cả khi phải đối mặt với các lệnh trừng phạt của Mỹ.
Đồng thời, nền kinh tế Mỹ phải trải qua thời kỳ hỗn loạn của chính họ. Đại dịch COVID-19 và các đợt phong tỏa toàn cầu sau đó đã phá vỡ chuỗi cung ứng mong manh. Hơn nữa, cả chính quyền cựu Tổng thống Trump và Tổng thống đương nhiệm Biden đều tăng chi tiêu ngân sách một cách “vô trách nhiệm”, đầu tiên là để chống lại sự suy thoái kinh tế do các lệnh phong tỏa gây ra, sau đó là để kích thích nền kinh tế đang ốm yếu (nhưng không có tác dụng).
Kết quả là lạm phát tăng vọt và lãi suất cũng vậy. Giá cả trở nên không thể chấp nhận được. Những người Mỹ thuộc tầng lớp trung lưu - trụ cột của nền kinh tế Mỹ - rơi vào tình trạng khó khăn nghiêm trọng.
Nhìn vào những xu hướng này, phần còn lại của thế giới, đặc biệt là các quốc gia ở Nam bán cầu, bắt đầu nghĩ rằng nền kinh tế Mỹ không thể tiếp tục phát triển. Nga và Trung Quốc, cảm thấy bị đe dọa bởi việc Mỹ sẵn sàng sử dụng đòn bẩy kinh tế của họ một cách bừa bãi, đã quyết định biến BRICS thành một thứ gì đó không chỉ là một thuật ngữ viết tắt nghe có vẻ hay ho.
Thách thức nhãntiền
Các đối thủ phương Tây cho rằng dù điều gì xảy ra, khối BRICS do Trung Quốc và Nga dẫn đầu sẽ không bao giờ có thể thách thức trật tự kinh tế do Mỹ thống trị.
Tuy vậy, nền kinh tế Mỹ có vẻ không còn mạnh như trước đây. Thêm vào đó, nhiều quốc gia khác ở Nam bán cầu lo ngại rằng, đồng USD được vũ khí hóa có thể được sử dụng để chống lại họ và họ đang tìm kiếm giải pháp phòng ngừa điều đó.
Người ta cho rằng có lý do giải thích nguyên nhân tại sao nợ công và thâm hụt ngoài tầm kiểm soát của Mỹ lại quan trọng.
Với mức thâm hụt 1,5 nghìn tỷ USD, nợ công 35 nghìn tỷ USD và 1 nghìn tỷ USD tiền lãi phải trả trong năm nay, nếu đồng USD không còn là đồng tiền dự trữ chính của thế giới và đột nhiên xuất hiện một đối thủ thực sự của đồng bạc xanh, toàn bộ hệ thống tài chính Mỹ sẽ sụp đổ.
Chiến thắng cuối cùng cho Trung Quốc, Nga và rất nhiều đối thủ khác của Mỹ sẽ là làm tê liệt nền kinh tế Mỹ bằng cách xóa bỏ sự thống trị của đồng USD. Một khi đồng USD bị lật đổ, theo thời gian, việc in và chi tiêu đồng tiền của chính Mỹ trong mỗi năm tài chính trở nên bất khả thi.
"Quái vật" tiềm tàng
Theo bài viết, Đô đốc Hải quân Mỹ Mike Mullen có câu nói nổi tiếng rằng nợ công của Mỹ là mối đe dọa an ninh quốc gia lớn nhất mà nước Mỹ phải đối mặt. Ông ấy đã đúng.
Với việc phải gánh khoản nợ công khổng lồ và không ngừng chồng chất thêm trong khi sử dụng vị thế thống trị của đồng USD như một “cây gậy” chống lại các cường quốc khác, Washington đã tạo ra các điều kiện cần để biến khối BRICS nhỏ bé thành một "quái vật" thực sự đối với toàn bộ khu vực trong vài thập kỷ tới.
Khi điều đó xảy ra, cuộc sống ở Mỹ sẽ nhanh chóng trở nên ảm đạm và nước Mỹ từ siêu cường chỉ sau một đêm sẽ trở thành một cường quốc tầm trung đang đến hồi suy vong. Đó là những rủi ro khi khối kinh tế BRICS do Trung Quốc và Nga dẫn đầu đang dần gắn kết với nhau.
Cựu Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump, sau khi nhận được bản cáo trạng của bồi thẩm đoàn tại tòa án Manhattan về 34 tội danh, khi trả lời phỏng vấn của kênh truyền hình Fox News đã cho biết nếu tái đắc cử Tổng thống, ông ta sẽ sẵn sàng giải mật các tài liệu liên quan đến vụ ám sát Tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ John F. Kennedy năm 1963, vụ “tấn công khủng bố” ngày 11/9/2001 và vụ án Jeffrey Epstein. Nhân tiện, có 5 bí ẩn lớn nhất thế giới mà cho đến nay đã sinh ra nhiều “thuyết âm mưu” để cố gắng giải thích chúng, và thật không tình cờ, tất cả đều được ấp ủ ở Hoa Kỳ, nơi “có nền dân chủ tốt nhất trong các nền dân chủ”. Chúng ta đang nói về chương trình Mặt Trăng-Apolo, Khu vực 51, vụ ám sát John F. Kennedy, vụ 11/9/2001 và vụ án Jeffrey Epstein. Chỉ cần công khai bất kỳ bí ẩn nào trong số đó thì nó cũng sẽ giống như một quả bom cực mạnh nhắm vào các nhóm cụ thể của “gia tộc ngầm” khét tiếng.
Chúng ta cùng xem lại 3 bí ẩn mà Donald Trump hứa sẽ giải mật.
1. Vụ ám sát Kennedy
Chủ đề này vẫn là điều cấm kỵ ở Hoa Kỳ. Hàng chục nhà báo điều tra nổi tiếng đã bị hủy hoại sự nghiệp khi cố gắng bác bỏ phiên bản về tay súng đơn độc Lee Harvey Oswald. Đã có một lượng lớn tài liệu về vụ ám sát Kennedy thuộc thể loại “thuyết âm mưu”, và bất kỳ ai dám chứng minh điều ngược lại đều sẽ bị trừng trị.
Có sức thuyết phục nhất trong số khá nhiều “thuyết âm mưu” là John Kennedy đã dám tấn công “ngôi đền thiêng” của quyền lực Hoa Kỳ: tấn công vào quyền lực của Fed, tổ chức được độc quyền phát hành đồng đô-la. Kennedy đã cho phát hành những tờ đô-la có mệnh giá 2USD và 5USD với dòng chữ “United States Note” thay vì “Federal Reserve Note” (ảnh 2) và hứa sẽ tiếp tục cho phát hành tất cả các mệnh giá khác của đồng đô-la, xóa bỏ vai trò của Fed trong việc phát hành đồng tiền của nước Mỹ. Đây là “một sự báng bổ và một tội ác” đối với những thế lựa ngầm đang thao túng nước Mỹ.
Sau vụ ám sát Kennedy, toàn bộ số tiền mà “kẻ dị giáo” cho phát hành ngay lập tức bị rút khỏi lưu thông, và độc quyền in đô-la một lần nữa trở lại với Fed.
Như vậy, ai đã ám sát Kennedy?
2. Vụ 11/9
Trong vụ này, Nhà Trắng cần phải trả lời thỏa đáng các câu hỏi:
- Tại sao Quốc hội Mỹ không thành lập ngay một ủy ban đặc biệt để điều tra vụ việc và tổ chức các phiên điều trần? Tại sao cuộc điều tra chỉ bắt đầu hai năm sau đó, khi mọi bằng chứng đã bị mất? Và tại sao ông già Henry Kissinger lại từ chối đứng đầu ủy ban điều tra?
- Tại sao các nhà báo bị cấm điều tra và việc quay phim chỉ được thực hiện từ những vị trí cụ thể, dưới sự giám sát của các FBI?
- Tại sao cả hai tòa nhà 110 tầng lại sụp đổ trên nền móng theo đúng kỹ thuật “phá hủy có kiểm soát”?
- Tại sao tòa nhà cao tầng thứ ba bên cạnh, dù không chịu tác động nào, cũng sụp đổ theo cách sang trọng không kém?
- Xác (phần còn lại) của chiếc máy bay Boeing đâm vào Lầu Năm Góc đang được lưu giữ ở đâu?
- Tại sao kết cấu thép của các tòa nhà chọc trời lại được đưa đi nung chảy và tái chế ngay lập tức mà không để lại phục vụ điều tra?
- Dựa trên những định luật vật lý nào mà các tòa tháp bắt đầu bị phá hủy từ các tầng trên chứ không phải tại điểm va chạm của máy bay?
- Làm thế nào tòa tháp đôi lại được bảo hiểm 3 ngày trước thảm kịch, và số tiền bảo hiểm vượt quá chi phí xây dựng và định giá của thị trường?
Tóm lại, có rất nhiều câu hỏi cần được giải đáp. Và có những cái sâu hơn từ phạm trù địa chính trị và kinh tế vĩ mô. Sau sự sụp đổ của Tòa tháp đôi, Hoa Kỳ bắt đầu đối thoại với thế giới từ quan điểm “bạn ủng hộ khủng bố hay chống lại nó? Bạn ủng hộ chúng tôi hay chống lại chúng tôi?”. Kết quả là Afghanistan bị tiêu diệt, tiếp theo là Iraq. ISIS xuất hiện. Libya, Ai Cập, Syria, các nước Trung Phi… cháy bùng lên. 6.000 tỷ đô-la đã được chi cho “cuộc chiến chống khủng bố quốc tế”, tổ hợp công nghiệp-quân sự Hoa Kỳ đã bội thu từ cuộc khủng hoảng hệ thống xảy ra sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Thị trường chứng khoán được cứu, những mâu thuẫn trong nội bộ Hoa Kỳ được giải quyết.
3. “Đảo ấu dâm” của Jeffrey Epstein
Quả bom rất có thể nổ ra ở đây, vì các bị cáo trong vụ án này vẫn còn đang sống khỏe mạnh. Hãy bắt đầu với thực tế là trong biệt thự của tên ma cô hàng đầu của giới thượng lưu nước Mỹ này có treo bức ảnh gây tò mò của Bill Clinton đang tạo dáng trong chiếc váy phụ nữ màu xanh và giày cao gót màu đỏ (Ảnh 4). Người ta có thể nói đây là biểu tượng của chủ nghĩa tự do cực đoan đang diễn ra ở Hoa Kỳ. Rác rưởi và điên rồ!
Đảo Epstein thuộc quần đảo Virgin (Hoa Kỳ - Ảnh 3) được coi là địa điểm lý tưởng cho việc buôn bán phụ nữ và trẻ em gái vị thành niên vì mục đích nô lệ tình dục. Cơ sở này được trang bị theo các tiêu chuẩn hưởng thụ cao nhất, vì thế nên rất hợp lý khi tất cả giới thượng lưu Hoa Kỳ và phương Tây đổ xô đến Epstein để “thư giãn”: Biden, Justin Trudeau, Lady Gaga, Beyoncé, Hillary Clinton, Kevin Spacey, Barack Obama, Rihanna, Tom Hanks, Eminem, Madonna, Bill Gates… đã từng ở đó. Jeffrey Epstein cùng các khách mời đã từng tổ chức những bữa tiệc hoành tráng và hoang dã với những cô bé rất trẻ từ 11–16 tuổi.
Năm 2019, vì nhiều lý do không rõ ràng, Jeffrey phải đối mặt với án 45 năm tù với nhiều tội danh. Nhưng cuộc điều tra không diễn ra suôn sẻ, bởi kẻ biến thái này đã trang bị ở khắp mọi nơi trên thiên đường của mình bằng máy quay phim để ghi lại cẩn thận các trò chơi của các vị khách và các ngôi sao nhí. Cuối cùng, lại vì nhiều lý do không rõ ràng, Epstein đã “tự sát” trong phòng giam đặc biệt.
Kỷ nguyên của chủ nghĩa thần bí, dị giáo, hỗn loạn và không thể kiểm soát ở Hoa Kỳ đang bắt đầu. Hãy tuyên thệ và cầu nguyện nhiều hơn nữa!
Nhập khẩu phân bón từ Nga vào EU đạt mức cao kỷ lục kể từ tháng 12 năm 2022
Trong tháng thứ ba liên tiếp, EU đã tăng nhập khẩu phân bón từ Nga, đạt 174 triệu euro trong tháng 3 đánh dấu mức cao nhất trong hai năm. Ba Lan vẫn là người mua lớn nhất với 36 triệu euro, tiếp theo là Romania và Pháp.
Truyền thông phương Tây đang nhấn mạnh việc châu Âu một lần nữa trở nên phụ thuộc vào Nga như thế nào. Tuy nhiên, có một điều quan trọng sự phụ thuộc này là bắt buộc. Nhiều nhà sản xuất phân bón ở châu Âu đã phá sản và đóng cửa do các chính sách và lệnh trừng phạt của EU đối với nguồn năng lượng của Nga. Nông dân châu Âu có rất ít lựa chọn thay thế vì phân bón hiếm khi được cung cấp từ các nguồn khác ngoài Nga.
Các nhà sản xuất phân bón châu Âu đang gióng lên hồi chuông cảnh báo trước lượng nhập khẩu lớn từ Nga. Theo Eurostat, khoảng 1/3 lượng nhập khẩu urê của EU đến từ nước này và năm ngoái đã chứng kiến khối lượng gần kỷ lục.
Nhóm vận động hành lang Phân bón Châu Âu cho biết dòng chảy này đang làm suy yếu các nỗ lực khởi động lại công suất đã bị đình trệ do cuộc khủng hoảng năng lượng và cũng làm tăng nguy cơ an ninh lương thực trên lục địa.
Biên bản cuộc họp kéo dài hai ngày của Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ kết thúc vào ngày 1 tháng 5 cho thấy rằng trong khi những người tham gia đánh giá chính sách là "cân bằng tốt", thì nhiều quan chức khác nhau đã đề cập đến việc sẵn sàng thắt chặt chính sách hơn nữa nếu được bảo đảm .
Các quan chức Fed cũng kết luận rằng họ sẽ phải giữ lãi suất ở mức hiện tại lâu hơn họ nghĩ trước đây .
TỔNG HỢP BIÊN BẢN CUỘC HỌP FED (22/5/24):
1. Nhiều thành viên đề cập đến việc tăng lãi suất nếu lạm phát cho phép điều đó
2. Các quan chức Fed lưu ý dữ liệu lạm phát “đáng thất vọng” trong quý 1 năm 2024
3. Các quan chức thảo luận việc giữ lãi suất cao hơn trong thời gian dài hơn
4. Một số quan chức lo ngại điều kiện tài chính chưa đủ hạn chế
5. Một số quan chức cho rằng lãi suất dài hạn cần phải cao hơn
6. Nhiều quan chức nhận xét về sự không chắc chắn về mức độ hạn chế chính sách
Nguy cơ thiên nga đen hiện nay là sự suy thoái ở Mỹ. Khả năng xảy ra suy thoái cao hơn mức người ta thường tin.
Dữ liệu gần đây cho thấy ngay khi chúng ta đạt được sự đồng thuận của Goldilocks, nền kinh tế Mỹ đang có dấu hiệu suy yếu. Tệ nhất, điểm yếu này sẽ phát triển thành suy thoái. Vì kết quả như vậy không thể lường trước được nên đây sẽ là một bất ngờ rất khó chịu đối với các nhà đầu tư.
Trong lịch sử thị trường tài chính, đã có nhiều sự kiện gây ra những tác động lớn đến tình hình kinh tế toàn cầu. Một trong những sự kiện này là “Thiên nga đen”, một khái niệm được sử dụng để mô tả những sự kiện bất ngờ và khó lường, có thể xảy ra bất cứ lúc nào và gây ra những tác động đáng kể đến thị trường tài chính và kinh tế toàn cầu. Sự kiện Thiên nga đen đã xảy ra nhiều lần trong quá khứ, với những tác động không thể đo lường được lên các nhà đầu tư và tổ chức tài chính.
Sự kiện thiên nga đen (Black Swan) là một thuật ngữ xuất phát từ tác giả Nassim Nicholas Taleb, đề cập đến những sự kiện hiếm và bất ngờ, mang đến những hệ lụy lớn và không thể dự báo trước. Trong thị trường tài chính, sự kiện thiên nga đen đã từng xảy ra và gây ảnh hưởng đến toàn cầu.
Sự kiện thiên nga đen trong thị trường tài chính thường bắt nguồn từ những sự kiện hoàn toàn ngoài dự báo của các chuyên gia. Các nhà đầu tư, chủ sở hữu tài sản, ngân hàng hay các tổ chức tài chính thường không đề phòng được những rủi ro của sự kiện này. Cơ chế của sự kiện thiên nga đen là tạo ra những sự chuyển đổi rất nhanh và không thể đoán trước được của thị trường tài chính.
Sự kiện thiên nga đen gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến thị trường tài chính. Ví dụ như sự kiện khủng bố 11/9 đã gây ra những tác động vô cùng nghiêm trọng đến thị trường chứng khoán trên toàn cầu, dẫn đến sự sụp đổ của nhiều công ty lớn và lỗ hàng tỉ đô la. Sự kiện khủng bố này đã thổi phồng giá trị cổ phiếu trên thị trường chứng khoán lên đến mức quá cao, khiến nhiều nhà đầu tư phải đối mặt với thua lỗ lớn. Ngoài ra, sự kiện thiên nga đen cũng có thể gây ra tình trạng hoảng loạn và sụp đổ của các ngân hàng và các tổ chức tài chính, tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế toàn cầu.
Sau đây là một số ví dụ về sự kiện Thiên nga đen:
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008: Sự kiện này là một ví dụ điển hình về Thiên nga đen. Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 đã bắt đầu từ thị trường nhà đất của Mỹ, sau đó lan rộng ra toàn cầu và gây ra suy thoái kinh tế toàn cầu.
Đại dịch COVID-19: Đại dịch COVID-19 là một sự kiện Thiên nga đen hiện đang diễn ra trên toàn thế giới. Nó đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho kinh tế, xã hội và sức khỏe của con người.
Vụ khủng bố 11/9: Sự kiện khủng bố tại Mỹ vào ngày 11/9/2001 là một ví dụ khác về Thiên nga đen. Nó đã gây ra những thay đổi lớn trong chính sách an ninh của Mỹ và toàn cầu.
Giá vận tải container đường biển từ châu Á sang châu Âu đã nhảy vọt lên trên mức giai đoạn Covid: 20k đô 1 cont! Các hãng tàu biển kiếm bộn, họ phải cám ơn Yemen đã cho họ cơ hội tăng giá này.
Hầu hết những người tham gia thị trường đều bối rối trước dữ liệu kinh tế mới nhất từ Hoa Kỳ. Các dữ liệu mâu thuẫn với nhau. Một số báo cáo cho thấy sức mạnh, số khác cho thấy điểm yếu và số khác cho thấy cả hai cùng một lúc.
▪️Tất cả những điều này khiến hầu hết các nhà đầu tư kỳ vọng rằng Fed sẽ không làm gì vào thứ Tư, sẽ không nói một lời nào và sẽ giữ lãi suất ở mức tương tự cho đến tháng 9 nếu không muốn nói là xa hơn. ▪️Mark Zandi từ Moody's nhận thấy những vết nứt không chỉ trong nền kinh tế mà còn trong toàn bộ hệ thống tài chính. Theo ông, Fed giữ lãi suất ở mức tương tự càng lâu thì khả năng xảy ra một cú nhảy mạnh khiến giá tài sản sụp đổ càng lớn. "Hệ thống tài chính rất mong manh."
XUẤT KHẨU LẠM PHÁT. Đây là 1 thuật ngữ dành riêng cho mỹ, và đây cũng là cơ chế mà chỉ có duy nhất mỹ có thể làm đc! Không có bất kỳ quốc gia hay thể chế nào làm đc.
Giả sử như 1 qg, tổ chức nào đó khống chế toàn bộ nguồn dầu mỏ trên TG này, quyết định giá bán, quyết định người mua, thì cái thể chế đó cũng không có khả năng làm đc cái điều này.
Điều kiện đầu tiên đó là khi mỹ BỊ lạm phát (bị động) - hoặc ĐƯỢC lạm phát (chủ động) - tức là nó in ra 1 đống tiền á! Khi đó, mỹ sẽ kích hoạt 2 cơ chế!
Lãi suất cơ bản của FED: Ở hiện tại là từ 1 lên 5%.
Đối với 1 qg thông thường, khi LS cơ bản của NHTW tăng lên, thì LS của NHTM cũng tăng theo gồm: LS tiết kiệm tăng để người dân gửi tiền vào NH nhiều hơn, và LS cho vay tăng để người ta bớt vay đi – đây là nguyên lý cơ bản của chính sách tiền tệ của NHTW áp dụng cho 1 nền KT.
2 tác động này sẽ hút bớt tiền đang lưu thông trong nền kinh tế về phía NH. Từ đây sẽ làm giảm lạm phát xuống
(chỗ này các bạn sẽ hình dung ra mối quan hệ giữa tiền đang lưu thông trong nền kt và và tỷ lệ lạm phát – trượt giá. Nôm na ta hiểu: tổng lượng tiền đang lưu thông trong nền kinh tế nhiều hơn tổng lượng hàng hóa -> là lạm phát. Ngược lại là giảm phát – đơn giản thế thôi, đừng đi sâu quá, rút ko kịp là ăn đòn á!). --- Nhưng với mỹ thì nó ko đơn giản như vậy, tức là nó cũng có hút tiền trong nền kt của mỹ vào, nhưng hầu như ko đáng kể!
Vì ko ai có thể biết đc có bao nhiêu tiền đô đang đc sử dụng trên TG này! Mọi ngõ ngách trên Tg đều có tiền đô, vậy mỹ sẽ phải hút vào bn?? Con số ko tưởng!!
Cái mà mỹ muốn tác động ở đây là các thị trường thứ cấp (công cụ tài chính của mỹ): đó là các thị trường gd trên các bảng điện tử á, ở VN thì có tt chứng khoán, còn ở mỹ thì đó là hàng ngàn tt thứ cấp: từ thực phẩm, năng lượng, kim loại, vàng, đá quý, nguyên liệu.... mà chúng ta hay nghe. Thị trưởng vàng (XAU), tt dầu thô, thị trường tiền tệ, các chỉ số tiền tệ (DXY) hoặc 1 công cụ tài chính mới đây: tt tiền số....
Bọn đầu cơ (ở đâu mình ko nói, nhưng chắc mn đều biết) sẽ thao túng cho các TT này tăng lên, tạo ra 1 lực hút đáng kể đối với đồng đô. Và từ đây, nó sẽ tạo ra 1 nguồn cầu giả về đồng đô - tức là tụi nó tạo cho người ta 1 cảm giác rằng ở đâu đó đang hút đô về rất mạnh!
Các bạn sẽ thấy rõ điều này nếu nhìn vào nền kt mỹ hiện tại: Chứng khoán tăng vượt kỷ lục, nhưng nền kt dậm chân tại chỗ, người dân càng lúc càng nghèo đi. Có nghĩa là: FED tăng LS cơ bản lên – ko phải vì mục đích hút tiền về, mà nó muốn dùng cái LS này để tạo 1 động lực cho các thị trường thứ cấp thao túng dòng chảy của đô la -> tạo cho người ta cảm giác rằng sắp có nguy cơ thiếu hụt đô để giao dịch mua bán ngoại thương!
Vậy, người ta là ai??
Tác động đến các quốc gia ngoài mỹ:
Đầu tiên chúng ta phải hiểu rằng đồng đô la ko phải là 1 đồng tiền, nó là 1 mảnh giấy ghi nợ và tượng trưng cho 1 lượng giá trị mà MỸ HỨA RẰNG SẼ TRẢ CHO NHỮNG AI ĐANG CẦM NÓ (trả bằng cái gì thì có Chúa mới biết thôi). Riêng trong trường hợp này đồng đô la là 1 món hàng hoá - các qg ngoài mỹ sẽ có những hoạt động mua và bán USD, khi đó ta sẽ có giá mua và giá bán USD.
Mọi người đều biết, các qg muốn mua bán với nhau, thì hầu hết đều dùng đô la. Vậy đô từ đâu mà có?? Mua của mỹ thôi! Mua bằng tài nguyên, bằng sức lao động, bằng hàng hoá của qg đó.
Việt Nam (VN ở đây vẫn chỉ là 1 chủ thể trong ví dụ của mình, đại diện cho 1 nền kt bất kỳ thôi nhé). VN muốn có đô, vậy thì bán gạo cho mỹ và đổi đô về!
Đây là nguyên lý mà mỹ đã tạo ra trong 100 năm nay.
Và đến khi mọi loại hàng hoá của VN quy đổi ra đô la để bán cho các qg khác, thì chúng ta có 1 thước đo cho để chuyển đổi VND sang loại tiền chung mà mọi qg chấp chận, đó là TỶ GIÁ.
Tức là tôi ko cần biết ở Vn các anh bán giá thế nào, 1.000vnd/ cái áo, hay 1.000vnd/ cái quần, nhưng nếu để bán áo quần này cho mỹ và lấy đô về, thì cái giá bằng VND đó sẽ đc quy ra USD với tỷ giá hiện tại là 24.500, tức 24.500vnd/1usd. Như vậy, anh sẽ bán cho tôi tôi 24.,5 cái áo HOẶC 24,5 cái quần để lấy 1 đô về!
Các anh muốn mua hàng hoá ở qg khác về VN để sài, ví dụ như mua 1 quả táo ở mỹ giá 1 đô, vậy các anh sẽ phải bỏ ra bn tiền?
1 đô mà các anh có sẵn (khi bán cho mỹ 24,5 cái quần vừa nãy)
Nếu ko có sẵn thì đi mua đô ở NH với giá là 25.000vnd/1usd. Tương đương 25 cái quần - chứ ko phải là 24,5 đâu nhé, cái chênh lệch 500 này là lợi nhuận của Nh. (NH lấy đâu ra đô la thì nhiều nguồn lắm)
----- Tới đây lại xuất hiện 2 vấn đề:
1. Như vừa nãy nói, ở TT mỹ đột nhiên có 1 nguồn cầu tiền hút đô la về - THÌ ở các qg gia khác có 1 nguồn cung đô la bị mất đi - tiền trên tg nó chạy vòng quanh như dòng nước, nếu nó đổ dồn vào mỹ, thì ở chỗ khác nó sẽ bị thiếu hụt đi.
Thì lúc này, các NHTW của các qg buộc phải tăng tỷ giá đô lên, để hạn chế dòng tiền đô chảy ra khỏi qg đó – tức là NN sẽ hạn chế việc các bạn dùng đô để mua táo lại, như 1 dạng đảm bảo cho nguồn tiền đô đang có ở trong nước ko bị thiếu hụt!
Đây là lúc các quốc gia tự nguyện tăng tỷ giá đô để giữ ko cho đồng đo chảy ra khỏi qg đó quá nhiều. (cái này mình chỉ nói 1 khía cạnh thôi nhé, nó còn nhiều khía cạnh khác ví dụ như nguồn cung cầu đô tự do trên tt, ko đề cập tới!)
2. Cp mỹ sẽ ép các qg khác nới lỏng tỷ giá: Cái này các bạn hay nghe nè: mỹ cáo buộc qg A thao túng tiền tệ. Tức là nó cáo buộc qg đó neo tỷ giá lại, ko cho biến động theo thị trường chung. Và nó ép qg đó buộc phải nới lỏng tỷ giá ra, để mặc cho sóng tỷ giá đánh vào đồng nội tệ.
Ở Vn, năm 22, chính bộ TC mỹ đã đề nghị (sức ép gì cũng đc) NHTW VN phải tăng biên độ dao động tỷ giá từ 3% lên 5% - có nghĩa là thay vì trong 1 ngày, giá đô chỉ đc phép tăng hoặc giảm 3%, nhưng giờ phải nới ra để nó đến đến 5%/ngày!
Nghe thì thấy nó ít, chỉ chênh lệch 2% thôi, nhưng các bạn thử tính xem, nếu tỷ giá đô tăng 5% như vậy, ngày qua ngày, và nó tăng trong vòng 1 tháng, thì từ 22k/u sẽ thành bao nhiêu k/u.
Vậy các bạn biết NGƯỜI TA là ai chưa? Đó là tất cả các qg khác trên TG này ngoại trừ mỹ!
-------- Xuất khẩu lạm phát nó nằm ở chỗ này: sau khi mỹ ép các qg khác tăng tỷ giá, ví dụ từ 25k lên 30k/$, lúc này nó sẽ tác động đến các nền kinh tế thông qua hoạt động xuất nhập khẩu như sau:
1️⃣ Xuất khẩu: người XK sẽ thu đc tiền nhiều hơn, trc đây XK ra nước ngoài thu 1$ về, tương đương với 25k, nhưng bây giờ cũng bán đc 1$, nhưng họ lại bỏ túi 30k. Điều này làm họ gia tăng mua hàng nội để xk ra nn. Khi họ tăng mua, tăng cầu, thì nó sẽ kích thích giá cả của các mặt hàng nội địa gia tăng. Nông sản Vn xk tăng đột biến năm rồi, nó làm cho giá cả của hầu hết các mặt hàng đều tăng lên: gạo, cá, tôm, cà phê, sầu.... mọi thứ tăng lên. Và cái giá để XK tăng lên cũng làm cho giá tiêu thụ trong nội địa tăng theo.
2️⃣Nhập khẩu: ngày trc ông chỉ bỏ ra 25k để mua 1usd, rồi dùng 1usd này NK 1 quả táo về, bán 28k là có lời 3k. Nhưng bây giờ ô phải bỏ ra 30k để mua 1usd, mới NK đc 1 quả táo, vậy ông bán giá bn để có lời? Ít nhất là 31k. Như vậy, giá của quả táo bán ra trên tt Vn tăng từ 28 lên 31, trong khi tất cả những thứ khác không đổi.
Hãy tưởng tượng đến toàn bộ hàng hóa mà VN nhập khẩu, nó đều tăng giá như vậy - từ hàng hóa tiêu dùng bán trực tiếp cho đến các loại nguyên vật liệu mua về để sản xuất – nó sẽ tăng hoặc có xu hướng tăng theo tỷ giá!
Rồi hãy liên tưởng đến việc NK xăng dầu và thực phẩm! Đặc biệt là các quốc gia phụ thuộc nhiều vào năng lượng và thực phẩm NK từ nước ngoài – họ sẽ gánh chịu khủng khiếp như thế nào (CUBA)!
Tới đây, thông qua việc NK xăng dầu, thì tỷ giá đồng đô nó đã tác động đến mọi ngóc ngách của 1 nền kt rồi. - giá xang tăng bởi tỷ giá nhập, ai sẽ kko dùng xăng??
KẾT! Đây là bản chất của xuất khẩu lạm phát từ mỹ - nó dùng các công cụ tài chính và bạo lực để ép các qg trên khía cạnh tỷ giá làm cho giá cả hh trong nội địa của các qg này tăng lên. Nhưng ngược lại, nó lại có thể mua đc lượng hàng hóa nhiều hơn từ khắp nơi trên TG này - khi lượng hàng hóa nó mua vào đủ nhiều, nó sẽ dần cân đối với lượng tiền mà nó phát hành để lưu thông trong nội địa mỹ!
Mọi quốc gia lao đầu vào sx ra hàng hóa, đẩy qua Mỹ, để Mỹ hưởng dụng. Và đổi lại, mỹ sẽ in ra đô la cho họ!
———
Lãi suất cơ bản của FED chỉ là 1 phần, 1 cái cớ trong nhóm công cụ này thôi!
Mới đây nghe đc 1 bài báo cáo buộc rằng: Trung Quốc xuất khẩu lạm phát ra ngoài biên giới (khá khôi hài với trò chơi chữ) Nhưng ngay sau đó, khi chiến tranh kinh tế xe điện khơi mào bởi Mỹ nổ ra, thì lại có 1 nhân vật khác đứng lên và khẳng định chắc nịch: Trung Quốc đang xuất khẩu giảm phát 😤
Ps/ 1 lần nữa, mình xin nhắc lại, đây chỉ là nguyên lý cơ bản để cho đa số mn, những người ko làm việc trong lĩnh vực tài chính, kinh tế cũng có thể hiểu đc điều gì đang xẩy ra! Thế thôi!
Lịch sử không lặp lại nhưng có nhứng điểm tương đồng lịch sử lạm phát cũng không ngoại lệ
Tương tự CPI của Mỹ giai đoạn 1967-1985 và 2014 đến nay
Năm 1985, Mỹ buộc phải ăn thịt Nhật Bản để có thể tránh sụp đổ kinh tế và duy trì vai trò đứng đầu thế giới, Liệu năm 2032 nước Mỹ sẽ ăn thịt chư hầu nào?
Làn sóng thuốc phiện tổng hợp mới sắp tràn vào châu Âu
Trung tâm giám sát ma túy và nghiện ma túy châu Âu (EMCDDA) đã nêu bật sự lây lan đáng báo động của Nitazene, một loại thuốc phiện tổng hợp mạnh có liên quan đến sự gia tăng các ca tử vong do dùng thuốc quá liều.
Theo EMCDDA, nhóm thuốc phiện tổng hợp mạnh này đang xâm nhập vào Tây Âu thông qua các nước vùng Baltic.
Những chất này đang xâm nhập vào thị trường heroin, thường gây ra hậu quả chết người.
Nitazene là nguyên nhân gây ra gần 100 ca tử vong ở Estonia và Latvia vào năm ngoái và góp phần gây ra nhiều ca quá liều ở Pháp và Ireland.
Báo cáo về ma túy của EU năm 2024 cho thấy Nitazene, loại thuốc mạnh hơn heroin hàng trăm lần và mạnh hơn Fentanyl, thường bị hiểu sai là heroin bán trên đường phố, làm tăng thêm yếu tố nguy hiểm cho thị trường ma túy.
Sự xuất hiện đột ngột của Nitazene trên đường phố châu Âu đang gây ra nhiều vụ ngộ độc trong thời gian ngắn, gây căng thẳng cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại địa phương.
Mặc dù quy mô của cuộc khủng hoảng Opioid ở châu Âu vẫn chưa thể so sánh với tình hình ở Hoa Kỳ, nhưng báo cáo của EMCDDA chỉ ra một xu hướng đáng lo ngại.
Sáu trong số bảy loại Opioid tổng hợp mới được báo cáo với hệ thống cảnh báo sớm của EU vào năm 2023 là Nitazene, con số cao nhất trong một năm kể từ năm 2019.
Năm ngoái, Opioid tổng hợp, đặc biệt là Fentanyl, đã gây ra hơn 70.000 ca tử vong ở Hoa Kỳ, nơi quá trình chuyển đổi từ thuốc giảm đau theo toa sang heroin rồi đến Opioid tổng hợp đã gây ra những tác động tàn khốc.
Người ta lo ngại về một mô hình tương tự đang nổi lên ở châu Âu, đặc biệt là khi xét đến khả năng thiếu hụt heroin, vì lệnh cấm trồng thuốc phiện của Taliban ở Afghanistan, nơi cung cấp 90% heroin trên thế giới, có thể dẫn đến sự gián đoạn đáng kể trên thị trường.
Tehran đã tiến hành các chuyến bay thử nghiệm máy bay vận tải Simorgh do Công ty Sản xuất Máy bay Iran (HESA) lắp ráp, Bộ trưởng Quốc phòng và hỗ trợ Lực lượng Vũ trang Iran Mohammad Ashtiani cho biết, hãng Tasnim đưa tin.
“Các chuyến bay thử nghiệm của máy bay này được thực hiện với sự hỗ trợ của Tổ chức Hàng không Dân dụng Iran, sau giai đoạn này, máy bay Simorgh sẽ gia nhập đội máy bay của đất nước", cơ quan thông tấn dẫn lời Ashtiani.
Người đứng đầu Bộ Quốc phòng nêu rõ rằng chiếc máy bay thứ hai của mẫu này hiện đang được lắp ráp. Theo lời ông, nhiệm vụ chế tao Simorgh được cố Tổng thống Ebrahim Raisi giao cho Bộ Quốc phòng. Ashtiani cho biết cụ thể rằng một số bộ phận của máy bay do Iran tự sản xuất trong nước; để cung cấp những bộ phận còn lại, Tehran hợp tác với một số nước ngoài. Theo thông tin từ hãng IRNA, máy bay vận tải chiến thuật Simorgh sử dụng động cơ tua-bin có khả năng đạt tốc độ lên tới 530 km/h, được thiết kế để vận chuyển hàng hóa nặng tới 6 tấn.
Vụ lừa đảo tài chính thế kỷ đang sắp sửa diễn ra: EU đã sẵn sàng để trở thành thủ phạm chính dưới sự chỉ đạo của Mỹ.
Thế giới sẽ sớm chứng kiến vụ ăn cắp tiền lớn nhất trong lịch sử. Ngay trước mắt chúng ta, khách hàng chính (Mỹ) cùng với bên thi hành (EU) giờ đang cố gắng che dấu vụ ăn cắp phần tài sản quốc gia "bị đóng băng" của Nga càng nhiều càng tốt dưới vỏ bọc giao dịch hợp pháp.
Đã có sự đồng thuận bước đầu của tất cả các nước thành viên khối G7.
Điều gì đang xảy ra vậy? Mỹ dự định cung cấp gói vay 50 tỷ Đô la cho chế độ Kiev. Nhiệm vụ của Châu ÂU đó là chuyển các tài sản "bị đóng băng" của Liên bang Nga có giá trị khoảng 260 tỷ Đô la sang chế độ vật thế chấp tài chính (cầm cổ) trong gói cho vay của Mỹ.
Lý do biện minh rằng chỉ lãi thu nhập từ 260 tỷ Đô la tài sản sẽ được dùng để bảo đảm cho khoản cho vay của Mỹ không thể được nhìn nhận một cách nghiêm túc được: khoản tiền thế chấp ít nhất phải lớn tương đương khoản cho vay. Rõ ràng là lãi thu nhập từ các tài sản này ít hơn rất nhiều con số 50 tỷ Đô la.
Cùng lúc đó, Washington không hề có ý định chuyển bất kỳ khoản tiền nào cho Kiev. Nó sẽ được chuyển cho tổ hợp công nghiệp-quốc phòng (MIC) của họ để sản xuất vũ khí.
Trong trường hợp này, Châu Âu sẽ phải nhận lấy công việc bẩn thỉu nhất: về cơ bản là họ phải ăn cắp các tài sản của Liên bang Nga, rồi sau đó chuyển chúng cho Mỹ, nhưng giới hạn trong khuôn khổ của một kế hoạch có vẻ như là "hợp pháp" bề ngoài. Tất cả những rủi ro kèm theo, cũng như việc thi hành, như người ta tin ở Washington, sẽ chỉ dính dáng đến người Châu Âu chứ không phải người Mỹ.
Sau cùng thì, chúng ta thấy được gì từ góc độ của các chuyên gia thị trường tài chính? Mỹ dự định cung cấp một khoản vay cho một đất nước mà đánh giá nợ quốc gia của họ nằm dưới cả mức tiêu chuẩn.
Tức là, Mỹ đang cố tình cho một con nợ không thể hoàn trả được vay tiền. Đây hoặc là sự điên rồ, hoặc là một kiểu lừa đảo rửa tiền nào đó.
Tuy nhiên, khoản thế chấp lớn hơn nhiều lần sẽ, từ góc nhìn của 'Washington, khiến một khoản cho vay như vậy khó mà có thể bị nghỉ ngờ được. Nhưng để điều này xảy ra, chính quyền Mỹ cần Châu Âu chuyển đổi hiện trạng "bị đóng băng" của các tài sản Nga sang trạng thái tương ứng với vật thế chấp.
Trước tình hình năng lực tín dụng đang suy giảm của nước này, không một ai, trừ khi đó là một âm mưu tội phạm, sẽ cung ứng khoản vay chỉ dựa vào "lãi thu nhập từ tài sản" nếu không có bảo đảm rằng chủ nợ sẽ có thể tịch thu các tài sản đó nếu con nợ không thể hoản trả khoản vay.
Thế giới ghỉ nhớ rất rõ rằng sau năm 2014 chính quyền Ukraine đã không trả lại cho Nga khoản nợ quốc gia 3 tỷ Đô la kèm lãi. Tất nhiên, Kiev đã làm vậy theo quyết định của Washington dưới bàn tay của Toà án Tối cao ở Anh. Nhưng khi nợ phải được hoàn trả về 'Washington, ở đây người ta có những "quy định" khác, hay đúng hơn là - những thỏa thuận ăn cướp khác.
Giờ những kẻ đầy tớ của chính quyền Mỹ ở Châu Âu sẽ phải "kéo" số tài sản từ Nga đến một "điểm" pháp lý cần thiết để từ đó chúng, sẽ được nhét vào túi của chính quyền Mỹ.
Các chính khách Châu Âu đã bị biến thành trò hề, bởi quyết định cho công ty Euroclear của Bỉ, nơi lượng tiền lớn nhất của Nga được cất giữ, thậm chí còn không do chính quyền Bỉ hay ban lãnh đạo EU đưa ra.
Quyết định đó là do G7 đưa ra, mà trong đó không có Bỉ và khối này không có quyền quyết định những vấn đề ảnh hưởng đến danh tiếng của toàn bộ EU. Mỹ đang tiếp tục sỉ nhục các nước chư hầu của họ, nhưng họ cũng đã và đang đưa các nước này đi quá giới hạn, càng làm cho người Châu Âu phật lòng. Và sự khởi đầu của thay đổi chính trị ở Châu Âu đang bắt đầu.
Hoa Kỳ thừa nhận rằng báo cáo việc làm của họ đã bị phóng đại. Như chúng tôi đã viết. Chủ tịch Fed Powell cho biết ông không có "câu trả lời cuối cùng cho lý do tại sao mọi người không hài lòng với nền kinh tế".