Chào các lão anh, lão chị. Sau khi lướt qua một vòng forum em thấy lão anh @alehap có quả chữ ký là 2 câu thơ của nhà thơ Chính Hữu trong bài "Ngày về" mà em rất thích. Lấy cớ vậy em mở thớt này mong được chia sẻ cùng với các lão anh về các bài thơ mà mình yêu thích.
Ngày về
- Chính Hữu-
Có đoàn người lên đóng trên rừng sâu
Đêm nay mơ thấy trở về Hà Nội
Bao giờ trở lại?
Phố phường xưa gạch ngói ngang đường
Ôi hôm nay họ nhớ mái nhà hoang
Bức tường điêu tàn ngày xưa trấn ngự
Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa
Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm
Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa
Mái đầu xanh thề mãi đến khi già
Phơi nắng gió. Và hoa ngàn cỏ dại
Nghe tiếng gọi của những người Hà Nội
Trở về, trở về, chiếm lại quê hương
Nguy nga sao cái buổi lên đường
Súng chuốt gươm lan, mắt ngời sáng quắc
A ha! nhà xiêu mái sập
Xác oan cừu ngập lối chân đi
Gạch ngói xưa mừng đón gót lưu ly
Bước căm giận xéo quân thù lớp lớp
Mịt mù khói ngợp
Cờ máu huy hoàng
Phất nắng
Ôi bài chiến thắng reo vang.
1947
Khi mà Chính Hữu với những dòng thơ đầy hoài niệm về Hà Nội sau cuộc rút quân thần kỳ vào mùa đông năm 1946 trong bài ngày về
Phố phường xưa gạch ngói ngang đường
Ôi hôm nay họ nhớ mái nhà hoang
Bức tường điêu tàn ngày xưa trấn ngự
Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa
Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm...
Thì Quang Dũng trong bài thơ "Những làng đi qua" cùng viết năm 1947 cũng không nằm ngoài tâm trạng đó
Thôi nhé miền xuôi! Thôi tạm biệt
Thôi chào Hà Nội lửa ngang trời
Ta đi – ngõ gạch – tường đang đục
Gạn từng giọt nước, đánh, cầm hơi
Ta đi – Tháp đứng nghiêm hồ lạnh
Hoàn Kiếm đêm đêm giặc rụng rời
Với giọng thơ đầy lẫm liệt trong "Những làng đi qua", đã khắc họa cho chúng ta một Hà Nội kiên cường bất khuất, nhưng vẫn hào hoa và phong nhã. Chính những người ra đi trong mùa đông năm 1946 ấy là rạng rỡ trở về trong mùa thu năm 1954 đầy kiêu hãnh.
Những làng đi qua
- Quang Dũng -
(Trích thơ dài “Sử một trung đoàn”)
Nhớ buổi trung đoàn ta ra đi
Tháng chạp màn sương trùm đất nước
Gió mùa chết héo mạ xanh non
Sương muối thấm vào bao đạn ướt
Nhớ buổi trung đoàn ta ra đi
Dân đang gánh gồng cả cơ nghiệp
Mái nhà trăm năm thôi để lại
Lạc chủ, chó gầy mắt hoang dại
Mẹ địu con thơ, mang tiếng hát
Ru con gửi gấm những quê nhà
Nôi con đã chất cao thù hận
Thành luỹ ngăn đường chặn chiến xa
Nhớ buổi trung đoàn ta ra đi
Trung ương còn đóng quanh Hà Nội
Giầy vải Bác Hồ phơi bờ ao
Thủ đô vào xuân tết chiến hào
Đào đỏ Nhật Tân ở lại gốc
Chủ nhân còn gác trạm tiền tiêu
Chờ địch kéo lên Yên Phụ dốc
Có làng trung đoàn ta đi qua
Máu đông in dấu giày đinh giặc
Nền tro, gạch sém, ngách buồng ai
Chiếc tã đầu giường đang cháy dở
Những làng trung đoàn ta đi qua
Tiếng quát dân quân đầu vọng gác
Vàng vọt trăng non đêm tháng chạp
Nùn rơm, khói thuốc, bạch đầu quân
Tự vệ xách đèn chai lối xóm
Khuya về chân khoả vội cầu ao
Nghe tiếng sung rơi miệng chiến hào
Bờ tre cây rơm thôi tịch mịch
Vỡ lá bàng khô bước du kích
Những làng trung đoàn ta đi qua
Lều chợ bay tro đêm lửa trại
Rạ thui bò khét cổng làng sau
Gạo thổi cơm sôi thơm ngõ ruối
Buồng chuối tiễn quân em mới cắt
Nhựa cây còn tuôn như sữa vắt
Khúc hát đồng ca “Vệ quốc quân”
Cuối xóm trông theo vẫy mấy lần
Những làng trung đoàn ta đóng lại
Khẩu hiệu trên đường đá áo mới
Thông tin đứng vẽ giặc Tây hàng
Trống ếch khuya rền khắp ngõ ngang
Chiều đến loa vang tin chiều sự
Khêu bấc đèn con họp tiểu đoàn
Những làng trung đoàn ta đóng lại
Tiếng nêu đưa khánh dưới mưa phùn
Hương đen ngũ quả, màu tranh Tết
Câu đối mực tàu bay xạ ngát
Cột nhà tre trúc giãi gan vàng
Mang câu đối đỏ niềm son sắt
Tiếng hát hành quân vui trong mưa
Gió bấc về sân buổi tiễn đưa
Nải chuối tiễn nhau em mới cắt
Nắm cơm hàng xóm gửi trung đoàn
“Hoả thực” xếp lèn đôi gánh cật
Thôi nhé miền xuôi! Thôi tạm biệt
Thôi chào Hà Nội lửa ngang trời
Ta đi – ngõ gạch – tường đang đục
Gạn từng giọt nước, đánh, cầm hơi
Ta đi – Tháp đứng nghiêm hồ lạnh
Hoàn Kiếm đêm đêm giặc rụng rời
Màu đỏ sao bay về đỉnh tháp
Chiến hào xuân đến tiếng ca vui
Thôi nhé miền xuôi, thôi tạm biệt
Cống Chéo Đồng Xuân thề một chết
Hàng Gai tay bỏng trục ba càng
Đất cũ Thăng Long người lẫm liệt
1947
2 bài thơ của Chính Hữu và Quang Dũng mà cụ dẫn đều là những bài thơ kinh điển trong dòng văn thơ Cách mạng và kháng chiến chống Pháp.
Hay ạ. Hoan hô cụ.
Cụ tiếp tục đi 😍
Rách tả tơi rồi đôi hài vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa
2 bài thơ của Chính Hữu và Quang Dũng mà cụ dẫn đều là những bài thơ kinh điển trong dòng văn thơ Cách mạng và kháng chiến chống Pháp.
Hay ạ. Hoan hô cụ.
Cụ tiếp tục đi 😍
Dạ cảm ơn lão anh đã ủng hộ. Nhắc đến Vũ Hoàng Chương là chúng ta thường nhớ đến những vần thơ say của ông. Nhưng trong đề tài về kháng chiến chống Pháp, Vũ Hoàng Chương cũng có những đóng góp nhất định. Trước năm 1945, ít ai nghĩ rằng thi sỹ Vũ Hoàng Chương lại có lúc bừng tỉnh dậy sau những cơn say để viết nên một bài thơ hay nhất về cuộc Cách mạng ngày 19 tháng 08 ở Hà Nội. Một bài thơ dù đôi lúc xưa cũ mà hào sảng, phóng khoáng, đầy chất kinh kỳ và đặc sắc nhất là những câu thơ về lá cờ Cách mạng với ngôi sao vàng năm cánh vang hồn nước bay trên phố phường thủ đô nghìn năm văn hiến. Như một phép lạ. Một tin lành. Một giọng điệu thi ca hào sảng mà bi tráng không thể nào tìm thấy được trong thơ Vũ Hoàng Chương cũng như thơ của phong trào Thơ Mới trước đó.
Nhớ về Hà Nội vàng son
- Vũ Hoàng Chương-
Ôi ngày mười chín, ngày oanh liệt!
Sóng đỏ hoa vàng khắp bốn phương
Hà Nội tiếng reo hò bất tuyệt
Vang sang bờ nọ Thái Bình Dương.
Ba mươi sáu phố, ngày hôm ấy
Là những nhành sông đỏ sóng cờ
Chói lọi sao vàng, hoa vĩ đại
Năm cánh hoa xoè trên năm cửa ô.
Xôn xao hành khúc “Xây đời mơớ”
Tráng khúc du dương “Ngọn Quốc kì”
Tóc bạc má hồng mê vận hội
Cùng trai nước Việt hát “Ra đi”
Chen tiếng hoan hô, này khẩu hiệu
Muôn năm Chủ tịch Hồ Chí Minh!
Muôn năm người lính già tiêu biểu
Vì giang sơn quyết bỏ gia đình.
Ôi ngày mười chín, ngày sung sướng!
Vạn ước mong dồn một ước mong!
Ôi mùa thi ấy, mùa tin tưởng!
Một tấm lòng mang vạn tấm lòng.
Ba kỳ hỡi người dân Việt!
Mau võ trang cùng tiến bước lên
Cùng tiến bước mau! Thề một chết
Đòi hoa Hà Nội, sóng Long Biên.
Cho hoa kia nở vàng như cũ
Cho sóng này dâng đỏ gấp xưa…
Ôi lá cờ sao! Từng đã ngự
Giữa lòng dân tộc, giữa kinh đô!
Kinh đô ngàn thuở, đòi cho được
Và quét hôi tanh sạch đất này
Trả hôm mười chín mùa thu trước
Về cho mười chín thu mai đây.
1947
Em nhớ nhất khổ thơ này
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn!
Những đồng chí thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão,
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân, nhắm mắt, còn ôm...
Những bàn tay xẻ núi lăn bom
Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện
Mời các cụ ghé trang trại nhà em :
https://otonet.fun/forums/postid/7861/
Thơ Chính Hữu thì bài "Đồng chí" cũng khá là nổi tiếng, các nội dung của bài thơ đã được nhiều thế hệ học sinh viện dẫn trong các bài thi văn.
Bài thơ ấy có câu kinh điển mà chắc nhiều cụ ONET tâm đắc. Tiện thớt thơ ca hò vè thời 9 năm chống Pháp, em xin được dẫn lại mà không phải phân tích gì thêm.
.... Chén bên chén, đầu sát bên đầu
Đêm rót chung chai thành đôi tri kỷ
Đồng chí!
Rách tả tơi rồi đôi hài vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Nhà thơ ANH NGỌC
Nếu bộ môn Lịch sử là nơi lưu trữ những sự kiện, những hình ảnh, những tên người, tên đất… để giữ lại cho các thế hệ mai sau thì thơ ca chính là lịch sử của tâm hồn, nó góp phần giữ lại hồn cốt của lịch sử dưới dáng vẻ tươi nguyên và sống động nhất.
Chẳng hạn hôm nay, chúng ta đang chuẩn bị kỷ niệm một sự kiện rất lớn trong lịch sử Việt Nam ở thế kỷ 20, ấy là kỷ niệm 70 năm Ngày Toàn quốc kháng chiến (19-12-1946/19-12-2016), rồi các bạn sẽ đọc, xem và nghe được rất nhiều thông tin về ngày này của 70 năm trước, đủ để những người giàu tưởng tượng có thể hình dung ra những khung cảnh của Hà Nội, của cả nước ta ngày ấy. Nhưng còn thơ thì sao? Những bài thơ, câu thơ được các nhà thơ, vốn cũng là những người trong cuộc, rút ruột viết ra… thơ sẽ giúp chúng ta nhập hồn mình vào hơi thở nóng bỏng của thời khắc mà giờ đã lùi xa, giúp chúng ta bồi hồi sống lại những buồn vui, những cảm xúc thăng hoa của cả lo âu và hy vọng của hàng triệu con người… Thơ không chỉ giúp ta nhớ lại mà còn là sống lại lịch sử và điều ấy thật quý giá…
Và thế, chúng ta đang đứng trước cái buổi tối 19-12-1946 ấy, khi tiếng đại bác của quân ta ở Pháo đài Láng nổ rền vang, báo hiệu một cuộc chiến đấu đã bắt đầu, một cuộc chiến đấu rồi ra sẽ kéo dài ngót nghét 30 năm ròng trên mảnh đất Việt Nam của chúng ta, và sau đó từ đài phát thanh di động gọn nhẹ, Bác Hồ đã cất lên “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” vô cùng hào hùng và thiêng liêng, những cụm từ bất hủ: “Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”. Lời kêu gọi của Bác đã chạm vào đáy lòng toàn dân Việt Nam trong giây phút Tổ quốc lâm nguy, vận mệnh cả dân tộc đang trong cơn nước lửa…
Đúng vào thời khắc ấy, những người lính của Trung đoàn Thủ đô lặng lẽ bí mật vượt sông Hồng rút về chiến khu phía Bắc để bắt đầu cho một cuộc chiến cam go đang ở ngay trước mặt. Trong đoàn quân ấy có cả những anh Vệ Quốc quân sẽ là những văn nghệ sĩ nổi danh trong tương lai, như nhà văn Hồ Phương, nhạc sĩ Lương Ngọc Trác, nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn… và đặc biệt có một nhà thơ đã thốt lên những câu thơ mà đến hôm nay chúng ta đọc lại vẫn bồi hồi xúc động:
Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa
Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm
Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa...
Đó là Chính Hữu, một nhà thơ trưởng thành và tiêu biểu cho thơ ca thời chống Pháp. Những câu thơ của một người lính xuất thân trí thức, đúng là còn mang hơi hướng của kiểu thơ tiền chiến, với dáng vẻ anh hùng nghĩa hiệp trong “Tống biệt hành” của Thâm Tâm, hay thơ của nhóm “áo bào gốc liễu” của thi sĩ Trần Huyền Trân… nhưng đằng sau cái lốt y phục có vẻ tiểu tư sản vui vui ấy, người lính-trí thức này đã thể hiện một quyết tâm mới mẻ và kiên cường, đó là thái độ chọn con đường-dứt khoát đứng vào đội ngũ kháng chiến của toàn dân, một thái độ mà chỉ sau đó không lâu, từ Chiến khu Việt Bắc, một nhà thơ-nhạc sĩ nổi tiếng khác, Nguyễn Đình Thi, đã khái quát trong bài thơ lừng danh “Đất nước” của mình, với hình ảnh những người đã dứt áo lên đường đi chiến đấu:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Sao lại “không ngoảnh lại”? Còn nhớ trong “Chinh phụ ngâm”, Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm đã cho người chiến binh thời xưa lên đường với tâm thế ngược lại:
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.
Chắc chắn, nhà thơ của cách mạng không hề có ý định tranh luận gì với tiền nhân, mà đơn giản ông chỉ muốn nói hộ tâm thế của những anh Vệ Quốc quân thời đại Hồ Chí Minh, đã khẳng định rất chóng vánh một thái độ sống và chiến đấu thật khác với các chiến binh thời phong kiến xa xưa một cách cốt lõi, bản chất nhất. Ta tưởng nghe bước đi của thời đại mới trong bước chân của người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam ngay trong những phút đầu tiên của cuộc trường chinh chống ngoại xâm.
Có lẽ vì thế, trong hành động dứt áo ra đi vội vã nhưng nhẹ như lông hồng ấy, đã có những cuộc lên đường và trở về rất kỳ lạ của những chàng trai Thủ đô như trong thơ của nhà thơ Hoài Anh sau này đã kể lại:
Một người bạn tôi gặp trong đêm ấy
Ra phố mua một bao thuốc lá
Chín năm sau anh mới trở về nhà
Ta mang ba mươi sáu phố phường đi kháng chiến
Chín năm rừng, lòng vẫn Thủ đô.
Một chi tiết thơ quá thú vị, nhưng xin đừng ai nghi ngờ đấy chỉ toàn là hư cấu-không, chuyện thật đấy! Vì chính tôi đây, còn nhớ trong một giờ học ở Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp, khoảng năm 1961-1962, một thầy giáo của tôi từng kể lại chính ông cũng là một người lính lên đường vào đêm 19/12/1946. Trong câu chuyện ông nhắc một chi tiết rất vui, ấy là đêm lên đường, ông vội quá, đã bỏ lại chiếc xe đạp ở phía sau nhà Quốc hội, đến ngày trở về giải phóng Thủ đô 10/10/1954, ông đã tìm về chỗ cũ để… tìm chiếc xe đạp, nhưng tiếc là không thấy... - cả thầy và trò chúng tôi đều cười vang. Và sau này, trong bài thơ “Hà Nội trong không gian và thời gian” viết năm 1967 của mình, tôi đã bê nguyên chi tiết rất vui này của thầy mình vào thơ:
Bỗng nhớ hai mươi năm xưa, anh tự vệ thành Hà Nội
Ôm súng gác trước nhà Quốc hội
(Đêm rút quân, xe đạp khóa, dựng sau hè
Chín năm kháng chiến trở về
Quay lại tìm hoài không thấy!
Thật là một cuộc lên đường kỳ lạ của một cuộc chiến tranh cũng kỳ lạ! Nếu có đất đai, bình rộng và sâu hơn, chắc sẽ có nhiều suy luận rất thú vị chưa chừng…
Nhưng thôi, trang báo có hạn, tôi xin dành đôi lời về Ngày Toàn quốc kháng chiến này bằng nhưng câu thơ của một nhà thơ lúc ấy vào mặt trận từ một nơi rất xa thủ đô Hà Nội-nhà thơ Khương Hữu Dụng, với bản trường ca “Từ đêm Mười chín”, được viết ở chiến trường Quảng Nam-Đà Nẵng, khoảng năm 1947-1948.
Những người chiến sĩ ở dải đất miền Trung rất hẹp này, khác với ngoài Bắc, là chỉ vừa nhất tề đứng lên theo tiếng gọi thiêng liêng của Bác Hồ, vừa rời khỏi TP Đà Nẵng, rời khỏi mảnh ruộng nghèo của xứ Quảng là đã đặt một chân lên dãy Trường Sơn sừng sững chạy dài bất tận ở sau lưng. Và ngay lập tức, hình ảnh của người lính Trường Sơn quen thuộc đã hiện lên trong thơ của nhà thơ bấy giờ đã vào độ tứ tuần:
Rồi dốc, rồi dốc, leo rồi leo
Rồi khe, rồi lạch, vòng cong queo
Lên: Bám vào mây, xuống: Bíu gió
Trượt chân: Suối cuốn một làn rêu…
Một tiếng chim kêu sáng cả rừng
Lên đường chân lại nối theo chân
Đêm qua đầu chụm, run trên đá
Nay lại cùng mây sưởi nắng hừng…
Những câu thơ viết từ gần 70 năm trước mà nghe gần gũi vô hạn, nhất là với những người lính Trường Sơn của thời chống Mỹ chúng tôi, với cụm từ “một tiếng chim kêu sáng cả rừng” quá hay và quá lạ, mà nhiều nhà thơ, nhất là nhà thơ Xuân Diệu đã phải kinh ngạc!
Với tôi, một người lính thuộc thế hệ đến sau, viết sau (năm 1983) nhưng "Điệp khúc vô danh" cũng phần nào mường tượng ra Ngày Toàn quốc kháng chiến:
Đất nước ra đi chưa kịp chuẩn bị gì
Những vị tướng đầu tiên
Những người lính đầu tiên
Ôm bụng đói mà lên đường đánh giặc
Nhưng đêm ấy họ lắng nghe lời Bác:
Ai có súng dùng súng
Ai có gươm dùng gươm
Ai không có, thì gậy tầy, giáo mác
Lời của Bác chính là lời Tổ quốc
Chưa ai hình dung trận đánh sẽ ra sao
Con đường sẽ ra sao
Và cả ngày thắng lợi
Đồng đội mới và ngọn cờ cũng mới
Mới mẻ bài ca
Mới mẻ khúc quân hành…
Họ hồn nhiên đoạn tuyệt với hôm qua
Có ngậm ngùi nhưng không hề lưu luyến
Và trước mặt những con đường kháng chiến
Đã mở rồi, không biết chạy về đâu…
Và họ đã đi như thế suốt ba mưoi năm để giành lại một ngày trở về trong độc lập, tự do!
2 bài thơ của Chính Hữu và Quang Dũng mà cụ dẫn đều là những bài thơ kinh điển trong dòng văn thơ Cách mạng và kháng chiến chống Pháp.
Hay ạ. Hoan hô cụ.
Cụ tiếp tục đi 😍
Dạ cảm ơn lão anh đã ủng hộ. Nhắc đến Vũ Hoàng Chương là chúng ta thường nhớ đến những vần thơ say của ông. Nhưng trong đề tài về kháng chiến chống Pháp, Vũ Hoàng Chương cũng có những đóng góp nhất định. Trước năm 1945, ít ai nghĩ rằng thi sỹ Vũ Hoàng Chương lại có lúc bừng tỉnh dậy sau những cơn say để viết nên một bài thơ hay nhất về cuộc Cách mạng ngày 19 tháng 08 ở Hà Nội. Một bài thơ dù đôi lúc xưa cũ mà hào sảng, phóng khoáng, đầy chất kinh kỳ và đặc sắc nhất là những câu thơ về lá cờ Cách mạng với ngôi sao vàng năm cánh vang hồn nước bay trên phố phường thủ đô nghìn năm văn hiến. Như một phép lạ. Một tin lành. Một giọng điệu thi ca hào sảng mà bi tráng không thể nào tìm thấy được trong thơ Vũ Hoàng Chương cũng như thơ của phong trào Thơ Mới trước đó.
Nhớ về Hà Nội vàng son
- Vũ Hoàng Chương-
Ôi ngày mười chín, ngày oanh liệt!
Sóng đỏ hoa vàng khắp bốn phương
Hà Nội tiếng reo hò bất tuyệt
Vang sang bờ nọ Thái Bình Dương.Ba mươi sáu phố, ngày hôm ấy
Là những nhành sông đỏ sóng cờ
Chói lọi sao vàng, hoa vĩ đại
Năm cánh hoa xoè trên năm cửa ô.Xôn xao hành khúc “Xây đời mơớ”
Tráng khúc du dương “Ngọn Quốc kì”
Tóc bạc má hồng mê vận hội
Cùng trai nước Việt hát “Ra đi”Chen tiếng hoan hô, này khẩu hiệu
Muôn năm Chủ tịch Hồ Chí Minh!
Muôn năm người lính già tiêu biểu
Vì giang sơn quyết bỏ gia đình.Ôi ngày mười chín, ngày sung sướng!
Vạn ước mong dồn một ước mong!
Ôi mùa thi ấy, mùa tin tưởng!
Một tấm lòng mang vạn tấm lòng.Ba kỳ hỡi người dân Việt!
Mau võ trang cùng tiến bước lên
Cùng tiến bước mau! Thề một chết
Đòi hoa Hà Nội, sóng Long Biên.Cho hoa kia nở vàng như cũ
Cho sóng này dâng đỏ gấp xưa…
Ôi lá cờ sao! Từng đã ngự
Giữa lòng dân tộc, giữa kinh đô!Kinh đô ngàn thuở, đòi cho được
Và quét hôi tanh sạch đất này
Trả hôm mười chín mùa thu trước
Về cho mười chín thu mai đây.1947
Thơ Vũ Hoàng Chương thì vô cùng đẹp. Vì thế thơ ca kháng chiến của ông hiếm nhưng có chất riêng.
Nhân cụ nói đến những câu thơ về lá cờ trong thơ Vũ Hoàng Chương, em lại nhớ đến lá cờ trong "Nhất định thắng" của Trần Dần.
... Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ....
Vâng , một Trần Dần thật lạ nhưng cũng thật xuất chúng với nhiều câu thơ lạ, hay mà trong đó không thể không nói đến
Tôi khóc những chân trời không có người bay
Lại khóc những người bay không có chân trời ...
Rách tả tơi rồi đôi hài vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa
Nước non, non nước cảnh an lành
Núi cao ngụ một mái nhà tranh
Vẳng nghe xao xác chốn thị thành
Vọng nhìn hư ảo, khói mong manh.
Em thích thơ Bùi Giáng, liệu đăng vào đây có hợp không nhỉ?
Kính thưa công chúa Kim Cương,
Trẫm từ vô tận ven đường ngồi đây.
Tờ thư rất mực móng dày,
Làm sao định nghĩa đêm ngày yêu nhau?
Giờ mà tỏ tình ai, làm một bài thơ như cụ Giáng liệu người nhận nghĩ gì nhỉ?
Em thích thơ Bùi Giáng, liệu đăng vào đây có hợp không nhỉ?
Kính thưa công chúa Kim Cương,
Trẫm từ vô tận ven đường ngồi đây.
Tờ thư rất mực móng dày,
Làm sao định nghĩa đêm ngày yêu nhau?Giờ mà tỏ tình ai, làm một bài thơ như cụ Giáng liệu người nhận nghĩ gì nhỉ?
Ủng hộ cụ, thực ra em lấy cớ tạo thớt này từ 2 câu thơ chữ ký của cụ @alehap, tiện đà đề lên mấy bài thơ cho hợp cớ. Chứ thơ mà thiếu thơ tình thì mất đi biết bao nhiều giá trị.
Tỷ dụ như những dòng này.
"Mưa rơi đầm lá cỏ
Mái tóc em ướt rồi,
Đôi má em bừng đỏ
Muốn hôn quá... mà thôi
Sợ em mình xấu hổ
Cầm hai bàn tay nhỏ
Xa nhau, chẳng muốn rời.
Em đi, đường đất mưa rơi
Bùn non son quánh chân đồi Phù Ninh
Em đi anh nhớ dáng hình
Cái khăn mỏ quạ, cái mình áo nâu
Chiều nay heo hút rừng sâu
Mưa nguồn suối lũ biết đâu mà tìm?
Ước gì anh hoá thành chim
Bay theo em, hót cho tim đỡ buồn!
Mưa rơi - Tố Hữu.
Ủng hộ cụ, thực ra em lấy cớ tạo thớt này từ 2 câu thơ chữ ký của cụ @alehap, tiện đà đề lên mấy bài thơ cho hợp cớ. Chứ thơ mà thiếu thơ tình thì mất đi biết bao nhiều giá trị.
Em cũng thích mấy bài thơ hồng hồng tuyết tuyết. Hoặc những bài thơ kiểu cổ thi kiểu:
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
Uống rượu ngâm mấy câu này cứ ngỡ mình là anh hùng.
Hay mấy câu hoài niệm xa vắng:
Nhân diện bất tri hà xứ khứ,
Đào hoa y cựu tiếu đông phong
Câu trên cho em đặc biệt nhiều cảm xúc khi trở về những chốn xưa, cảnh còn mà người đã đi đâu cả.
Mai sau em về
(Bùi Giáng)
Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không
Ta đi còn gửi đôi giòng
Lá rơi có dội ở trong sương mù?
Những thương nhớ lạnh bao giờ
Đường thu chia ngả chân trời rộng thênh
Đây phồn hoa của thị thành
Đây hồn thuỷ thảo khóc tình ngửa ngang
Càn khôn xưa của riêng chàng
Xưa đài vũ trụ thiếp mang riêng mình
Bây giờ đón bước em xinh
Sầu đau nhan sắc bất bình ra sao.
------
Em thích 2 câu đầu, đã lấy làm chữ ký mà sao không thấy hiện ra các cụ ơi.😂
Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không...
Em thích 2 câu đầu, đã lấy làm chữ ký mà sao không thấy hiện ra các cụ ơi.😂
Cụ đã lưu chũ kí lại chưa?
Đất nước - Nguyễn Đình Thi
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha!
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Ðêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về!
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Từ những năm đau thương chiến đấu
Ðã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Ðã bật lên những tiếng căm hờn
Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây, thằng chúa đất
Ðứa đè cổ, đứa lột da...
Xiềng xích chúng bay không khoá được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà!
Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Ðã đứng lên thành những anh hùng.
Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh.
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà.
Sáng tai họ, điếc tai cày