70 năm chiến thắng ...
 
Notifications
Clear all

70 năm chiến thắng Điên Biên Phủ

234 Bài viết
20 Thành viên
1041 Reactions
9,892 Lượt xem
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31355.77
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3300
Topic starter  
image

Cuộc phản kích chiếm lại đồi C1 của địch bước sang ngày thứ 2. Đến trưa ngày 10/4/1954, địch đã chiếm được một phần C1. Lực lượng tiếp viện của Trung đoàn 98 đã phải dùng lưỡi lê ào lên đánh giáp lá cà với địch. Với ưu thế của hỏa lực không quân, được pháo binh chi viện, địch đã tập trung lực lượng và hỏa lực phản kích chiếm lại được đỉnh đồi C1, đẩy 1 đại đội của Tiểu đoàn 439, Trung đoàn 98 lùi xuống giữ nửa đồi phía đông. Đến 21 giờ cùng ngày, Trung đoàn 98 tổ chức 1 đợt phản kích nhưng không thành công. Trong ngày, quân Pháp thả 302 lính dù lê dương, cùng 195 tấn đạn dược xuống Điện Biên Phủ.

 

- Theo đề nghị của ta, hai bên trao trả thương binh: Lính Pháp bị thương được trao trả ở phía nam Claudine, trên đường 41; thương binh ta được trao trả ở Km số 2 đường Pavie (đi Lai Châu).

Để thực hiện các nhiệm vụ còn lại của Đợt 2, theo quyết tâm của Bộ Chỉ huy chiến dịch tại Hội nghị cán bộ chiến dịch sơ kết đợt 2 (đã họp vào ngày 8/4), ngày 10/4/1954, Bộ Tổng Tư lệnh ra Mệnh lệnh số 95/ B1 gửi Đại đoàn 308, 312, 316, 304, 351, giao nhiệm vụ cho các đơn vị như sau: (Xem toàn văn Mệnh lệnh tại Phụ lục 1) (Xem toàn văn Mệnh lệnh tại Phụ lục 1)

+ Đại đoàn 308 bố trí ở phía tây, từ sông Nậm Rốm đến Bản Kéo, có nhiệm vụ làm trận địa tiến công các cứ điểm 206, 311A, 311B, 310, bố trí lực lượng chặn viện giữa các cứ điểm 105, 206, 208, phối hợp với Đại đoàn 312 đào giao thông hào cắt ngang sân bay ở đoạn nam cứ điểm 206.

+ Đại đoàn 312 bố trí ở phía bắc, từ Bản Kéo đến đoạn đông sân bay Mường Thanh, có nhiệm vụ củng cố trận địa phòng ngự ở các cứ điểm 201, 202; xây dựng trận địa tiến công các cứ điểm 105, 203 ở khu tiểu đoàn ngụy Thái số 2; phối hợp với Đại đoàn 308 đào giao thông hào cắt ngang sân bay.

+ Đại đoàn 316 làm trận địa tiến công ở đông Mường Thanh, bên trái tiếp giáp với Đại đoàn 312, bên phải tiếp giáp với Đại đoàn 308, xây dựng trận địa tiến công các cứ điểm A1, C2, củng cố trận địa phòng ngự ở đồi C1, A1 .

+ Trung đoàn 57 (Đại đoàn 304) tiếp tục hoạt động bao vây, chặn viện ở phân khu Hồng Cúm.

+ Đại đoàn 351 xây dựng thêm trận địa pháo ở tây bắc Mường Thanh, đưa pháo sát vùng lòng chảo; tổ chức phòng không, hiệp đồng chặt chẽ các loại pháo chi viện cho bộ binh và kiềm chế pháo binh địch .

Cũng trong ngày 10/4/1954, Tổng cục Chính trị ra Chỉ thị số 88-CTH, do đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị ký về lãnh đạo tư tưởng hoàn thành nhiệm vụ Chiến dịch Đông Xuân. Chỉ thị được gửi các đại đoàn, các khu tư lệnh và các trung đoàn trực thuộc. (Xem toàn văn tại Phụ lục 2)

Chỉ thị đã biểu dương các cán bộ chiến sĩ đã nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, chiến đấu anh dũng và lập nhiều thành tích to lớn, nhất là các trận ở sân bay Gia Lâm, Cát Bi, đường số 5 và khu Tây Nguyên. Bộ đội ta đã đáp ứng được đòi hỏi của nhiệm vụ và còn có thể tiếp tục đánh lâu dài hơn nữa, nhưng cũng nảy sinh những tư tưởng mệt mỏi, chủ quan khinh địch, một số thiếu tích cực tiến công tiêu diệt và sợ địch.

Đồng chí Nguyễn Chí Thanh đề ra phương châm lãnh đạo tư tưởng là: đẩy mạnh tuyên truyền, động viên tinh thần chiến đấu của bộ đội, nâng cao quyết tâm tiêu diệt địch lên một bước nữa; khắc phục tư tưởng chủ quan kinh địch, sợ mỏi mệt muốn nghỉ ngơi; tích cực phối hợp với Điện Biên Phủ, tiêu diệt thêm nhiều sinh lực địch hơn nữa, giành thắng lợi hoàn toàn cho Chiến dịch Đông Xuân.

image

Các đơn vị pháo binh của ta tiếp tục pháo kích vào các vị trí của địch. Các vị trí của địch bị trúng đạn pháo đang bốc cháy. (Ảnh: TTXVN)

Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, lần đầu tiên ta động viên và sử dụng một số lượng lớn phương tiện cơ giới là ô-tô làm nhiệm vụ vận chuyển chủ yếu khối lượng vật chất hậu cần, kỹ thuật cho chiến dịch. Bài viết "Bài học về phát huy tinh thần sáng tạo trong bảo đảm kỹ thuật cho Chiến dịch Điện Biên Phủ" (Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Chiến thắng Điện Biên Phủ - Giá trị lịch sử và hiện thực (7/5/1954 - 7/5/2019), Trung tướng Lê Quý Đạm, Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật viết: “Cục Vận tải phát động phong trào thi đua ở các đơn vị tập trung sửa chữa những xe ô tô hư hỏng để nhanh chóng đưa vào phục vụ chiến dịch. Đại đội 202 đã tự khắc phục sửa được 12 xe, trong đó có 9 xe hỏng nặng và Đại đội 206 tự khắc phục được 4 xe đưa ngay vào sử dụng.

Bên cạnh phong trào tự sửa chữa, nâng cấp xe ở các đơn vị, ngành Xe quân đội đã sáng tạo tổ chức một hệ thống bảo đảm kỹ thuật phục vụ cho các phương tiện cơ giới vận tải từ hậu phương ra tiền tuyến.

Trên đường ra mặt trận có xưởng sửa chữa AZ11 ở ngã ba Đông Lý (Yên Bái) được bổ sung nhiều trang thiết bị, thường xuyên sửa chữa cho các xe hoạt động chở hàng từ hậu phương ra các kho trung tuyến. Đội sửa chữa ở Tuần Giáo - Điện Biên Phủ (Km70) bảo đảm ưu tiên sửa chữa cho các xe hoạt động ở trung tuyến và hỏa tuyến.

…Với tinh thần “Yêu xe như con, quý xăng như máu”, trong quá trình diễn biến chiến dịch, các chiến sĩ lái xe, thợ sửa chữa đã ngày đêm chăm sóc, bảo quản bảo đảm xe - máy luôn có chất lượng tốt, sẵn sàng nhận nhiệm vụ, tăng khả năng cơ động của xe, tăng trọng lượng chở gạo, đạn và kéo pháo vào trận địa đúng theo kế hoạch, thời gian quy định; xe hỏng được lực lượng kỹ thuật nhanh chóng sửa chữa ngay trên đường hành quân để giảm giờ chết. Để bảo đảm kỹ thuật tốt nhất cho phương tiện, hơn 800 lái xe, 300 thợ sửa chữa của ngành xe - máy và ngành giao thông công chính cũng được động viên bổ sung kịp thời cho chiến dịch”.

Phụ lục 1 : Mệnh lệnh số 95/B1
 

Phụ lục 2 : Chỉ thị số 88-CTH

https://special.nhandan.vn/chithicuatongcucchinhtri_so88/index.html

 

Ngày xuất bản: 10/4/2024
Nội dung: Đại úy, ThS Nguyễn Ngọc Toán - Viện Lịch sử quân sự, NGỌC BÁCH
Trình bày: ANH NGỌC
Ảnh: TTXVN

 

 


   
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
 

Đăng bởi: @friendship2k

Cảm ơn các cụ các mợ ONET đã vào động viên thớt.

Em đưa vào đây chỉ một số bài em thấy nội dung hấp dẫn và lượng kiến thức phong phú trong chuyên đề này. CCCM nên đọc chuyên đề của báo Nhân dân điện tử về 70 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (đã dẫn link) để có nhiều thông tin hơn.

Em cũng muốn hỏi CCCM về một bài thơ mà trước đây em được học cũng liên quan đến chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Vừa rồi cũng xem lại một số bài tiêu biểu của nhà thơ Tố Hữu nhưng không thấy. Em nhờ CCCM cho thông tin về bài thơ này : tên bài thơ và tác giả, và nếu được thì CCCM post vào đây toàn bộ bài thơ đấy.

Trong bài thơ đấy có đoạn mà em nhớ như sau (có thể sai khác vài từ) :

Chín năm làm một Điện Biên

Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng

Ôi tổ quốc vinh quang tổ quốc

Ngàn muôn năm dân tộc ta ơi

Việt Nam anh dũng sáng ngời

Ánh gương độc lập giữa trời soi chung

Hỡi ai kiếp bần cùng nô lệ

Hãy đứng lên mà bẻ xiềng gông 

Tự do đã nở hoa hồng

Trong dòng máu đỏ trên đồng Viêt Nam ....

Cảm ơn CCCM đã ủng hộ.

Đây là bài Ba mươi năm đời ta có Đảng trong tập Gió lộng của Tố Hữu ạ.

 

Anh chị em ơi!
Ba mươi năm đời ta có Đảng
Hôm nay ôn lại quãng đường dài...
Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay
Ra sông nhớ suối, có ngày nhớ đêm
Mùa xuân đó, con chim én mới
Rộn đồng chiêm, chấp chới trời xanh
Đời ta gương vỡ lại lành
Cây khô cây lại đâm cành nở hoa.

          *

Thuở nô lệ, thân ta nước mất
Cảnh cơ hàn, trời đất tối tăm
Một đời đau suốt trăm năm
Chim treo trên lửa, cá nằm dưới dao!
Giặc cướp hết, non cao biển rộng
Cướp cả tên nòi giống tổ tiên
Lưỡi gươm cắt đất ngăn miền
Non sông một khúc ruột liền chia ba
Lũ bán nước lột da dân nước
Tan mồ cha cũng rước voi giày
Máu đà nhúng đỏ bàn tay
Biết chi đau đớn cỏ cây đồng bào!

Ôi nhớ những năm nào thuở trước
Xóm làng ta xơ xác héo hon
Nửa đêm thuế thúc trống dồn
Sân đình máu chảy, đường thôn lính đầy.
Cha trốn ra Hòn Gay cuốc mỏ
Anh chạy vào Đất Đỏ làm phu
Bán thân đổi mấy đồng xu
Thịt xương vùi gốc cao su mấy tầng!
Con đói lả ôm lưng mẹ khóc
Mẹ đợ con đấu thóc cầm hơi
Kiếp người cơm vãi cơm rơi
Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi!

          *

Lần đếm bước đến khi hừng sáng
Mặt trời kia! Cờ Đảng giương cao!
Đảng ta, con của phong trào
Mẹ nghèo mang nặng khổ đau khôn cầm.
Như đứa trẻ sinh nằm trên cỏ
Không quê hương, sương gió tơi bời
Đảng ta sinh ở trên đời
Một hòn máu đỏ nên Người hôm nay.

Đảng ta đó, trăm tay nghìn mắt
Đảng ta đây, xương sắt da đồng.
Đảng ta, muôn vạn công nông
Đảng ta, muôn vạn tấm lòng niềm tin.
Đảng ta Mác – Lê-nin vĩ đại
Lại hồi sinh, trả lại cho ta
Trời cao, đất rộng bao la
Bát cơm, tấm áo, hương hoa, hồn người.

Từ ấy đã ba mươi năm chẵn
Cuộc đời ta theo Đảng tiến lên.
Đường xa bao nỗi truân chuyên
Ngọn đèn đêm gió, con thuyền biển khơi
Đèn vẫn tỏ, thuyền bơi tới trước
Đảng ta đưa dân nước ta đi...
Con đường cách mạng trường kỳ
Ba mươi năm ấy, bước đi vững vàng.

Trống Xô-viết Nghệ An vang động
Bắc Trung Nam tràn sóng đấu tranh
Hầm than, xưởng máy, lều gianh
Đứng lên tự cứu mà giành ấm no
Đứng lên cứu tự do, độc lập
Đứng lên giành ruộng đất, áo cơm!
Đứng lên, thân cỏ, thân rơm
Búa liềm không sợ súng gươm bạo tàn!
Máu có chảy, xương tan thịt nát!
Bớ công nông! Tiếng hát càng cao
Năm năm chìm nổi ba đào
Phong trào tạm lắng, phong trào lại lên...

          *

Chống phát-xít, cường quyền hiếu chiến
Khắp năm châu, trận tuyến Bình dân
Trùng trùng cách mạng ra quân
Phất cao cờ đỏ, công nhân dẫn đầu
Còi máy gọi bến tàu hầm mỏ
Hòn Gay kêu Đất Đỏ đấu tranh
Áo nâu liền với áo xanh
Nông thôn cùng với thị thành đứng lên
Đòi cơm áo, đòi quyền dân chủ
Đường càng đi đội ngũ càng đông
Suối ngàn đã chảy thành sông
Đố ai tát cạn được dòng nước xuôi!

Càng tức nước, càng xui bờ vỡ
Lòng dân ta như lửa thêm dầu
Lưỡi lê, mũi súng, nhà tù
Càng đau, càng khổ, càng thù, càng căm.
Nước đà mất tám mươi năm
Đã Tây lại Nhật, đứng nằm sao yên?
Thân một cổ hai xiềng nô lệ
Phải vùng lên mà bẻ cho tan
Diệt bầy Tây - Nhật - Việt gian
Việt Nam độc lập hoàn toàn tự do!

Lời Đảng gọi vang to khắp nước
Núi sông nghe chân bước trước sau:
Bắc Sơn phất ngọn cờ đầu
Nam Kỳ khởi nghĩa bắc cầu tiến lên
Máu dù chảy hai miền thấm đỏ
Nghìn đầu rơi xuống cỏ, không lui!
Núi càng rung, biển càng sôi
Thép nung càng luyện, càng tôi, càng bền.

          *

Rừng Việt Bắc, Thái Nguyên chống địch
Bước chân đoàn du kích càng hăng
Quân càng đông, sức càng tăng
Biên cương nổi lửa, Cao Bằng xuất binh
Nổ súng trận, Việt Minh truyền lệnh
Giải phóng quân tràn đỉnh non cao
Việt Minh như thác ào ào
Chiến khu kháng Nhật, cao trào nhân dân
Đã nghe súng Hồng quân oanh liệt
Chân trời xa như sét đêm thâu...
Đức hàng, Nhật cũng cúi đầu
Bốn phương châu Á, châu Âu vẫy vùng
Đồng cỏ héo đã bừng lửa cháy
Nước non ơi, hết thảy vùng lên!
Bắc Trung Nam khắp ba miền
Toàn dân khởi nghĩa! Chính quyền về tay!
Lời Đảng gọi, một ngày sấm nổ
Biển người dâng ngập phố ngập đồng
Mùa thu Cách mạng thành công
Mùa thu đây, hỡi cờ hồng vàng sao!

         *

Ôi hai tiếng đồng bào, Tổ quốc
Đến hôm nay mới thuộc về ta
Trăm năm mất nước mất nhà
Hôm nay mới cất lời ca tiếng cười
Ta đã đứng nên người độc lập
Cao bằng người, nào thấp thua ai?
Tay ta, tay búa, tay cày
Tay gươm, tay bút, dựng xây nước mình.

Đời đang buổi bình minh hửng đỏ
Tây lại vào cắn cổ, cắn chân
Chém cha cái lũ thực dân
Đã leo đằng cẳng lài lân đằng đầu!
Một bước nhịn, bước sau cố nhịn
Giặc càng hung. Còn nín được sao?

          *

Hỡi quốc dân! Hỡi đồng bào!
Có gươm, có súng, có dao hãy dùng
Quyết kháng chiến đến cùng cứu nước!
Toàn dân trông phía trước, tiến lên!

Nửa đêm vang tiếng lệnh truyền
Phố giăng chiến luỹ, đường xuyên chiến hào
Hồn Nước dựng thành cao muôn trượng
Tay Đảng rèn lực lượng muôn dân
Chín năm kháng chiến thánh thần
Gậy tầm vông đánh tan quân bạo tàn!
Một dân tộc hai bàn tay trắng
Đồng tâm là chiến thắng thành công
Dân ta gan dạ anh hùng:
Trẻ làm đuốc sống, già xông lửa đồn
Chân toạc máu, chân dồn đuổi giặc
Tay chém thù, tay sắc như gươm!
Củ khoai, củ sắn thay cơm
Khoai bùi trong dạ, sắn thơm trong lòng
Hớp ngụm nước suối trong đỡ khát
Trông trời cao mà mát tâm can!

Chín năm nắng núi mưa ngàn
Nắng mưa có Đảng, cơ hàn có nhau
Nhớ những lúc hầm sâu địch hậu
Nhớ những đêm theo dấu đường đây
Giặc lùng, giặc quét, giặc vây
Có dân, có Đảng đêm này vẫn vui.
Làng kháng chiến không lui một bước
Nhổ sạch đồn cho nước ta yên
Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng!

Ôi Tổ quốc, vinh quang Tổ quốc!
Ngàn muôn năm dân tộc ta ơi!
Việt Nam anh dũng sáng ngời
Ánh gươm độc lập giữa trời soi chung.
Hỡi ai kiếp bần cùng nô lệ
Hãy đứng lên mà bẻ xiềng gông!
Tự do đã nở hoa hồng
Trong dòng máu đỏ, trên đồng Việt Nam...

          *

Đường hạnh phúc gian nan lắm khúc
Đời đấu tranh không lúc dừng chân
Đã rằng vì Nước vì Dân
Nước Dân còn khổ thì thân sướng gì?
Đường giải phóng mới đi một nửa
Nửa Mình còn trong lửa nước sôi
Một thân không thể chia đôi
Lửa gươm không thể cắt rời núi sông
Gươm nào chém được dòng Bến Hải?
Lửa nào thiêu được dải Trường Sơn?
Căm hờn lại giục căm hờn
Máu kêu trả máu, đầu van trả đầu!
Miền Nam đi trước về sau
Bước đường cách mạng dài dâu đã từng
Đước đã mọc thành rừng gỗ cứng
Gió càng lay càng dựng Thành đồng
Trăm sông về một biển Đông
Bắc Nam sẽ lại về trong một nhà!

          *

Đường thống nhất chân ta bước gấp
Miền Bắc ta xây đắp nhanh tay
Năm năm mới bấy nhiêu ngày
Mà trông trời đất đổi thay đã nhiều...
Dân có ruộng, dập dìu hợp tác
Lúa mượt đồng, ấm áp làng quê
Chiêm mùa, cờ đỏ ven đê
Sớm trưa tiếng trống đi về trong thôn
Máu áo mới nâu non nắng chói
Mái trường tươi roi rói ngói son
Đã nghe nước chảy lên non
Đã nghe đất chuyển thành con sông dài
Đã nghe gió ngày mai thổi lại
Đã nghe hồn thời đại bay cao...
Núi rừng có điện thay sao
Nông thôn có máy làm trâu cho người
Đời hết kẻ sống lười ăn bám
Đời của ai dũng cảm hy sinh
Những người lao động quang vinh
Chúng ta là chủ của mình từ đây...
Nghìn năm giấc mộng đêm ngày
Ba mươi năm Đảng, hôm nay có mình.

          *

Ba mươi tuổi Đảng sinh, phấn đấu
Đã bao lần đổ máu con yêu!
Đường đi mấy núi mấy đèo
Núi bao nhiêu ngọn, bấy nhiêu anh hùng!
Sống cùng Đảng, chết không rời Đảng
Tấm lòng son chói sáng nghìn thu
Mặt trời có lúc mây mù
Trái tim ta vẫn đỏ bầu máu tươi!
Người đang sống nhớ người đã khuất
Nhớ những anh chị mất trên đường
Tù lao, máy chém, chiến trường
Dẫu tan nát thịt, còn vương vấn hồn:
Chết nằm xuống, còn hôn cờ Đảng
Chết còn trao súng đạn, quên đau
Chết còn trút áo cho nhau
Miếng cơm dành để người sau ấm lòng!
Hỡi những trái tim không thể chết
Chúng tôi đi theo vết các anh
Những hồn Trần Phú vô danh
Sóng xanh biển cả, cây xanh núi ngàn...

Con chim biết nhớ đàn nhớ tổ
Ta nhớ người đau khổ nuôi ta:
Ơn người như mẹ, như cha
Lòng dân yêu Đảng như là yêu con!
Nghèo rau cháo, từng lon gạo bữa
Dành cho ta chút sữa cầm hơi
Dù khi tắt lửa tối trời
Vững lòng quyết sống, không rời Đảng ta
Dù khi giặc khảo giặc tra
Cắn răng thà chết, không xa Đảng mình!
Ta nhớ nghĩa nhớ tình bốn biển
Anh em ta yêu mến gần xa
Máu Hồng quân, máu Trung Hoa
Cũng là máu đổ cho ta đất này.

Một ngày nhớ bao ngày xưa ấy
Ba mươi năm, biết mấy buồn vui!
Đắng cay nay mới ngọt bùi
Đường đi muôn dặm đã ngời mai sau...
Ngọn cờ đỏ trên đầu phấp phới
Bác Hồ đưa ta tới trời xa
Ba mươi năm bước đường qua
Đời ta có Bác xông pha dẫn đường
Người đi trước, nghìn sương muôn tuyết
Dắt dìu dân, nước Việt Nam ta
Bạc phơ mái tóc người Cha
Ba mươi năm Đảng nở hoa tặng Người.

 

Bài thơ: Ba mươi năm đời ta có Đảng (Tố Hữu - Nguyễn Kim Thành) (thivien.net)

 

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Phan khoi lon, silverstar0211, Big bang and 2 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31355.77
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3300
Topic starter  
image

Cuộc phản kích của địch chiếm Đồi C1 bước sang ngày thứ ba. 2 giờ sáng 11/4/1954, trên mỏm cao Cột Cờ ở cứ điểm Đồi C1 không còn đường hào, công sự nào nguyên vẹn. Cả ta và địch đều dồn mọi nỗ lực vào việc củng cố chỗ đứng chân trên quả đồi đã bị bom đạn hủy diệt toàn bộ công sự chiến đấu cũng như chỗ ẩn náu.

 

Bộ đội ta phải lui về tuyến cũ tổ chức phòng ngự.

Trung đoàn 98 làm nhiệm vụ phòng ngự tại C1 cũng được tăng cường Tiểu đoàn 888 Trung đoàn 176. Đến chiều ngày 11/4, Đại đội 811 Tiểu đoàn 888, được đưa ra phòng ngự tại C1 thay cho các đơn vị đã chiến đấu suốt hai ngày rút về phía sau. Từ đây, Đại đội 811 Tiểu đoàn 888 đảm nhiệm phòng ngự tại Đồi C1 20 ngày liền cho tới lúc ta hoàn toàn tiêu diệt cứ điểm này.

Quân Pháp cũng phải đưa đại đội thứ ba của tiểu đoàn lê dương dù 2 vừa chấn ướt chân ráo tới Mường Thanh, thay thế cho lực lượng chiến đấu suốt đêm 10 rạng ngày 11/4/1954 đã quá rệu rã.

Bộ đội ta phải lui về tuyến cũ tổ chức phòng ngự.

Trung đoàn 98 làm nhiệm vụ phòng ngự tại C1 cũng được tăng cường Tiểu đoàn 888 Trung đoàn 176. Đến chiều ngày 11/4, Đại đội 811 Tiểu đoàn 888, được đưa ra phòng ngự tại C1 thay cho các đơn vị đã chiến đấu suốt hai ngày rút về phía sau. Từ đây, Đại đội 811 Tiểu đoàn 888 đảm nhiệm phòng ngự tại Đồi C1 20 ngày liền cho tới lúc ta hoàn toàn tiêu diệt cứ điểm này.

Quân Pháp cũng phải đưa đại đội thứ ba của tiểu đoàn lê dương dù 2 vừa chấn ướt chân ráo tới Mường Thanh, thay thế cho lực lượng chiến đấu suốt đêm 10 rạng ngày 11/4/1954 đã quá rệu rã.

Đến đêm 11/4/1954, ta tiếp tục phản kích nhưng vẫn không chiếm được khu vực Cột Cờ.

Đồi C1 bị chia làm đôi, ta và địch mỗi bên chiếm một nửa đồi. Ta và địch đã quá hiểu nhau, chấp nhận tạm thời giữ nguyên trạng; thỉnh thoảng có những trái lựu đạn, những loạt liên thanh qua lại, những luồng súng phun lửa, những cuộc đột kích chớp nhoáng diễn ra.

Cùng ngày, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam gửi Thư cho cán bộ và chiến sĩ Trung đoàn 9, Đại đoàn 304 đang tham gia tiễu phỉ trên địa bàn miền núi phía bắc.

Đại tướng gửi lời khen ngợi đến toàn thể cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn và thông báo một trong những âm mưu của địch là đánh phá đường vận tải, gây khó khăn cho ta trong quá trình cung cấp, tiếp tế, chi viện, nhất là khi mùa mưa đang đến gần. Đồng chí Võ Nguyên Giáp giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 9 phải giữ vững được tuyến vận tải, bảo đảm đường sá thông suốt, góp phần vào thắng lợi của Chiến dịch.

 

Ngày 11/4/1954
Trong bài viết “Vận tải thô sơ, nét độc đáo trong chiến dịch Điện Biên Phủ”, (Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Chiến thắng Điện Biên Phủ - Giá trị lịch sử và hiện thực (7/5/1954 - 7/5/2019), Thượng tá, ThS Nguyễn Văn Điền, Phó trưởng phòng Quản lý khoa học, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam; Trung tá, ThS Hồ Nhật Vũ, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam đã mô tả lại công việc của những lực lượng dân công, thanh niên xung phong:

image

Đoàn xe đạp thồ trên đường vào chiến dịch Điện Biên Phủ. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

"Mặc dù gặp muôn vàn khó khăn do thời tiết khắc nghiệt và do địch ngăn chặn, nhưng từng đoàn xe đạp thồ, ngựa thồ, từng đoàn thuyền lớn nhỏ của ta vẫn dũng cảm vượt bom đạn tiến về Điện Biên Phủ. Hàng chục vạn chị em dân công, thanh niên xung phong không quản hy sinh, ngày đêm băng rừng, lội suối lấy sức mình vận chuyển lương thực, đạn dược ra mặt trận tiếp tế cho chiến dịch Điện Biên Phủ.

image

Đoàn dân công xe thồ phục vụ tiền tuyến. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Phát huy sức mạnh của vận tải thô sơ cùng với vận tải của xe cơ giới đến đầu tháng 3 năm 1954, trên 95% nhu cầu vật chất theo kế hoạch tác chiến đã được đưa đến khu vực tập kết của chiến dịch. Theo các con đường Khâu Hu, Bản Tấu cho Đại đoàn 308 ở phía tây, đường 43 vào Nà Lợi cho Đại đoàn 312 ở phía tây bắc, theo các con đường kéo pháo cung cấp cho Đại đoàn 316 và các đơn vị khác ở phía Đông… lương thực thực phẩm, vũ khí đạn dược đã được đưa đến các kho hậu cần đại đoàn và trung đoàn, tạo điều kiện cho các đơn vị chiến đấu nổ súng theo đúng kế hoạch, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của chiến dịch.

image

Nhân dân các thị trấn ở Thanh Hóa tiến đưa các đoàn dân công xe đạp thồ lên đường phục vụ tiền tuyến năm 1954. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

… Đến ngày 30/4/1954, khối lượng hàng vận tải trên mặt trận theo kế hoạch tác chiến đợt 2 đã vượt chỉ tiêu 8%; đồng thời, bảo đảm đủ và vượt chỉ tiêu 3% nhu cầu vật chất của bộ đội trong đợt tác chiến thứ ba. Hàng từ hậu phương chuyển lên nhiều, khẩu phần ăn của bộ đội được cải thiện hơn trước.

 

Ngày xuất bản: 11/4/2024
Nội dung: Đại úy, ThS NGUYỄN NGỌC TOÁNViện Lịch sử quân sự.
Ảnh: TTXVN, Báo Nhân Dân
Trình bày: VŨ HẢI


   
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31355.77
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3300
Topic starter  

Đăng bởi: @coco

 

Đây là bài Ba mươi năm đời ta có Đảng trong tập Gió lộng của Tố Hữu ạ.

 

Anh chị em ơi!
Ba mươi năm đời ta có Đảng
Hôm nay ôn lại quãng đường dài...
Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay
Ra sông nhớ suối, có ngày nhớ đêm
Mùa xuân đó, con chim én mới
Rộn đồng chiêm, chấp chới trời xanh
Đời ta gương vỡ lại lành
Cây khô cây lại đâm cành nở hoa.

......

Chín năm nắng núi mưa ngàn
Nắng mưa có Đảng, cơ hàn có nhau
Nhớ những lúc hầm sâu địch hậu
Nhớ những đêm theo dấu đường đây
Giặc lùng, giặc quét, giặc vây
Có dân, có Đảng đêm này vẫn vui.
Làng kháng chiến không lui một bước
Nhổ sạch đồn cho nước ta yên
Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng!

Ôi Tổ quốc, vinh quang Tổ quốc!
Ngàn muôn năm dân tộc ta ơi!
Việt Nam anh dũng sáng ngời
Ánh gươm độc lập giữa trời soi chung.
Hỡi ai kiếp bần cùng nô lệ
Hãy đứng lên mà bẻ xiềng gông!
Tự do đã nở hoa hồng
Trong dòng máu đỏ, trên đồng Việt Nam...

  

Bài thơ: Ba mươi năm đời ta có Đảng (Tố Hữu - Nguyễn Kim Thành) (thivien.net)

 

Cảm ơn mợ rất nhiều.

Em đọc và nhận ra là mình biết khá nhiều đoạn trong bài thơ này, nhưng không biết toàn bộ bài thơ.

Thể thơ song thất lục bát rất dễ thuộc do có vần có điệu.

Có lẽ trước chỉ được đọc/ học trích đoạn nên không nhớ tên bài thơ.

 


   
Big bang and U Cay reacted
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31355.77
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3300
Topic starter  

Lại chuyện kéo pháo vào - kéo pháo ra rồi kéo pháo ra - kéo pháo vào

 

Kéo pháo vào - ra và việc chỉnh đốn sĩ khí Điện Biên 70 năm trước

Chín ngày đêm kéo pháo vào chiến trường phía Tây chuẩn bị đánh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tới 27/1/1954, trung đoàn Sông Lô nhận lệnh kéo pháo ra.

"Anh em hoang mang hỏi vì sao kéo pháo ra? Nhưng chỉ huy chỉ có ba ý nói với chiến sĩ: Quyết tâm tiêu diệt Trần Đình (bí danh của Điện Biên Phủ), tuyệt đối tin tưởng cấp trên và triệt để chấp hành mệnh lệnh", đại tá Nguyễn Hữu Tài, nguyên Chủ nhiệm chính trị Trung đoàn 209 (Trung đoàn Sông Lô), Đại đoàn 312, kể chuyện 70 năm trước.

Đại tá 96 tuổi trở lại chiến trường xưa dự hội thảoChiến thắng Điện Biên Phủ với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, ngày 11/4. Nhắc lại ký ức Điện Biên, ông nhớ đồng đội đoàn Sông Lô anh hùng đã nằm lại chiến trường, nhớ đại tướng Võ Nguyên Giáp - người anh cả của quân đội và thấy mình may mắn "trời còn để có hôm nay" về đây phát biểu đôi lời.

image

Đại tá Nguyễn Hữu Tài từ Hà Nội về Điện Biên dự hội thảo, ngày 11/4. Ảnh: Ngọc Thành

 

Thông tin chi tiết mời CCCM xem link dưới đây :

https://vnexpress.net/keo-phao-vao-ra-va-viec-chinh-don-si-khi-dien-bien-70-nam-truoc-4733128.html

 


   
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31355.77
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3300
Topic starter  
image

Ngày 12/4/1954, Bộ đội ta tiếp tục đào vây lấn, uy hiếp các cứ điểm 105 và 106 của địch. Lúc 11 giờ 40 phút cùng ngày, chiếc máy bay thứ 50 của quân Pháp bị ta bắn rơi tại Điện Biên Phủ. Đó là pháo đài bay ném bom 4 động cơ B.24 (Privateer), với tổ bay 9 người, lần đầu bị hạ trên chiến trường Việt Nam; bom nằm trong khoang địch chưa kịp thả; số bom này đã cung cấp cho bộ đội công binh thuốc nổ để ta đặt trong đường hầm A1 vào đầu tháng 5.

15 giờ chiều cùng ngày, một máy bay B.26 thả bom trúng vị trí quân Pháp ở cứ điểm Épecvier, ngay gần Sở Chỉ huy của Đờ Cát-xtơ-ri, làm nổ tung một kho đạn và chết nhiều binh lính. Nguyên nhân là do lưới lửa phòng không cao xạ của ta đang kiểm soát chặt chẽ bầu trời Điện Biên Phủ gây khó khăn cho những viên phi công Pháp, cùng với những chiến hào đang ngày càng tiến sát địch khiến vị trí đôi bên quá gần nhau, gây khó khăn cho phi công Pháp trong việc cắt bom và tiếp tế. 

Để tránh lưới lửa phòng không của quân ta, thực dân Pháp phải chuyển sang thả dù lương thực, đạn dược ban đêm. 

Có đêm Tập đoàn cứ điểm nhận được hơn 200 tấn đồ tiếp tế. Tình hình lương thực của tập đoàn cứ điểm được cải thiện chút ít; làm theo cách này những chiếc máy bay vận tải cũng được an toàn hơn, nhưng việc thu lượm dù vẫn phải tiến hành ban ngày. 

Dẫu vậy, địch vẫn vấp phải những khó khăn mới, bởi Bộ Chỉ huy chiến dịch tiếp tục chủ trương cho các đơn vị tổ chức đoạt dù, chặn đường tiếp tế của địch để khoét sâu thêm khó khăn của địch, kịp thời bồi dưỡng lực lượng ta. 

image

Thực hiện chủ trương nêu trên, tất cả các đại đoàn đặt ra kế hoạch đoạt dù địch rất hào hứng sôi nổi. Các đơn vị đã đề ra phương châm thực hiện như sau:

+ Lấy loại rơi gần địch trước, loại xa địch sau.
+ Đoạt dù đạn trước, thực phẩm sau.
+ Không lấy được thì phá hủy không cho địch lấy.

Cán bộ, chiến sĩ ta đã làm ca dao về việc này. Một trong những bài thơ, ca dao ấy viết:

“Gió đưa dù tỏa khắp đồng
Bay đến trận địa vào vòng quân ta.
Dù xanh, dù trắng, dù hoa
Toàn là vũ khí, toàn là “xăng xanh" (đạn 105)
Bộ binh lấy cho pháo binh
Đạn đây, anh bắn cho tinh tôi nhờ.
Bắn cho tướng giặc “họ Đờ” (Đờ Cátxtơri)
Chắp tay mà lạy bấy giờ mới tha...”

Trước những tình cảnh “khốn đốn” tại Điện Biên Phủ, Nava đã nghiên cứu các kế hoạch “giải vây” trên bộ.

Một trong số đó là thả một số tiểu đoàn dù vào phía sau lưng các lực lượng bao vây của Việt Minh, nhưng hoàn toàn không thể làm được, do địa hình không cho phép nhảy dù ở một cự ly thích hợp.

Bên cạnh đó, sự thiếu thốn của các đơn vị máy bay vận tải cũng không cho phép quân Pháp thả dù trong điều kiện có hiệu quả. Nếu Pháp sử dụng vài tiểu đoàn dù đang có thì chắc chắn chúng sẽ bị tiêu diệt mà không đạt được kết quả gì.

image

Phó Tổng thống Mỹ Nixon và Tướng Cogny (Cô-nhi) đến Tây Nam Ninh Bình động viên quân Pháp tháng 11/1953

Sau đó, Nava tính tới giải pháp giải vây bằng đường bộ. Một cuộc hành quân giải vây Điện Biên Phủ hoặc từ Bắc Lào hoặc từ vùng châu thổ Bắc Bộ được dự kiến. Cuộc hành quân đó có mật danh “Condor” (thậm chí đã được khởi thảo trước ở Lào từ tháng 12/1953). Nội dung gồm: chuyển lực lượng của Pháp từ Nậm U Thượng đến vùng Na Son (cách Điện Biên Phủ 25km), nơi có nhiều vùng đất có thể thả dù được. Ở đây, lực lượng có sẵn sẽ được tăng cường một lực lượng nhảy dù quan trọng và tiến về Điện Biên Phủ để phá vỡ vòng vây. Cuộc hành quân dù có nhiều khó khăn, chủ yếu do địa hình phức tạp giữa Na Son và Điện Biên Phủ nhưng Nava nhận định “hoàn toàn khả thi”.

Để cuộc hành quân có hiệu quả, phải cần từ 15 đến 20 tiểu đoàn và vẫn phải bảo đảm việc tiếp tế đều đặn cho Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, trong khi phương tiện không quân của Pháp chỉ có thể hỗ trợ tối đa cho 7 tiểu đoàn.

Cônhi cho rằng: Lực lượng như vậy không đủ để thực hiện một cuộc giải vây cho Điện Biên Phủ, Pháp cần phải buộc Việt Minh rút một phần lực lượng bao vây và làm giảm sức ép tại mặt trận. Kế hoạch ban đầu dự kiến trong khoảng 10 ngày sẽ có một cuộc hành quân với sự tham gia của 4 tiểu đoàn xuất phát từ vùng Nậm U Thượng phối hợp cùng 3 tiểu đoàn khác nhảy dù xuống vùng phụ cận Điện Biên. Nhưng ngày 12 tháng 4, tướng Cônhi yêu cầu hoãn lại cuộc hành quân này vì phải ưu tiên tiếp tế cho Tập đoàn cứ điểm.

image

Bộ chỉ huy chiến dịch dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đang bàn kế hoạch tác chiến cho từng trận đánh

Ngày 12/4/1954, Tổng Quân ủy ra Chỉ thị số 26-TQU/H gửi các Khu ủy, Chính ủy Bộ Tư lệnh Liên khu và Đảng ủy các đơn vị về việc phổ biến chính sách của Chính phủ đối với ngụy binh và nhân viên ngụy quyền bỏ hàng ngũ giặc trở về với Tổ quốc.

Theo kết quả của hiên họp Hội đồng chính phủ (15-16/3/1954), Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban bố một chính sách quan trọng đối với ngụy binh và nhân viên ngụy quyền bỏ hàng ngũ địch trở về với Tổ quốc. Chính sách mới này đã biểu lộ lượng khoan hồng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ đối với những người lầm đường theo giặc muốn trở về với Tổ quốc. Chỉ thị nêu bật: Việc ban bố chính sách mới này rất hợp thời và có tác dụng rất lớn, tạo cho ta nhiều điều kiện để tranh thủ số đông binh lính ngụy và nhân viên ngụy quyền ngả về với ta, phát triển phong trào phản chiến cá nhân và tập thể.

Chỉ thị yêu cầu: 1) Cần phổ biến rộng rãi chính sách trong Đảng, trong nhân dân, trong bộ đội; 2) Cần phổ biến thật đầy đủ, rộng rãi chính sách trong hàng ngũ binh lính ngụy và nhân viên ngụy quyền của địch, đập tan âm mưu dùng người Việt đánh người Việt của thực dân Pháp.

 

Nội dung: ThS Nguyễn Ngọc Toán – Viện Lịch sử quân sự, Ngọc Bách
Trình bày: Bảo Minh
Ảnh: TTXVN, Nhân Dân

This post was modified 1 năm trước by friendship2k

   
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31355.77
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3300
Topic starter  
image

Kính gửi:    

- Các Khu ủy,

- Các Chính ủy Bộ Tư lệnh Liên khu,

- Các Đảng ủy các đơn vị,

image

Trong phiên họp ngày 15, 16-3-1954, Hội đồng Chính phủ đã ban bố một bản chính sách rất quan trọng đối với ngụy binh và nhân viên ngụy quyền bỏ hàng ngũ địch trở về với Tổ quốc gồm những điểm sau đây:

1.Sĩ quan, binh lính ngụy bỏ hàng ngũ địch trở về với Tổ quốc được khoan hồng, được hưởng tự do và quyền lợi công dân. Những người mang vũ khí về với kháng chiến, những người giết địch lập công thì sẽ được khen thưởng tùy theo công trạng.

Nhân viên ngụy quyền bỏ hàng ngũ địch trở về với Tổ quốc sẽ được khoan hồng, được hưởng tự do và quyền lợi công dân.

2.Binh sĩ ngụy bỏ hàng ngũ địch về với kháng chiến vẫn được giữ cấp bậc cũ. Họ muốn vào bộ đội ta, hoặc muốn làm công tác kháng chiến khác, sẽ được xét và dùng.

3.Từng đơn vị ngụy quân phản chiến trở về với kháng chiến muốn tham gia đánh giặc cứu nước sẽ không bị giải tán, được sắp xếp vào Quân đội nhân dân Việt Nam và được hưởng nhất luật chế độ của Quân đội nhân dân Việt Nam.

4.Sĩ quan, binh lính ngụy quân, nhân viên ngụy quyền có gia đình ở vùng tự do mà bỏ hàng ngũ địch về nhà làm ăn lương thiện sẽ được chiếu cố.

Chính sách mới này biểu lộ lượng khoan hồng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ đối với những người lầm đường theo giặc muốn trở về với Tổ quốc. Việc ban bố chính sách mới này là rất hợp thời và có tác dụng rất lớn, tạo cho ta nhiều điều kiện để tranh thủ số đông binh lính ngụy và nhân viên ngụy quyền ngả về với ta, phát triển phong trào phản chiến cá nhân và tập thể.

image

1.Để bảo đảm việc thực hiện chính sách này, các cấp ủy, các đơn vị bộ đội chủ lực, địa phương, các ngành, các giới và các cơ quan địch vận cấn tổ chức nghiên cứu thật rộng rãi từ trên xuống dưới, trong Đảng và ngoài quần chúng. Cấp coi việc phổ biến chính sách này cũng như việc phổ biến các chính sách căn bản của Đảng và có kế hoạch tiến hành thật chu đáo.

Việc phổ biến chính sách này ở vùng tạm bị chiếm là đặc biệt quan trọng.

2.Việc phổ biến học tập cần đặt yêu cầu làm cho mọi người đều hiểu thật rõ ý nghĩa chính trị, tác dụng chung của chính sách cũng như ý nghĩa tác dụng từng điểm của chính sách. Trong khi phổ biến chính sách mới thì liên hệ kiểm điểm những khuyết điểm sai lầm trong việc thi hành những chính sách đối với ngụy quân trước và giải quyết thấu đáo những thắc mắc về chính sách chung như về cách thi hành chính sách. Điểm nào không rõ thì cần thỉnh thị cấp trên.

3.Trong khi phổ biến chính sách trong Đảng, trong bộ đội cần chú trọng khắc phục những tư tưởng sai lầm sau đây, có thể xảy ra:

1- Cho rằng chính sách chỉ nhằm tác dụng tuyên truyền, khó có thể áp dụng được.

2- Cho là chính sách quá rộng, rồi thực hiện một cách khắt khe hoặc không tích cực, không đúng với tinh thần của chính sách.

3- Ngại khó khăn trong việc phân lợi, xét công, làm đại khái lấy lệ, gây ảnh hưởng xấu trong việc khen thưởng.

4- So bì, thành kiến với anh em ngụy binh bổ sung, thiếu kiên nhẫn giáo dục đi sát họ, không những không đoàn kết được với họ mà còn gây không khí thiếu đoàn kết trong nội bộ của ta hoặc gây thêm khó khăn trong việc thực hiện chính sách.

5- Chủ quan khinh địch không đề cao cảnh giác, để phòng địch lợi dụng chính sách tổ chức Phòng nhì trá hàng, chui vào phá hoại hàng ngũ ta.

6- Trong khi phổ biến chính sách trong nhân dân, cần đặc biệt đối chiếu chính sách thâm độc của giặc dùng người Việt giết người Việt với chính sách khoan hồng của Chính phủ ta, tình hữu ái giai cấp và chủ trương tích cực lôi kéo anh em ngụy binh trở về với Tổ quốc, để phòng tư tưởng sai lầm có thể có: cho là đi ngụy binh, làm sĩ quan ngụy như thế là không có tội với Tổ quốc.

image

Tổ chức tuyên truyền sâu rộng trong các tầng lớp binh lính địch (sĩ quan, công giáo, thiểu số, các loại binh chủng, ngụy quyền, v.v.) bằng mọi hình thức. Phải làm cho ngụy binh hiểu rõ chính sách cũng như nhân dân ta thấm nhuần những chính sách kháng chiến.

Nội dung phổ biến nhằm:

1.Nêu rõ thái độ và chính sách cụ thể của Chính phủ là luôn luôn chú ý đến những người còn bị lầm đường muốn chạy về với Tổ quốc, đồng thời chỉ rõ con đường đấu tranh cho ngụy binh và nhân viên ngụy quyền.

2.Khêu gợi ý thức giai cấp và ý thức dân tộc để động viên tình thần đấu tranh, chỉ cho họ thấy họ là những người lao động ở nông thôn hay thành thị đều bị bọn đế quốc phong kiến áp bức bóc lột, muốn thoát khỏi ách áp bức bóc lột đó chỉ có một con đường đấu tranh duy nhất là: bỏ giặc trở về hàng ngũ kháng chiến.

3.Vạch cho ngụy binh và nhân viên ngụy quyền thấy rằng muốn có độc lập và hòa bình thực sự, muốn về nhà làm ăn yên ổn thì phải đấu tranh thoát khỏi hàng ngũ giặc. Không có ngụy binh hoặc địch không thực hiện được âm mưu "dùng người Việt đánh người Việt" thì cuộc kháng chiến của ta nhất định mau chóng thắng lợi.

4.Vạch cho ngụy binh và nhân viên ngụy quyền thấy rằng ở với địch là nhục, là có tội với Tổ quốc, trở về kháng chiến là vinh quang.

Trong khi tuyên truyền phổ biến, cần chú ý:

- Chú trọng tuyên truyền trong hàng ngũ sĩ quan, nhất là những tầng lớp bị cưỡng bách động viên, họ là những phần tử bị nhồi sọ mê hoặc nhiều và nghi ngờ chính sách khoan hồng của ta, thắc mắc nhiều về quyền lợi khi sang hàng ngũ kháng chiến.

- Lấy những sự việc thực tế địa phương, những ý kiến cảm tưởng của những người đã sang ta và dùng ngay họ để tuyên truyền cho chính sách của ta.

- Điều tra theo dõi phản ứng và thủ đoạn đối phó của dịch để kịp thời giải thích sâu sắc, đồng thời đập ngay luận điệu xuyên tạc của địch.

- Cần liên tục phổ biến trong một thời gian lâu làm cho binh lính địch người nào cũng biết, cũng hiểu chính sách mới của ta. Trong công tác vận động binh lính ngụy và nhân viên ngụy quyền, phá âm mưu dùng người Việt đánh người Việt, việc phổ biến áp dụng thật đúng những chính sách của Đảng, quyết định một phần quan trọng sự thành công. Mong rằng các cấp nhận rõ điều đó mà có kế hoạch phổ biến chính sách này thật chu đáo, làm cho chính sách này thâm nhập vào trong quần chúng, trở thành một lợi khí sắc bén.

---------
Tổng Quân ủy

Chú thích: [1] Điện Biên Phủ - Văn kiện Đảng, Nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.717-721

Ngày xuất bản: 12/4/2024
Nội dung: Viện Lịch sử quân sự
Trình bày: Ngọc Bích
Ảnh: TTXVN

 


   
Phan khoi lon, is3, Big bang and 1 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31355.77
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3300
Topic starter  
image

Hai nhánh chiến hào của quân ta như hai gọng kìm kẹp chặt Cứ điểm 105. Tại Cứ điểm 106, chiến hào của ta đã xuyên qua lớp rào kẽm gai tới 15 mét, gần sát lô cốt địch. Trong ngày, Pháp thả 240 tấn hàng (trong đó có 50 tấn lương thực) xuống Điện Biên Phủ.

Tại những điểm cao phía đông - khu vực có tác dụng chiến thuật quan trọng, địch chiếm lĩnh để làm chỗ dựa lưng cho khu Mường Thanh, án ngữ quân ta ở mặt đông, bảo vệ sân bay cho khu vực tung thâm của địch tại Mường Thanh và sân bay. Qua 2 đợt chiến đấu, quân ta đã chiếm lĩnh đại bộ phận các cao điểm ở mặt đông - trọng điểm phòng ngự của địch bị vỡ, vòng vây thắt chặt, Mường Thanh và sân bay bị uy hiếp, việc tiếp tế và tăng viện của địch bằng không quân gặp khó khăn lớn.

Ý định tiếp theo của địch là tìm mọi cách chiếm lại C1 và dần dần chiếm các điểm cao phía đông bắc, mong khôi phục lại trận địa phòng ngự. Nhiệm vụ của ta lúc này là kiên quyết giữ những điểm cao đã chiếm được, không để cho địch phản kích chiếm lại, để giữ thế bao vây, uy hiếp địch, đồng thời là bàn đạp tiến công tiêu diệt địch.

image

Cuộc chiến đấu ác liệt đang diễn ra trên khu vực Đồi C.

Để làm tốt điều này, ngày 13/4/1954, Bộ Tổng Tham mưu ra Chỉ thị về mấy vấn đề xây dựng trận địa phòng ngự trên các cứ điểm mới chiếm lĩnh.

Chỉ thị đã đề cập đến những thiếu sót về kiến trúc công sự phòng ngự của ta. Đó là: Vấn đề phòng ngự, Bộ đã đề ra nhưng các đơn vị chưa tích cực làm hoặc làm còn lúng túng trong việc cải tạo lại công sự, bố trí binh lực, hỏa lực. Có trận địa công sự cũ của địch không chịu được pháo, nhưng ta cũng không tích cực sửa chữa theo đúng tiêu chuẩn để pháo bắn sập. Có trận địa không có tung thâm, chỉ bố trí một tuyến mỏng nên dễ bị chọc thủng (điển hình như ở C1, Bắc Hồng Cúm). Nhiều nơi chưa có hầm trú quân vững chắc, chưa chú trọng nghiên cứu phá hoại công sự địch và bố trí những phòng ngự phụ (dây thép gai, mìn) nên dễ bị địch đột phá. Do đó, phải nghiên cứu kỹ vị trí địch, địa hình, địa vật để ấn định các trận địa cảnh giới, tiền duyên và tung thâm, trận địa hỏa lực chi viện của tiểu đoàn, trung đoàn ở phía sau.

Trước tình hình cứ điểm địch bố trí phức tạp, dày đặc, bên trong thì lại chia thành khu vực, mỗi khu vực một phần nào đó có thể chiến đấu độc lập; trong tung thâm, các cứ điểm sát nhau thành nhiều tầng, lớp ngang dọc, Bộ Tổng Tham mưu ra Chỉ thị vấn đề dùng bộ đội nhỏ “đánh lấn” trong công kiên có tính chất trận địa. Bởi, ta dùng bộ đội nhỏ đánh lấn kết hợp với lối đánh công kiên thường là để tranh thủ sát thương thêm nhiều sinh lực địch, phá hủy dần công sự của chúng, tạo điều kiện tốt để tấn công tiêu diệt chúng.

Tuy nhiên, quá trình đánh lấn dự kiến sẽ phát sinh nhiều tình huống khó khăn, gian khổ, hy sinh nên Chỉ thị đã chỉ rõ một số điểm cần chú ý khi áp dụng phương châm, chiến thuật đánh lấn. Đó là:

Thứ nhất, phải làm cho bộ đội hiểu rõ về đánh lấn, ta không dùng nhiều binh lực, hỏa lực mà vẫn có thể đánh chắc, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, chiến đấu được liên tục, rút ngắn thời gian chung của toàn bộ cuộc chiến đấu.

Thứ hai, phải giải quyết tư tưởng sợ bị cô lập, ngại đánh phản kích. Ta tổ chức đánh nhiều hướng, nhiều mũi, mũi nọ dựa vào mũi kia, hướng nào, mũi nào cũng có sự tổ chức chặt chẽ ở đằng sau để yểm hộ. Nếu địch phản kích thì đó là cơ hội để ta tổ chức tiêu diệt địch

Thứ ba, người chỉ huy không được “khoán trắng” cho cấp dưới, phải liên tục điều tra địch kỹ, giúp đỡ bộ đội đánh lấn tổ chức chiến đấu thật chu đáo, phải cơ động linh hoạt không để lỡ cơ hội tiêu diệt địch.

Cùng ngày, Bộ Tổng Tham mưu ra Chỉ thị số 98-CT/B1 về việc huấn luyện cấp tốc tân binh mới bổ sung.

Theo chủ trương chấn chỉnh lực lượng của Tổng Quân ủy, các đơn vị đều được bổ sung thêm một số tân binh. Để bảo đảm cho chiến dịch toàn thắng, chúng ta phải tranh thủ từng giờ, từng phút huấn luyện cho tân binh những phần cần thiết. Từ những tân binh mới bổ sung ở hỏa tuyến cũng như ở trung tuyến và kể cả những cựu binh vừa ở cơ quan ra bổ sung cho đơn vị đều phải tiến hành huấn luyện theo lối huấn luyện bảo đảm từng người.

Nội dung huấn luyện nhằm 4 kỹ thuật: bắn súng, ném lựu đạn, đào công sự và đánh bộc phá.

Về phương pháp huấn luyện: Từng cựu binh huấn luyện cho từng tân binh; cán bộ từ trung đội trưởng trở xuống huấn luyện từ 1-2 người. Khi huấn luyện thì miệng nói tay làm, cắt nghĩa yếu lĩnh, nói xong hỏi lại, làm rồi cho tân binh làm theo. Kịp thời tổ chức nói chuyện và kiểm tra tân binh tình hình huấn luyện. Huấn luyện này để bảo đảm cho tân binh khi chiến đấu giết giặc không phải chịu những thương vong vô ích vì bỡ ngỡ, vì kỹ thuật non kém.

image

 

Nội dung: ThS Nguyễn Ngọc Toán – Viện Lịch sử quân sự, Ngọc Bách
Trình bày: Hạnh Vũ
Ảnh: TTXVN, Nhân Dân

 


   
Phan khoi lon and U Cay reacted
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31355.77
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3300
Topic starter  
image

Cùng thời điểm diễn ra Chiến dịch Điện Biên Phủ, quân và dân Bắc Ninh tổ chức nhiều trận đánh oanh liệt, giành giật từng tấc đất, chiến hào. Tỉnh Bắc Ninh đã kiên cường vượt lên khó khăn, gian khổ xây dựng hậu phương vững chắc, đánh địch “chia lửa” với mặt trận, tiến lên giải phóng quê hương.

Giai đoạn 1953-1954, quân ta liên tiếp giành thắng lợi trên các chiến trường. Thực hiện quyết tâm tiêu diệu toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ, Bộ Chính trị quyết định ‘‘Toàn dân, toàn Đảng và Chính phủ nhất định đem toàn lực chi viện cho Điện Biên Phủ và nhất định làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch này, cả nước ra trận, cả nước đánh giặc, các chiến trường phối hợp chặt chẽ, phân tán địch, kìm chân địch, tiêu diệt địch tạo điều kiện cho Điện Biên Phủ giành thắng lợi’’.

Tại Bắc Ninh, thực dân Pháp tăng thêm quân viễn chinh, quân ngụy và hệ thống đồn, bốt ở nhiều vị trí xung yếu. Địch liên tiếp mở những trận càn vào các khu du kích, tăng cường bắt lính và phá hoại kinh tế.

image

Trước tình hình đó, Tỉnh ủy Bắc Ninh đã chỉ thị cho các địa phương hoạt động phối hợp cùng với chiến trường, phát động phong trào thi đua: Diệt nhiều sinh lực địch ngay trên quê hương với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”.

Cùng với đó, đẩy mạnh các hoạt động quân sự, vừa bảo đảm giao thông, vận chuyển hàng hóa, lương thực, thực phẩm, vũ khí đạn dược cho chiến trường Điện Biên. Tỉnh đã huy động hàng chục nghìn bộ đội, thanh niên xung phong và dân công phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Tại Bắc Ninh, cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt ngay từ những ngày đầu của chiến dịch. Ở Tiên Du, ta đánh hàng loạt đồn, bốt diệt 200 tên địch, giải thoát 17 chị em bị địch bắt để lập đội nữ địa phương quân.  Tại Gia Lương (Gia Bình và Lương Tài), bộ đội và du kích đánh bốt Văn Thai, đánh càn ở Cao Đức, bao vây bốt Thiên Thai, buộc địch phải ra hàng. Tại thị xã Bắc Ninh, ta diệt bốt Hòa Đình, đốt cháy một kho đạn. Du kích Yên Phong đột nhập một số bốt, cắt hàng trăm mét rào dây thép gai, lấy mìn, thuốc nổ của địch. Quân và dân Từ Sơn đánh tan nhiều trận càn, quét của địch vào Phù Chẩn, Nội Trì, Yên Lã, Vân Hà, Dục Tú, diệt hàng trăm tên địch…

image

Du kích xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn rào làng chiến đấu.

Đặc biệt ngày 22/2/1954, du kích và nhân dân thôn Trà Lâm, Tư Thế (Trí Quả) và thôn Ô Trì, Bút Tháp (Thuận Thành) phối hợp cùng các đơn vị đánh tan 4 đợt tấn công của địch, diệt 500 tên địch, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự.

Đáng chú ý, lực lượng vũ trang huyện Gia Lâm phối hợp cùng du kích xã Long Biên đào 50 hầm giấu quân, bí mật đột nhập đánh sân bay Gia Lâm. Đêm ngày 3/3 rạng sáng ngày 4/3/1954, từ các vị trí ém quân, 15 chiến sĩ trong đội đặc nhiệm lọt vào sân bay đánh phá khu để máy bay và nhà xưởng sửa chữa. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt và nhanh làm quân địch không kịp trở tay. Kết quả, quân ta đã phá huỷ 18 máy bay, đốt cháy kho xăng chứa hàng vạn lít, phá hàng trăm mét vuông nhà xưởng của địch. Tiếp đó, quân ta còn tổ chức nhiều trận phục kích đánh địch trên quốc lộ 5, quốc lộ 1A, chặn đường tiếp tế của địch lên Điện Biên Phủ.

Trước những thắng lợi của ta trên các chiến trường và những trận đánh tiêu diệt các đồn bốt của địch ở cả Bắc phần và Nam phần Bắc Ninh, quân địch ngày càng hoang mang, lo sợ. Quân số bị thiếu hụt trầm trọng, địch phải ra sức dụ dỗ, lừa bịp, đe doạ và vây bắt thanh niên đi lính. Quân và dân Bắc Ninh đã đấu tranh và vận động để nhiều thanh niên không tham gia đi lính cho địch.

Trên đường số 1A tại Từ Sơn, nhân dân đấu tranh chặn một đoàn xe chở hơn 100 thanh niên bị bắt lính về Hà Nội, vận động anh em bỏ trốn. Nhân dân các làng Khả Lễ, Bồ Sơn đấu tranh buộc địch phải thả 54 anh em bị bắt đi lính về với gia đình. Phong trào lan rộng đến Thuận Thành, Yên Phong, Quế Võ, Quế Dương, Võ Giàng, nhân dân đấu tranh mạnh mẽ buộc địch phải thả 3.500 thanh niên bị chúng bắt đi lính.

Không chỉ đánh và tiêu diệt sinh lực địch tại chỗ, hàng nghìn thanh niên xung phong ở Bắc Ninh hăng hái lên đường hiến dâng tuổi thanh xuân, bám trụ trên các “trọng điểm lửa”, đảm đương công việc làm cầu đường, rà phá bom, vận chuyển vũ khí và lương thực thực phẩm… cùng bộ đội ta làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử. Theo thống kê, từ chiến dịch Biên giới năm 1950 cho đến chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, tỉnh Bắc Ninh có 1.956 cán bộ, đoàn viên thanh niên tình nguyện tham gia vào lực lượng thanh niên xung phong.

Với tinh thần “khoét núi ngủ hầm”, những chàng trai, cô gái Bắc Ninh trong các đơn vị thuộc Đội 40 (Đoàn Thanh niên xung phong Trung ương) luôn bảo đảm thông suốt con đường dài hơn 100 km với những “trọng điểm lửa” như: Đèo Chẹn, Cò Nòi, Lũng Lô, Pha Đin (Sơn La)… để phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Tiêu biểu là tấm gương gan dạ, dũng cảm của đồng chí Nguyễn Tiến Thụ, quê ở xã Nội Duệ, huyện Tiên Du, thuộc tổ phá bom nổ chậm của Đội 34 và Đội 40. Trong lúc địch thả nhiều bom bươm bướm (bom nổ chậm), đồng chí Thụ dũng cảm xung phong tháo thử ngòi nổ một quả để rút kinh nghiệm. Thật bất ngờ, đồng chí tháo thành công quả bom nổ chậm đầu tiên mà không xảy ra thương vong. Từ đó các đơn vị học tập đồng chí và phá thành công hàng trăm quả bom các loại.

Theo thống kê của Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Bắc Ninh, riêng đợt hoạt động phối hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ và mặt trận toàn quốc của quân và dân Bắc Ninh, ta đã tiêu diệt 3445 tên địch, làm bị thương 638 tên khác, bắt sống 515 tên, thu 562 súng các loại, phá hủy 16 xe ( trong đó có 8 xe tăng), làm hư hỏng 5 xe, 1 tàu chiến, 27 toa xe lửa, phối hợp phá hủy 15 máy bay, 1 kho xăng và thu nhiều vũ khí, đạn dược, đồ dùng quân sự.

Ngày 7/5/1954, đại quân ta giành toàn thắng ở Điện Biên Phủ, kết thúc 56 ngày đêm chiến đấu gian khổ, anh dũng. Ngày 21/7/1954, thực dân Pháp ký Hiệp định Giơnevơ, công nhận độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Thi hành Hiệp định, ngày 8/8/ 1954, quân đội Pháp phải rút khỏi thị xã Bắc Ninh, một số xã thuộc huyện Từ Sơn, Thuận Thành, Gia Lương và toàn huyện Gia Lâm thuộc khu vực tập kết 80 ngày.

Thắng lợi vang dội ở Điện Biên Phủ đã cổ vũ quân và dân Bắc Ninh xốc tới. Bộ đội địa phương và dân quân du kích trong tỉnh đánh địch đều khắp trên quê hương với khí thế mạnh chưa từng có. Tiêu biểu là trận đánh đêm 7/7/1954, bộ đội chủ lực tỉnh phối hợp với dân quân du kích và bộ đội địa phương thị xã Bắc Ninh tập kích tiêu diệt hoàn toàn quận Võ Giàng. Diệt và bắt sống 100 tên địch, thu toàn bộ vũ khí, đồ dùng quân sự cùng nhiều tài liệu quan trọng.  Cũng trong đêm đó, ta tổ chức đánh tung cầu phao Đáp Cầu, dùng hỏa lực kìm chế bắn vào các vị trí của địch ở núi Pháo Đài, bắn cháy kho xăng…

Thắng lợi vang dội ở Điện Biên Phủ đã cổ vũ quân và dân Bắc Ninh xốc tới.

Song với bản chất ngoan cố, thực dân Pháp vẫn tìm mọi cách để chống phá ta. Chúng tuyên truyền xuyên tạc, đe doạ Mỹ sẽ ném bom nguyên tử, dụ dỗ cưỡng ép đồng bào theo đạo Thiên chúa, ngụy quân, ngụy quyền vào Nam.

Quán triệt chủ trương của Đảng, Tỉnh uỷ Bắc Ninh đã triển khai công tác tiếp quản, đồng thời tăng cường cán bộ xuống huyện, xã để tuyên truyền về chiến thắng, thông báo nội dung, tuyên truyền những chủ trương, chính sách của Đảng trong việc thi hành Hiệp định Giơnevơ, yêu cầu thực dân Pháp phải thực hiện đầy đủ và nghiêm chỉnh các điều khoản đã được ký kết. Tỉnh Bắc Ninh tập trung chống địch cưỡng ép đồng bào nhất là đồng bào theo đạo thiên chúa di cư vào Nam; nhanh chóng thiết lập trật tự xã hội và khôi phục các hoạt động sản xuất bình thường.

Bên cạnh đó, tỉnh đã phát động phong trào toàn dân tiến hành công tác địch vận, làm tan rã hàng ngũ binh lính địch. Đối với lính ngụy, khẩu hiệu là ‘‘Không đi Nam, về với quê hương’’;‘‘Hòa bình rồi về đoàn tụ với gia đình, vợ con’’; đối với lính Âu Phi khẩu hiệu là ‘‘Hòa bình và hồi hương’’.  Nhờ đó, chỉ trong hơn một tháng (1/7 đến 3/8/1954, toàn tỉnh Bắc Ninh đã giữ được 10.934 ngụy binh không theo địch vào khu vực tập kết, làm tan rã 3 tiểu đoàn với 12 đại đội địch, thu nhiều vũ khí.

image

Tiểu đoàn Thiên Đức-bộ đội chủ lực tỉnh Bắc Ninh trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.

Quân và dân Bắc Ninh đã vận động hàng nghìn ngụy binh bỏ hàng ngũ địch trở về với kháng chiến, phá tan hàng trăm cuộc càn quét, làm thất bại âm mưu “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của địch. Đặc biệt, đội du kích thiếu niên Đình Bảng đã lập công xuất sắc cắt đứt toàn bộ hệ thống gây nổ của địch trong âm mưu hủy diệt làng Đình Bảng.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân tỉnh Bắc Ninh đã không ngại gian khổ, không tiếc máu xương, với tất cả ý ý, nghị lực, của cải và vật chất, kiên cường anh dũng vượt lên gian khổ, đánh đuổi kẻ thù. Đúng 10 giờ ngày 8/8/1954, tên lính Pháp cuối cùng phải rút khỏi thị xã Bắc Ninh.

Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, quân và dân tỉnh Bắc Ninh đã không ngại hy sinh, gian khổ, phối hợp với bộ đội chủ lực đánh địch 4.000 trận lớn, nhỏ.

Đoàn cán bộ của ta gồm 150 người cùng các đơn vị bộ đội Tiểu đoàn 434 (Trung đoàn 238), Tiểu đoàn 18 bộ đội chủ lực của tỉnh vào tiếp quản thị xã. Hàng vạn nhân dân thị xã và vùng lân cận với băng, cờ, khẩu hiệu, đứng chật hai bên đường vẫy chào bộ đội, cán bộ vào tiếp quản. 10 giờ 30 phút ngày 10/10/1954, tên lính viễn chinh Pháp cuối cùng đã rút khỏi Gia Lâm, quê hương Bắc Ninh hoàn toàn sạch bóng quân thù.

Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, quân và dân tỉnh Bắc Ninh đã không ngại hy sinh, gian khổ, phối hợp với bộ đội chủ lực đánh địch 4.000 trận lớn, nhỏ. Tiêu diệt, bắt sống và làm bị thương 24 nghìn tên địch, phá hủy 4 đầu máy xe lửa, 75 toa xe, đánh hỏng 18 máy bay, đốt cháy 1 kho xăng chứa hàng vạn lít, đánh hỏng 2 cầu sắt bắc qua sông, 4 phà, 2 thuyền và 4 ca-nô, thu hàng vạn khẩu súng các loại, hàng nghìn tấn đạn dược và nhiều phương tiện chiến tranh khác.

image

Đội du kích thiếu niên Đình Bảng (ảnh chụp năm 1954).

Với những chiến công oanh liệt trong phong trào thi đua giết giặc lập công của quân và dân Bắc Ninh, đã xuất hiện nhiều tấm gương tiêu biểu như: Đội Công an danh dự tỉnh Bắc Ninh có thành tích diệt tề, trừ gian, đột nhập đánh sân bay Gia Lâm, được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi. Đội Thiếu niên du kích Đình Bảng nổi danh cả nước về thành tích chiến đấu chống thực dân Pháp, được tuyên dương đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân…

(Theo Lịch sử Đảng bộ Quân sự tỉnh Bắc Ninh và Bắc Ninh, lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954)

----------------

Nội dung: AN TRÂN
Trình bày: NGỌC DIỆP

 


   
Phan khoi lon and U Cay reacted
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31355.77
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3300
Topic starter  
image

Nhà văn Hữu Mai đã ra đi về cõi vĩnh hằng nhưng cứ đến dịp kỷ niệm Ngày Chiến thắng chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, người ta lại nhắc nhớ đến những tác phẩm của ông với một lòng cảm phục, một niềm tiếc thương vô hạn đối với một nhà văn đã có nhiều tác phẩm giá trị nổi tiếng về chiến dịch lịch sử vĩ đại này.

image

Nhà văn Hữu Mai (1926-2007).

Năm 1961, “Cao điểm cuối cùng” của Hữu Mai ra đời. Đây là tác phẩm đầu tay về chiến tranh của ông. Tôi nhớ trước đó nhà văn chỉ viết hầu hết về các chiến sĩ, nhiều lắm là đề cập tới cấp trung đoàn. Trong Cao điểm cuối cùng tác giả đã miêu tả từ người chiến sĩ đến đồng chí Tổng Tư lệnh như hình tượng của một tác phẩm văn học. Những phẩm chất anh hùng của các chiến sĩ Điện Biên Phủ được miêu tả đến mức cao nhất. Nhưng một hiện tượng mới xuất hiện trong văn học của ta: tác giả viết đến một cán bộ tiểu đoàn rời bỏ vị trí chỉ huy giữa trận đánh, đến một số chiến sĩ bỏ ăn cáo ốm trước giờ xuất phát chiến đấu...

Không chỉ về phía ta, kẻ địch cũng hiện lên đậm nét. Ta thấy hình ảnh một tướng Đờ Cát bằng xương bằng thịt chứ không phải chỉ như những bức tranh biếm họa thường thấy trong khá nhiều cuốn sách.

Là một chiến sĩ Điện Biên Phủ, tôi thấy Cao điểm cuối cùng đã miêu tả chiến dịch này đúng như nó đã diễn ra. Nhưng tôi vẫn còn đôi chút phân vân. Có nên viết thật đến như thế không? Chỉ đến khi Cao điểm cuối cùng được tái bản, qua lời đề tựa của Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái - Tham mưu trưởng chiến dịch Điện Biên Phủ, tôi mới yên tâm. Đồng chí Hoàng Văn Thái viết:

image

Cuốn sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và xuất bản ở nhiều nước. Nhà sử học Béc-na Phôn đã dẫn nhiều chi tiết trong Cao điểm cuối cùng (mặc dù nó được đề bên ngoài là tiểu thuyết) để chứng minh cho công trình nghiên cứu của mình về Điện Biên Phủ. Béc-na Phôn viết: “Một chiến binh Việt Minh đã viết một cuốn ký sự sinh động về cuộc phản kích của Héc-ru-ê trên Ê-li-an 2 (tức đồi A1). Người quan sát của pháo binh từ xa, đã cất tiếng nói lớn theo mật khẩu mà ai cũng hiểu, những lời sau đây: "Khách hàng đi ngang đường vải đỏ, yêu cầu quản lý thanh toán tài chính"; "Khách hàng có hai con bò vàng húc đổ quán cà-phê, yêu cầu chủ hàng gửi gấp bí ngô, bầu, dưa hấu, củ ấu". Sau những tiếng lóng đó, các cỡ pháo đổ đạn ầm ầm như thác xuống những đám bộ binh, những chiếc xe tăng đang gầm gừ định leo đồi. Tan khói, những đám đen đối phương quang hẳn đi. Thêm một đợt tiến công của quân Pháp bị cản lại". Nhà trần thuật Việt Minh không phải là người huênh hoang. Trong trung đội chiến xa do Nây dẫn đầu, những chiến xa Ét-lin-ghen và Si-mô-lon đã bị trúng đạn pháo 57 của Việt Minh, cái đầu bị trúng đạn sáu lần, cái thứ hai bị trúng đạn hai lần...”1.

Trong cuốn sách của Ba-đa-ren viết về Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tác giả đã trích cả một chương của Cao điểm cuối cùng thậm chí đã trích một câu trong cuốn sách để chú thích cho chân dung của Đại tướng. Thực hiếm khi những điều viết trong tiểu thuyết được sử dụng như cách này.

Nhà văn Hữu Mai nói với tôi: "Trước khi viết Cao điểm cuối cùng, tôi đã dành một thời gian đọc nhiều sách nước ngoài viết về chiến tranh để xem có rút kinh nghiệm được gì trong cách viết, nhưng cuối cùng tôi thấy không thể "bắt chước" ai mà chỉ có cách duy nhất là miêu tả, tái tạo lại những gì mình đã chứng kiến, đã biết về Điện Biên Phủ, về những chiến sĩ Điện Biên Phủ mang đậm tính cách của nền văn hóa Việt Nam, của con người Việt Nam".

Nhưng đây là một tác phẩm văn học, ông không thể làm công việc tái tạo, sắp xếp, phân thân vào nhân vật, miêu tả nhân vật theo cách thẩm định của riêng mình.

Hữu Mai có đôi chút phân vân về trường hợp viết nhân vật Quế Vinh trong Cao điểm cuối cùng. Khi xây dựng nhân vật này, tác giả đã dựa vào nguyên mẫu Tiểu đoàn trưởng Dũng Chi, một cán bộ dũng cảm của Đại đoàn 316 trong trận đánh đồi A1. Khá nhiều chi tiết nói về Quế Vinh trong Cao điểm cuối cùng, ông lấy từ Tiểu đoàn trưởng Dũng Chi. Nhưng khi viết, ông còn muốn qua Quế Vinh để miêu tả về một tầng lớp học sinh, sinh viên Hà Nội rời ghế nhà trường tham gia chiến đấu. Ông đã thêm cho Quế Vinh những nét mà văn học gọi là hư cấu.

Sau khi cuốn sách ra mắt, ông tránh gặp Dũng Chi, sợ anh giận. Cho tới gần đây, ông vẫn băn khoăn. Biết chuyện, tôi đã gặp Thiếu tướng Dũng Chi, một cán bộ đã có thời gian cùng ở binh chủng pháo binh, được ông cho biết:

"Trong Cao điểm cuối cùng Hữu Mai đã viết đến tôi khá nhiều, từ những hình ảnh dũng cảm chiến đấu đến những đặc tính tiểu  sản của tôi."

"Tôi nghĩ mỗi người đều  cái nét riêng thể hiện nhân cách của mình  dưới bất cứ hình thức nào nhưng cuối cùng, ta vẫn  con người tốt, anh dũng chiến thắng bất cứ kẻ thù nào. Hữu Mai   cấu đôi chút. Không sao!"

 

Tôi kể lại với Hữu Mai những chuyện Dũng Chi đã nói với tôi. Được biết điều này rồi đọc một hồi ký của Dũng Chi có ý viết tương tự, ông mới hết băn khoăn.

Hữu Mai là như vậy. Nhân vật trong tác phẩm của ông đều là những người bạn trong cuộc đời. Ông muốn chú ý tới những vấn đề mà độc giả đã góp ý với những cuốn sách đã xuất bản của ông. Nếu ta chú ý đến những tác phẩm của ông đã qua tái bản thì thấy lần nào ông cũng có sửa chữa, không chỉ làm cho nó hay hơn mà chủ yếu là làm cho nó đúng với sự thật.

Hữu Mai còn viết nhiều về Điện Biên Phủ: các truyện ngắn Lá cờ chuẩn, Người thợ chữa đồng hồ ở Điện Biên Phủ.

Tuy nhiên, điều cần nói hơn cả là việc ông đã thể hiện tập hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử. Tập sách ngay sau khi xuất bản đã được bạn đọc cả trong và ngoài nước hồ hởi đón nhận, được tái bản nhiều lần. Mọi độc giả coi đây là bản tổng kết mới nhất của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, là công trình đầy đủ nhất về chiến dịch Điện Biên Phủ. Người ta biết Hữu Mai đã dốc sức mấy chục năm cho công việc này.

Từ tập Một vài hồi ức về Điện Biên Phủ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp năm 1964 đến Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử năm 2001, ta thấy rõ tác phẩm sau là sự phát triển của tác phẩm 37 năm trước, đưa nó lên một tầm cao mới.

Hiếm có một nhà văn nào dành nhiều tâm huyết cho một công việc như vậy.

Hỏi ông, ông trả lời: "Tôi có mơ ước viết một tác phẩm về 30 năm chiến tranh của ta. Trong khi chưa làm được việc này, tôi dành nhiều thời gian giúp anh Văn thể hiện những hồi ký về kháng chiến chống Pháp, đặc biệt trong chiến dịch Điện Biên Phủ coi như đã thực hiện được một phần ước nguyện của mình".

Đầu năm 2004 đến gặp ông tại gia đình, trong phòng làm việc của ông, thấy cơ man nào là sách, là bản thảo, có tập dày đến chục phân. Chỉ trên một chiếc bàn nhỏ, tôi đã nhìn thấy sáu tập bản thảo bằng tiếng Pháp và tiếng Anh, ba tập của Nhà xuất bản Thế giới, ba tập của Nhà Xuất bản A-na-kô (Pháp). Ông cho biết đang đọc thẩm định để sách kịp xuất bản nhân kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954-7/5/2004).

 

Nhà văn Hữu Mai đã vĩnh viễn ra đi nhưng mỗi năm cứ đến dịp kỷ niệm Ngày Chiến thắng chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, người ta lại nhắc nhớ đến ông với một lòng cảm phục, một niềm tiếc thương vô hạn đối với một nhà văn đã có nhiều tác phẩm giá trị nổi tiếng về chiến dịch lịch sử vĩ đại này.

Trích từ Điện Biên Phủ - Ký ức 60 năm, Đỗ Sâm, NXB Quân đội nhân dân, tr. 143

Trình bày: Ngọc Toàn

 


   
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31355.77
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3300
Topic starter  
image

Giáo sư, Tiến sĩ, Thầy thuốc Nhân Dân Tạ Long, Chủ tịch Hội Khoa học Tiêu hóa Việt Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Khoa học Tiêu hóa Đông Nam Á, trước đây vốn là một cán bộ quân y đã tham dự nhiều chiến dịch lớn suốt từ bắc vào nam.

Tạ Long sinh năm 1932 ở Hà Nội. Đang học Trường đại học Y ở Chiêm Hóa, anh được điều về Đại đoàn 308, tham gia các chiến dịch Nghĩa Lộ năm 1952, Tây Bắc, Thượng Lào năm 1953 rồi đến chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.

Tạ Long cho biết, tại chiến dịch Điện Biên Phủ, anh được phân công làm Trưởng ban Trung khinh thương đội điều trị 8 của Đại đoàn 308. Ngoài anh, trong ban có năm y tá, một quản trị, ba chiến sĩ nấu ăn và hai nữ dân công làm công vụ.

Đội điều trị 8 làm việc trong một khe núi. Tại đây đã có sẵn một số lán của đơn vị trước để lại. Anh em trong đội chỉ cần căng dù là bố trí được các phòng mổ, phòng tiêm, phòng băng. Lúc đầu thương binh ở hỏa tuyến về rải rác chỉ có vài chục, nên chưa bận lắm. Thời gian này, anh em tranh thủ làm thêm lán. Về sau, thương bệnh binh của tất cả các đơn vị khu vực Tây Điện Biên đều dồn về, có lúc tới trên 150 trong đó có nhiều thương bệnh binh nặng. Nhiều vết thương phải xử trí lại, bó bột, thay băng hàng ngày.

Công việc thật quá tải, buổi sáng Tạ Long thường qua thăm những thương bệnh binh nặng rồi vào phòng mổ, mổ những ca cấp cứu. Đến trưa, ăn vội vàng rồi lại tranh thủ đi khám bệnh, ghi bệnh án điều trị, cân nhắc để cho những thương, bệnh binh nhẹ về đơn vị sớm vì anh nghĩ đã lên tới đây thì mỗi chiến binh về chiến đấu được sẽ rất quan trọng cho trận đánh lớn sắp diễn ra.

Các anh y tá Trại, Suý, Kiên, Lan... rất thạo việc, nhanh nhẹn, không hề kêu ca mệt mỏi, làm việc liên tục suốt ngày, đêm lại thay nhau trực. Hai dân công được phân công làm hộ lý là cô Mỳ, cô Canh. Lúc đầu các cô rất sợ máu me, băng bó, nhưng chỉ vài ngày sau đã thấy lúc nào cũng có mặt ở lán thương binh nặng. Phương tiện thuốc men, kháng sinh dần cạn, chưa có tiếp tế sang, nên giao ban sáng nào Tạ Long cũng nhắc anh em tiết kiệm giữ gìn phương tiện làm việc.

Anh em toàn đơn vị đều quý mến Tạ Long, bởi không những anh làm việc tận tình mà còn độ lượng, rất thương yêu đồng đội.

Anh y tá Lan kể chuyện một buổi sáng, y tá trực đến báo cáo anh Tạ Long lúc đi cặp nhiệt độ thì đã thấy mất nhiệt kế. Trong tâm trí mọi người nghĩ anh Tạ Long sẽ khiển trách, nhưng anh chỉ điềm tĩnh phân tích:

- Cả trạm có mỗi một cái, làm sao theo dõi bệnh binh sốt nhiễm trùng, sốt rét ác tính bây giờ? Hay anh dậy sớm ra suối đánh răng, cặp để ở túi ngực nên đánh rơi xuống suối. Bây giờ chỉ có cách đi tìm dọc suối, vạch từng đám cỏ hai bên bờ xem có thấy không?

image

Mô hình lực lượng nhân viên y tế phục vụ chiến dịch được tái hiện tại Bảo tàng tỉnh Điện Biên. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Anh Tạ Long ra suối lội một đoạn dài, rất may đã phát hiện thấy nó vướng cạnh một đám cây bên bờ suối. Thật không còn gì mừng hơn!

Giữa chiến dịch, trên điều thêm cho đội điều trị một số dân công. Tổ quản trị và nấu ăn của đội có thêm những người tận tụy, tháo vát nấu nướng giỏi như anh Hoàng Cầm, chị Nguyễn Thị Tân. Các đồng chí đã đi hàng ngày đường liên hệ được với các bản xa tiếp tế cho bộ đội. Đồng bào ở đây nghèo khổ nhưng đã nhường những gì tốt nhất cho bộ đội, chỉ mong sao cho bộ đội mau thắng lớn.

Cái trạm quân y bé nhỏ này được Mặt trận quan tâm từng ngày. Một hôm anh Vũ Xuân Chiêm, đại diện Tổng cục Cung cấp tiền phương gửi cho anh Tạ Long bức thư yêu cầu bảo đảm chế độ và chăm sóc tốt cho thương bệnh binh và dân công hỏa tuyến.

Anh Tạ Long cho biết sau này anh em Cục Quân y tiền phương kể với anh câu chuyện trong nhiều buổi giao ban, Đại tướng Võ nguyên Giáp thường hỏi về tình hình của cái "đội Tạ Long" này, vì chỉ có mình nó ở một phía của Mặt trận.

Thương bệnh binh ngày một tăng. Tạ Long được phân công tổ chức và chỉ huy chuyển bớt thương binh của đội về Đội điều trị 5 do anh Trần Mạnh Chu làm Đội trưởng.

Đường chuyển thương vượt đường núi dòng đã ba ngày, có hơn hai đại đội dân công chuyển 20 cáng thương binh nặng. Nhiều thương, bệnh binh đã phải chống gậy đi bộ.

Do đường rừng mới chưa lộ, anh em có thể chuyển thương binh ban ngày. Ngày đầu tiên rất vất vả, tới chập tối kiểm lại thì thấy cáng nằm rải rác khắp mấy quả đồi, người khiêng cáng yếu khỏe khác nhau, nghỉ lại bất kỳ ở đâu. Tổ cấp dưỡng đến trước nấu ăn rồi chia nhau đi phân phối cho từng cáng. Y tá thì đi tiêm, sửa lại băng bó, mọi người chạy đi chạy lại đến nửa đêm mới tạm ổn. Các anh chị em dân công, nhất là các chị dân công có tình thương đặc biệt đối với thương, bệnh binh, chăm lo phân phối lương thực, đường sữa theo tiêu chuẩn cho mỗi cáng. Từng tốp cáng đều có nhân viên mang theo phương tiện cấp cứu. Thương, bệnh binh được chăm lo như con em trong gia đình.

Sau đêm vận chuyển thứ hai, anh Bùi Đại đến tìm Tạ Long. Tạ Long được chú liên lạc đưa đến gặp anh Vũ Văn Cẩn, Cục trưởng Cục Quân y.

image

Các chiến sĩ quân y của ta luôn luôn bám sát trận địa, cứu chữa kịp thời những trường hợp bị thương. (Ảnh: TTXVN)

Sau khi đã giao nhận thương bệnh binh về Đội điều trị 5, ngày 26 tháng 1 năm 1954, Đội điều trị 8 nhận nhiệm vụ hành quân sang Lào, phục vụ một đợt đánh nghi binh.

Ngày 28 tháng 2 năm 1954, Tạ Long cùng Đội điều trị 8 nhận lệnh trở về Điện Biên, thời gian đầu triển khai một trạm quân y thu dung toàn bộ thương, bệnh binh từ Lào về.

Một đêm, Tạ Long đi với Đại đội trưởng Tô Văn cùng một số cán bộ đơn vị bám chốt đến thăm một chốt tiền tiêu. Đại tá Tạ Long nhớ lại: "Lần đầu tiên tôi thực sự được nhìn quang cảnh của một phần lòng chảo có các công sự, ụ pháo, các ổ đại liên địch... Phía xa bao quanh cánh đồng bằng phẳng rộng lớn là những dãy núi tím sẫm. Mặt trận có vẻ yên tĩnh. Thỉnh thoảng có những đợt đại liên lóe sáng nổ vu vơ về phía ta. Tôi được dẫn xuống một giao thông hào, đi một quãng dài mới nghe thấy tiếng đào đất của bộ đội ta. Con đường này đang tiến dần về phía tập đoàn cứ điểm địch. Đại đội trưởng Tô Văn cho biết nhiều con đường khác đang được đào. Những con đường này như những mũi dao đang vươn dài chĩa vào Sở chỉ huy tướng Đờ Cát ở trung tâm Mường Thanh. Đứng ở dưới lòng đất, tôi cảm thấy an toàn, trừ phi có một trái pháo nào rơi trúng mình. Địch không biết hay có biết sự chuẩn bị của ta? Dù có biết chắc chúng không ngờ quân và dân ta đang bao vây trùng điệp quanh lòng chảo này.

Chúng tôi triển khai trạm ở một khu rừng rất đẹp, bằng phẳng sát mặt trận. Số thương, bệnh binh dần tăng lên có lúc tới trên 200, phần lớn là bệnh binh, nhiều người sốt rét nặng. Một lần anh Nguyễn Huy Phan, sinh viên Đại học Y khóa 1946 đi qua, tôi mời anh tham gia chẩn đoán xử trí cho những trường hợp nặng. Có một thương binh mắt bị thương nhiễm trùng nặng. Tôi vẫn phân vân có nên chỉ định khoét mắt không, để lại thì sẽ ảnh hưởng nốt mắt kia. Vả lại dù có xem tài liệu, song thực tế tôi cũng chưa xem thực hiện những ca như thế này bao giờ. Anh Phan đã quyết định cùng tôi xử trí ca này, và tôi cũng học được thêm một kỹ thuật. Giải quyết xong phần lớn số thương, bệnh binh ở đây thì thuốc men bông băng đã cạn, đặc biệt nước cất không còn đủ để pha penicillin, không còn dịch truyền cho những thương binh nặng. Không có liên lạc với Đội điều trị 8, vì không biết đội đang ở đâu. Bí quá tôi chợt nghĩ phải pha chế nước cất hai lần bằng bi đông nước uống, dây dẫn bằng các đoạn dây truyền huyết thanh ngâm trong máng nước suối làm ngưng tụ. Tôi bàn với anh Trịnh Đình Tường là sinh viên được đang ở chỗ tôi và được anh tán thành, tích cực triển khai.

image

Mô hình lực lượng nhân viên y tế phục vụ chiến dịch được tái hiện tại Bảo tàng tỉnh Điện Biên. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Ngày đầu tiên cất được 500ml nước, tôi mừng quá, cho thử pha với penicillin tiêm bắp thịt, không có tác dụng phụ. Mấy ngày sau kỳ cạch cũng pha được vài lít dự trữ. Ngại nhất là không thử được chí nhiệt tố trong nước cất nên chưa dám cho truyền tĩnh mạch. Một hôm tôi ngồi trong hầm của một thương binh nhiễm trùng toàn thân rất nặng, sốt cao, tình trạng suy kiệt, hai mắt lờ đờ, không ăn uống được. Cả hai bắp vai, hai mông đều sưng tấy mủ. Tôi quyết định dùng penicillin pha vào dịch nước cất tự chế của mình, truyền rỏ giọt tĩnh mạch rất chậm. Tôi liên tục ngồi bên cạnh anh nói chuyện vui, hỏi thăm mới biết anh là người cùng quê, nhưng mục đích chính là để kịp thời xem xét phản ứng. Dần anh tỉnh lại, qua được cơn nguy kịch và có thể chịu đựng được gây mê để mổ rạch rộng tháo mủ.

Trạm lại di chuyển; không rõ tình trạng anh về sau ra sao. Vài năm sau hòa bình ở miền bắc, một hôm có người nhà ở quê về đem cho một bó sắn tơi rất ngon nói là anh gửi cho, tôi rất vui mừng thấy anh vẫn còn sống, đã trở về làng.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Đội điều trị 8 nhận nhiệm vụ thành lập bệnh viện dã chiến để thu nhận cứu chữa tù, hàng binh địch bị thương đưa từ các hầm hào lên.

Do giỏi tiếng Pháp, Tạ Long đã giải thích chính sách của Chính phủ ta, không ngược đãi, nhanh chóng đưa họ lên mặt đất, dĩ nhiên người nặng nhất sẽ ưu tiên, cho ăn ở, cứu chữa chăm sóc tốt. Tạ Long cùng một nữ tù binh y tế Pháp, cô Giơ-nơ-vi-e-vờ Đờ Ga-la đi xuống các hầm, phân loại cho những tù binh bị thương nặng được chuyển lên trước.

image

Những dụng cụ y tế được sử dụng tại chiến dịch Điện Biên Phủ. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Một buổi sáng, tại một cơ sở quân y gần Mường Phăng, một số nhân viên y tế tù binh Pháp được gọi lên, trong đó có Gờ-rô-uynh Gan-dơ, Lơ Đa-ma-ni... và Giơ-nơ-vi-e-vờ Đờ Ga-la để nghe công bố lệnh ân xá của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho Giơ-nơ-vi-e-vờ Đờ Ga-la người phụ nữ tù binh duy nhất ở Điện Biên Phủ. Chị vô cùng xúc động vui sướng. Những tù binh Pháp có mặt cũng rất xúc động. Một bác sĩ Pháp nói với Tạ Long có mặt buổi ấy:

- Tôi thật sự cảm phục tấm lòng nhân ái cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tạ Long đã bắt tay chúc Đờ Ga-la lên đường may mắn, mau về với gia đình.

Gần một nghìn tù binh Pháp bị thương đã được giải quyết trong vòng một tháng.

Sau này, Giáo sư, Tiến sĩ, Thầy thuốc Nhân dân Tạ Long đã nói với các bạn: "Vượt qua những gian khổ, giành thắng lợi lớn trong chiến dịch Điện Biên Phủ đã giúp tôi vượt mọi khó khăn, đạt nhiều thành công trong chiến đấu, công tác sau này".

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, giải phóng Thủ đô, hòa bình lập lại, Tạ Long tốt nghiệp Trường đại học Y khoa Hà Nội, nhận công tác tại Sư đoàn 305, Quân y Viện 9 rồi là Trợ lý Nội khoa của Cục Quân y. Trong kháng chiến chống Mỹ, năm 1968 ông nhận quyết định làm Phó đoàn chuyên viên của Tổng cục Hậu cần vào chiến trường miền nam. Ông đã làm Chủ nhiệm khoa Nội Bệnh viện 559, Bệnh viện 46 Kon Tum. Sau Chiến dịch Hồ Chí Minh, trở về bắc, ông được Cục Quân y giao nhiệm vụ nghiên cứu bệnh tiêu hóa trong quân đội.

Ông tổ chức phỏng theo mô hình các đơn vị nghiên cứu của INSERM (Viện Quốc gia về Y tế và Nghiên cứu Y học Pháp) kết hợp với một khoa điều trị trong điều kiện và hoàn cảnh của ta lúc đó. Từ đây ông đã chuyên sâu về các bệnh tiêu hóa. Vừa chữa bệnh vừa nghiên cứu, tập hợp được nhiều chuyên khoa cùng tham gia nên nhiều công trình nghiên cứu của ông và cộng sự đã đem lại hiệu quả thiết thực. Đầu thập kỷ 80 thế kỷ XX, ông cùng Tiến sĩ Dược Nguyễn Xuân Thanh nghiên cứu thành công viên thuốc Almaca, một thuốc chữa bệnh loét dạ dày, tá tràng điều chế từ các nguyên liệu trong nước. Thuốc đã được chứng minh trên thực nghiệm và trên người bệnh: rẻ tiền, phù hợp với người bệnh nghèo mà có hiệu quả cao, được tặng Huy chương Vàng và tới nay vẫn được dùng phổ biến trong quân đội và nhân dân. Từ khi vi khuẩn Helicobacter Pylori được công bố là nguyên nhân chính của bệnh loét dạ dày, tá tràng, việc chữa bệnh này đã có những thay đổi cơ bản. Những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, trong khi ở trong nước và ở cả nhiều nước vẫn còn những nghiên cứu thử nghiệm thì Đại tá Tạ Long đã cùng nhiều nghiên cứu sinh miệt mài, kiên trì, lặng lẽ điều trị theo phương pháp của mình, theo dõi bám sát bệnh nhân nhiều năm và chứng minh trong nhiều công trình. Thực tế từ năm 1995 tới nay đã diễn ra đúng như vậy, khoảng 90% số người loét có thể điều trị nội khoa khỏi, không cần phẫu thuật.

Nhiều công trình về bệnh loét, ung thư dạ dày của ông đã được đăng tải trên báo chí trong và ngoài nước hoặc báo cáo tại nhiều hội nghị quốc tế. Ông được nhiều bệnh nhân quý mến không chỉ vì chuyên môn giỏi mà còn vì tấm lòng tận tình vì người bệnh đúng như lời dặn của Bác Hồ: "Thầy thuốc giỏi phải như người mẹ hiền".

Trong lĩnh vực đào tạo, hơn một chục nghiên cứu sinh do ông trực tiếp hướng dẫn đã bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ. Nhiều người còn được ông tạo điều kiện, giới thiệu đi dự các hội nghị quốc tế, bổ túc sâu tại các cơ sở khoa học nổi tiếng ở nước ngoài mà ông quen biết. Bộ Giáo dục Đào tạo, các Trường Đại học Y Hà Nội, Huế, Thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Quân y đã tín nhiệm mời ông tham gia hàng trăm Hội đồng cấp Nhà nước chấm luận án Tiến sĩ, Thạc sĩ.

image

Giáo sư, Tiến sĩ Tạ Long (bên trái). (Ảnh: Viện Nghiên cứu và Đào tạo Tiêu hóa, Gan mật)

Là một người giỏi ngoại ngữ, ngay từ những năm 60 thế kỷ XX ông đã viết, dịch nhiều cuốn sách chuyên môn từ nhiều thứ tiếng Pháp, Anh, Nga mà đến nay vẫn còn rất giá trị. Hoạt động trong Hội khoa học Tiêu hóa Việt Nam, từ nhiều năm nay, cho đến năm 2012, ông đã cùng đồng nghiệp hàng năm tổ chức các hội nghị khoa học toàn quốc, tổ chức thành công liên tiếp chín Hội nghị Tiêu hóa quốc tế khu vực Đông Nam Á, dùng ngôn ngữ chính là tiếng Anh, Pháp, được bạn bè các nước và trong nước tín nhiệm tham gia ngày một đông đảo.

Ông cho biết: "Tổ chức hội nghị quốc tế vất vả, phức tạp bội phần so với hội nghị trong nước, phải ra thông báo chính thức trước hàng năm, không chỉ tự lo về tài chính, mà nội dung luôn phải đổi mới, lôi cuốn được nhiều báo cáo viên nước ngoài và trong nước tham gia. Chúng tôi mất rất nhiều công sức biên tập, sửa chữa hiệu đính vì bài viết bằng tiếng nước ngoài, in ấn không để sai sót. Điều đáng mừng là chúng tôi đã đạt được mục tiêu: trao đổi cập nhật được kiến thức, kinh nghiệm mới, động viên phong trào nghiên cứu, phát triển khoa học kỹ thuật, học tập ngoại ngữ để hội nhập với bạn bè quốc tế, làm cho họ ngày càng hiểu biết và hợp tác với Việt Nam. Chúng tôi tự hào vì dần đã có nhiều bác sĩ trẻ của ta chững chạc bước lên diễn đàn báo cáo và thảo luận lưu loát bằng tiếng Anh, tiếng Pháp".

Trước mắt ông vẫn bộn bề công việc phải làm và tối tối ở nhà ông vẫn lặng lẽ ngồi trước bàn máy tính...

Nhân ngày thầy thuốc Việt Nam 27 tháng 2 năm 2013, người ta thấy Giáo sư, Tiến sĩ Tạ Long có tên trong danh sách một số cán bộ ngành Y toàn quốc được giới thiệu trên một tập sách của Bộ Y tế.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trịnh Tuấn Dũng, Chủ tịch Hội Giải phẫu bệnh Việt Nam đã phát biểu: "Giáo sư Tạ Long là người rất tận tụy với bệnh nhân và công việc. Chúng tôi luôn luôn bị cuốn hút bởi những ý tưởng mới, đầy sáng tạo của thầy. May mắn là một trong các học trò của ông được ông tận tình hướng dẫn và giúp đỡ, tôi rất tự hào về người thầy tài năng và mẫu mực của mình".

Trích: "Điện Biên Phủ - Ký ức 60 năm", Nxb Quân đội nhân dân
Ảnh: THÀNH ĐẠT
Trình bày: TRẦN LAM

 


   
Phan khoi lon and U Cay reacted
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31355.77
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3300
Topic starter  
image

Trên cánh đồng Mường Thanh, sáng ngày 14/4, toán địch đầu tiên đi tuần trên sân bay, chợt nhận thấy đường hào ở phía tây đã cắt đứt liên lạc giữa Huguette 1 (cứ điểm 206) và Huguette 6 (cứ điểm 105) với khu trung tâm. Một mũi hào khác đâm thẳng vào sân bay Mường Thanh. Không chỉ có vậy, Huguette 1 còn báo cáo mặt tây cứ điểm đã bị chiến hào của ta bao vây. Buổi trưa, những đơn vị dù 6 và 8 thử mở đường tới Huguette 1, nhưng bị chặn lại trước những bãi mìn mới rải và những loạt đạn súng cối.

image

Giao thông hào của ta đã cắt đôi sân bay Mường Thanh, tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến sĩ xung kích tiêu diệt địch. Ảnh: TTXVN

13 giờ 30, Đờ Cát-xtơ-ri điện cho Cônhi: “1. Số phận của G.O.N.O sẽ được định đoạt trước ngày 10/5 (...). 2. Trận địa phát triển đe dọa Huguette 1 và Huguette 6. Mưu toan giải tỏa Huguette 1 tiến hành sáng nay vấp phải nhiều bãi mìn giữa Huguette 1, Huguette 3, Huguette 5 và hỏa lực súng cối và pháo binh. Sẽ tiếp tục khi trời tối đồng thời với việc sửa chữa đường băng”.

Theo kế hoạch, hai trung đoàn của Đại đoàn 308 và hai trung đoàn của Đại đoàn 312 đã được triển khai chung quanh phía bắc sân bay. Cứ điểm 206 bảo vệ phía tây sân bay đã bị chiến hào của Trung đoàn 36 cắt rời khỏi Mường Thanh. Cứ điểm 105 ở phía bắc sân bay cũng bị chiến hào của Trung đoàn 165 bao vây. Hai mũi chiến hào của Đại đoàn 308 và 312 đang nhanh chóng đâm thẳng vào giữa sân bay.

Nhìn chung, sau đợt tiến công vào các điểm cao phía đông, chiến trường nhiều lúc gần như yên tĩnh. Cái yên tĩnh này sẽ không đáng sợ với quân địch đang mong thời gian nhanh chóng trôi qua cho tới mùa mưa nếu không có vô vàn những tiếng cuốc đào đất bất kể đêm ngày rậm rịch chung quanh, mỗi lúc càng rõ. Tiếng cuốc chính là tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ báo tử con nhím Điện Biên Phủ. Bộ Chỉ huy Pháp cũng rất sợ tiếng cuốc này, nên đã thả dù xuống Mường Thanh một số máy phát hiện tiếng đào đất. Nhưng binh lính ở đây không cần tới chúng vì không có máy họ vẫn nghe rất rõ những tiếng cuốc. Họ chỉ cần cái gì có thể ngăn những người đào đất tiếp tục công việc của mình. Suốt ngày đêm, từng giờ, những chiến hào nổi, chiến hào ngầm của bộ đội ta nhích dần đến gần phân khu trung tâm.

image

Các đơn vị xung kích của ta dưới sự chỉ huy của anh hùng quân đội Nguyễn Quốc Trị đang tấn công sân bay Mường Thanh. Ảnh: TTXVN

Chiều 14/4, trong lúc những chiếc xe vận tải của địch được đưa tới Épecvier để thu dù, nhận đồ tiếp tế thì chiếc xe jeep cuối cùng sau khi nhận số lương thực để chở đi phân phối cho các nơi thì một loạt đạn đại bác của ta rót đúng khu vực. Nhiều thứ lương thực, trong đó có 5.080 suất ăn chiến đấu, 300kg phomát, 700kg chè, 450kg muối, 110 thanh sôcôla... đều bốc cháy. Ngày hôm đó, chỉ huy tập đoàn cứ điểm Pháp công bố dự kiến từ ngày 29 tháng 4, khẩu phần của mỗi người sẽ bị giảm xuống một nửa.

Ngày 14/4, Nava điện cho Êly đề nghị Mỹ dùng từ 15 đến 20 máy bay B-29 ném bom xuống đường 41 quãng giữa sông Hồng và Tuần Giáo. Tình hình bế tắc ở Điện Biên Phủ buộc Nava phải trao đổi với Êly một “hành động hạn chế” của không quân chiến lược Mỹ. Nhưng Êly trả lời; "Rátpho không chấp nhận giải pháp này". Trong khi chờ đợi, Êly gợi ý Nava về khả năng cho Pháp sử dụng 15 máy bay B-29 của Mỹ, nhưng phải do phi công Pháp ở Đông Dương trực tiếp điều khiển. Đến lượt Nava cũng phải khước từ, vì phi công Pháp không sử dụng được những máy bay lớn hơn máy bay B-26 mà người Mỹ đã cung cấp.

Tại Paris, Mỹ tính đến khả năng ném bom nguyên tử xuống Điện Biên Phủ, Ngoại trưởng Mỹ Đa-lét đã hỏi Bi-đôn về khả năng Mỹ sẽ ném bom nguyên tử xuống Điện Biên Phủ. Bi-đôn đã phân tích rõ: Nếu ném bom xuống vùng Điện Biên Phủ, người phòng ngự cũng như người tiến công đều hứng chịu hậu quả như nhau. Nếu đánh vào tuyến giao thông bắt nguồn từ Trung Hoa, sẽ có nguy cơ dẫn tới một cuộc chiến tranh toàn bộ. Trong cả hai trường hợp, quân đồn trú ở Điện Biên Phủ, còn xa mới được cứu nguy, mà sẽ lâm vào tình trạng nghiêm trọng hơn.

image

Các đơn vị xung kích của ta dưới sự chỉ huy của anh hùng quân đội Nguyễn Quốc Trị đang tấn công sân bay Mường Thanh. Ảnh: TTXVN

image

Trên chiến trường phối hợp:

Đêm 14/4/1954, Đại đội 29 Tiểu đoàn 58 của tỉnh Hưng Yên tiến sang Văn Giang, dùng chiến thuật mật tập diệt vị trí Chùa Đàm, tiêu diệt gọn 1 đại đội địch, thu toàn bộ vũ khí. !

Tại Tứ Kỳ, Hải Dương, đêm 14/4, bộ đội huyện dùng nội ứng đánh vị trí Đại Lộ lần thứ hai, bắt 30 tên. Trên đường 20, Đại đội 75 tổ chức phục kích đoạn Phủ Vạc đi Kẻ Sặt, diệt và bắt 1 trung đội địch; 1 đại đội tỉnh phối hợp với Trung đoàn 42 chủ lực Liên khu 3 tập kích ở làng Sãi diệt 2 đại đội địch đang trí quân trong làng, bắt 50 tên. !

 

Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, nhiệm vụ cứu thương và quân y không chỉ nặng nề mà còn vô cùng vất vả trong điều kiện tất cả mọi thứ đều thiếu thốn. Trong cuốn “Chiến thắng Điện Biên Phủ: Sức mạnh Việt Nam và tầm vóc thời đại”, NXB Khoa học xã hội (2014), PGS. TS. Ngô Đăng Trì (Khoa Lịch sử, Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn), Đại học Quốc gia Hà Nội" viết:

"Cứu chữa và chuyển thương binh: Nhiệm vụ quân y trong chiến dịch Điện Biên Phủ rất nặng nề và có nhiều vấn đề mới khác hẳn các chiến dịch trước. Do chiến dịch đánh lâu, chiến đấu ác liệt nên tổng số thương binh về điều trị tại các đội điều trị của Cục lên tới 10.130 (cộng thêm số bệnh binh tới 4.189)…

Lực lượng quân y sử dụng cũng lớn hơn so với các chiến dịch trước; trước sau sử dụng tới 11 đội điều trị; ngoài 3 đội điều trị của 3 đại đoàn bộ binh, quân y chiến dịch đã triển khai đội điều trị của đại đoàn công pháo (351) và 2 đội điều trị của Cục cùng với tuyến đại đoàn. Còn 5 đội điều trị của Cục thì bố trí ở tuyến sau, tổ chức thành các bệnh viện mặt trận (3 ở tuyến hậu cần hỏa tuyến, 1 ở tuyến Tuần Giáo, 1 ở tuyến Sơn La).

Do nhu cầu của tác chiến liên tục, nếu không chuyền nhanh, chuyền liên tục thì thương binh sẽ bị ùn ở hỏa tuyến nên ta đã đề ra phương châm chuyền nhanh, vừa đánh vừa chuyển thương binh, không kể ngày đêm chuyền liên tục, thường xuyên… Trong đợt đầu, 34,4% thương binh về quân y trung đoàn trước 6 giờ; sang đợt 2, do cơ sở quân y không nhích lên, ở xa trận địa quá nên tỷ lệ rút xuống còn 21%; sang đợt 3 do chấn chỉnh lại, nên tới 63% thương binh về tới tuyển trung đoàn trước 6 giờ.

Ngày xuất bản: 14/4/2024
Nội dung: Đại úy, ThS NGUYỄN NGỌC TOÁN –
Viện Lịch sử quân sự, NGỌC BÁCH
Trình bày: VŨ ANH TUẤN
Ảnh: TTXVN

 


   
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31355.77
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3300
Topic starter  
image

Tại Phân khu nam, 16 giờ ngày 15/4, một chiếc máy bay C.119 bay đến lượn mấy vòng rồi thả xuống một loạt dù, trong đó có một chiếc dù đỏ rơi gần trận địa của ta. Xẩm tối, chiến sĩ ta ra lấy dù, thấy có một chiếc hòm. Nó được đưa Sở Chỉ huy Trung đoàn 57. Trong hòm toàn những gói quà gồm thuốc lá, rượu, xúc xích, jăm-bông, áo may ô, lưỡi dao cạo râu, và một lá thư màu hồng sực mùi nước hoa của vợ Đờ Cát-xtơ-ri gửi cho chồng nhân dịp được thăng quân hàm cấp tướng. Đơn vị xin ý kiến Bộ Chỉ huy mặt trận cách xử lý với lá thư. Chủ nhiệm Chính trị Lê Liêm nói nên chuyển lại cho Đờ Cát-xtơ-ri. Ta thông báo trên bộ đàm. Chỉ một giờ sau, đúng theo quy ước, một tên lính Pháp mang cờ trắng tói địa điểm hẹn, nhận lá thư đem về Mường Thanh.

Chung quanh cụm cứ điểm Hồng Cúm, các chiến sĩ súng trường, súng máy, sơn pháo, các cỡ súng cối lớn nhỏ sẵn sàng chờ địch xuất hiện. Sau nhiều lần bị ta đánh lừa, ban ngày quân địch không dám đi lại, không dám nhô đầu lên khỏi chiến hào. Bộ đội ta chui qua hàng rào cắm cờ, chờ những tên bò ra nhổ cờ là nổ súng. Địch bỏ mặc những lá cờ tiếp tục tung bay trong cứ điểm. Mỗi lần đi thu nhặt dù, địch phải tổ chức như một trận đánh có xe tăng đi kèm và pháo bắn hiệp đồng.

Trên hướng cánh đồng Mường Thanh, đêm 15/4, chiến hào của Trung đoàn 88 ở phía tây và chiến hào Trung đoàn 141 ở phía đông đều vượt qua 5 lần rào tiến vào sân bay. Trận đánh quan trọng tiêu diệt Trung tâm đề kháng bảo vệ sân bay Mường Thanh đã bắt đầu không có hỏa pháo chuẩn bị, không có dấu hiệu nào báo trước.

image

Nhận thấy sân bay Mường Thanh có nguy cơ bị cắt làm đôi, và Cứ điểm 105 (Huguette 6) ở đầu bắc sân bay sắp bị tiêu diệt, một nửa sân bay Mường Thanh, chiếm 1/5 diện tích tập đoàn cứ điểm, sẽ lọt vào tay ta, Đờ Cát-xtơ-ri ra lệnh Lăng-gơ-le lập tức tiến hành giải tỏa sân bay, trước hết là tiếp tế cho Cứ điểm 105 ở xa đã bị bao vây chặt chẽ. Sau đó, Lăng-gơ-le huy động ba tiểu đoàn dù số 1, số 2 và số 6 mở cuộc hành binh giải tỏa và tiếp tế cho Cứ điểm 105. Lúc đó, binh lính lê dương ở cứ điểm này không chỉ thiếu đạn dược, mà còn thiếu cả nước uống.

Rạng sáng 15/4, đoàn quân của địch đi giải tỏa thì chạm đường hào của Trung đoàn 141 trên sân bay, cuộc chiến đấu diễn ra suốt bốn giờ liền mới mở được đường cho đám dân phu mang đồ tiếp tế đến cho Cứ điểm 105. Lúc xuất phát trong đám phu có 35 người gánh nước, khi tới đồn chỉ còn 7 người và 5 thùng nước. Lính trong đồn đành phải chia nhau dè sẻn, mỗi ngày mỗi người chỉ được phân phát một cả nước trong lúc trời rất nóng nực.

image

Các đơn vị pháo binh của ta tiếp tục pháo kích vào các vị trí của địch. Các vị trí của địch bị trúng đạn pháo đang bốc cháy. (Ảnh: TTXVN)

Kế hoạch cuộc hành quân mang mật danh “Condor” tiếp tục bị hoãn lần thứ 2. Cônhi đưa ra lý do vì Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ cần được ưu tiên tiếp tế hơn, chưa kể ở vùng châu thổ Bắc Bộ tình hình quân sự cũng rất khó khăn và đang phải chi viện thêm 3 tiểu đoàn nhảy dù đến đó. Cùng từ ngày 15/4, với sự gia tăng cường độ hoạt động của không quân chi viện cho Điện Biên Phủ đã sử dụng hết tất cả phương tiện có được, nên cuộc hành quân “Codor” không thể thực hiện được nữa.

Tại các Chiến trường phối hợp:

Ngày 15/4/1954, tại Hải Dương, Đại đội 923 huyện Kinh Môn đánh vị trí Chùa Hang, diệt và bắt 35 tên địch.[1]

Đào hào là một trong những bí quyết để những cánh quân của ta thắt chặt vòng vậy, tấn công địch bất ngờ và nhanh chóng. Những câu chuyện đào hào được kể lại trong cuốn “Ký sự Chiến thắng Điện Biên Phủ”, nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Trần Độ chủ biên.

“Đêm 15/4/1954, các chiến sĩ trung đoàn Đầm Hà đem theo cuốc, xẻng tiến vào sân bay. Đại đội trưởng Bang dẫn đầu cùng các chiến quân báo vượt một đường hào rất rộng, vốn là rãnh thoát nước nằm dọc sân bay, cũng là đường hào địch dạng đề cơ động bộ đội.

Sáng hôm sau, mãi đến lúc màn sương sớm đã tan đi, địch mới phát hiện được việc làm của ta. Nhưng đường hào đã đào vào đến hàng rào thứ tư. Chúng đưa xe tăng và bộ binh ra đánh chiếm lại trận địa, nhưng bộ đội phòng ngự của ta đã đánh bật chúng trả lại. Cuộc chiến đấu diễn ra suốt ngày.

Đêm hôm ấy, địch bắn rất dữ vào đầu hào ta ở lớp rào thứ tư. Các chiến sĩ lên đào trận địa mấy lần đều bị thương vong. Tiểu đoàn phó Nguyễn Văn Thuần tìm mọi cách để khắc phục khó khăn tiếp tục đẩy chiến hào lên phía trước. Anh kiên quyết tung bộ đội vào sâu hẳn bên trong, rồi từ trong đó đào ngược ra.

Khi địch phát hiện được việc làm này thì đầu hào của ta đã nối liền với con hào của địch chạy dọc theo sân bay và các chiến sĩ Đầm Hà đã nhìn thấy bóng các chiến sĩ đơn vị bạn thấp thoáng ở phía tây, sau xác 2 chiếc máy bay địch.

Thế là từ nay trên sơ đồ tác chiến tại mặt trận xuất hiện một vị trí mới: Ngã tư Đầm Hà. Ngã tư Đầm Hà được nhắc tới nhiều lần trong báo cáo tác chiến hằng ngày. Đó chính là nơi đường hào của đơn vị Đầm Hà đào vào cắt đường hào của địch ở sân bay. Ta và địch giằng co quyết liệt ngã tư này. Đối với địch, để mất ngã tư này tức là bỏ mặc cho sân bay bị cắt đứt. Đối với ta, không chiếm lấy ngã tư này là không thực hiện được nhiệm vụ cắt đứt sân bay”.

Ngày xuất bản: 15/4/2024
Nội dung: Đại úy, ThS Nguyễn Ngọc Toán - Viện Lịch sử quân sự, NGỌC BÁCH
Trình bày: ANH NGỌC
Ảnh: TTXVN

 


   
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31355.77
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3300
Topic starter  
image

Thực hiện chủ trương và cách đánh do Bộ Chỉ huy và cơ quan chiến dịch hướng dẫn, các đơn vị đã xây dựng trận địa tiến công và bao vây trên tất cả các hướng, ngày càng tiến gần địch, có nơi chỉ cách địch từ 10 đến 15m. Các khu vực đã chiếm được như đồi E, D1 trở thành các cứ điểm phòng ngự vững chắc của ta, có cả trận địa bắn của sơn pháo và súng cối thường xuyên uy hiếp địch. Ngày 16/4, chiến hào của Đại đoàn 312 và Đại đoàn 308 nối liền với nhau, cắt đôi sân bay Mường Thanh.

image

Giao thông hào của ta đã cắt đôi sân bay Mường Thanh, tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến sĩ xung kích tiêu diệt địch. Ảnh: TTXVN

Ở phía bắc sân bay, đêm 16, trận địa của Trung đoàn 165 Đại đoàn 312 từ bốn phía phát triển vào sát cứ điểm 105, có nơi chỉ cách hàng rào địch 15m. Địch bị giam chặt không còn được tiếp tế, không có nước uống, trong khi đó các tổ bắn tỉa sẵn sàng tiêu diệt những tên ra khỏi chiến hào. Hỏa lực ĐKZ của ta bắn sập 15 ụ súng địch ở tiền duyên.

Ở phía Tây, Trung đoàn 36 xây dựng trận địa vây ép đánh lấn cứ điểm 206 (Huguette 1). Trung đoàn 88 đào giao thông hào cắt ngang sân bay Mường Thanh, bắt liên lạc với Trung đoàn 141 đang tiến vào sân bay từ phía đông.

image
image

Các đơn vị xung kích của ta dưới sự chỉ huy của anh hùng quân đội Nguyễn Quốc Trị đang tấn công sân bay Mường Thanh. Ảnh: TTXVN

Tại Phân khu Hồng Cúm, chiến hào của Trung đoàn 57 ngày càng tiến gần những lô cốt của địch. Địch điên cuồng đối phó. Ban ngày, chúng đưa xe tăng, bộ binh ra lấp chiến hào rồi cài mìn đánh bẫy quân ta. Ban đêm, chúng tổ chức từng toán nhỏ phục kích ngay ở mũi các chiến hào. Ta thay đổi giờ hoạt động, thay đổi vị trí đào, khi thì đào từ ngoài vào, khi đào từ trong ra, bố trí lực lượng đánh bọn phục kích.

4 giờ sáng ngày 16/4, hai đại đội lê dương Pháp lợi dụng lúc trời còn tối bộ đội ta sắp quay về nghỉ ngơi, chia thành hai mũi đột nhập vào chiến hào của Đại đội 54 Trung đoàn 57 Đại đoàn 304. Một toán quân địch đến gần vị trí chỉ huy đại đội. Đại đội đã kịp thời ra lệnh cho các trung đội nhanh chóng tản ra hai bên, dùng súng cối 60mm và trung liên bắn vào đội hình quân địch, bộ đội hình thành hai mũi đánh vòng trở lại. Một trung đội ở phía sau nghe tiếng súng nổ lập tức nhanh chóng tiến ra tiếp viện.

Một tổ làm nhiệm vụ bắn tỉa cũng tự động chạy tới phối hợp đánh địch. Khi quân địch đang lo chống đỡ phía trước bất thần bị một mũi đánh thọc sườn, sợ bị sa bẫy hoảng hốt rút chạy về cứ điểm, để lại trận địa hàng chục xác chết. Đại đội 54 từ chỗ bị đột kích bất ngờ, nhưng nhờ bình tĩnh xử trí, các lực lượng linh hoạt và chủ động hiệp đồng yểm trợ nhau, đã chuyển từ bị động thành chủ động tiến hành một trận phản kích, tiến công từ ba phía giành thắng lợi giòn giã.

Trên hướng cánh đồng Mường Thanh, cuộc giải tỏa và tiếp tế cho Cứ điểm 105 (Huguette 6) do Lăng-gơ-le chỉ huy bước sang ngày thứ 2. Lực lượng địch đứng trước cả một trận địa với lớp lớp chiến hào và những ụ súng. Thêm vào đó là xác một chiếc máy bay còn nằm giữa đường băng, đã trở thành một công sự nổi giúp cho bộ đội ta đặt liên thanh quét gục những tên lính lê dương hăng hái nhất định xông lên. Cuộc hành binh tiếp tế cho Cứ điểm 105 đã mang lại cho Lăng-gơ-le tổn thất về lực lượng ứng chiến lớn hơn cả những đợi phản kích giành lại đồi C1. Đến đêm, hai tiểu đoàn địch sau khi chiến đấu suốt mười tiếng đồng hồ mới mở được con đường tiếp tế để đưa tới Cứ điểm 105 sáu hòm đạn và vài thùng nước.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra Mệnh lệnh gửi Bộ Tư lệnh Đại đoàn 308. Mệnh lệnh thông báo kế hoạch tác chiến sắp tới của Bộ Tổng Tư lệnh, đó là: tập trung lực lượng tiêu diệt Cứ điểm 105, sau đó giữ cứ điểm để kiểm soát và phá hoại bộ phận bắc sân bay của địch.

 

Đại đoàn 308 được giao nhiệm vụ:
+ Dùng toàn bộ lực lượng Trung đoàn 88 để tiêu diệt cứ điểm 105 (thay cho Trung đoàn 165). Tối 16/4 phải hành quân đến vị trí tập kết, không được chậm.
+ Trung đoàn 36 đánh viện trên 2 tuyến: 1) tuyến chính giữa Cứ điểm 105 và 206; 2) giữa cứ điểm 206 và 208 từ phía Tây cho đến sân bay. Tối 16/4, phải tích cực xây dựng trận địa đánh viện.
Các mốc thời gian:
+ Tối 18/4 nhất định phải chuẩn bị xong
+ Ngày 19/4 cán bộ phải tự đi kiểm tra lần cuối cùng
+ Ngày 20/4 tác chiến. Nhất định không để chậm
(Thời gian chỉ Đại đoàn ủy và cán bộ Trung đoàn được biết).
- Tại chiến trường phối hợp
Ngày 16/4/1954, Trung đoàn 42 chủ lực Liên khu 3 cùng 1 đại đội huyện Cẩm Giang phục kích trên đường 5 đoạn Quý Dương – Phú Xá – Ngũ Lộc, diệt và bắt gần hết 1 đại đội Âu Phi (85 tên){1}

 

Ngày xuất bản: 16/4/2024
Nội dung: Đại úy, Thạc sĩ Nguyễn Ngọc Toán, Viện Lịch sử quân sự; Ngọc Bách
Trình bày: DUY LONG
Ảnh: TTXVN

 

   
Trả lờiTrích dẫn
friendship2k
(@friendship2k)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu rank 2
Tài sản: 31355.77
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 3300
Topic starter  
image

Các cứ điểm 105 và 206 có giá trị quan trọng đối với địch, do vậy địch cố giữ cứ điểm 105 và 206 để bảo vệ sân bay Mường Thanh và khống chế khu vực tương đối rộng nhằm ngăn chặn quân ta tiến công.

Sau khi nghiên cứu tình hình địch và quá trình huấn luyện, chuẩn bị của lực lượng ta, Tổng Quân ủy đã sử dụng Trung đoàn 88 thay Trung đoàn 165 tiêu diệt vị trí 105, tạo điều kiện để khống chế không phận địch và thắt chặt thêm vòng vây sân bay Mường Thanh.

Khi sử dụng Trung đoàn 88 đánh tiêu diệt vị trí 105 thay Trung đoàn 165, Tổng Quân ủy đã cóthư gửi các đồng chí trong Bộ Tư lệnh Đại đoàn 308 và Đại đoàn 312. Nội dung thư phân tích về tầm quan trọng của việc tiêu diệt cứ điểm 105, đề nghị chỉ huy 2 đại đoàn quán triệt cho cán bộ, chiến sĩ hiểu, nhiệm vụ tiêu diệt cứ điểm 105 vô cùng quan trọng và việc thay đổi này nhằm hoàn thành triệt để nhiệm vụ tiêu diệt cứ điểm 105.

Khi sử dụng Trung đoàn 88 thay Trung đoàn 165, Tổng Quân ủy nhấn mạnh: Vị trí này quan trọng như vậy nên Tổng quân ủy quyết định phải bảo đảm đánh nhất định thắng, càng thắng gọn càng tốt. Xét về thực lực, Trung đoàn 165 cũng có thể tiêu diệt được 105, nhưng vì Trung đoàn 165 chưa được chỉnh đốn, có một số tân binh chưa được học tập, điều kiện bảo đảm đánh chắc thắng và gọn chưa thật đẩy đủ. Do vậy, Tổng Quân ủy quyết định giao cho Trung đoàn 88 nhiệm vụ đánh 105 thay 165.

Tổng Quân ủy đề nghị cả hai đơn vị 88 và 165 đều phải nhận rõ tầm quan trọng của trận đánh và nhiệm vụ của mình để thực hiện cho được quyết định của Tổng Quân ủy. Cùng với đó, Tổng Quân ủy đề nghị 2 đoàn sử dụng nghệ thuật đánh điểm, diệt viện để tiêu diệt quân địch. Hai nhiệm vụ đánh điểm, diệt viện đều quan trọng, đánh chặn được viện, tiêu diệt được điểm, tạo điều kiện cho chiến dịch phát triển thuận lợi.

Nhiều đoàn cán bộ của Bộ Chỉ huy Chiến dịch đi xuống trận địa để kiểm tra, đôn đốc, động viên cán bộ, chiến sĩ, tăng cường đào hầm giao thông, áp sát các cứ điểm còn lại, đẩy mạnh phong trào bắn tỉa, đoạt dù tiếp tế của địch.

Ở phía tây, Trung đoàn 36 xây dựng trận địa vây ép đánh lấn cứ điểm 206 (Huguette 1), Trung đoàn 88 đào giao thông hào cắt ngang sân bay Mường Thanh, bắt liên lạc với Trung đoàn 141 đang tiến vào sân bay từ phía Đông. Đến đêm 17/4, ba mũi chiến hào của Trung đoàn 36 đã vây bọc kín cứ điểm 206, Trung đoàn 88 đưa đường hào vào sát sân bay Mường Thanh, các đường hào của ta đã lách vào bên trong các lớp rào bao quanh cứ điểm 105, nhiều quãng rào đã bị cắt trụi. Việc đào trận địa vây ép đã tạo điều kiện để bộ đội đánh lấn tiêu diệt cứ điểm địch.

Phía địch:

Địch sử dụng chiếc C119 số 564 để thử nghiệm thả dù mở chậm, sản phẩm viện trợ của Mỹ, tuy nhiên hệ thống tự động mở dù bị trục trặc, vì vậy có những chiếc dù rơi chậm, có những chiếc rơi nhanh làm cho các kiện hàng viện trợ tản mát khi rơi xuống mặt đất.

Không có máy bay ngắm theo dõi vì đường rơi của các kiện hàng tùy thuộc vào nhiều yếu tố như độ cao lúc thả, sức gió, thời gian rơi. Địch thả dù vào ban đêm và thả vào những khu vực vắng vẻ, tuy nhiên sương mù mùa khô đã ngăn cản hiệu quả của những chiếc dù, khi những máy bay địch thả dù có máy bay B.52 hộ tống.

Địch phải huy động tới hai tiểu đoàn, chiến đấu với ta nhiều giờ đồng hồ để mở đường tiếp tế đưa tới Huguette 6 sáu hòm đạn và vài thùng nước. Trước tình hình đó, tướng Lăng-gơ-le (Langlais) tới gặp chỉ huy trưởng Đờ Cát-xtơ-ri (De Castries) báo cáo tình hình bi đát ở Huguette 6.

Sau khi nghe báo cáo, Đờ Cát-xtơ-ri thể hiện sự mệt mỏi vì cuộc chiến đấu triền miên, binh lính của ông ta đang bị tiêu hao, năng lực ngày càng kiệt cạn. Ông ra lệnh cho Bigeard huy động toàn bộ lực lượng dự trữ của tập đoàn cứ điểm, các đơn vị lính dù lê dương, lính xung kích của Tourret đồng thời rút bớt cả một số trung đội bộ binh lê dương ở các cứ điểm khác để mở một hành lang an toàn cho lính trên đồn Huguette 6 rút về khu Trung tâm.

Binh lính ở Huguette 6 được lệnh trong vòng mười phút phải phá hủy các thiết bị cồng kềnh, nặng nề như điện đài và súng lớn. Lợi dụng đám sương mù, đám lính còn sống sót trong cứ điểm Huguette 6 nép mình bò dưới giao thông hào chỉ cách bộ đội ta khoảng 30m, rút dần ra cửa đồn phía nam.

Tại Sài Gòn, cơ quan báo chí và thông tin địch đã đưa tin rằng Đờ Cát-xtơ-ri có phàn nàn về việc từ chức nếu không được thăng lên cấp tướng, tuy nhiên Đờ Cát-xtơ-ri phủ nhận những thông tin này và khẳng định mình không có cuộc tiếp xúc cá nhân nào với báo chí trước khi được phong cấp tướng. Việc phong tướng cho Đờ Cát-xtơ-ri tại Điện Biên Phủ đã trở thành vấn đề đàm tiếu của thế giới khi họ biết, quân hàm cấp tướng của Đờ Cát-xtơ-ri được máy bay thả dù làm rơi vào tay bộ đội ta.

Ngày xuất bản: 17/4/2024
Nội dung: Thiếu tá, Thạc sĩ Nguyễn Thị Thảo, Viện Lịch sử quân sự, NGỌC TOẢN THU
Trình bày: HÙNG HIẾU
Ảnh: TTXVN

 


   
Trả lờiTrích dẫn
Trang 10 / 16
Chia sẻ: