Kỳ tích của cha ông làm cả thế giới chấn động.
TỔ CHỨC XÂY DỰNG CÁC ĐƠN VỊ PHÁO BINH THAM GIA CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ góp phần kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đến nay đã được 50 năm. Sử sách, báo chí đã nói nhiều về chiến thắng này. Ở đây tôi chỉ đề cập đến vấn đề tổ chức xây dựng các đơn vị pháo binh trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
Theo kinh nghiệm rút ra từ trong chiến dịch Hòa Bình 1951 - 1952; chiến dịch Tây Bắc 1952 và theo đà tiến triển của giai đoạn tổng phản công của ta sẽ ngày càng có nhiều trận đánh lớn giữa ta và địch, Bộ Tổng tư lệnh nhận thấy khả năng hoả lực pháo binh của ta chưa đủ sức kiềm chế, chế áp pháo binh địch, chi viện cho bộ binh tiêu diệt tập đoàn cứ điểm như Nà Sản. Yêu cầu phải có một lực lượng pháo phòng không đủ mạnh, có thêm các loại trọng pháo có tầm bắn xa, uy lực lớn để chi viện có hiệu quả cho các binh đoàn chủ lực đánh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ là một đòi hỏi cấp thiết.
Ngay từ đầu năm 1950, với tầm nhìn xa trông rộng, trong chuyến thăm Liên Xô và Trung Quốc, Hồ Chủ tịch đã đề nghị bạn giúp ta trang bị vũ khí cho một trung đoàn cao xạ 37mm, một số xe vận tải, trang bị vũ khí cho một số đại đoàn bộ binh và một đơn vị pháo binh. Bạn đã nhận lời, riêng Trung Quốc còn đồng ý cử cố vấn quân sự sang giới thiệu những kinh nghiệm chiến đấu của giải phóng quân và đồng ý cho ta đưa Trường lục quân sang đất Vân Nam để đào tạo và bổ túc cán bộ.
Bác đã chỉ đạo các cơ quan Chính phủ và Bộ Tổng tư lệnh có kế hoạch chuẩn bị tiếp nhận viện trợ của bạn và tổ chức huấn luyện làm chủ vũ khí trang bị mới. Về sự chi viện của bạn, Bác căn dặn: "Rồi đây, có sự chi viện của Liên Xô và Trung Quốc về vật chất, vũ khí, trang bị, ta sẽ đỡ khó khăn hơn, nhưng giành được thắng lợi là phải do sự nỗ lực của chính bản thân ta quyết định" (Trích hồi ký Chiến đấu trong vòng vây của Đại tướng Võ Nguyên Giáp).
Bước vào chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954, lực lượng pháo binh có thêm trung đoàn pháo xe kéo 45 trang bị 24 khẩu 105mm. Cuối tháng 11-1953, Trung đoàn 367 pháo cao xạ 37mm từ Trung Quốc trở về nước tham gia chiến đấu. Cho đến lúc này, hoả lực chiến đấu của pháo binh và pháo phòng không quân đội ta đã lớn mạnh vượt bậc, tuy nhiên do ta giữ bí mật nên quân Pháp hoàn toàn không hay biết.
Ngày 15-11-1953 quân Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, chiếm đóng và xây dựng vùng này thành một tập đoàn cứ điểm rất mạnh, tổ chức thành 3 phân khu, 8 trung tâm đề kháng, gồm 49 cứ điểm trang bị hỏa lực mạnh, có 2 sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm, quân số lên đến gần 2 vạn tên. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được giới quân sự Pháp, Mỹ coi như "một pháo đài bất khả xâm phạm". Cho rằng quân ta chỉ có loại sơn pháo 75mm, tầm bắn hạn chế và chỉ có sở trường đặt gần, bắn thẳng, trung tá Sác-lơ Pi- rốt - phó chỉ huy tập đoàn kiêm chỉ huy trưởng pháo binh huênh hoang nói với Đờ-cát-xtơ-ri - chỉ huy trưởng tập đoàn: "Pháo của Việt Minh nếu đặt ngoài bắn vào thì không tới; còn nếu họ dám liều lĩnh đặt pháo trên các dãy núi xung quanh bắn vào đây thì, thưa Ngài tôi sẽ bắt họ phải câm họng trước khi bắn viên thứ hai!".
Đại đoàn công pháo 351 tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ có Trung đoàn lựu pháo 45, Trung đoàn sơn pháo 675, Trung đoàn cao xạ 367 và Trung đoàn công binh 151. Theo kế hoạch chiến đấu của Đảng uỷ và Bộ tư lệnh đại đoàn, được Tư lệnh kiêm Chính uỷ chiến dịch thông qua, việc sử dụng lực lượng như sau: 3 tiểu đoàn sơn pháo 75mm (thuộc Trung đoàn 675) được phối thuộc cho 3 đại đoàn 308, 312 và 316 để chi viện hoả lực cho các đơn vị bộ binh tiến công địch. Tiểu đoàn 383 và tiểu đoàn 394 pháo cao xạ 37mm được giao nhiệm vụ bắn máy bay địch, bảo vệ trận địa pháo binh và đội hình tiến công của bộ binh. Trung đoàn lựu pháo 105mm có nhiệm vụ chế áp các sở chỉ huy, trận dịa pháo binh, súng cối của địch ở khu trung tâm và khống chế sân bay, chi viện cho bộ binh tiến công và đánh địch phản kích.
Trong suốt đợt 2 chiến dịch, quân địch ở một số cứ điểm như A1, C1, C2 phản kích rất ác liệt. Ta và địch giành nhau từng tấc đất. Có những cứ điểm 3 lần ta đã chiếm, địch lại phản kích lấy lại. Có những cứ điểm mỗi bên chiếm một nửa. Chúng dựa vào những ưu thế tại chỗ hơn ta: Công sự ở A1 còn tương đối vững chắc; đồi C2 là bàn đạp phản kích lợi hại; hầu hết các khẩu pháo và súng cối hạng nặng còn lại của tập đoàn có thể chi viện cho việc phòng ngự này. Nguy hại nhất là những xe tăng địch ẩn kín trong công sự bctl bờ Tây Nậm Rốm, với cự ly 200 - 300m bắn chính xác vào đòi hình chiến đấu của quân ta, chi viện cho quân địch liên tục tổ chức phản kích. Các đơn vị sơn pháo 75mm của ta một phần phải yểm trợ bộ binh tấn công, phần khác là không đưa vào được sâu hơn nên cự ly xa, không thể bắn tới được xe tăng địch. Vì vậy, Bộ chỉ huy chiến dịch yêu cầu pháo binh nghiên cứu dùng cách nào áp chế được các xe tăng địch, đánh bại sự phản kích của chúng.
Cũng trong thời gian này, Trung Quốc viện trợ cho ta 12 khẩu ĐKZ75. Loại pháo này có ưu điểm là nhẹ nhàng, dễ mang vác, có thể đưa vào sâu đối diện với 3 mỏm đồi A1, C1 và C2 nói trên. Do đó Bộ tư lệnh Đại đoàn 351 chỉ thị cho Trung đoàn 675 thành lập ngay tại mặt trận một tiểu đoàn ĐKZ75 gồm 3 đại đội; mỗi đại đội có 3 trung đội: 2 trung đội pháo và một trung đội chỉ huy. Để nhanh chóng thành lập được tiểu đoàn, Bộ tư lệnh Đại đoàn 351 đề nghị Bộ chỉ huy chiến dịch điều cho một số trung đội bộ binh để làm pháo thủ; còn cán bộ tiểu đoàn, đại đội, trung đội và một số pháo thủ chủ chốt và trung đội chỉ huy thì Trung đoàn 675 phải chọn và lấy ở trong đơn vị mình. Để giữ bí mật tất cả số cán bộ, chiến sĩ và vũ khí trang bị đều tập trung ở một vị trí cách tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ khoảng 20km. Trung tuần tháng 4-1954 tiểu đoàn ĐKZ75MM được thành lập và khẩn trương luyện tập. Tuy các đồng chí ở bộ binh mới chuyển sang chưa quen pháo, nhưng có các đồng chí pháo thủ của Trung đoàn 675 và các đồng chí chỉ huy pháo dày dặn kinh nghiệm, tất cả đều quyết tâm cao nên chỉ sau 3 ngày luyện tập cả tiểu đoàn đã sẵn sàng ra trận chiến đấu. Để đảm bảo khả năng chiến đấu thực tế, trước khi cho ra trận thì mỗi đại đội phải có một khẩu đội bắn thử. Để đảm bảo bí mật, khẩu đội bắn thử được đưa đến khu vực mà quân ta đã chiếm lại được và chỉ được bắn một phát ngắm thẳng vào lỗ châu mai của cứ điểm địch mà chúng ta đã chiếm. Việc bắn thử rất tốt, Trung đoàn 675 và cả đại đoàn đều rất tin tưởng. Theo kế hoạch tác chọn của đại đoàn, cuối tháng 4-1954 Trung đoàn 675 đưa tiểu đoàn ĐKZ75MM vào đồi D đối diện với A1 và 2 mỏm C1, C2. Được lệnh, các khẩu đội ĐKZ75MM thi nhau nhả đạn, mỗi khẩu đội diệt một lô cốt. Sau loạt đạn đầu nhằm vào các lỗ châu mai của các lô cốt ở bên kia sông Nậm Rốm sau khi tan khói đạn nhìn thấy chỉ còn là những đống đất, gỗ ngổn ngang. Các loạt đạn sau bắn vào trung tâm, hạ tiếp những ụ súng và lô cốt địch. Những chiếc xe tăng từ đồi A1 chạy dọc theo bờ sông, vừa chạy vừa bắn để yểm trợ cho quân địch phản kích cũng bị bắn đứt xích nằm phơi như một đống sắt vô dụng. Những ngày sau, tiểu đoàn ĐKZ75MM vẫn tiếp tục chiến đấu có hiệu quả chi viện cho bộ binh chiến đấu thắng lợi.
Cũng vào trung tuần tháng 4, Đại đoàn 351 nhận được 12 giàn hoả tiễn H6 của Trung Quốc, có tầm bắn xa 9km. Mỗi giàn có 6 nòng (nên ta thường gọi là "Hát- sít"). Loại pháo này hoàn toàn mới đối với bộ đội ta, có tính năng kỹ- chiến thuật ưu việt: gọn nhẹ, dễ cơ động, dễ thao tác, nhiều nòng nên trong một thời gian ngắn phóng đi một lượng đạn tương đối lớn. Mỗi viên đạn khi nổ văng ra hàng trăm mảnh, sức nóng trên 1.000°C, rất thích hợp việc sát thương binh lực lộ như lực lượng phản kích, trận địa pháo địch đang bắn trong công sự không có nắp. Để thành lập tiểu đoàn H6, đại đoàn đã điều những cán bộ và pháo thủ ở Trung đoàn sơn pháo 75mm, tiểu đoàn súng cối 120mm làm chiến sĩ. Còn bộ phận trinh sát, kế toán, thông tin, lái xe thì phần lớn lấy ở Trung đoàn lựu pháo 105mm. Chiều ngày 22-4-1954 tiểu đoàn hoả tiễn đầu tiên của quân đội ta làm lễ ra mắt tại một khu rừng già thuộc huyện Tuần Giáo. Tiểu đoàn chỉ có 2 đại đội, mỗi đại đội có 6 giàn H6. Như vậy toàn tiểu đoàn có 12 giàn H6 với 72 nòng.
Theo chủ trương của Bộ chỉ huy chiến dịch: đây là tiểu đoàn hoả lực dự bị chiến dịch chỉ sử dụng vào cuối đợt tổng tiến công để kết thúc chiến dịch. Bộ chỉ huy chiến dịch cho biết cuộc tổng công kích sẽ bắt đầu từ ngày 1-5-1954. Thế là từ khi thành lập đến thời điểm ấy chỉ có 8 ngày. Đây là một thử thách quá lớn nhưng may có đoàn cốvấn giúp đỡ nên bước vào huấn luyện tiểu đoàn chia làm 2 bộ phận riêng rẽ: Bộ phận đài gồm Tiểu đoàn trưởng, Trung đội chỉ huy, các chiến sĩ trinh sát, kế toán, thông tin thì học về chuyên môn nghiệp vụ, chỉ huy. Bộ phận thứ hai là bộ phận trận địa gồm các Tiểu đoàn phó, các Đại đội trưởng, Đại đội phó, các Trung đội trưởng và các pháo thủ thì học chủ yếu về thao tác các khẩu đội. Nhờ tổ chức huấn luyện như vậy và với các pháo thủ đã có kinh nghiệm nên từ 24-4 đến 30-4-1954 cả tiểu đoàn đã hoàn thành chương trình huấn luyện kể cả 2 ngày huấn luyện tổng hợp bắn. Sáng sớm ngày 1-5-1954 đồng chí Tham mưu trưởng Đại đoàn truyền đạt lệnh chiến đấu của Bộ chỉ huy mặt trận như sau: "Ngày 1-5-1954 đợt 3 chiến dịch bắt đầu. Tiểu đoàn H6 lập tức phải chuyển sang đội hình chiến đấu. Mục tiêu bắn của tiểu đoàn là:
- Sở chỉ huy địch ở trung tâm Mường Thanh.
- Hai trận địa pháo của địch còn hoạt động được ở Mường Thanh.
- Lực lượng phản kích của địch ở đầu cầu Mường Thanh.
Trận địa bắn của tiểu đoàn là ở khu vực Bắc Him Lam. Toàn tiểu đoàn phải hoàn thành các công tác chuẩn bị trước 17 giờ ngày 5-5-1954".
Để thực hiện những nhiệm vụ trên được nhanh chóng và giữ bí mật, ngay ngày 1-5 bộ phận chỉ huy của tiểu đoàn lập tức đi lên vị trí đài chỉ huy. Ngày hôm sau bộ phận xe pháo mới hành quân đến khu vực trận địa đã xác định ở Bắc Him Lam. Đến ngày 4-5 toàn tiểu đoàn đã tập trung đến trận địa. Lợi dụng có sương mù toàn tiểu đoàn chiếm lĩnh trận địa ngay. Chiều ngày 5-5 tổ chức bắn thử cho các khẩu đội. Từng đại đội được bắn thử vào một trong hai trận địa pháo của địch ở Mường Thanh. Mỗi khẩu đội chỉ được bắn 1 viên đạn ở 1 nòng vào từng mục tiêu. Vì việc bắn thử là bắn vào các mục tiêu chiến đấu, đường đạn bay và tiếng nổ của loại pháo này rất dễ trông thấy, nên để giữ bí mật thì khi bắn mục tiêu nào đều có lựu pháo 105mm của Trung đoàn 45 bắn kèm. Đến đêm 6-5-1954 quân ta mở đợt công kích toàn mặt trận. Theo mệnh lệnh của Bộ chỉ huy chiến dịch, Tiểu đoàn H6 được nổ súng, tham gia đợt hoả lực chế áp vào toàn bộ các mục tiêu chủ yếu. Nghe tiếng rít và tiếng nổ đồng loạt của đạn hoả tiễn lần đầu xuất trận, bọn địch vô cùng hoảng loạn. Từ 19 giờ 30 phút đến 24 giờ 30 phút đêm 6-5 tiểu đoàn đã bắn 3 đợt (618 viên) vào các mục tiêu theo kế hoạch cấp trên giao, góp phần nhanh chóng làm cho địch suy sụp về tinh thần.
Sáng sớm ngày 7-5-1954 toàn tiểu đoàn được phổ biến thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Chỉ huy trưởng chiến dịch như sau: Hôm nay, địch sẽ ra sức đối phó, tập trung lực lượng pháo kích và oanh tạc. Ta phải tích cực, cương quyết, bền bỉ đánh bại đợt phản kích cuối cùng của địch!
Đến 9 giờ 30 phút ngày 7-5-1954 tiểu đoàn được lệnh bắn hai loạt đạn 144 viên vào khu vực Mường Thanh trong đó có cả 3 mục tiêu cấp trên đã chỉ định. Một cột lửa khói khổng lồ bao trùrn khu vực mục tiêu. Khoảng 05 phút sau khi khói tan thì trên khu vực mục tiêu không còn thấy bóng một tên địch nào. Đến 15 giờ ngày 7-5-1954 quân ta đã lần lượt tiêu diệt xong những vị trí còn lại ở phân khu trung tâm, phát triển vào sở chỉ huy, bắt sống viên tướng chỉ huy Đờ-cát-xtơ-ri và toàn bộ ban tham mưu của tập đoàn cứ điểm. 22 giờ ngày 7-5, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc toàn thắng.
Tối hôm ấy, được lệnh cấp trên, đại đoàn chỉ thị cho Tiểu đoàn H6 rút ngay khỏi trận địa và mặt trận, trở về vùng hậu cứ của Đại đoàn 351 ở Tuyên Quang để giữ bí mật loại pháo này đói với địch; nên không được ở lại dự lễ toàn quân mừng chiến thắng tại chiến trường Điện Biên Phủ như các đơn vị khác...
Thế là từ đầu chiến dịch cho đến khi kết thúc chiến dịch, Pháo binh Quân đội nhân dân Việt Nam đã quả cảm, mưu trí, vừa chiến đấu vừa giữ bí mật trong quá trình tổ chức xây dựng lực lượng ngay tại mặt trận; đã giáng những đòn pháo kích sấm sét vào các nơi trọng yếu của địch và chi viện đắc lực cho các đại đoàn bộ binh chiến đấu thắng lợi. Đến chiến dịch này, Pháo binh Việt Nam càng khẳng định được vị trí của mình là hoả lực chủ yếu của lục quân và là hoả lực chủ yếu của Quân đội nhân dân Việt Nam; đã góp phần xứng đáng vào chiến thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Thắng lợi trên chiến trường của bộ đội Pháo binh còn là kết quả của quá trình tăng cường vũ khí trang bị kỹ thuật, hoàn thiện tổ chức biên chế, huấn luyện cán bộ chiến sĩ làm chủ vũ khí trang bị mới, giữ bí mật, bất ngờ để sử dụng vào những trận đánh và thời cơ quyết định, gây cho địch những tổn thất nặng nề và nhanh chóng suy sụp tinh thần chiến đấu.
Việc thành lập các đơn vị trọng pháo 105mm, ĐKZ75mm, hoả tiễn H6, pháo cao xạ 37mm,v.v... là những bước chuẩn bị cho sự phát triển sức mạnh hoả lực của quân đội ta nói chung, bộ đội Đại đoàn 351 nói riêng. Công tác bảo đảm và tăng cường binh khí kỹ thuật kịp thời ở tuyến sau đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần quan trọng vào thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ.
Đại tá PHAN PHÁC
Nguyên Phó Tổng Tham mưu trưởng,
Nguyên Đại đoàn phó kiêm Tham mưu trưởng Đại đoàn 351
"Mobilis in Mobile" ― Jules Verne
ĐO ĐẠC PHÁO BINH Ở MẶT TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ
Đây là lần đầu tiên các chiến sĩ quan-trắc (quan sát và trắc đạc) của Trung đoàn pháo binh Tất Thắng xung trận. Quân thù đã ở dưới kia, trên cánh đồng Mường Thanh của lòng chảo Điện Biên, đứng trên các đồi cao bao quanh tập đoàn cứ điểm địch cỏ tranh cao ngang đầu và những lùm cây lúp xúp họ nhìn rõ các mục tiêu và việc chọn BP (Base Point - tiếng Anh- từ Hán Việt là nguyên điểm, là một vật thể nhìn rõ ở trung tâm mục tiêu; tất cả pháo đầu đàn các đại đội đều lấy hướng nòng pháo vào BP chứ không lấy vào hướng chuẩn như sau này). Nhưng đằng sau họ, nhìn về phía các trận địa pháo thì trùng trùng núi non và bạt ngàn rừng rậm. Trong tay không có bản đồ và máy đo xa nên chỉ có thể dùng phương pháp "đo liên kết" (sau này gọi là phương pháp "đi dần giải ra") để xác định toạ độ đội hình chiến đấu của đại đội hoặc tiểu đoàn pháo binh. Phương pháp này gồm 2 giai đoạn: đo đạc ở thực địa và tính toạ độ trên cơ sở các dữ liệu của đo đạc thực địa kết hợp đồ giải để kiểm tra.
Sau khi xác định được vị trí đài quan sát (gọi tắt là đài) và trận địa pháo (gọi tắt là pháo) ở thực địa, người chỉ huy đo đạc phải chọn một vài điểm đo trung gian kết nối đài và pháo (gọi là điểm liên kết). Thường thì đo liên kết được chia làm 3 bộ phận: bộ phận tiền địa đo đạc ở đài, BP và các mục tiêu bộ phận trung tuyến - đo liên kết đi dần từ đài đến khu vực trận địa, bộ phận trận địa - đo nối các khẩu đội pháo. Các góc phương vị, các góc liên kết đo bằng phương hướng bàn với đơn vị đo là li giác. Cự ly giữa các điểm liên kết áp dụng các công thức tam giác lượng để tính ra bằng lôgarít. Như thế, mỗi đoạn liên kết cần đo cự ly phải là một cạnh của hình tam giác được tạo ra trên thực địa bằng cách cắm 1 cọc chuẩn làm đỉnh thứ ba của tam giác ở 1 vị trí thuận lợi sao cho tam giác Đó tốt nhất là tam giác cân và đường đáy của nó phải trên địa hình tương đối bằng phẳng thuận lợi cho việc đo chiều dài bằng thước dây. Còn trắc thủ phương hướng bàn phải đo được 2 góc của tam giác. Cự ly giữa 2 điểm liên kết tốt nhất là khoảng trên dưới 500m, không quá xa để thị kính của phương hướng bàn chỉ có bội số 4 có thể nhìn thấy cọc chuẩn.
Nhưng thực địa chiến trường Điện Biên Phủ không thể nào thực hiện các điều nêu trên trong các tài liệu mà họ được học. Đó là khó khăn cực lớn mà họ dứt khoát phải vượt qua để có được các phần tử bắn, mà là các phần tử chính xác để có thể tiết kiệm đạn dược tới mức tối đa có thể.
Tất cả cán bộ, chiến sĩ quan trắc đều đinh ninh trong dạ: một viên đạn đại bác 105mm có giá bằng số tiền nuôi sống được 1 gia đình trung nông trong một năm. Họ cũng hiểu rằng sự chính xác. Đó phải đồng bộ từ đo đạc ở thực địa đến tính toán đồ giải ở cứ địa. Phải cẩn trọng, tỷ mỹ trong mọi khâu, mọi công việc, mọi động tác kỹ thuật tương đối phức tạp như đặt máy đo chính xác, thăng bằng... đến các động tác có vẻ đơn giản như đo thước dây, cắm cọc chuẩn, đóng cọc dấu... vót bút chì kiểu "lưỡi mai" để đường kẻ trên bản đồ mảnh như "sợi tóc chẻ tư"... Các công việc ấy chỉ có thể thực hiện hoàn hảo bởi 1 tập thể đồng tâm, nhất trí, gắn bó hơn cả "anh em như chân với tay". Trung đoàn pháo binh Tất Thắng có các tập thể như thế. Các cán bộ, chiến sĩ quan trắc là những thanh niên học sinh có trình độ học vấn từ trung học cơ sở đến chuyên khoa toán, một vài người đã đậu tủ tài toán năm 1949-1950. Họ tình nguyện nhập ngũ trong thời kỳ tổng động viên chuẩn bị tổng phản công. Yêu nước, thông minh, giàu nhiệt huyết, nhiều sáng tạo, hiểu và thông cảm nhau sâu sắc là đặc điểm chung của tập thể này. Họ lại được chuẩn bị kỹ càng cả về kỹ - chiến thuật và tinh thần.
Trong thời kỳ huấn luyện chuẩn binh chủng (1951- 1952), tất cả các tiểu đội quan trắc toàn trung đoàn được tập trung thành 1 đại đội do tiểu ban quan trắc - thông tin (gọi tắt là quan - thông) của ban tham mưu trực tiếp quản lý và huấn luyện. Các tiểu đội chỉ trở về đơn vị chủ quản khi chỉnh huấn chính trị. Sau khi hụt đánh Nà Sản, trung đoàn về ém quân ở khu vực rừng núi giáp ranh 2 tỉnh Tuyên - Hà. Như thường lệ, họ được huấn luyện tập trung trên trung đoàn. Trọng tâm là đo đạc đội hình chiến đấu trên địa bàn rừng núi cả ban ngày và ban đêm. Sau 1 tháng tập trung, họ trở về đơn vị, tiếp tục tập luyện theo chủ đề trên theo sự chỉ đạo của tiểu đoàn. Đợt huấn luyện năln 1953 này, đã rút được nhiều điều bổ ích, như xử lý khi các đoạn liên kết xa nhau trên 1km, tổ chức đáy phụ để tính ra cự ly đáy chính quá dài, có thể không cần đo 1 góc liên kết mà tính ra được khi đo góc phương vị của nó từ 2 điểm liên kết trái, phải liền kề. Những cách xử lý mới này rất quan trọng đối với việc đo đạc đội hình chiến đấu ở miền rừng núi. Tuy vậy, dù có thực hành trên thực địa thì vẫn mang tính "lý thuyết" vì chưa được khảo nghiệm trong bắn đạn thật.
Nhưng dịp thực nghiệm đã đến, giữa năm 1953, tiểu đội trinh-trắc thuộc Đại đội 24, ban tham mưu trung đoàn được lệnh đo đạc đội hình chiến đấu để bắn thử đạn pháo M3. Trung đoàn 45 được trang bị lựu pháo M2 do Mỹ chế tạo trong khi đó quân đội ta lại có 1 kho đạn lựu pháo M3 chiến lợi phẩm cũng do Mỹ chế tạo. M3 và M2 cùng cỡ nòng 105mm nhưng so với M2 thì M3 nòng ngắn hơn 1 chút và đạn của nó cũng nhẹ hơn. Để tận dụng kho đạn M3 này, các kỹ sư, cán bộ kỹ thuật của Bộ Tổng tham mưu đã tính toán lập bảng bắn cho pháo M2 bắn đạn M3. Khu vực bắn thử thuộc địa đầu tỉnh Hà Giang. Mục tiêu là 1 cây cọ độc lập giữa 1 thung lũng nhỏ hoang vắng. Trận địa pháo cũng đặt tại 1 thung lũng cách mục tiêu khoảng 5km đường chim bay. Vận dụng các cách xử lý mới được rút ra trong đợt huấn luyện nhưng vẫn gặp 1 trắc trở. Từ trên đồi cao đặt điểm liên kết cuối cùng nhìn về khu vực trận địa chỉ thấy 1 ngọn cây cao. Trèo lên ngọn cây đó, dùng ống nhòm bội số lớn, quan trắc viên nhận biết điểm liên kết. Nhưng làm sao đặt phương hướng bàn lên ngọn cây cao ngang nóc nhà 2 tầng. Giả sử đặt được thì thị kính của phương hướng bắn dù gục hết cỡ cũng không thể nào thấy pháo đặt cành gốc cây vài chục mét để lấy hướng. Một sáng kiến nảy ra. Một dây dọi dài chưa từng thấy được buông từ cành cây xuống đất. Phần trên dây dọi được căng 1 lá cờ cỡ 0,8 x 1,2m. Khó khăn được tháo gỡ và phát đạn M3 đầu tiên bay ra khỏi nòng pháo M2 lấy phần tử bắn dựa theo kết quả đo đạc đã rơi sát mục tiêu. Giữ nguyên phần tử xạ kích, chỉ huy cuộc bắn thử hạ lệnh bắn liền 5 phát. Đạn bao bọc cây cọ mục tiêu. Chính xác tuyệt vời, cả bảng bắn mới thiết lập và kết quả đo đạc. Thành công ngoài mong đợi.
Các tiểu đội quan trắc được biên chế lại. Một số quan trắc viên được điều đi bổ sung cho các đơn vị pháo khác. Bắn thử đạn, biên chế lại, các động thái Đó khiến các "tham mưu con" đoán rằng ngày xung trận sắp đến. Họ nhớ lời Tổng tham mưu phó Hoàng Văn Thái đến động viên đơn vị khi quân thù rút chạy sớm khỏi tập đoàn cứ điểm Nà Sản khiến trung đoàn không được tác chiến, rằng khi đơn vị các đồng chí phát hoả thì cục diện chiến trường không chỉ của nước ta mà cả Đông Dương sẽ thay đổi có lợi rất nhiều cho ta, rằng các đồng chí là đơn vị hoả lực chiến lược của Bộ Tổng hãy gắng mà luyện tập cho thật giỏi để đón chờ ngày đó. Họ linh cảm rằng ngày Đó sẽ là thu đông hoặc đông xuân tới. Họ lao vào luyện tập, miệt mài đêm ngày. Thi nhau lắp ngay trong đêm tối nhanh, chính xác mà không phát tiếng động, đưa đường tin của máy trúng "mục tiêu” chỉ là ánh lửa lập loè của bật lửa đã rút bấc... và họ âm thầm chuẩn bị, nào dao con thật sắc để vót bút chì, ống mương khô đựng giấy đồ giải chống ướt khi trời mưa... Họ coi những thứ cỏn con ấy cũng là vũ khí của họ. Rồi cái ngày ấy đã đến.
Từ trung tuần tháng 12 năm 1953, các phân đội quan trắc lần lượt ra trận, đường lên Tây Bắc dốc đèo cao, vực thẳm "cua" gấp, nhiều đoạn đường mới mở hẹp và lầy trơn, ngồi trên ô tô mười bánh chẳng "ngon lành” gì. Đã có tổn thất về người trên đường hành quân nhưng khí tài thì được bảo vệ chu toàn. Các phương hướng bàn được các chiến sĩ quan trắc thay nhau cho ngồi lòng. Dù có khi mệt quá ngủ gật, đường xóc đập đầu vào thành xe mà không tỉnh nhưng máy vẫn ôm ghì trong lòng như một phản xạ tự nhiên.
Tháng giêng năm 1954 các chiến sĩ quan trắc của trung đoàn đã có mặt ở nơi tập kết để triển khai nhiệm vụ. Cả trung đoàn có 9 tiểu đội, trong Đó mỗi tiểu đoàn 4 tiểu đội. Mỗi tiểu đội có từ 8-9 người được trang bị 1 pháo đội kính, 2 phương hướng bàn và các dụng cụ cần thiết cho đo đạc tính toán và đồ giải. Việc đo đạc đội hình chiến đấu của tiểu đoàn lấy tiểu đội quan trắc của tiểu đoàn bộ làm nòng cốt có kết hợp quan trắc các đại đội. Chỉ trường hợp đại đội đi một hướng (như đại đội 803 của Tiểu đoàn 632) thì đại đội tự đo. Tổ chức như vậy vì thứ nhất đội hình chiến đấu của tiểu đoàn dễ dàng có toạ độ trong một dạng thống nhất. Thứ hai có thể tập trung phương hướng bàn Thụy Sĩ là loại máy đo đạc chính xác nhất có trong tay lúc bấy giờ. Thứ ba địa hình Điện Biên cũng không cần phải chia làm 3 bộ phận tiền địa, trung tuyến... như đã học. Hơn nữa, để bảo đảm cho các số liệu đo đạc chính xác ở mức cao nhất có thể, ngoài việc đo tinh mật mỗi góc đo 3 lần để lấy số trung bình), khi điều kiện thời gian cho phép còn bố trí cho 1 trắc thủ phương hướng bàn giỏi nhất dùng một máy tốt nhất đo dần ở mọi điểm liên kết để nếu có sai số thì là sai số đồng nhất. Để bảo đảm độ chính xác của kim chỉ bắc của phương hướng bàn khi đo góc phương vị, nhiều quan trắc viên đã chỉ mặc một chiếc quần đùi để thao tác.
Ngoài độ chính xác, còn phải bảo đảm giữ được bí mật cho điểm đo và cho trung đoàn, cả với kẻ địch trên không và dưới đất. Vì vậy, phải có những quy định chặt chẽ về thông tin liên lạc giữa các điểm đo, thường cách xa nhau tới trên dưới 1km mà không có phương tiện liên lạc gì ngoài cờ hiệu ban ngày và tín hiệu ánh sáng ban đêm. Phải có phương án đối phó khi gặp biệt kích hoặc bộ binh địch, khi bị máy bay oanh tạc... Để giữ bí mật, có lần 1 tổ đo liên kết chỉ cách đồn Độc Lập khoảng 1,5km. Tổ phải chờ nhá nhem tối mới công kênh nhau lên lắp máy trên cây rồi đứng lên lưng nhau mà đo mãi đến 22 giờ mới xong.
Cuộc chiến đấu thầm lặng của các chiến sĩ quan trắc cho độ chính xác của từng nửa ly giác của các góc đo, cho từng tấc thước dây của các đường đáy phụ... trong chiến dịch Điện Biên Phủ đã được đền đáp xứng đáng. Loạt pháo đầu tiên mở màn chiến dịch bắn vào cứ điểm Him Lam quá trưa ngày 13 tháng 3 năm 1954 đã trúng đích, giết chết tên chỉ huy cứ điểm. Rồi tên quan năm chỉ huy pháo binh của tập đoàn cứ điểm đã xấu hổ mà tự sát.
Nói đến đo đạc pháo binh mà chỉ nói tới đo đạc đội hình chiến đấu mà không nói tới đo đạc "động", tức đo đạc xác định toạ độ các mục tiêu mới xuất hiện trong quá trình chiến đấu thì khiếm khuyết. Xin nêu một trường hợp sau đây: lựu pháo 105mm bắn rơi máy bay trực thăng.
Đại đội lựu pháo 805 có nhiệm vụ giám sát, chế áp khu vực Hồng Cúm. Một hôm, trinh sát viên Đặng Văn Luyến đang trong phiên trực phát hiện một máy bay trực thăng bay lượn nhiều vòng để tìm một bãi hạ cánh. Tìm được, nó tiếp đất rồi bay lên rất nhanh. Anh phán đoán nó đang tập dượt với lính dưới đất để chuyển đi một cái gì đó hoặc một nhân vật nào đó rất quan trọng. Khi vòng vây quân ta đã xiết chặt, máy bay cánh cố định không thể hạ cánh, Bộ chỉ huy chiến dịch đã ra lệnh cho pháo mặt đất cũng như cao xạ không được cho địch chuyển bất cứ thứ gì, đặc biệt không để tướng Đờ-cát trốn thoát. Anh quyết tâm diệt bằng được chiếc trực thăng này. Đã đậu tú tài toán học, anh không thi vào đại học mà tòng quân. Anh suy tính sẽ bắn lúc trực thăng bắt đầu tiếp đất, nghĩa là phải tính toán thời gian trực thăng từ từ theo đường thẳng đứng hạ xuống và thời gian đạn bay từ nòng pháo đến bãi đáp sao cho mục tiêu vừa tiếp đất thì cũng là lúc đạn rơi. Phương án được duyệt và lập tức thực hiện khi trực thăng xuất hiện lần sau. Chỉ có điều xảy ra ngoài dự kiến là máy bay bốc cháy khi đã rời mặt đất khoảng vài ba mét bay quãng ngắn rồi rơi.
Nửa thế kỷ đã trôi qua... Những sự việc kể trên có lẽ chưa đầy đủ và có thể chẳng bao giờ đầy đủ. Nhưng có thể cho phép mỗi anh lính quan trắc đầu tiên của Trung đoàn pháo binh TẤT THẮNG nhớ lại quãng thời gian 3 năm, một phần nhỏ trong cả cuộc đời rất có ý nghĩa. Chúng ta đã sống một thời trai trẻ xứng đáng với dân tộc, với cách mạng. Chúng ta có quyền tự hào và trân trọng quá khứ Đó để sống với hiện tại như những người chân chính, có đạo lý, có tình nghĩa thuỷ chung... để hướng tới một tương lai dân tộc sáng lạn, huy hoàng hơn.
TS VŨ QUANG ANH
Trường Đại học DL Quản lý kinh doanh Hà Nội
Nguyên A phó, A trinh-trắc C24, E45 trong chiến dịch Điện Biên Phủ
"Mobilis in Mobile" ― Jules Verne
TỔ CHỨC XÂY DỰNG CÁC ĐƠN VỊ PHÁO BINH THAM GIA CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ góp phần kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đến nay đã được 50 năm. Sử sách, báo chí đã nói nhiều về chiến thắng này. Ở đây tôi chỉ đề cập đến vấn đề tổ chức xây dựng các đơn vị pháo binh trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
............................
Thắng lợi trên chiến trường của bộ đội Pháo binh còn là kết quả của quá trình tăng cường vũ khí trang bị kỹ thuật, hoàn thiện tổ chức biên chế, huấn luyện cán bộ chiến sĩ làm chủ vũ khí trang bị mới, giữ bí mật, bất ngờ để sử dụng vào những trận đánh và thời cơ quyết định, gây cho địch những tổn thất nặng nề và nhanh chóng suy sụp tinh thần chiến đấu.
Việc thành lập các đơn vị trọng pháo 105mm, ĐKZ75mm, hoả tiễn H6, pháo cao xạ 37mm,v.v... là những bước chuẩn bị cho sự phát triển sức mạnh hoả lực của quân đội ta nói chung, bộ đội Đại đoàn 351 nói riêng. Công tác bảo đảm và tăng cường binh khí kỹ thuật kịp thời ở tuyến sau đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần quan trọng vào thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ.
Đại tá PHAN PHÁC
Nguyên Phó Tổng Tham mưu trưởng,
Nguyên Đại đoàn phó kiêm Tham mưu trưởng Đại đoàn 351
Quá khủng.
Đúng là "Đánh một trận sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông"
Mà lại toàn là quân vừa mới được học, bài mới đọc qua và nháp vài lần mà đã phát huy tối đa hiệu quả của vũ khí.
Tài. Tài thật. Kính nể các bậc tiền bối.
TỔ CHỨC XÂY DỰNG CÁC ĐƠN VỊ PHÁO BINH THAM GIA CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ góp phần kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đến nay đã được 50 năm. Sử sách, báo chí đã nói nhiều về chiến thắng này. Ở đây tôi chỉ đề cập đến vấn đề tổ chức xây dựng các đơn vị pháo binh trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
............................
Thắng lợi trên chiến trường của bộ đội Pháo binh còn là kết quả của quá trình tăng cường vũ khí trang bị kỹ thuật, hoàn thiện tổ chức biên chế, huấn luyện cán bộ chiến sĩ làm chủ vũ khí trang bị mới, giữ bí mật, bất ngờ để sử dụng vào những trận đánh và thời cơ quyết định, gây cho địch những tổn thất nặng nề và nhanh chóng suy sụp tinh thần chiến đấu.
Việc thành lập các đơn vị trọng pháo 105mm, ĐKZ75mm, hoả tiễn H6, pháo cao xạ 37mm,v.v... là những bước chuẩn bị cho sự phát triển sức mạnh hoả lực của quân đội ta nói chung, bộ đội Đại đoàn 351 nói riêng. Công tác bảo đảm và tăng cường binh khí kỹ thuật kịp thời ở tuyến sau đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần quan trọng vào thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ.
Đại tá PHAN PHÁC
Nguyên Phó Tổng Tham mưu trưởng,
Nguyên Đại đoàn phó kiêm Tham mưu trưởng Đại đoàn 351
Quá khủng.
Đúng là "Đánh một trận sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông"
Mà lại toàn là quân vừa mới được học, bài mới đọc qua và nháp vài lần mà đã phát huy tối đa hiệu quả của vũ khí.
Tài. Tài thật. Kính nể các bậc tiền bối.
Nói đến chiến dịch Điện Biên Phủ thì không thể không nhắc đến lực lượng pháo binh, lực lượng chủ lực quyết định sự thành công của Chiến dịch, em sẽ cố gắng đưa lên từ từ các ghi chép, bài viết, hồi ức... của các tướng lĩnh, sỹ quan và chiến sĩ tham gia lực lượng này để các lão có thêm cái nhìn rõ hơn, rộng hơn về Chiến thắng "Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" của quân và dân ta.
"Mobilis in Mobile" ― Jules Verne
PHẤT CAO CỜ CHIẾN THẮNG / BẮT SỐNG TƯỚNG ĐỜ CÁT XTƠ RI(Christian de Castries)(933)
“ Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.”
" Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi ngủ hầm
Mưa dầm cơm vắt
Áo trộn bùn non
Gan không núng, chí không mòn" ....
Những câu thơ được học từ rất lâu nhưng vẫn đi theo ta mãi. Đến hôm nay nhớ lại vẫn còn xúc động.
Gửi các cụ thêm thông tin từ báo của Nhà nước :
https://dienbienphu.nhandan.vn/
Máu trộn bùn non cụ nhé!
Tiện bắt lỗi cụ @friendship2k , em xin phép đưa lại cả bài thơ, để được cảm thấy Không khí Bi tráng, Hào hùng của Cha Ông ngày đó:
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Tin về nửa đêm
Hỏa tốc hỏa tốc
Ngựa bay lên dốc
Đuốc chạy sáng rừng
Chuông reo tin mừng
Loa kêu từng cửa
Làng bản đỏ đèn, đỏ lửa...
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp!
Sét đánh ngày đêm
xuống đầu giặc Pháp!
Vinh quang Tổ quốc chúng ta
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
Vinh quang Hồ Chí Minh, Cha của
chúng ta ngàn năm sống mãi
Quyết chiến quyết thắng, cờ đỏ
sao vàng vĩ đại
Kháng chiến ba nghìn ngày
Không đêm nào vui bằng đêm nay
Đêm lịch sử Điện Biên sáng rực
Trên đất nước, như
Huân chương trên ngực
Dân tộc ta dân tộc anh hùng!
Điện Biên vời vợi nghìn trùng
Mà lòng bốn biển nhịp cùng lòng ta
Đêm nay bè bạn gần xa
Tin về chắc cũng chan hòa vui chung.
II
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Chiến sĩ anh hùng
Đầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi,
ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn!
Những đồng chí thân chôn làm
giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão,
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân, nhắm mắt, còn ôm...
Những bàn tay xẻ núi lăn bom
Nhất định mở đường cho xe ta
lên chiến trường tiếp viện
Và những chị, những anh ngày
đêm ra tiền tuyến
Mấy tầng mây gió lớn mưa to
Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ
Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát
Dù bom đạn xương tan, thịt nát
Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh...
Hỡi các chị, các anh
Trên chiến trường ngã xuống
Máu của anh chị, của chúng ta
không uổng
Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam
Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng...
III
Lũ chúng nó phải hàng, phải chết
Quyết trận này quét sạch Điện Biên!
Quân giặc điên
Chúng bay chui xuống đất
Chúng bay chạy đằng trời?
Trời không của chúng bay
Đạn ta rào lưới sắt!
Đất không của chúng bay
Đai thép ta thắt chặt!
Của ta trời đất đêm ngày
Núi kia, đồi nọ, sông này của ta
Chúng bay chỉ một đường ra
Một là tử địa, hai là tù binh
Hạ súng xuống rùng mình run rẩy
Nghe pháo ta lừng lẫy thét gầm!
Nghe trưa nay tháng năm, mùng bảy
Trên đầu bay thác lửa hờn căm
Trông: Bốn mặt lũy hầm sụp đổ
Tướng quân bay lố nhố cờ hàng
Trông: Chúng ta cờ đỏ sao vàng
Rực trời đất Điện Biên toàn thắng!
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên!
Tiếng reo núi vọng sông rền
Đêm nay chắc cũng về bên Bác Hồ
Bác đang cúi xuống bản đồ
Chắc là nghe tiếng quân hò quân reo...
Từ khi vượt núi qua đèo
Ta đi, Bác vẫn nhìn theo từng ngày
Tin về mừng thọ đêm nay
Chắc vui lòng Bác giờ này đợi trông!
IV
Đồng chí Phạm Văn Đồng
Ở bên đó, chắc đêm nay không ngủ
Tin đây Anh, Điện Biên Phủ hoàn thành
Ngày mai, vào cuộc đấu tranh
Nhìn xuống mặt bọn Bi-đôn, Smít (*)
Anh sẽ nói: "Thực dân, phát xít
Đã tàn rồi!
Tổ quốc chúng tôi
Muốn độc lập hòa bình trở lại
Không muốn lửa bom đổ
xuống đầu con cái
Nước chúng tôi và nước các anh
Nếu còn say máu chiến tranh
Ở Việt Nam, các anh nên nhớ
Tre đã thành chông, sông là sông lửa
Và trận thắng Điện Biên
Cũng mới là bài học đầu tiên!"
5-1954
TỐ HỮU
Bắn tỉa trong mặt trận Điện Biên Phủ
Sáng tai họ, điếc tai cày
CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ - NHỚ LẠI & SUY NGHĨ
Đại tá NGUYỄN QUÝ (Nguyên Cục trưởng Cục kỹ thuật Bộ Tư lệnh Công binh)
"Trong Hồi ức NQ tôi đã nói: phải trân trọng tính trung thực, tôi sẽ nói cả cái hay và cái dở, cả thành công và thất bại, không thổi phồng bóp méo, không né tránh sự thật.
Vì thế những truyện tôi chia sẻ sau đây đều là... SỰ THẬT! Rất mong các bạn thông cảm."
CHUYỆN NÀY CHƯA AI KỂ
Khi hành quân đi chiến dịch, tiểu đoàn 9 có đàn bò 15 con, tiểu đoàn chủ trương cho đàn bò cùng đi, và cứ sau 5 ngày thì cho mỗi đại đội 1 con “thịt” bồi dưỡng “ăn tươi”. Tiểu đội phó Mai Văn Hải và 2 chiến sĩ được cử chỉ đạo.
Hơn 400km đường rừng núi, lên dốc, xuống đèo, qua sông, qua suối, phải đi ban ngày, khi nắng, khi mưa, có lần máy bay địch, bắn phá dọc đường, đàn bò chạy tán loạn. Thế mà anh Hải cùng 2 chiến sĩ vẫn chăn dắt đi đến nơi, về đến chốn, góp phần bồi dưỡng nuôi quân khỏe để đánh thắng. Tổng kết đợt hành quân, anh Hải được bầu là Chiến sĩ thi đua số 1, một chiến công thầm lặng, đặc biệt rất đáng trân trọng.
CÙNG CHIẾN ĐẤU VỚI CHIẾN SĨ CỦA MÌNH
Từ 1 thanh niên bình thường huấn luyện trở thành người chiến sĩ có bản lĩnh chính trị kiên định vững vàng, có sức khỏe bền bỉ, dẻo dai, có kỹ chiến thuật thành thục, sáng tạo, là cả 1 quá trình huấn luyện và phấn đấu lâu dài, gian khổ phải trả bằng biết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt và cả xương máu nữa. Để rút kinh nghiệm cho công tác giáo dục chính trị và huấn luyện quân sự sát với thực tiễn chiến đấu, khi bổ sung quân cho các đơn vị, Tiểu đoàn 9-Đắc Tô cử cán bộ đi cùng: cùng ăn, cùng ở, cùng chiến đấu với chiến sĩ của mình.
Sau khi bàn giao 2 đại đội cuối cùng cho đại đoàn 312, tôi cũng ở lại cùng chiến đấu với anh em. Lính cũ, lính mới, những đồng đội cùng đứng chung 1 chiến hào, rồi đây sống chết có nhau nên rất chóng thân quen. Trao đổi kinh nghiệm chiến đấu, chuyện quê hương, chuyện gia đình, rồi cả chuyện tiếu lâm xưa và nay. Thôi thì đủ cả, rôm rả, chuyện của lính tráng mà! Gian nan, vất vả và cả thương vong lúc này là đào chiến hào tiếp cận địch. Chúng bắn phá ngăn chặn, cho máy húc ra san ủi lấp lại. Mặc kệ mày. quân ta cứ âm thầm, lầm lũi lấn tới, lấn tới.
Theo sự phân công, tôi may mắn xuống theo rõi các chiến sĩ mới bổ sung cho đại đội chủ công của tiểu đoàn 428, đại đoàn 312.
Sáng tai họ, điếc tai cày
HIM LAM - TRẬN QUYẾT CHIẾN NHỚ ĐỜI
Him Lam (Béatrice) có 3 cứ điểm trên 3 quả đồi, là công trình phòng ngự kiên cố, là trung tâm đề kháng mạnh nhất của tập đoàn cứ điểm Điện Biên phủ, địch cho là bất khả xâm phạm. Trước ngày nổ súng, ta bắt được 1 tên trung úy. Hắn cũng “khuyên” ta không nên đánh Him Lam vì sẽ bị thương vong rất lớn và sẽ thất bại. Tiểu đoàn 428 có nhiệm vụ đánh tiêu diệt cứ điểm số 2.
15h ngày 13/3/1954 chúng tôi đã ra đến trận địa xuất phát xung phong. 17h05’, Giờ G- Lệnh tấn công! Các loại pháo của ta trút bão lửa khủng khiếp xuống Him Lam. Vừa dứt tiếng pháo, khói còn dầy đặc, bộ binh chúng tôi đã xông lên - Xung phong! - Xung phong! Sau ít phút choáng váng, địch vùng vẫy đánh trả quyết liệt. Lợi thế của địch ở trên cao, trong công sự bắn xuống, nhưng chúng tôi vẫn ào ạt xông lên. Bỗng một luồng đạn đại liên từ lỗ châu mai của công sự tiền duyên bắn xối xả, lia sát sàn sạt quật ngã anh em chúng tôi, ghìm chúng tôi không làm sao tiến lên được -Phải diệt thằng đại liên lợi hại này. Hô anh em bắn yểm trợ, tiểu đội trưởng Phan Đình Giót ném quả lựu đạn cuối cùng rồi vùng chạy lên. Anh bị thương rồi, loạng choạng, nhưng anh vẫn chạy tới và ập cả thân mình vào cái lỗ châu mai quái ác. - Chúng tôi đã hiểu.- Xung phong! Đoàn quân chúng tôi chồm lên, xông tới, bắn liên hồi, lưỡi lê tuốt trần đâm tới tấp như trút căm hờn xuống đầu giặc, trả thù cho anh Giót và các đồng đội đã ngã xuống trong trận chiến sinh tử đêm hôm nay.
Khoảng 22h30, ta đã tiêu diệt xong cứ điểm số 2 và 1 giờ sau, 23h30 ngày 13-3-1954, những lá cờ Quyết Chiến Quyết Thắng đã ngạo nghễ tung bay trên toàn bộ các cứ điểm của Béatrice - Him Lam. Quân ta toàn thắng!
Hai ngày sau, chúng tôi được thông báo: 300 tên địch bị tiêu diệt, 200 tên bị bắt. Ta đã thu được toàn bộ vũ khí, trang bị. Không ai nói, nhưng chúng tôi cũng biết: Bên ta 120 đồng chí đã hy sinh và 200 đồng chí bị thương, Quả thật, 2 ngày sau, tôi ăn thì ăn thôi, nhưng đầu cứ vẩn vơ nghĩ đâu đâu, vì mới hôm qua thôi, chúng tôi còn ăn có nhau, chuyện trò vui vẻ có nhau, mà nay thì…
Về trận Him Lam, trận mở màn chiến dịch Điện Biên, sách báo đã nói, đã viết rất nhiều. Hầu hết các bài đã viết đúng, ca ngợi chiến thắng và những tấm gương dũng cảm quên mình của các anh hùng, liệt sĩ. Nhưng không phải là không có những bài tỏ ý “nghi ngờ, đặt dấu hỏi” cho là ta cố ý tô hồng, không có cơ sở khoa học, trong đó có cả chuyện “Lấy thân mình lấp lỗ châu mai”.
Từ thực tế chiến đấu, tôi hồi tưởng và suy nghĩ: - Hành động “Lấy thân mình lấp lỗ châu mai, bịt họng súng đại liên” tạo thời cơ cho đồng đội xông lên tiêu diệt địch của liệt sĩ anh hùng Phan Đình Giót như ánh sao vàng sáng chói tô thắm thêm truyền thống cao đẹp của Quân đội ta.
Từ xưa tới nay, không có ai nói trước là “Tôi lên lấp lỗ châu mai đây” mà vẫn tiến lên chiến đấu và xuất kỳ bất ý, quyết định! - “Có 1 giây làm nên lịch sử”
Thực tế khi lấy thân bịt họng súng chỉ có tác dụng trong giây lát, (nhiều lắm 10-15 giây), vì khi vết thương nặng, thân người sẽ đổ xuống, hoặc trong lô cốt địch dùng gươm, giáo, gậy gộc đẩy thân người ngã xuống, súng đại liên lại bắn được. Vì vậy, đồng đội phải hiểu được ý định của liệt sĩ, nhanh chóng chớp thời cơ tấn công kịp thời để giành chiến thắng thì sự hy sinh của liệt sĩ mới có ý nghĩa xứng đáng. Nếu chỉ chần chừ 1 chút, thời cơ ấy qua đi, địch lại xả súng bắn ác liệt hơn, thương vong sẽ nặng nề hơn và nhiều khi khó tránh khỏi thất bại.
Trường hợp Phan Đình Giót không phải là người đầu tiên. Chúng ta đã nghe ở Liên Xô có Ma-trô-xốp, ở Trung Quốc có Đổng Tồn Thụy, ở Việt Nam ta cũng đã có Trần Cừ, Trừ Văn Thố…
Sáng tai họ, điếc tai cày
HÃY CỐ GẮNG VƯỢT QUA SỢ HÃI.
Trong đời, chắc ai cũng phải trải qua đôi ba lần hoang mang, sợ hãi. Bình tĩnh, sáng suốt, dũng cảm, liều lĩnh vượt qua, hay run sợ, nhắm mắt phó mặc cho số phận may rủi, hay hoang mang, dao động dẫn đến phạm sai lầm hèn nhát, là vết nhơ mà cả đời không sao gột sạch được.
Với những người lính trẻ chúng tôi đang ngày đêm chiến đấu trên chảo lửa Điện Biên này, đùng 1 cái là mất tay, mù mắt, què chân thành người tàn phế suốt đời, ầm 1 cái là gục xuống vĩnh viễn không bao giờ còn đứng dậy được nữa, là tiêu đời. Có sống trong hoàn cảnh đau thương khủng khiếp ấy mới thử thách thần kinh căng thẳng đến thế nào.
Chỉ trong vòng có 6 giờ đồng hồ đêm 13/3/1954, trên mảnh đất Him Lam đầy máu và lửa, cả ta và địch đã có tới hơn 320 sinh mạng chết không toàn thây, hơn 500 con người thương tích, máu me đầy mình, rên la quằn quại. Lúc này khí thế chiến đấu và chiến thắng đang hừng hực như những đợt sóng ào ạt, ào ạt. Chúng tôi đang ngây ngất, say sưa và còn hối hả làm biết bao nhiêu việc thu dọn chiến trường trước khi trời sáng nên chẳng thể nghĩ ngợi gì.
Nhưng… ngày hôm sau, tiếp ngày hôm sau nữa, cả ngày lẫn đêm, cái cảnh núi xương, sông máu của cái đêm 13 ấy cứ hiện ra khủng khiếp, rùng rợn vô cùng. Những cựu binh đã dạn dầy trận mạc, đã được tôi luyện trong lửa đạn và xương máu, trái tim hồng đã thành gang thép thì tất cả sẽ qua mau để còn chuẩn bị cho trận chiến mới có thể còn gay go hơn, ác liệt hơn. Nhưng anh cán bộ mới ra trường, bộ quân phục còn thơm mùi vải mới, những tân binh còn thơ ngây, non nớt, còn chưa biết nụ hôn của người con gái là gì, thì cái cảnh chết chóc, máu me ghê rợn ấy cứ lởn vởn, khi ẩn, khi hiện. Trong cuộc đấu tranh cân não thầm lặng, nhưng không kém phần cam go, quyết liệt, hầu hết anh em đã cố gắng dũng cảm vượt qua. Nhưng cũng có người không thắng được nỗi ám ảnh, sợ hãi, rồi không biết ma sui, quỷ khiến thế nào, lại dẫn đến hành động mù quáng, hèn nhát đáng xấu hổ.
Và đây là 1 trường hợp. Tôi xin phép không nói rõ họ tên anh ta (vì có thể anh ta đã là 1 người tốt, vì sai lầm này chỉ là 1 tai nạn trong đời).
L.H. trước đây cũng học cùng trường Lương Ngọc Quyến với tôi. Năm 1953, H tòng quân trong phong trào “Xếp bút nghiên lên đường chiến đấu”. H đẹp trai, trắng trẻo, dáng vẻ thư sinh, hát hay, ăn nói nhẹ nhàng, thanh lịch, như lính ta thường nói: - “không chê vào đâu được”.
Sau chiến thắng Him Lam 2 ngày, chúng tôi đang sửa sang, củng cố hầm hào, công sự thì pháo địch bắn tới. Trong tiếng pháo ầm ầm, sao lại có tiếng súng trường bộ binh. - Có người bị thương! Hai đồng chí bị thương nhẹ ở đầu và vai và ở 1 ngách hào phía sau, H bị thương nặng: - Vỡ mắt cá chân. Súng của H nòng cắm xuống đất, khói còn vương vất. Cái vỏ đạn văng ra đây. Chúng tôi hiểu: - H đã tự thương! H đau đớn, khóc ròng. Băng bó sơ cứu, kêu dân công hỏa tuyến vào đưa H về tuyến sau đã.
Hai nam, hai nữ dân công Phú Thọ mang cáng vào đưa H ra. Chúng tôi không ai nói gì. Không hiểu sao hai cô dân công suy luận, rồi thắc mắc: - Đứng trong chiến hào sao lại bị thương tận mắt cá chân được? Lại bị thương do đạn súng trường là hết sức vô lý? - Đúng rồi! thằng cha này tự thương để “đánh bài chuồn” đây! Thế là hấp! hai cô dân công hất H ra khỏi cáng, kèm theo câu chửi thề: - “Chúng tao đi chiến dịch là để phục vụ các thương binh, liệt sĩ đã hy sinh quên mình vì dân, vì nước chứ không phải để phục vụ những thằng hèn nhát như mày” H khóc nấc lên, như sắp ngất xỉu. Chúng tôi nói thế nào, họ cũng không nghe. Hai cô dân công có đôi mắt bồ câu đen láy là thế, bỗng dưng chuyển sang hình viên đạn phóng về phía H lần cuối, rồi vùng vằng kéo nhau bỏ đi. Đành phải cử 4 chiến sĩ vào khiêng H đi. Tìm hiểu thì ra: H tì súng định bắn vào phần mềm của đùi thôi. Nhưng run tay thế nào nó lại trượt ra, bắn vỡ mắt cá chân.
Có cán bộ trách 2 cô dân công tàn nhẫn quá, nhưng nhiều người lại tỏ ý đồng tình cho đây là 1 bài học rất thấm thía mà nhân dân đã răn dạy bộ đội chúng tôi. Từ đó, bẵng đi tôi không gặp, không biết rồi sau đó H sẽ thế nào.
Phải đến 10 năm sau, một buổi sáng chủ nhật, tôi đưa con gái tôi là Mai đi mua truyện ở hiệu sách Bờ Hồ, khi ra cửa lấy xe đạp, tình cờ tôi gặp lại H, dáng vẻ, phong thái vẫn như xưa, nhưng chững chạc hơn, già dặn hơn. Được Quân đội cử đi học, năm 1964 tôi còn đang học năm thứ 5 Đại học Bách khoa thì H tốt nghiệp bác sĩ đã 2 năm, hiện đang làm giáo viên trường Đại học Y khoa Hà Nội. Công việc ổn định, gia đình vợ con đề huề, tôi cũng mừng cho H. Tôi không dám đả động hỏi thăm về vết thương của H. Chia tay đi được 1 quãng, tôi mới sực nhớ: - Không biết H đi đứng có bị sao không? Tôi quay lại nhìn H đang bước đi tập tễnh, thậm thọt, khó nhọc. Không biết H đã nói với vợ con thế nào về cái chân què này.
Sáng tai họ, điếc tai cày
BẮN TỈA RỒI BẮN KỀU! MỖI KHI NHỚ LẠI.
Không biết ai phát hiện tôi bắn xạ kích rất khá nên giới thiệu tôi “tăng cường” về tổ bắn tỉa của anh Vượng. Chỉ có mươi, mười lăm ngày với vai trò “đóng thế” khi đơn vị chưa kịp bổ sung xạ thủ nhưng đã hằn sâu trong tôi những ký ức khó phai.
Quân Pháp mới xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên phủ nên kho dự trữ súng đạn, lương thực chưa nhiều. Đến khi ta bao vây, hàng ngày chúng phải cho từng đoàn máy bay thả dù xuống tiếp tế đủ thứ. Phải công nhận kỹ thuật thả dù của nó khá tốt: - tập trung, - chính xác… Nhưng không thể cái dù nào cũng rơi vào trong cứ điểm được. Khi pháo cao xạ của ta khai hỏa, máy bay địch dính đạn không dám xuống thấp, ta lại đã đào hào áp sát thì nhiều dù đã rơi sang “tiếp tế” cho ta.
Ngày 22/4/1954 Bộ Tư lệnh Chiến dịch quyết định: - “Phải cắt cái dạ dày của chúng” Thế là tổ bắn tỉa ra đời với nhiệm vụ: - Hễ địch bò ra cắt dù, lấy hàng là “tiu”. Tổ chỉ có 3-5 tay súng. Hồi đó ta chưa có AK, CKC chỉ có súng trường 7,9 ly bắn khá chính xác. Cái khó là phải bí mật tiếp cận, phục kích càng gần mục tiêu càng tốt, khoảng từ 30 đến 70 m. Bọn địch thường bắn thăm dò, xăm xoi rồi mới cho 2-3 đứa lính Tây đen bò ra. Sau khi cắt tách kiện hàng ra khỏi dù, chúng buộc dây vào kiện hàng, bò trở về cửa hầm, rồi hò nhau ra kéo. Với cự ly gần như thế, với khả năng xạ kích của chúng tôi thì việc bắn hạ 2 tên Tây đen to béo không khó. Nhưng bắn xong phải nhanh chóng chuyển chỗ, vì địch sẽ trút mưa đạn khủng khiếp xuống đầu anh ngay lập tức.
Tin những chiến tích bắn tỉa dồn dập truyền về làm anh em chúng tôi phấn chấn vô cùng, 10 ngày 4 tổ bắn tỉa của F.308 hạ 110 tên, F.312 diệt 120 tên. Chiến sĩ Lục Văn Thông 1 ngày bắn hạ 30 tên, Lâm Văn Vượng của tổ chúng tôi 15 viên đạn hạ gục 13 tên.
Có lẽ chiến tranh thì ở đâu cũng thế, người ta tìm đủ mọi cách để giết nhau nhiều hơn, đánh những đòn thâm hiểm hơn, đau đớn hơn và chúng tôi cũng không ngoại lệ. Cũng phải như thế để chiến thắng kẻ thù độc ác.

Chưa bằng lòng với chiến công “Mỗi viên là một quân thù” chúng tôi nẩy ra “sáng kiến” chuyển sang “bắn kều”, tức là: không bắn chết ngay, vì đã nhiều lần khi thấy lính đã chết, bọn chỉ huy địch đã mặc kệ bỏ xác, không “quan tâm” nữa. Bây giờ ta chỉ bắn cho chúng bị thương thôi, bị què thôi. Thế là nó rên la, khóc lóc, chửi bới, kêu gào bọn chúng ra cứu. Đến mức không chịu nổi, bọn chỉ huy địch đành phải cho mấy đứa ra vừa bò, vừa lôi kéo rất thê thảm. Khi về gần đến nơi, lúc bấy giờ chúng tôi mới tập trung bắn. Thằng chết, thằng ngắc ngoải sẽ “khủng bố tinh thần” những thằng đang nằm chờ chết trong công sự.
Mấy ngày sau, 1 hàng binh chạy sang ta cho biết: - Đòn này của các ông rất độc nên bọn chúng quyết trả thù. Chúng định thí hẳn 1 trung đội lê dương liều mạng ào sang, quyết bắt bằng được ít nhất 1 chiến sĩ bắn tỉa mang về “tùng xẻo” trả thù!
May quá! nếu không tôi hay cậu đã bị dính đòn trả đũa của chúng rồi. Chỉ huy bên ta quyết định: - “Tương kế, tựu kế”. Chuẩn bị hầm hào thật chu đáo, thông suốt. Tổ bắn tỉa bắn xong, rút ngay để dàn đại liên và trung liên của ta “tiếp đón” bọn lê dương.
Và, thời khắc nhớ đời ấy đã đến. Bọn địch dở trò thậm thà thậm thụt nhử ta xuất hiện. Ta lặng thinh “án binh bất động” theo thế “ngũ hổ vồ mồi”. Qua ống nhòm đã thấy 2 tên Tây đen lò dò chuẩn bị. Phía sau đã thấy lố nhố bọn lính “rằn ri”. Lúc đầu 2 tên chạy lom khom chừng mươi mét rồi nằm xuống nghe ngóng, rồi tiếp tục bò ra phía chiếc dù đỏ. Ba mũi súng chúng tôi rê theo 2 mục tiêu đang chầm chậm tới gần, tới gần. Đội trưởng: - “Đợi chúng cắt dù xong, bắt đầu quay về mới nổ súng”. Chúng tôi hiểu: vì lúc ấy mục tiêu lộ rõ nhất, “ngon” nhất: Nín thở! chờ! Không thấy động tĩnh gì, hay nó ỷ thế quân của chúng sắp vồ chúng tôi nên 2 tên này có vẻ chủ quan. Một tên còn dám đứng lên ngó nghiêng, lơ láo như thách thức làm thằng kia phải kéo hắn nằm xuống. - “Bắn! Ba phát súng nổ cùng 1 lúc, 3 viên đạn găm đúng vào 2 thân hình đồ sộ. Chúng tôi rút ngay.
Chạy được chừng 10 mét thì nghe thấy tiếng súng lục phát lệnh và tiếng hô: - A la sô! (À l’assaut!) quái gở của bọn lê dương,3 anh em chúng tôi chạy tiếp, tăng tốc. Sao không thấy súng ta khai hỏa thế này? - Các đồng chí của chúng tôi đánh bài ăn chắc đây.
- “Bắn! tiếng hô như sấm của đại đội trưởng vang lên. 10 khẩu đại liên và trung liên đồng loạt nhả đạn 3 anh em chúng tôi quay lại. Bọn lê dương vẫn hò reo xông lên, hung hăng, dữ tợn. Lưới lửa đạn của quân ta trùm xuống, bắn vỗ mặt, bắn quét chéo cánh sẻ, quật ngã chúng đổ xuống như ngả rạ. Thằng sĩ quan vẫn điên cuồng thúc quân tiến lên. - “Phải diệt thằng này”. Đội trưởng bắn tỉa quyết định. Chúng tôi chấp hành. Tên sĩ quan trúng đạn gục xuống. Như rắn mất đầu, bọn lê dương chấp chới rồi quay đầu chạy thục mạng. - Không cho chúng nó thoát! Làn đạn dày đặc truy đuổi theo quật ngã đến tên lính thực dân cuối cùng. Lệnh đại đội trưởng: rút về để bảo toàn lực lượng! Quả nhiên, chừng 5 phút sau pháo địch dội xuống trả thù nơi chiến tuyến vừa diễn ra vô cùng khủng khiếp. Tất cả chúng tôi về đến đơn vị an toàn. Quân ta Đại thắng.
Mấy ngày sau, tôi tạm biệt Đội bắn tỉa trở về 77. Từ đó đã xuất hiện thêm nhiều đội bắn tỉa, là nỗi kiếp sợ ám ảnh ngày đêm với địch trên toàn mặt trận và địch không bao giờ dám liều mạng lần thứ hai trả đũa đội bắn tỉa nữa. Đội bắn tỉa của chúng tôi được Đại tướng Tổng tư lệnh tặng thưởng Huân chương Quân công. Đội trưởng báo tin: - Tôi cũng được đề nghị tặng thưởng Huân chương Chiến công.
Sau chiến dịch đơn vị thay đổi, tôi cũng thuyên chuyển đi đơn vị khác, nên mất liên lạc. Từ đó, tôi cũng không bao giờ gặp lại anh em trong đội bắn tỉa nữa, không biết ai còn, ai mất...
Về chiến công bắn tỉa của quân ta trên chiến trường Điện Biên, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp nói: - “Hàng ngày, ở Sở Chỉ huy Chiến dịch nghe báo cáo số địch chết vì bị quân ta bắn tỉa, số lương thực, đạn dược bên ta đoạt được, tôi nghĩ rằng ta đã cho địch nếm những đòn cay đắng nhất”
Trong chiến tranh, không biết có quân đội nào có kiểu “bắn tỉa”, rồi “bắn kều” như chúng tôi không?
Sáng tai họ, điếc tai cày
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG THẾ TRẬN VÀ SỬ DỤNG PHÁO BINH TRONG CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ
Cách đây 50 năm lực lượng pháo binh non trẻ của quân đội ta đã lập được thành tích vẻ vang trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, được Đại tướng Võ Nguyên Giáp Tổng chỉ huy chiến dịch kết luận: “Pháo binh ta tuy nhỏ nhưng đã có một tác dụng lớn trong chiến dịch Điện Biên Phủ”. Hồi nhớ lại một số kỷ niệm, kinh nghiệm, câu chuyện, kỳ tích chiến đấu của bộ đội Pháo binh đã từng tham gia chiến dịch, xin được nói lại đôi điều về “Nghệ thuật xây dựng thế trận và sử dụng pháo binh trong chiến dịch Điện Biên Phủ" mà chủ yếu về trung đoàn pháo xe kéo đầu tiên của quân đội ta (Trung đoàn 45) lần đầu xuất trận.
… Cuối năm 1953, sau khi Na-va sang Đông Dương thay Xa-lăng với mộng tưởng giành lại thế chủ động trên chiến trường, ngày 20-11-1953 đã cho 6 tiểu đoàn nhảy dù xuống Điện Biên Phủ. Sau đó lực lượng tăng lên tới 17 tiểu đoàn bộ binh, một tiểu đoàn công binh, một đại đội xe tăng, một đại đội xe vận tải khoảng 200 chiếc, một phi đội không quân thường trực khoảng 14 phi cơ các loại với tổng quân số là 16.200 tên. Về lực lượng pháo binh, chúng gồm 2 tiểu đoàn pháo 105mm, một đại đội pháo 155mm, một tiểu đoàn cối 120, với số pháo trên chúng tập trung bố trí ở Mường Thanh và Hồng Cúm, hai căn cứ này có thể yểm trợ cho nhau và cho các cứ điểm trong tập đoàn phòng ngự tại Điện Biên Phủ. Đạn dược dự trữ tương đối lớn nhưng nguồn bổ sung duy nhất chỉ dựa vào đường hàng không với sân bay dã chiến Mường Thanh. Với lực lượng pháo đạn như vậy cùng với hoả lực không quân, Sác-lơ Pi-rốt, tên quan năm pháo binh, phó chỉ huy tập đoàn Điện Biên Phủ đã chủ quan về sức mạnh hoả lực pháo binh của chúng và coi thường khả năng pháo của ta.
Thực hiện chủ trương và kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954, Trung ương Đảng đã hạ quyết tâm tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ, coi Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược với địch và quyết định tập trung đại bộ phận chủ lực và toàn bộ lực lượng pháo binh dự bị của ta lên mặt trận Điện Biên.
Tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, bộ đội Pháo binh có Trung đoàn 45 (2 tiểu đoàn, 24 khẩu 105); Trung đoàn sơn pháo 75 gồm 6 đại đội; tiểu đoàn súng cối 120mm. Cuối chiến dịch có thêm 2 tiểu đoàn pháo ĐKZ75MM và Tiểu đoàn hoả tiễn H6 - 12 dàn (mỗi dàn 6 nòng, cỡ đạn 75mm với tầm bắn gần 10km) các đại đoàn bộ binh còn có 4 tiểu đoàn pháo, cối, ĐKZ và các đại đội cối 82 của trung đoàn bộ binh, tổng cộng khoảng 240 khẩu pháo, cối, ĐKZ các loại.
Trải qua 55 ngày đêm chiến đấu liên tục đầy gian khổ, ác liệt Pháo binh Quân đội nhân dân Việt Nam vừa chiến đấu vừa xây dựng trưởng thành, càng đánh càng mạnh, lập nhiều chiến công tô đẹp thêm truyền thống vẻ vang của pháo binh. Cũng từ chiến dịch này pháo binh đã mở ra đỉnh cao về nghệ thuật sử dụng pháo binh trong tác chiến hiệp đồng góp phần đánh thắng quân xâm lược Pháp. Ở đây bài viết xin trình bày một số ý kiến về sử dụng pháo binh mà tôi tâm đắc nhất.
A- KÉO PHÁO VÀO KÉO PHÁO RA BẰNG SỨC NGƯỜI VÀ LÀM ĐƯỜNG ĐỂ XE KÉO PHÁO VÀO CHIẾM LĨNH TRẬN ĐỊA
Điện Biên Phủ cách xa hậu phương trên 500km, chỉ có một con đường duy nhất từ Tuần Giáo đến Điện Biên Phủ dài khoảng 80km vốn là con đường nhỏ, muốn cơ động pháo xe kéo, đường phải được mở rộng. Tuy nhiên Trung ương đã dự kiến và có kế hoạch bí mật sửa đường để trung đoàn trọng pháo đầu tiên của quân đội ta có thể tham gia chiến đấu được.
Thực hiện nhiệm vụ của trên, pháo mang vác được lệnh hành quân từ đầu tháng 12-1953 còn ngày 22-12-1953 Trung đoàn 45 mới hành quân từ Tuyên Quang, ngày 7-1- 1954 tới Tuần Giáo và đêm 13, 14-1-1954 tập kết chiến dịch ở km 63 đường 42 Tuần Giáo-điện Biên.
a- Kéo pháo vào chiếm lĩnh trận địa chiến đấu
Ngày 13-1-1954 Bộ chỉ huy chiến dịch triệu tập hội nghị bàn kế hoạch tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ theo phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh”. Để giữ bí mật việc sử dụng pháo lớn trong chiến dịch, Bộ chỉ huy quyết định dùng sức người kéo pháo vào chiếm lĩnh trận địa bắn. Con đường kéo pháo bắt đầu từ Nà Nham km 70 vượt qua các dãy núi cao từ 500m đến 1.150m với chiều dài 15km. Kế hoạch tổ chức làm đường và kéo pháo như sau:
- Thành lập ban chỉ huy kéo pháo do các đồng chí Lê Trọng Tấn Đại đoàn trưởng Đại đoàn 312, Phạm Ngọc Mậu Chính uỷ Đại đoàn công pháo 351, Phạm Kiệt Phó cục trưởng Cục Bảo vệ làm chỉ huy.
- Lực lượng mở đường là Đại đoàn 308, Trung đoàn công binh 151 của Bộ đảm nhiệm với thời gian 1 ngày (15-1- 1954).
- Lực lượng kéo pháo là cán bộ chiến sĩ Đại đoàn 312 và trung đoàn sơn pháo. Bắt đầu kéo pháo vào chiếm lĩnh trận địa từ đêm 16-1-1954 với thời gian 7 ngày, để kịp cho ngày "N: 25-1-1954".
Đêm 16-1-1954, 1 khẩu lựu pháo và 1 khẩu cao xạ đã được kéo thử để rút kinh nghiệm. Mỗi khẩu nặng trên 2 tấn lực lượng kéo lúc đầu ngoài pháo thủ còn được tăng cường thêm 20 chiến sĩ bộ binh, qua đồng ruộng thì nhẹ nhàng đến khi gặp dốc đã phải tăng thêm 10 rồi 20 có lúc gặp dốc cao thêm mỗi khẩu tới 30 người. Vất vả vật lộn cả một đêm đến sáng mà cũng chỉ kéo được quãng đường 800m. Ngày thứ 2 (17-1-1954) lợi dụng qua rừng kín nên kéo cả ban ngày. Qua 2 ngày mà mới chỉ kéo được 8 khẩu với quãng đường gần 2km. Ngày thứ 3 phải rút kinh nghiệm và một loạt công việc được bổ sung như mở rộng thêm đường, hạ bớt độ dốc, thiết bị tời kéo. Hậu cần mặt trận cũng tăng thêm định lượng gạo từ 8 lạng lên 1kg gạo cho 1 chiến sĩ. Ngày "N" cứ sát gần, trời bắt đầu có mưa, dốc càng trơn, nhiều gian khổ, nhiều gương hy sinh dũng cảm xuất hiện, đoạn đường kéo pháo rồi cũng phải rút ngắn, bài hát “Hò kéo pháo" của nhạc sĩ Hoàng Vân ra đời: ... “ sắp tới rồi đồng chí pháo binh ơi, vinh quang thay những người lao động...“.
Càng kéo anh em càng khẩn trương, quên mệt nhọc để kịp ngày nổ súng... qua 9 ngày đêm với quyết tâm cao của hàng ngàn cán bộ chiến sĩ đã vượt mọi khó khăn, lập kỳ tích đặc biệt đưa 40 khẩu pháo vào kịp chiếm lĩnh trận địa an toàn bí mật.
b- Kéo pháo trở lại vị trí tập kết ban đầu
Chiều 25-1-1954, trên cánh đồng Nà Hi, pháo binh đang hăm hở chuẩn bị những phần việc cuối cùng cho chuẩn bị chiến đấu thì được biết giờ "G" được hoãn lại thêm 24 giờ nữa tức là vào 17 giờ ngày 26-1-1954. Thời giờ là vàng ngọc để pháo binh chuẩn bị chu đáo mọi mặt, khí thế sẵn sàng lập công nhất là với trung đoàn pháo xe kéo lần đầu xuất trận lên rất cao... Thế nhưng một quyết định mới của Đảng uỷ và Bộ chỉ huy chiến dịch vào hồi 11 giờ ngày 26-1-1954 sau khi cân nhắc toàn diện địch, ta... Bộ Chính trị và Bác Hồ đã quyết định thay đổi cách đánh, bỏ kế hoạch “đánh nhanh giải quyết nhanh” chuyển sang “đánh chác tiến chắc”. Với quyết tâm đó, Bộ chỉ huy chiến dịch hạ lệnh cho pháo binh: “… Tất cả lực lượng pháo binh kéo trở lại vị trí tập kết chiến dịch cũ trên đường 41 ngay trong đêm nay 26-1-1954”. Lệnh đó đến với pháo binh đã gây xáo trộn lớn về tư tưởng, bao nhiêu mồ hôi và máu đã đổ xuống, bao nhiêu gian khổ đã vượt qua, đến giờ lập công lại phải kéo pháo ra... Các chi bộ kịp thời họp để lãnh đạo việc kéo pháo ra với quyết tâm tiêu diệt "Trần Đình" không thay đổi.
Chập tối 26-1-1954, pháo binh đồng loạt rút khỏi trận địa. Cuộc vật lộn với đèo cao, dốc thẳm lại bắt đầu lại. Kéo pháo vào đã vô cùng gian khổ, giờ kéo pháo ra lại càng gian khổ hơn, quân địch cũng đã phát hiện thấy hoạt động của ta trên đường kéo pháo ra nên chúng liên tục cho máy bay trinh sát, oanh tạc, ban đêm pháo địch bắn cầm canh càng gây cho ta nhiều thương vong. Nhiều gương hy sinh để bảo vệ pháo xuất hiện tiêu biểu là Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Chức và Tô Vĩnh Diện. Mờ sáng 5-2-1954 tức mùng 3 tết âm lịch khẩu pháo cuối cùng được kéo về vị trí tập kết. Hoan hô mối tình đoàn kết keo sơn giữa 3 binh chủng bộ binh, công binh, pháo binh. Đây cũng là truyền thống là sức mạnh và là cơ sở vững chắc cho quân ta chiến đấu thắng lợi trong những ngày sắp tới.
Ngày 7-2-1954 (mồng 5 tết âm lịch) các đơn vị mới ăn tết một cái tết "kéo pháo vào, kéo pháo ra đại thắng lợi". Cũng hôm đó mờ sáng dưới trời mưa phùn, Đại tướng Võ Nguyên Giáp Chỉ huy trưởng mặt trận đã đến thăm và chúc tết động viên bộ đội Pháo binh. Đại tướng căn dặn: “... thời gian qua, các đồng chí đã làm tròn nhiệm vụ hành quân ra trận, các đồng chí đã làm tròn nhiệm vụ chuyển pháo vào trận địa, chuyển pháo đen vị trí tập kết, những nhiệm vụ đó coi như nhiệm vụ chiến đấu... để giúp xây dựng binh chủng, rèn luyện một tác phong chiến đấu để hoàn thành nhiệm vụ sắp tới, tôi dặn các đồng chí mấy điểm.
…
- Thứ ba là phải hiệp đồng chặt chẽ với bộ binh. Nhiệm vụ của trọng pháo và pháo cao xạ là cùng bộ binh hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt địch...
- Thứ tư là phải ra sức học tập kỹ thuật, bắn thật trúng đích (không bắn thì thôi nếu đã bắn thì nhất định phải trúng đích) làm cho quân địch phải khiếp sợ pháo binh ta…”.
Những lời dặn ân tình nhân ngày đầu xuân năm ấy của Đại tướng Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam không những là những chỉ thị nóng bỏng của những ngày chuẩn bị chiến dịch mà còn nhắc cho tất cả các thế hệ nối tiếp của Binh chủng Pháo binh lấy đó làm phương hướng xây dựng và chiến đấu sau này.
c. Làm đường để ô tô kéo pháo vào chiếm lĩnh trận địa bàn.
Dựa vào phương châm “đánh chắc tiến chắc” việc bố trí hệ thống trận địa bắn pháo binh vừa phải phát huy tầm bắn có hiệu qủa vừa phải duy trì hoả lực liên tục vững chắc trong quá trình chiến dịch nhưng lại phải giữ được bí mật bất ngờ để chiến đấu được lâu dài, do đó hệ thống trận địa pháo tốt nhất là dựa vào rừng núi. Sau khi đã xác định xong hệ thống trận địa, ngày 10-2-1954 Bộ chỉ huy chiến dịch triển khai 5 con đường để dùng xe kéo pháo:
- Đường đi Pú Hồng Mèo dài 8km.
- Đường đi Tà Lèng dài 27km.
- Đường đi từ Bản Xin qua đỉnh Pu Y Tao đến Bản Tấu dài 18km.
- Đường từ Mường Phăng đến Nà Nham dài 7km.
- Đường đi Nà Lời dài 3km.
Đây là những con đường quân sự làm gấp dựa vào các sườn núi bao quanh Điện Biên Phủ, nằm trong tầm hoạt động của pháo binh địch, do đó việc làm đường phải giữ bí mật (nguỵ trang theo kiểu giàn mướp nên máy bay địch hoạt động liêm tục mà vẫn không phát hiện được). Lực lượng làm đường do Đại đoàn 312, 316 và trung đoàn sơn pháo đảm nhiệm, khí thế mở đường sôi nổi có nhiều khẩu hiệu động viên bộ đội và dân công: " Tích cực làm đường cho pháo binh là tích cực tranh thủ thắng lợi”; “bảo đảm đường sá thông suốt là tích cực tranh thủ thắng lợi”; “Thêm một người làm đường là tăng thêm điều kiện để chiến thắng quân địch...".
Ngày 4-3-1954 toàn bộ hệ thống đường cơ động và công sự trận địa bắn đã hoàn thành. Theo lệnh trên, Bộ tư lệnh Đại đoàn công pháo 351 quyết định dùng đại đội 806 làm đơn vị đột phá thử nghiệm việc chiếm lĩnh trận địa bằng xe kéo pháo vào đêm 5-3-1954. Tiểu đoàn cử trinh sát mang theo máy điện thoại lên sát hàng rào cứ điểm Him Lam nếu nghe có tiếng động cơ ô tô thì lập tức báo để ngừng việc dùng xe mà chuyển sang dùng sức người. Mờ tối toàn đại đội 806 (4 xe pháo) vào chiếm lĩnh, đến 23 giờ thì chiếm lĩnh xong, từ vị trí nghe tiếng động ở Him Lam vẫn không có tín hiệu báo về, thếlà ổn yếu tố bí mật bất ngờ được bảo đảm...
Như vậy, sự kiện "kéo pháo ở Điện Biên Phủ " đã nói lên nét độc đáo trong nghệ thuật dùng pháo xe kéo của chiến dịch, cũng đã trở thành câu chuyện huyền thoại về “kéo pháo ở Điện Biên Phủ" trong nhân đần Việt Nam.
Ngày ấy, sau chín năm kháng chiến quân đội ta mới có một trung đoàn trọng pháo xe kéo đầu tiên. Đó là vốn rất quý, để phát huy yếu tố bí mật bất ngờ về sử dụng loại vũ khí mới, Bộ chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ đã quyết định bỏ xe,dùng sức người để kéo 40 cỗ pháo vượt qua cả một dãy núi cao, rừng rậm ròng rã 9 ngày đêm vào trận địa kịp ngày nổ súng tiến công tiêu diệt quân địch dự kiến trong 3 đêm, 2 ngày. Nhưng khi đã thay đổi cách đánh từ “đánh nhanh thắng nhanh" sang "đánh chắc tiến chắc" lại kiên quyết chuyển toàn bộ số pháo đó trở về vị trí tập kết ban đầu. Đây là một quyết định vô cùng sáng suốt nhằm bảo vệ gìn giữ an toàn tuyệt đối lực lượng trọng pháo nhỏ bé lần đầu ra trận. Sau đó lại làm đường để dùng xe ô tô kéo pháo vào chiếm lĩnh trận địa nhằm phát huy tính cơ động của pháo xe kéo. Bài học này đã được bộ đội Pháo binh vận dụng, phát huy trong thời gian kháng chiến đánh Mỹ xâm lược, trong nhiều chiến dịch ta dã dùng sức người để kéo pháo hoặc tháo rời pháo thành nhiều bộ phận để khiêng, vác chiếm lĩnh trận địa ngắm bắn trực tiếp.
"Mobilis in Mobile" ― Jules Verne
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG THẾ TRẬN VÀ SỬ DỤNG PHÁO BINH TRONG CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ (tiếp)
B- XÂY DỰNG THẾ TRẬN VỮNG CHẮC, BỐ TRÍ HỆ THỐNG TRẬN ĐỊA PHÂN TÁN NHƯNG HOẢ LỰC TẬP TRUNG. SỬ DỤNG PHÁO BINH THEO YÊU CẦU CHIẾN DỊCH, ĐÁP ỨNG PHƯƠNG CHÂM “ĐÁNH CHẮC TIẾN CHẮC”
- Xây dựng trận địa pháo kiên cố để chiến đấu được liên tục cả ban ngày lẫn ban đêm, không thể làm công sự dã chiến mà cần phải có công sự vững chắc.
Ngày 7-2-1954 khi đến thăm pháo binh tại mặt trận, Đại tướng đã chỉ thị: “... Phải kiến trúc những trận địa pháo thật kiên cố, công sự phải thật dày, chắc đủ sức chống lại bom đạn của địch. Ngoài thì giờ chiến đấu phải tranh thủ thời gian bồi đắp thêm công sự. Đắp công sự dày thêm 1 phân tức là tạo thêm điều kiện thuận lợi để chiến thắng quân địch. Phải tổ chức nhiều trận địa nghi binh để làm lạc hướng quân địch, phân tán và tiêu hao vũ khí đạn dược của chúng”.
Chấp hành chỉ thị ấy, mặt trận đã tăng cường cho mỗi tiểu đoàn pháo 105mm một tiểu đoàn bộ binh để làm công sự. Cơ sở xây dựng trận địa là đại đội pháo, khối lượng công sự của một đại đội gồm:
- Hầm đặt pháo cho 4 khẩu.
- Hầm để đạn chiến đấu và đạn dự trữ.
- Hầm cho pháo thủ nghỉ ngơi.
- Hầm chỉ huy trận địa.
- Hầm để nấu ăn, kho dự trữ thực phẩm, nước uống.
- Hầm để thương binh nhẹ.
- Hệ thống giao thông hào giữa các khẩu đội và các hầm.
Khối lượng đào công sự cho 1 hầm khẩu đội trung bình từ 200m3 đến 300m3 đất đá, khung hầm pháo cần có khoảng 10-12 cột gỗ và 6-8 xà đỡ với đường kính từ 30- 40cm, dùng đinh sắt chữ U để liên kết giữa cột - xà - gỗ lát nóc hầm pháo. Nắp hầm pháo được đắp dày từ 3-4m chia làm nhiều lớp, mỗi lớp dày khoảng 30- 40cm, hết 1 lớp đất lại đến 1 lớp nứa hoặc tre đập dập bó lại rồi xếp cao cho đủ 30- 40cm, giao thông hào đào sâu 1,5-1,8m. Thời gian để xây dựng 1 trận địa cần 10-15 ngày với 200 cán bộ chiến sĩ lao động liên tục ngày đêm. Do có trận địa vững chắc nên mặc dù quân địch ra sức bắn phá oanh tạc nhưng pháo ta vẫn kiên cường chiến đấu, hoả lực không hề bỉ gián đoạn. Nghĩ lại chỉ có khí thế của chiến dịch Điện Biên Phủ mới làm nên kỳ tích đó.
- Bố trí trận địa: trận địa bắn của 6 đại đội pháo 105mm được bố trí thành một vành cung khoảng 30km từ Đông Nam đến Tây Bắc cánh đồng Mường Thanh, mỗi trận địa cách nhau từ 4 đến 5km, chính diện một trận địa cũng khoảng từ 250- 400m. Cụ thể được bố trí như sau:
- 2 đại đội 801, 802 ở dãy núi Tà Lèng.
- Trận địa đại đội 803 ở Bản Tấu.
- Đại đội 804 ở Nà Lời.
- Đại đội 806 ở cao điểm 684 Nà Lời.
- Đại đội 805 ở Pú Hồng Mèo.
Lúc đầu bố trí như vậy bảo đảm 5 đại đội có thể tập trung bắn vào các mục tiêu ở trung tâm Mường Thanh. Sau đợt 1 để phát huy tầm bắn có hiệu quả nên từ 17-3 đến 19-3-1954 có 1 đợt di chuyển các trận địa lên phía trước sát địch.
- 2 đại đội 801, 802 từ Tà Lèng khu đông di chuyển về khu vực Bản Kéo tây bắc Mường Thanh.
- Đại đội 803 cũng di chuyển lên phía trước 2km.
- Đại đội 806 từ Nà Lời lên khu vực Him Lam.
- Đại đội 805 từ Pú Hồng Mèo tiến lên cách Hồng Cúm 4km và sẵn sàng sử dụng được khi cần tập trung về Mường Thanh.
Chỉ riêng Đại đội 806 vì do có vị trí sát địch, kín đáo, phát huy hoả lực tốt nên vẫn trụ lại cho đến ngày toàn thắng.
Để chuẩn bị cho đợt tấn công thứ 3 nhằm phát huy hoả lực bắn thẳng, trung đoàn lựu pháo đã lệnh cho mỗi tiểu đoàn sẵn sàng 1 trung đội gồm 2 khẩu đưa lên sát trung tâm Mường Thanh từ 1,5 đến 2km để ngắm bắn trực tiếp. Các trận địa các đại đội sơn pháo sau đợt 2 cùng di chuyển lên phía trước cụ thể là:
Đại đội 755 chiếm lĩnh trận địa bắn thẳng trên đồi E.
Đại đội 753 bố trí trên đồi D.
Đại đội 752 bố trí ở đồi C tranh chấp giữa ta và địch.
Đại đội 757 lên đồi cháy khu đông.
Giữa tháng 3-1954 sau khi được Mỹ tăng cường máy bay B26 chúng mở đợt tấn công đánh phá các trận địa pháo ta, dùng cả bom napan có ngày dùng tới 250 lần chiếc máy bay oanh tạc và cường kích nhưng qua 55 ngày đêm chiến đấu pháo binh ta vẫn bám trụ kiên cưởng, chi viện cho bộ binh tiến công tiêu diệt địch.
Lúc đầu quân địch đã coi thường pháo binh ta, chúng cho rằng pháo binh ta lực lượng còn nhỏ và yếu, không có cách gì vận chuyển đến địa điểm gần chúng, mà nếu có đưa được pháo binh vào những trận địa có thể uy hiếp chúng thì chúng có khả năng tức khắc phát hiện và tiêu diệt lực lượng pháo ta.
Nhưng trái với dự tính của chúng, do sự chuẩn bị đầy đủ của ta từ khi nổ súng tiến công đến suốt quá trình chiến dịch, pháo binh nhỏ bé của ta không những không bị tiêu diệt mà ngược lại làm cho quân địch phải khiếp sợ, tên quan năm Sác-lơ Pi-rốt đã tự sát trước tài nghệ sử dụng pháo của Bộ chỉ huy chiến dịch.
Vấn đề tổ chức xây dựng các trận đìa bắn đều có công sự kiên cố, bố trí hệ thống trận địa phân tán hiểm hóc đã tạo ra một thế trận pháo binh vững chắc, mạnh và ổn định, sử dụng pháo binh theo yêu cầu chiến dịch để pháo binh chi viện hiệu quả cho các đại đoàn bộ binh, là bí quyết sử dụng pháo binh của quân đội ta.
"Mobilis in Mobile" ― Jules Verne















