Sau các trận đánh ở các cứ điểm A1 và 105 không thành công, nhận thấy nếu tiếp tục tiến công, bộ đội ta sẽ bị thương vong nhiều mà vẫn không thu được kết quả, Bộ Chỉ huy chiến dịch ra lệnh tạm dừng tiến công. Các đơn vị tiếp tục giữ vững phần đồi đã giữ được, tạo đà cho trận đánh sau.
Trung đoàn 102 (Đại đoàn 308) bàn giao trận địa A1 cho Trung đoàn 174 (Đại đoàn 316), Trung đoàn 174 để lại một bộ phận nhỏ, củng cố công sự vững chắc, bảo vệ phần đồn đã chiếm được, chuẩn bị cho đợt tiến công sau, còn đại bộ phận rút ra ngoài, tạm ngừng chiến đấu.
Từ sau ngày 4/4, sau khi Bộ Chỉ huy chiến dịch ra lệnh tạm ngừng chiến đấu, trên chiến trường mặt phía đông đã ngớt tiếng súng, nhưng ở phía Tây các đơn vị vẫn tiếp tục đào hào, đánh lấn, tiến vào sân bay “cắt đứt cái dạ dày tiếp tế” của địch.
Phía địch
Pháp tổ chức cuộc chiến đấu giành giật các cứ điểm Huguette (phía tây) bảo vệ đường băng sân bay: Đại đội Bailly thuộc Tiểu đoàn dù xung kích số 8 xuất phát từ Opéra đến ứng cứu bằng cách tiến quân theo mương thoát nước nhưng được nửa đường thì bị chặn lại{1}.
Đại đội Clédic thuộc Tiểu đoàn 2, Trung đoàn dù thuộc địa số 1 vừa nhảy xuống trong đêm trước, đánh thẳng vào đường băng, buộc một tiểu đoàn của ta bố trí ở điểm nút phải rút lui.
Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị xung kích, các chiến sĩ cao xạ pháo đang đánh trả quyết liệt máy bay địch ở Điện Biên Phủ. Ảnh: TTXVN
Tại Paris, Đại tá Brohon (người cùng đi Washington với Ely) từ Việt Nam đã về tới sân bay Orly và đi thẳng tới nhà tướng Ely. Ông báo cáo đã gặp tướng Navarre để phổ biến về kế hoạch ném bom Vautour (Chiến dịch Chim kền kền). Trong khi đó, tướng Ely đã có trong tay bức điện của Navarre cho rằng kế hoạch ném bom này có thể có hiệu quả quyết định.
Tướng Ely quyết định soạn thành văn bản để trình bày trong cuộc họp hạn chế của Hội đồng Quốc phòng. Sau đó gửi Navarre một bức điện với nội dung: “Chính phủ đã gửi Washington bản đề nghị can thiệp đã được ông hưởng ứng. Tôi bảo đảm ông được hoàn toàn ủng hộ” {2}.
Sang đợt 2 bộ đội tiến sát địch hơn nữa, hậu cầu đại đoàn, trung đoàn không nhích theo nên càng xa đơn vị. Do bố trí xa như vậy nên phải sử dụng nhiều lực lượng vận chuyển nhưng vẫn không bảo đảm được, tiếp tế và tải thương chậm, ùn người ở hỏa tuyến, ở giao thông hào, cấp trên không nắm được tình hình cấp dưới, không giúp đỡ giải quyết được khó khăn. Thêm vào đó, việc bố trí các cơ sở lại không dọc theo tuyến vận chuyển nên không kết hợp được chuyến lên với chuyến về - trích cuốn “Công tác hậu cần chiến dịch Điện Biên Phủ” do Tổng cục Hậu cần xuất bản năm 1979.
Ngày xuất bản: 4/4/2024
Nội dung: Thiếu tá, ThS Trần Quốc Dũng - Viện Lịch sử quân sự; Ngọc Toản Thu
Trình bày: DUY LONG
Ảnh: TTXVN
Chỉ hơn 2 tuần (từ ngày 12-28/3/1954), để phối hợp với Điện Biên Phủ, quân và dân tỉnh Hưng Yên đã diệt, bức hàng và bức rút 12 vị trí lớn nhỏ, mở rộng khu du kích bắc Hưng Yên thêm 78 thôn, liên tục đánh mìn, đánh phá tàu, xe phá đường, đường sắt làm gián đoạn giao thông của địch; buộc địch phải giam chân nhiều lực lượng để giải vây, ứng cứu.
Thực hiện chỉ thị Bộ Chính trị ngày 23/2/1954 "cần mở rộng hoạt động ở Tả Ngạn trong một thời gian dài với quy mô nhỏ, dùng lực lượng bộ đội nhỏ liên tiếp hoạt động, đánh nhỏ ăn chắc, chủ yếu là đánh du kích, không nên ham đánh công kiên và vận động. Phải lợi dụng mọi cơ hội đánh nhỏ, phá hoại giao thông, kho tàng, đánh địa lỗi, phá hoại cầu đường làm cản trở vận chuyển của địch", Tỉnh đội Hưng Yên đã chỉ đạo sát sao phần chuẩn bị tác chiến.
Các tiểu đoàn 58, 50 Đại đội 10 độc lập của tỉnh được bổ sung, củng cố, huấn luyện theo yêu cầu luân phiên vào hoạt động lâu trong vùng địch hậu. Các đại đội Phù Cừ, Ân Thi huấn luyện theo hướng phối hợp, phối thuộc cho bộ đội Khu đánh phục kích vừa và lớn trên đường giao thông và được đưa lên tuyến đường 5 hoạt động.
Các đại đội Văn Lâm, Yên Mỹ, Mỹ Hào, Văn Giang vừa chuẩn bị chiến trường, bổ sung ngay một số trung đội cho bộ đội Khu, phối hợp với bộ đội Khu và tỉnh tác chiến tại địa phương, vừa chủ động đánh địch, phá tề, phá hoại giao thông, cùng lực lượng chính trị mở rộng cơ sở, chống địch lấn chiếm và càn quét trên địa bàn ta mở đợt hoạt động.
Trinh sát được tung sâu vào đường sắt, đường 5 nắm địch, "sờ" lại lần cuối giúp cho chỉ huy lập kế hoạch đánh các đồn trong khu vực hoạt động như Nghĩa Lộ, Như Quỳnh, Đình Dù, Hoàng Nha, Thanh Đặng... Ngày 11/3/1954, Tỉnh ủy Hưng Yên chỉ thị bổ sung thêm nhiệm vụ: "... Những nơi có điều kiện thì phát động đấu tranh vũ trang, tiêu diệt hệ thống tháp canh trên đường 5, đường sắt, bắt phản động, phá hoại và làm tê liệt giao thông”.
Sự phối hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ của quân và dân tỉnh Hưng Yên đã để lại những trận đánh đáng nhớ: Ngày 12/3/1954, Bộ Tổng Tư lệnh trực tiếp điện xuống "Trung đoàn 42 phải đánh Nghĩa Lộ, không cho chúng rút đi để chi viện cho Điện Biên Phủ".
Đêm ngày 12/3/1954, Trung đoàn 42 đã hành quân, chiếm lĩnh trận địa, bí mật tiếp cận được địch và nổ súng lúc 3 giờ sáng ngày 13/3/1954. Sau 2 giờ chiến đấu vô cùng quyết liệt, ta diệt được lô cốt chính, 12 ụ vệ tinh, đánh chiếm từng khu vực, diệt gần một tiểu đoàn địch, thu nhiều vũ khí, phá hầu hết công sự nổi…
Cùng với trận đánh Nghĩa Lộ, tỉnh Hưng Yên huy động hàng chục nghìn dân quân du kích và dân công lên phá hoại đường sắt từ Cổ Bi tới Xuân Đào, phá đường 5 từ Như Quỳnh đến Quán Gỏi; san bằng 2 tháp canh Quán Ròn, Xuân Đào. Một đoàn tàu hỏa từ Hà Nội xuống bị tắc nghẽn tại ga Lạc Đạo, bộ đội Văn Lâm đã đột nhập đánh đổ đoàn tàu đó. Vận tải đường sắt của địch bị tê liệt hoàn toàn từ ngày 13 đến 15/3/1954.
Quân và dân tỉnh Hưng Yên phá đường giao thông chặn đánh quân thực dân Pháp. (Ảnh: Tư liệu Bảo tàng tỉnh Hưng Yên)
Từ ngày 13-26/3/1954, bộ đội và du kích huyện Văn Lâm, Yên Mỹ, Mỹ Hào đã trụ bám địa bàn chống càn quét, phá đường, liên tục đánh tàu, xe dịch, phá 42 xe các loại. Đại đội 10 đã phối hợp với bộ đội và du kích Văn Lâm chống càn, đánh tàu, xe. Trong đó, du kích huyện Yên Mỹ liên tục lên đường "săn" xe địch, trong 5 ngày liền, ngày nào cũng diệt được xe quân sự của địch.
Các hoạt động vừa và nhỏ nhưng liên tục đó buộc địch hằng ngày phải tổ chức các cuộc hành quân giải tỏa nhằm bảo vệ việc sửa đường và vận chuyển. Thường các cuộc hành quân này địch sử dụng từng tiểu đoàn cơ động, có xe tăng thiết giáp mở đường và yểm hộ; buộc địch phải bộc lộ lực lượng để bộ đội Khu có điều kiện tổ chức các trận phục kích lớn.
Ngày 22/3/1954, Trung đoàn 42 đã tổ chức trận phục kích trên đường 5, đoạn Bạch Sam, huyện Mỹ Hào giành thắng lợi lớn, phá 20 xe, diệt gọn 2 đại đội địch, thu nhiều vũ khí.
Ngày 23/3/1954 tại đoạn đường 5 thuộc địa bàn Bạch Sam, Lương Xá, Tiểu đoàn 652 được tăng cường bộ đội huyện Mỹ Hào, Đại đội huyện Phù Cừ và một trung đội bộ đội huyện Ân Thi sử dụng "độn thổ", "độn thủy" tiến công ồ ạt và đồng loạt, áp đảo quân địch từ đầu đến cuối và giải quyết trận đánh nhanh gọn, đã phá 7 xe, diệt 72 tên, bắt 26 tên, làm mất sức chiến đấu của tiểu đoàn 26 của địch, thu nhiều vũ khí.
Ngày 28/3/1954, Tiểu đoàn 698 tổ chức trận phục kích trên đường 5 tại khu vực chợ Đường Cái đánh trúng 2 cánh quân từ Bần Yên Nhân lên, từ Như Quỳnh xuống; diệt hoàn toàn 1t đại đội và 2 trung đội công binh, thu nhiều vũ khí, phá 18 xe các loại, trong đó có 10 xe đặc chủng.
Như vậy là chỉ hơn 2 tuần (từ ngày 12-28/3/1954), để phối hợp với Điện Biên Phủ, dân và quân Hưng Yên diệt, bức hàng và bức rút 12 vị trí lớn nhỏ, mở rộng khu du kích bắc Hưng Yên thêm 78 thôn, liên tục đánh mìn, đánh phá tàu, xe phá đường, đường sắt làm gián đoạn giao thông của địch; buộc địch phải giam chân nhiều lực lượng để giải vây, ứng cứu.
Đặc biệt là trên đường 5, quân và dân Hưng Yên đã phục kích thành công 4 trận, tiêu diệt và làm mất sức chiến đấu tương đương tiểu đoàn thuộc lực lượng cơ động chiến lược của địch. Đây là chiến công xuất sắc của ba thứ quân, của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân đã phối hợp chặt chẽ tạo nên những trận đánh nổi bật về giao thông chiến trên một vùng trọng điểm về giao thông vận tải chiến lược; là sự phối hợp hiệu quả đối với đợt 1 của chiến trường chính Điện Biên Phủ.
Khi bộ đội ta mở đợt công kích thứ hai vào Điện Biên Phủ, quân và dân Hưng Yên mở đợt hoạt động mới trên cả tuyến đường 5 và ở phía nam của tỉnh với những trận đánh lớn: ngày 22/4/1954, Tiểu đoàn 698 cùng các địa phương tổ chức trận phục kích lớn tại khu vực chợ Đường Cái; khi cả tiểu đoàn địch có 4 xe tăng yểm hộ lọt vào trận địa phục kích của ta. Đơn vị "bịt đầu" nổ súng.
Du kích huyện Văn Lâm đặt mìn đánh đổ đoàn tàu của thực dân Pháp. (Ảnh Tư liệu).
Các lực lượng tại chỗ bật dậy cùng xung lực từ phía nam đường 5 ào ạt tiến công, tiếp cận địch rất nhanh, chia cắt địch ra thành từng tốp, dùng thủ pháo, tiểu liên, báng súng đánh gần, liên tiếp diệt hết chỗ địch co cụm này đến khu địch lẩn trốn khác.
Sau hơn một giờ chiến đấu, ta tiêu diệt tại trận 179 tên, làm bị thương 64 tên, bắt 108 tên (có 2 quan tư, 1 quan ba, 2 quan hai người Pháp); phá hủy một xe tăng, 11 xe quân sự, một pháo 57mm; thu được 2 đại bác, 2 súng cối, 2 đại liên, 12 trung liên, 54 tiểu liên, 13 súng lục, 70 súng trường, tiểu đoàn quân viễn chinh số 100 của địch bị xóa sổ. Đây là trận thắng lớn nhất trong đợt hoạt động phối hợp với Điện Biên Phủ trên Mặt trận đường 5; và là trận phục kích thắng lợi thứ ba trong vòng 40 ngày trên cùng một quãng đường 5 chỉ cách Hà Nội 20km.
Khi ở Điện Biên Phủ ta công kích đợt 3, Tiểu đoàn 54 tập kích quận lỵ Văn Giang diệt gọn một đại đội địch; bộ đội huyện Văn Giang tập kích diệt bọn địa phương quân ở Thuận Tốn và tập kích vị trí Xuân Quan bắt 42 tên, thu 35 súng; Đại đội 10 và bộ đội huyện Văn Lâm liên tục đánh đổ nhiều tàu quân sự tại các khu vực Khuyến Thiện, Đại Từ, Lạc Đạo, Đông Mai
Ngày 7/5/1954 chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, vui mừng trước thắng lớn trên chiến trường chính, quân và dân Hưng Yên tiếp tục tiến công địch trên tất cả các hướng và giành nhiều thắng lợi quan trọng.
Bài: PHẠM HÀ
Trình bày: TRẦN LAM
Trước hết, dưới góc nhìn địa lý học, Điện Biên Phủ giữ một vị trí chiến lược hết sức quan trọng. Điện Biên Phủ với tên gọi khởi nguyên "Mường Thanh" là một thung lũng rộng lớn, được bao bọc bởi vùng đồi núi điệp trùng với hai vòng rõ rệt.
- Vòng ngoài là vùng núi cao, từ 1.000 m trở lên, đỉnh cao nhất là Phu Huổi Luông (2.178m), toàn vùng có diện tích tự nhiên khoảng 200.000 ha, chiếm 65% diện tích toàn huyện Điện Biên cũ.
- Vòng trong là vùng đồi núi thấp với độ cao trung bình 700m, độ dốc từ 16 đến 20°, có tổng diện tích là 91.000ha, chiếm 27% diện tích toàn huyện.
Vùng thung lũng có diện tích 25.700 ha, chiếm 8% diện tích toàn huyện, bao gồm những thung lũng hẹp vây quanh cánh đồng Mường Thanh rộng hơn 4.000 ha ruộng nước. Đây là cánh đồng rộng nhất trong bốn cánh đồng nổi tiếng của vùng núi Tây Bắc "nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc". Mường Thanh, dưới con mắt của nhà bác học Lê Quý Đôn thế kỷ XVIII có "Thế núi vòng quanh, nước sông bao bọc, đồn sở ở giữa, ruộng đất bằng phẳng màu mỡ, bốn bên đến chân núi đều phải đi một ngày đường, công việc làm ruộng bằng nửa công việc các châu khác mà số hoa lợi thu hoạch lại gấp đôi. Thổ sản có sa nhân, sáp vàng, diêm tiêu, lưu hoàng và sắt sống" (1). Xem thế đủ biết, Mường Thanh có tiềm năng to lớn để phát triển kinh tế, trước hết là về sản xuất nông nghiệp.
Điện Biên nằm ở trung tâm, án ngữ những con đường giao thông huyết mạch của vùng Tây Bắc, tỏa đi những trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa khu vực giáp ranh ba nước Việt - Trung - Lào. Từ trung tâm Mường Thanh theo quốc lộ 12, qua Mường Pồn, Mường Muôn lên tới Mường Lay (thị xã Lai Châu - 103 km).
Ngược lại, theo quốc lộ 279 (quốc lộ 42 cũ) đến cửa khẩu Tây Trang nằm trên đường biên giới Điện Biên với nước bạn Lào, dài 172 km. Từ đây có thể đi Sầm Nưa - Luang Prabang vùng Thượng Lào hoặc tới Phông Xa Lỳ ở Trung Lào. Con đường từ Điện Biên qua Mường Phăng đến Tuần Giáo được nối với quốc lộ 6 để xuống Sơn La - Thuận Châu - Hòa Bình và về Hà Nội.
Về đường thủy, từ Mường Thanh theo sông Nậm Rốm rẽ vào sông Nậm Nứa cập vào Pắc U để vào sông Nậm Hu dẫn đến sông Mê Công rộng lớn, tới Luang Prabang. Vẫn từ Nậm Rốm ngược dòng đến Bản Lang - Nà Tấu, theo sông Nậm Cô vào sông Nậm Nứa, thuyền sẽ vào Nậm Mạ (sông Mã) vòng sang đất Lào để lại chảy về miền núi xứ Thanh của Việt Nam. Từ đất Mường Pồn (cách trung tâm Mường Thanh 20 km), có thể xuôi thuyền theo sông Nậm Mấc vào sông Đà, xuống Tạ Bú, Tạ Khoa - Chợ Bò về Hà Nội. Còn muốn lên phía bắc, khi đến sông Đà, theo thuyền ngược tới Mường Lay - Phong Thổ và sang tới Mường Là của Trung Quốc.
Với vị trí chiến lược, có nhiều tiềm năng về kinh tế trên đây, mảnh đất Mường Thanh-Điện Biên sớm có con người cư trú. Các truyền thuyết, các huyền thoại được lưu truyền trong dân gian hay được ghi lại trong một số tác phẩm văn học dân gian của các dân tộc thiểu số như Sống trụ xôn xao, Quắm tố mướn, Chuyện kể bản mường... phản ánh quá trình khai phá từ xa xưa của các nhóm cư dân ở vùng đất này.
Điện Biên nằm ở trung tâm, án ngữ những con đường giao thông huyết mạch của vùng Tây Bắc, tỏa đi những trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa khu vực giáp ranh ba nước Việt - Trung - Lào.
Bản đồ tỉnh Điện Biên. (Ảnh: dienbien.gov.vn)
Giữa năm 1998, khi điều tra cơ bản để phục vụ cho việc xây dựng Dự án Nhà máy thủy điện Sơn La, các nhà khảo cổ học đã phát hiện được ở Chiềng Lề một trống đồng loại II, cách ngày nay khoảng 2.000 năm. Trống hiện được lưu tại Bảo tàng tỉnh Điện Biên.
Đây là phát hiện quan trọng nhất, minh chứng cho quá trình cư trú của con người tại vùng đất ngã ba biên giới này (2). Các bộ sử cũ của ta như An Nam chí lược (đời Trần), Dư địa chí của Nguyễn Trãi, Đại Việt sử ký toàn thư (thời Lê), Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lục chính biên, Đại Nam nhất thống chí, Hưng Hóa ký lược (thời Nguyễn)... cũng như sử sách Trung Quốc từ đời Hán, đời Đường đều khẳng định hoặc ghi nhận, mảnh đất này có từ thời Hùng Vương, là bộ phận không tách rời của lãnh thổ Việt Nam, tùy từng thời được cắt, chuyển vào các đơn vị hành chính khác nhau của Nhà nước Việt Nam.
Theo các sách trên thì đời Hùng Vương, đất Điện Biên đã thuộc nước Văn Lang. Đến thời Bắc thuộc, thuộc quận Giao Chỉ. Thời Lý nằm trong đất của châu Lâm Tây. Thời Trần, cả nước chia làm 12 lộ thì Mường Thanh thuộc châu Ninh Viễn (sau là Ninh Biên), lộ Đà Giang.
Năm Nhâm Tý (1432) sau khi dẹp xong nạn cát cứ của Đèo Cát Hãn - một tù trưởng Thái trắng ở vùng Lai Châu. Lê Thái Tổ đổi châu Ninh Biên thành châu Phục Lễ (gồm cả đất Mường Thanh thuộc lộ Gia Hưng)(3). Năm Kỷ Sửu đời Quang Thuận (1469), Lê Thánh Tông chia nước ta làm 12 thừa tuyên, Mường Thanh thuộc phủ An Tây, thừa tuyên Hưng Hóa. Năm Ất Mùi niên hiệu Cảnh Hưng (1775), sau khi dẹp xong cuộc khởi nghĩa nông dân Hoàng Công Chất, chúa Trịnh đặt châu Ninh Biên thuộc phủ An Tây với đất Điện Biên là trung tâm. Đầu đời Gia Long (1802-1819), lại lệ thuộc phủ Gia Hưng. Năm Tân Mão (1831), sau cuộc cải cách hành chính của vua Minh Mệnh, phủ Gia Hưng nằm trong tỉnh Hưng Hóa.
Năm Thiệu Trị nguyên niên (1841), để bảo vệ miền Tây Bắc, chống lại sự xâm lấn của phong kiến Xiêm và Lào, cùng sự quấy rối của các toán giặc cỏ, nhà Nguyễn đặt ra phủ Điện Biên (bao gồm các châu: Ninh Biên, Tuần Giáo và Châu Lai), phủ lỵ đóng tại Chiềng Lề thuộc đất Điện Biên ngày nay.
Đầu thời Pháp thuộc, Điện Biên Phủ nằm trong đất thuộc đạo quan binh thứ tư, trong khu vực quân sự Vạn Bú (gồm phần lớn đất của hai tỉnh Sơn La và Lai Châu ngày nay), theo Nghị định ngày 6/1/1891 của Toàn quyền Pháp. Năm 1910, tỉnh Lai Châu được thành lập, Điện Biên thuộc phủ Điện Biên của tỉnh này. Thực dân Pháp duy trì chế độ quân quản tại đây trong một thời gian khá dài.
Sau khi Điện Biên Phủ được giải phóng, ta thành lập Khu tự trị Thái Mèo (sau đổi thành Khu tự trị Tây Bắc), không có đơn vị hành chính trung gian là tỉnh. Tất cả các châu huyện trong vùng trước đây, trong đó có châu Điện Biên đều trực thuộc Khu Tây Bắc.
Sau khi Điện Biên Phủ được giải phóng, ta thành lập Khu tự trị Thái Mèo (sau đổi thành Khu tự trị Tây Bắc), không có đơn vị hành chính trung gian là tỉnh. Tất cả các châu huyện trong vùng trước đây, trong đó có châu Điện Biên đều trực thuộc Khu Tây Bắc.
Tháng 12-1962, kỳ họp thứ năm Quốc hội khóa III quyết định thành lập lại ba tỉnh Lai Châu, Sơn La và Nghĩa Lộ. Tỉnh Lai Châu có bảy huyện và một thị xã, trong đó có huyện Điện Biên.
Cho đến đầu năm 1992, huyện Điện Biên có 30 xã và 2 thị trấn. Ngày 18/4/1992, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định 130/HĐBT thành lập thị xã Điện Biên Phủ gồm thị trấn Điện Biên và xã Thanh Minh. Huyện Điện Biên còn lại 29 xã và thị trấn Nông trường Điện Biên.
Ngày 7/10/1995, Chính phủ ra Nghị định 59/CP chia huyện Điện Biên thành hai huyện là Điện Biên và Điện Biên Đông.
-Huyện Điện Biêncó diện tích 180.161 ha, số dân 97.709 người, gồm 19 xã và thị trấn Nông trường Điện Biên.
-Huyện Điện Biên Đôngcó 121.799 ha, số dân 35.063, gồm 10 xã.
Theo Nghị quyết kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XI (từ ngày 20/10-26/11/2003), thị xã Điện Biên Phủ được chuyển thành thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên (4). Thành phố Điện Biên gồm 7 phường: Tân Thanh, Him Lam, Noong Bua, Mường Thanh, Thanh Bình, Nam Thanh, Tân Trường và xã Thanh Minh.
Như vậy, từ huyện Điện Biên ban đầu, nay đã tách ra thành ba đơn vị hành chính, trong đó có thành phố Điện Biên Phủ - nơi diễn ra trận đánh lịch sử "Lừng lẫy Điện Biên chấn động địa cầu" năm xưa, nay là tỉnh lỵ của tỉnh Điện Biên. Nhiều học giả nước ngoài cho rằng, mảnh đất Điện Biên từng chứng kiến những luồng giao lưu giữa văn hóa của các cư dân trồng trọt bản địa với văn hóa của các cư dân du mục miền Trung Á xa xôi.
Điện Biên còn nằm trên đường chuyển tải văn hóa từ Ấn Độ vào bắc Đông Dương và ngược lại. Điện Biên cũng là nơi gặp gỡ của nhiều tộc người mà nhiều thời kỳ "ai mạnh thì làm chúa". Những lớp cư dân đầu tiên chiếm lĩnh vùng đất Điện Biên là các cư dân thuộc ngôn ngữ Môn - Khơme và người Lự. Cho đến thế kỷ X, người Lự đã phát triển hưng thịnh ở Mường Thanh, mở rộng ảnh hưởng ra cả lòng chảo Điện Biên, Lai Châu (Tuần Giáo), xuống Sơn La; đẩy lùi các tộc người thuộc ngôn ngữ Môn-Khơme (Kháng, Xinh Mun, Khơ Mú) vào sâu các miền chung quanh lòng chảo.
Một góc đường phố Điện Biên hôm nay.
Từ thế kỷ XI-XII, một bộ phận tổ tiên người Thái từ Mường Ôm, Mường Ai thuộc miền nam Vân Nam, giữa sông Nậm Hu và sông Hồng tiến xuống chiếm Mường Lò (Nghĩa Lộ) rồi lần lượt mở rộng ảnh hưởng ra các vùng Tú Lệ, Than Uyên, Văn Bàn thuộc tỉnh Yên Bái ngày nay.
Đến đời chúa Lạng Chương, người Thái từ Nghĩa Lộ đẩy lùi các tộc người thuộc ngôn ngữ Môn-Khơme, tiến xuống Sơn La rồi tiến lên chiếm lĩnh cánh đồng Mường Thanh, nhưng vấp phải sức kháng cự mãnh liệt của người Lự và các tộc người Môn-Khơme.
Cuối cùng, người Thái để người Lự làm chủ miền bắc cánh đồng Mường Thanh, còn họ dựng mường trung tâm ở cánh đồng này (khu vực quanh đồi A1 hiện nay) và chia cho con cháu, tay chân cai quản.
Đây cũng là thời kỳ nhà Lý hưng thịnh. Trong cố gắng nhằm nắm được các vùng tộc người thiểu số nơi biên viễn, nhà Lý đã buộc các tù trưởng Thái đen (mà có học giả đã cho rằng, đấy chính là người Ngưu Hống được ghi trong sử cũ) thần phục. Sau khi Lạng Chương chết một thời gian, nội bộ các chúa đất Thái bất hòa. Nhân cơ hội đó, người Lự tổ chức đánh bật người Thái khỏi Mường Thanh. Các chúa đất Thái phải hợp sức lại, bỏ mối bất hòa để chống lại người Lự. Cuộc tranh chấp liên miên giữa hai tộc người kéo dài suốt thế kỷ XIV với việc người Lự vẫn làm chủ Mường Thanh, còn người Thái mở rộng ảnh hưởng xuống vùng Thuận Châu và vùng đất dọc sông Hồng, sông Đà, sông Mã. Có thời kỳ, họ uy hiếp cả khu vực cư trú của người Mường khiến triều đình nhà Trần phải điều quân cản đánh lại (5).
Sang thế kỷ XV, các vua nhà Lê (khởi đầu là Thái Tổ, Thái Tông và Thánh Tông) có nhiều cố gắng chấm dứt thái độ "ngả nghiêng" của các tù trưởng Thái khi muốn dựa vào nước Lào chống lại triều đình, lúc muốn dựa vào triều đình chống lại nước Lào, buộc họ phải quy phục. Biên giới Tổ quốc được bảo vệ, tình hình Tây Bắc tương đối yên ổn.
Tuy nhiên, đất Mường Thanh lúc này vẫn do các chúa đất người Lự thống trị với trung tâm là thành Tam Vạn (nay thuộc xã Sam Mứn, huyện Điện Biên). Họ duy trì chính sách vừa thân Việt, vừa thân Lào. Khi triều đình Việt hưng thịnh (thời Lê sơ), họ quy phục và đã góp phần bảo vệ miền Điện Biên chống lại các đợt tấn công của các toán "giặc cỏ" từ tây nam Trung Quốc, Thượng Lào sang. Nhưng khi triều đình Trung ương suy yếu hoặc bận lo giải quyết nhiều vấn đề trọng đại khác ở đồng bằng, các chúa Lự lại liên kết với ngoại bang để chống lại triều đình hoặc liên kết, tập hợp các phần tử bất mãn, đối lập người Thái để tranh chấp, uy hiếp phạm vi ảnh hưởng với các chúa đất Thái.
Gần 20 đời các chúa Lự thống trị ở Mường Thanh, đất Điện Biên trở thành nơi tranh chấp giữa các tập đoàn chúa đất Thái-Lự.
Từ những năm 40 của thế kỷ XVIII, triều đình Lê-Trịnh bận lo đối phó với các cuộc khởi nghĩa nông dân ở dưới xuôi, không còn điều kiện để quan tâm tới đất Tây Bắc. Nhân cơ hội đó, những đám giặc cỏ từ Tây Nam Trung Quốc và Thượng Lào tràn sang, đuổi người Lự khỏi cánh đồng Mường Thanh, tiến xuống vùng Sơn La. Triều đình Lê-Trịnh cử quân lên đánh dẹp, nhưng cũng chỉ đuổi "giặc cỏ" về cố thủ ở Mường Thanh rồi rút quân về xuôi. Mường Thanh lại nằm trong sự kiểm soát của giặc cỏ với bao tội ác man rợ với nhân dân trong vùng.
Năm 1751, lãnh tụ khởi nghĩa nông dân Hoàng Công Chất chuyển hoạt động lên vùng Tây Bắc. Được lực lượng nghĩa binh người Thái và các tộc người khác giúp đỡ, nghĩa quân Hoàng Công Chất đã đuổi "giặc cỏ" khỏi Mường Thanh, giải phóng Tây Bắc. Ông đã xây thành ở Chiềng Lề, đem lại cuộc sống hòa bình, ổn định cho nhân dân các dân tộc Tây Bắc. Từ đây, đất Mường Thanh thật sự trở thành bộ phận khăng khít của Tổ quốc, một tiền đồn bảo vệ biên cương Tây Bắc.
Cầu Mường Thanh.
Sau khi Hoàng Công Chất mất (năm 1767), con là Hoàng Công Toan không đủ sức tập hợp các tướng lĩnh bảo vệ vùng Điện Biên và Tây Bắc. Nhưng chúa Trịnh sau khi dẹp được cuộc khởi nghĩa Hoàng Công Chất lại bỏ rơi vùng này, khiến cho Tây Bắc lại bị ngoại bang đe dọa. Mường Thanh rơi vào vòng ảnh hưởng của phong kiến Lào.
Mãi đến năm 1775, do những biến cố trong nước, các vua chúa Lào mới trả lại vùng Mường Thanh. Từ đây, đất Mường Thanh được tạm yên. Sử cũ ghi lại, thời kỳ này, "các dân tộc Kinh, Hoa, "Xá" Lào, Thái ở xen kẽ hòa hợp trong vùng, chợ búa phủ lỵ đông vui. Người Ai Lao, Miến Điện, Trung Quốc đổ về buôn bán sầm uất". Đây có lẽ là thời kỳ bình ổn và phát đạt nhất của Mường Thanh từ thời điểm đó trở về trước. Tình hình này tiếp diễn đến nửa đầu thế kỷ XIX.
Nhưng từ thập kỷ thứ ba của thế kỷ XIX trở đi, Mường Thanh lại nằm trong tình trạng hỗn loạn. Hết những toán "giặc cỏ" giày xéo lại đến giặc Pháp xâm lăng. Từ cuối thế kỷ XIX, nhân dân các dân tộc Mường Thanh chịu sự áp bức, bóc lột hà khắc của thực dân Pháp và tầng lớp quý tộc người Thái. Cho đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930) với chính sách "đoàn kết và bình đẳng dân tộc", đã tập hợp, lãnh đạo nhân dân các tộc người làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 và sau đó là chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy khắp năm châu.
Bảo tàng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Nhìn lại lịch sử đất Mường Thanh-Điện Biên Phủ hơn một thiên niên kỷ vừa qua cho thấy, mảnh đất này luôn biến động bởi các cuộc tranh chấp giữa các tù trưởng các tộc người, bởi các cuộc xâm lấn của các thế lực phong kiến ngoại bang và các đám "giặc cỏ" từ bên kia biên giới, gây bao nỗi đau thương tang tóc cho nhân dân các dân tộc.
Lịch sử hơn một thiên niên kỷ qua cũng chứng tỏ, triều đình phong kiến Việt Nam đã có nhiều cố gắng trong việc nắm giữ và bảo vệ Mường Thanh-Điện Biên, trung tâm của vùng Tây Bắc, "phên dậu" của Tổ quốc và nhân dân các dân tộc ở đây đã có nhiều thời kỳ sát cánh bên nhau chiến đấu chống quân thù để bảo vệ dải đất này.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, lịch sử của đất Mường Thanh-Điện Biên Phủ là lịch sử nhân dân các dân tộc ở đây đoàn kết, chiến đấu dưới ngọn cờ của Đảng, làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, mở đầu cho thời kỳ sụp đổ của toàn bộ hệ thống chủ nghĩa thực dân kiểu cũ. Điện Biên trở thành biểu tượng cho ý chí và tinh thần quật khởi của dân tộc Việt Nam. Tiếp đó là lịch sử các dân tộc ở đây chung sức chung lòng, làm thay đổi toàn diện và sâu sắc bộ mặt mảnh đất lịch sử này. Ngày nay, cùng với cả nước, nhân dân các dân tộc Điện Biên Phủ bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với việc thị xã Điện Biên Phủ được nâng cấp thành thành phố Điện Biên Phủ, trở thành trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa của cả tỉnh Điện Biên, quá trình đô thị hóa ngày càng được đẩy mạnh. Điện Biên sẽ nhanh chóng trở thành đô thị giàu đẹp của Tây Bắc. Tuy nhiên, trong quá trình đó, cần lưu ý tránh việc đô thị hóa dẫn đến lấn át các di tích lịch sử-văn hóa và tránh việc hiện đại hóa dẫn đến "đồng hóa" và "hòa tan" văn hóa các dân tộc.
Với việc thị xã Điện Biên Phủ được nâng cấp thành thành phố Điện Biên Phủ, trở thành trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa của cả tỉnh Điện Biên, quá trình đô thị hóa ngày càng được đẩy mạnh. Điện Biên sẽ nhanh chóng trở thành đô thị giàu đẹp của Tây Bắc.
Nếu như trong lịch sử trước đây có hiện tượng các tộc người "chiến thắng" hủy hoại các dấu tích lịch sử văn hóa, "đồng hóa" về mặt văn hóa đối với các tộc người "chiến bại" thì ngày nay, trong công cuộc hiện đại hóa mảnh đất Điện Biên, các di tích lịch sử văn hóa cần được bảo vệ, các giá trị văn hóa của các dân tộc cần được bảo tồn và phát huy để Điện Biên trở thành trung tâm của vùng văn hóa Tây Bắc.
Vì những lẽ đó, chúng tôi kiến nghị với các ngành, các cấp:
1. Khoanh vùng lại để bảo vệ và đầu tư kinh phí để tôn tạo nâng cấp các điểm chính trong khu di tích Điện Biên Phủ (đồi A1, Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo, sân bay Mường Thanh, hầm Đờ Cátxtơri...), biến nơi đây không chỉ là di tích lịch sử mà còn là điểm vui chơi, giải trí, sinh hoạt văn hóa và giáo dục truyền thống.
2. Khôi phục và tôn tạo lại các di tích lịch sử đã bị hoang phế hay có nguy cơ bị hoang phế như thành Bản Phủ, thành Tam Vạn...
3. Xây dựng một số làng bản của người Thái, người Mông, Khơ Mú theo đúng kiểu cách truyền thống để thành những điểm du lịch quanh khu di tích Điện Biên.
4. Tổ chức nghiên cứu để khôi phục lại một số lễ hội tiêu biểu của các dân tộc trong vùng để phục vụ du lịch văn hóa.
5. Đầu tư kinh phí cho các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu các vấn đề về lịch sử văn hóa các dân tộc ở Điện Biên.
-----------
Trích trong sách “50 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ: Điện Biên Phủ-Hợp tuyển công trình khoa học”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. Trước đó, bài đã đăng trong sách: Quân và dân Tây Bắc với chiến thắng Điện Biên Phủ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999.
-------------
Chú thích:
(*) Quân đội nhân dân Việt Nam - Bộ Tư lệnh Quân khu 2, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Quân và dân Tây Bắc với chiến thắng Điện Biên Phủ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999. Tác giả có điều chỉnh các đơn vị hành chính theo sự thay đổi hiện nay.
(1). Lê Quý Đôn: Kiến văn tiểu lục, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1962, tr.359-360.
(2). Tư liệu của PGS, TS. Nguyễn Khắc Sử (Viện Khảo cổ học).
(3). Châu Phục Lễ tức Mường Lễ, tức tỉnh Lai Châu hiện nay.
(4). Theo Nghị quyết này, tỉnh Lai Châu được chia thành hai tỉnh là Điện Biên và Lai Châu.
- Tỉnh Điện Biên gồm thành phố Điện Biên, các huyện Điện Biên, Điện Biên Đông, Mường Lay, Mường Nhé, Tủa Chùa, Tuần Giáo và thị xã Lai Châu. - Tỉnh Lai Châu gồm các huyện Mường Tè, Phong Thổ, Sìn Hồ, Tam Đường và Than Uyên.
(5). Dẫn theo Đinh Xuân Lâm, Đặng Nghiêm Vạn: Điện Biên trong lịch sử, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1979.
---------------
Nội dung: TS. BÙI XUÂN ĐÍNH, Viện Dân tộc học - Viện Khoa học xã hội Việt Nam
Trình bày: Ngọc Bích
Ảnh: Thành Đạt
Trong những năm tháng lịch sử đó, Đại đoàn 308 (nay là Sư đoàn 308) rất tự hào đã được đóng góp công sức của mình, trực tiếp chiến đấu trên chiến trường Tây Bắc - Thượng Lào và tham gia Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.
Đại đoàn 308 là đại đoàn được thành lập đầu tiên của quân đội ta, là một trong những đại đoàn chủ lực cơ động của bộ. Từ khi ra đời, đại đoàn đã liên tục tham gia chiến đấu trong các chiến dịch lớn, từ Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950 đến các Chiến dịch Trung du, Chiến dịch đường số 18 Xuân Hè 1951, Chiến dịch Hòa Bình Đông Xuân 1951-1952, Chiến dịch Tây Bắc Thu Đông 1953, Chiến dịch Thượng Lào mùa Hè 1953, chiến dịch nào đại đoàn cũng hoàn thành tốt nhiệm vụ, lập nhiều chiến công.
Sau Chiến dịch Thượng Lào mùa Hè 1953, đại đoàn trở về Thái Nguyên tiến hành chỉnh huấn chính trị nhằm nâng cao giác ngộ giai cấp, tinh thần cách mạng của bộ đội. Vừa chỉnh huấn chính trị, đại đoàn vừa tiến hành ổn định biên chế tổ chức, sau đó bước vào một đợt huấn luyện quân sự, tập trung vào nghiên cứu luyện tập cách đánh tập đoàn cứ điểm, cách đánh vận động lớn. Sau một thời gian chỉnh huấn, trình độ quân sự và bản lĩnh chính trị của cán bộ, chiến sĩ đại đoàn đã được nâng cao một bước đáng kể.
Bước vào Đông Xuân 1953-1954, thực hiện kế hoạch tác chiến đã được Bộ Chính trị thông qua, trên phạm vi cả nước quân ta bắt đầu phối hợp các hoạt động tác chiến. Trung tuần tháng 11-1953, một số đơn vị chủ lực ta tiến quân về phía tây, nơi địch yếu và sơ hở. Bị uy hiếp, Bộ Chỉ huy Pháp vội vã điều lực lượng đối phó, cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ và đưa gấp lực lượng đến xây dựng phòng tuyến sông Nậm Hu, nối Điện Biên Phủ với Thượng Lào. Địch tập trung xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ và chấp nhận quyết chiến với ta tại đây.
Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam bàn kế hoạch tác chiến Đông-Xuân (1953-1954).
Đầu tháng 12-1953, Đại đoàn 308 được lệnh hành quân chiến đấu. Từ Thái Nguyên, đại đoàn vượt qua sông Chảy, sông Đà, theo đường 41 tiến lên Tây Bắc, đại đoàn có nhiệm vụ cùng đơn vị bạn tiêu diệt địch ở thị xã Lai Châu, sau đó tiến vào bao vây đánh địch ở Điện Biên Phủ. Nhưng khi đại đoàn hành quân tới thị xã Sơn La thì địch đã bỏ thị xã Lai Châu rút chạy, Đại đoàn 308 lại được lệnh tiến gấp theo đường Sơn La - Tuần Giáo, tiến lên Điện Biên Phủ. Riêng Trung đoàn 36 rẽ về phía tây theo đường mòn qua Mường Ngòi, Mường Lâm, xuyên rừng tới phía nam và tây-nam Điện Biên Phủ, chia cắt địch ở Điện Biên Phủ với Thượng Lào.
Tới Điện Biên Phủ, đại đoàn được Bộ Chỉ huy mặt trận giao nhiệm vụ bao vây địch và mở đường chuẩn bị cho chiến dịch. Trung đoàn 36 tiến vào bao vây địch ở phía tây, tây-nam Điện Biên, đã đánh hàng chục trận ngăn chặn quân địch hành quân thăm dò và chuẩn bị đường liên lạc với Thượng Lào. Đội quân báo của đại đoàn đã đánh lui một tiểu đoàn địch, diệt gần hai trung đội, bắt sống một số tên. Chiến sĩ quân báo Dương Quảng Châu cùng một đồng chí khác đã linh hoạt, mưu trí dùng kế nghi binh bắt sống và thu toàn bộ vũ khí của 38 tên lính Pháp và ngụy.
Cùng thời gian này, Trung đoàn 88 và Trung đoàn 102 đã gấp rút tiến vào mở đường chiến dịch. Mặc mưa rừng gió rét, bom đạn địch đánh phá ác liệt, cán bộ chiến sĩ đại đoàn đã lao động từ 12 đến 14 giờ mỗi ngày. Chỉ trong một tuần, các đơn vị đã hoàn thành sửa xong đoạn đường dài 20km từ Tuần Giáo đi Điện Biên Phủ và mở một con đường mới dài 10km, rộng 3m xuyên qua núi cao, rừng rậm từ phía đông-bắc sang phía tây-bắc Điện Biên Phủ để các đơn vị pháo binh, cao xạ đưa pháo vào trận địa.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ mở đường, Đại đoàn 308 lại hợp sức cùng các đơn vị bạn kéo pháo vào trận địa, triển khai lực lượng theo phương châm tác chiến ban đầu "đánh nhanh, thắng nhanh". Chiều ngày 26-1-1954, toàn đại đoàn đã chiếm lĩnh xong vị trí xuất phát tiến công, nhưng sát giờ nổ súng có lệnh hoãn tiến công để tác chiến theo phương châm mới "đánh chắc, tiến chắc".
Đại đoàn 308 được lệnh tiến gấp sang Thượng Lào đánh vào phòng tuyến sông Xậm Hu nhằm tiêu hao sinh lực địch và đánh lạc hướng phán đoán của chúng. Mặc dù không có thời gian chuẩn bị, gạo chưa lấy về kịp, mỗi người chỉ có trên vai một chiếc bánh chưng, một ít gạo rang, thậm chí bản đồ vùng tác chiến mới cũng không có, song chỉ 2 giờ sau khi nhận lệnh, toàn đại đoàn với tinh thần "quân lệnh như sơn" lập tức xuất kích từ Điện Biên Phủ sang Thượng Lào.
Vượt qua núi cao, rừng sâu, đại đoàn vừa đi vừa nắm tình hình, làm công tác dân vận, bảo đảm lương thực. Địch hoảng sợ bỏ Mường Khoa rút chạy. Đại đoàn 308 liền chuyển sang truy kích. Sau bốn ngày đêm liên tục đuổi đánh địch theo đường Mường Khoa đi Mường Sài, Sở Chỉ huy nhẹ đại đoàn đã luồn rừng chặn đầu tạo điều kiện cho Trung đoàn 102 tiến công vào hai bên sườn và phía sau, đánh thiệt hại nặng hai tiểu đoàn địch. Trung đoàn 36 và 88 củng theo đường Sốp Hào-Mường Ngòi đuổi địch đến Khuổi Sen, đánh tan một tiểu đoàn địch khác. Các cánh quân của đại đoàn truy kích địch đến tận Mường Sài, giải phóng Nậm Bạc, phát triển tiến công đến sát Luông Prabăng, diệt địch ở Nậm Ngà, Bắc Xường, Bản Na, bên bờ sông Mê Công. Phòng tuyến sông Nậm Hu của địch bị phá vỡ. Tập đoàn cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ bị cô lập từ phía tây.
Trong cuộc tiến công này, Đại đoàn 308, có sự phối hợp của một số lực lượng bạn Lào, đã tiêu diệt một tiểu đoàn lê dương (2/3 REI), đánh tan hai tiểu đoàn ngụy Lào và Tiểu đoàn Tabo thứ 5, bắt sống 300 tên.
Hoàn thành nhiệm vụ ở Thượng Lào, ngày 18-2-1954, đại đoàn lại gấp rút hành quân trở về tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ. Vừa về đến Điện Biên Phủ thì chiến dịch mở màn, mặc dù chưa có thời gian nghỉ ngơi chuẩn bị, đại đoàn vẫn lập tức bước vào cuộc chiến đấu.
Trong đợt tiến công thứ nhất đánh vào phân khu bắc tập đoàn cứ điểm của địch, sau khi Đại đoàn 312 tiêu diệt cứ điểm Him Lam, đêm 14 rạng ngày 15-3, đại đoàn tiến công tiêu diệt cứ điểm đồi Độc Lập. Do phải chờ sơn pháo đánh ở Him Lam đêm trước chuyển về, lại gặp trời mưa nên chậm giờ nổ súng, địch không còn bị bất ngờ chống trả quyết liệt. Nhưng chỉ sau ba giờ, đại đoàn đã tiêu diệt xong cứ điểm đồi Độc Lập, diệt và bắt toàn bộ tiểu đoàn địch. Ngay sau đó, các đơn vị của đại đoàn lại đánh tan hai tiểu đoàn lính dù và tám xe tăng địch từ Mường Thanh ra phản kích hòng chiếm lại đồi Độc Lập, buộc chúng phải rút chạy.
Trong trận đánh này nổi lên tấm gương của Tiểu đội trưởng bộc phá Nguyễn Văn Tỵ, đồng chí đã xông pha trên trận địa, chỉnh hướng và giúp các chiến sĩ liên tục đánh 30 quả bộc phá để mở đường cho xung kích. Tiêu biểu về tập thể anh hùng là Đại đội 213, mặc dù đã chiến đấu hy sinh gần hết cả đại đội, nhưng các đồng chí còn lại vẫn quyết tâm đánh lui quân địch phản kích ra đồi Độc Lập, không ai rời vị trí chiến đấu.
Bị ta tiêu diệt cứ điểm Him Lam và Độc Lập, quân địch ở Bản Kéo hoảng sợ ra hàng. Kết quả đợt một, ta hoàn toàn làm chủ phân khu phía bắc tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, diệt và bắt sống ba tiểu đoàn địch.
Trước khi bước vào đợt tiến công thứ hai, đại đoàn được giao nhiệm vụ vừa xây dựng trận địa tiến công trên cánh đồng phía tây khu trung tâm Mường Thanh (kéo dài từ Bản Kéo qua Pe Luông, Hồng Lếch đến bản Cò Mỵ) vừa đánh chiếm một số cứ điểm ngoại vi, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch.
Vượt qua bom đạn địch đánh phá, ngăn chặn, cán bộ chiến sĩ đại đoàn liên tục lao động suốt ngày đêm, trong khoảng 10 ngày đã đào được hơn 10 km hào trục, rồi từ hào trục lại đào tiếp hệ thống chiến hào tiến vào sát các cứ điểm địch và chia cắt sân bay Mường Thanh.
Hệ thống chiến hào của đại đoàn ở phía tây, nổi liền với hệ thống chiến hào của các đơn vị bạn ở phía đông, chia cắt hoàn toàn quân địch ở Hồng Cúm với khu trung tâm. Chiến hào của ta thực sự là mối nguy hiểm lớn đối với địch. Địch ra sức tổ chức nhiều cuộc phản kích ra lấp hào, đẩy ta ra xa. Nhiều trận đánh địch phản kích đã diễn ra hết sức quyết liệt, nổi bật là trận đánh bảo vệ trận địa chiến hào ở Pe Luông - Hồng Lếch ngày 28-3. Địch dùng hai tiểu đoàn và sáu xe tăng đánh vào trận địa của Trung đoàn 88. Mặc dù bị bất ngờ do chủ quan khinh suất, lại đang lúc cán bộ cấp trưởng đi họp vắng, cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 88 tại trận địa vẫn ngoan cường chiến đấu.
Trong trận này, xuất hiện nhiều tấm gương rất anh dũng, cảm động nhất là gương Tiểu đội trưởng Bùi Minh Đức và chiến sĩ Nguyễn Hoàng Phương cùng phối hợp diệt địch, người bị thương hỏng cả hai mắt nhưng còn tay thì bắn súng, người bị thương cả hai tay thì quan sát hướng dẫn mục tiêu. Gương các chiến sĩ Phân đội phòng không 78 (Tiểu đoàn phòng không 387) đi cùng Trung đoàn 88, đã kiên quyết không rời trận địa, hạ thấp nòng pháo bắn bộ binh địch, chiến đấu hy sinh đến người cuối cùng. Tinh thần chiến đấu anh dũng của các chiến sĩ trên trận địa đã tạo điều kiện thuận lợi để thê đội 2 của Trung đoàn 88, khi cán bộ cấp trưởng đi họp về, tổ chức phản kích đánh lui quân địch, khôi phục lại trận địa.
Từ hệ thống chiến hào đã xây dựng và giữ vững trước các cuộc phản kích của địch, ngày 30-3, quân ta mở màn đợt tiến công thứ hai. Khi các đơn vị bạn đánh địch ở các ngọn đồi phía đông thì Trung đoàn 36 nổ súng tiến công vào cứ điểm 106. Trong trận đánh này Trung đoàn 36 đã sử dụng chiến thuật đánh lấn: dùng hỏa lực chế áp địch cho xung kích đào hào, lấn dần vào trung tâm rồi bất ngờ vượt lên xung phong. Bằng cách đánh đó, chỉ sau 30 phút nổ súng (từ 18 giờ 30 phút đến 19 giờ 30 phút ngày 1-4), quân địch ở cứ điểm 106 đã hoàn toàn bị tiêu diệt và bị bắt. Kinh nghiệm đánh lấn của Trung đoàn 36 lập tức được phổ biến cho toàn mặt trận.
Cùng thời gian này, ở phía đông, Đại đoàn 312, Đại đoàn 316 lần lượt đánh chiếm các vị trí địch trên các ngọn đồi C1, E, D, D2. Nhưng trận đánh đồi A1 lại gặp khó khăn. Được lệnh của Bộ Chỉ huy mặt trận, Đại đoàn 308 lập tức điều Trung đoàn 102 cơ động theo đường hào trục tây sang đông Mường Thanh vào thay thế Trung đoàn 174 đánh đồi A1. Tuy gặp rất nhiều khó khăn vì không có chuẩn bị, nhưng tình hình hết sức khẩn trương nên vừa cơ động tới, Trung đoàn 102 lập tức nổ súng đánh cứ điểm A1.
Đồi A1 là vị trí sống còn đối với địch ở trung tâm Mường Thanh, bọn địch đã tăng cường dựa vào công sự trận địa kiên cố, vì ở đây có Sở Chỉ huy của tướng Đờ Cátxtơri đặt trong hầm bí mật, có hệ thống công sự kiên cố bao quanh.
Khi Trung đoàn 102 của ta tiến công, tiểu đoàn lê dương được tăng cường cho Sở Chỉ huy đã chống trả quyết liệt dưới sự chi viện của hỏa lực không quân và pháo binh. Trận đánh diễn ra liên tục hai ngày ba đêm (từ 17 giờ ngày 31-3 đến 4 giờ 30 phút ngày 3-4); ta và địch giành đi giật lại từng đoạn hào, từng ụ súng. Mỗi lần ta tiến công chiếm được trận địa, địch lại rút xuống hầm ngầm rồi ném bom, bắn pháo sát thương ta và điều từng tiểu đoàn lính dù có xe tăng hỗ trợ từ Mường Thanh lên phản kích. Hơn 800 cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 102 hy sinh và bị thương trong các trận đánh, nhưng cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 102 vẫn anh dũng chiến đấu, giữ vững trận địa ở phía đông A1, tạo thế cho trận đánh tiêu diệt đồi A1 sau này.
Trong trận đánh đã xuất hiện nhiều tấm gương chiến đãu rất anh dũng. Nổi bật là gương của đồng chí Chu Văn Mùi, chiến sĩ thông tin, ba ngày nhịn đói vẫn chiến đấu giữa vòng vây, gọi pháo bắn ngay vào vị trí của mình để diệt bọn địch tới gần. Gương của Trung đoàn trưởng Hùng Sinh vừa trực tiếp lên trận địa chỉ huy bộ đội. vừa cùng các chiến sĩ dùng lựu đạn, tiểu liên diệt địch, bảo vệ trận địa.
Những ngày cuối đợt hai, từ thế trận đã tạo được, quân ta tiếp tục phát triển xây dựng trận địa và đánh chiếm thêm một số cứ đỉểm, thắt chặt vòng vây, chuẩn bị đợt ba tổng công kích.
Từ cứ điểm 106, Đại đoàn 308 đào tiếp chiến hào vào sát cứ điểm 206, sân bay Mường Thanh. Đêm 21 rạng ngày 22-4, Trung đoàn 36 lại dùng cách đánh lấn tiêu diệt gọn cứ điểm 206 trong vòng hai giờ, diệt và bắt một đại đội, tạo thế cho Trung đoàn 88 đào chiến hào vào trung tâm sân bay, xây dựng trận địa, cắt tiếp tế đường không của địch. Địch điên cuồng phản kích ra hướng sân bay để nối lại cầu hàng không.
Ngày 21-4, Tiểu đoàn dù số 6 của địch ba lần phản kích vào trận địa trung tâm sân bay của Trung đoàn 88 nhưng đều bị Tiểu đoàn 23, Trung đoàn 88 đánh bật.
Đêm 22-4, địch dồn sức tổ chức một cuộc phản kích lớn với hai tiểu đoàn (Tiểu đoàn dù số 6 và Tiểu đoàn lê dương thứ nhất), có sáu xe tăng đi cùng, được máy bay, pháo binh chi viện, mở bốn đợt xung phong hòng đánh bật Trung đoàn 88 ra khỏi khu vực sân bay Mường Thanh. Suốt ba giờ chiến đấu, Trung đoàn 88 đã phối hợp với pháo binh mặt trận đánh bại cả bốn đợt tiến công của địch, giữ vững trận địa và cuối cùng tổ chức phản kích, đuổi địch tháo chạy về trung tâm Mường Thanh.
Cuối tháng 4, quân Pháp ở Điện Biên Phủ đã rơi vào tình thế vô cùng khốn quẫn. Bộ Chỉ huy mặt trận quyết định mở đợt tiến công thứ ba đánh chiếm các vị trí còn lại ở phía đông, phía tây, tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Ngày 1-5, ta mở đợt tiến công thứ ba.
Trong khi các đơn vị bạn tiến công địch ở các mỏm đồi còn lại phía đông, đêm 1-5, Trung đoàn 88 tiến công tiêu diệt cứ điểm 311A ở phía tây, diệt và bắt một đại đội địch. Đêm 3 rạng ngày 4-5, Trung đoàn 36 tiếp tục đánh chiếm cứ điểm 311B (cách Sở Chỉ huy tập đoàn cứ điểm địch 300m), diệt và bắt thêm một đại đội địch.
Ngày 6-5, quân ta trên các hướng cùng đồng loạt nổ súng đánh vào các vị trí còn lại xung quanh trung tâm Mường Thanh. Ở phía đông, Đại đoàn 312, Đại đoàn 316 tiêu diệt các vị trí đồi A1, đồi C2, điểm cao 506. Ở phía tây, Trung đoàn 102 tiến công tiêu diệt toàn bộ quân địch ở điểm cao 311B (Nà Noọng). Quân địch bị vây chặt giữa trung tâm Mường Thanh, mất hết tinh thần chiến đấu.
Nắm chắc thời cơ, chiều ngày 7-5, Bộ Chỉ huy mặt trận hạ lệnh tổng công kích. Từ các vị trí chiếm được, Đại đoàn 308 cùng các đơn vị bạn xung phong đánh thẳng vào Sở Chỉ huy địch ở Mường Thanh. Gần 1 vạn quân Pháp còn sống sót kéo cờ trắng ra hàng. Tướng Đờ Cátxtơri cùng Bộ Tham mưu tập đoàn cứ điểm ở Điện Biên Phủ bị bắt sống, 17 giờ 30 phút ngày 7-5-1954, Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ toàn thắng.
Chiến thắng Đông Xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta.
Trong cuộc tiến công chiến lược này, Đại đoàn 308 đã đóng góp xứng đáng công sức của mình vào chiến công vĩ đại của dân tộc. Đại đoàn đã đánh nhiều trận, trong đó có hàng chục trận đánh lớn, đã tiêu diệt và bắt sống hơn 4 nghìn tên địch (không kể số địch bị bắt ngày 7-5), thu rất nhiều súng đạn, quân trang, quân dụng.
Đại đoàn đã hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao:
- Giải phóng thị xã Lai Châu.
- Mở đường chiến dịch.
- Phá vỡ phòng tuyến sông Nậm Hu.
- Tiêu diệt đồi Độc Lập.
- Xây dựng trận địa chiến hào bao vây địch ở phía tây Mường Thanh, tiến công đánh chiếm các cứ điểm 106, 206, 311A, 311B, 301, tham gia đánh đồi A1 và tổng công kích tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Nhiều nhiệm vụ đại đoàn đã hoàn thành xuất sắc, nổi bật là:
Nhiệm vụ tiến công phòng tuyến sông Nậm Hu. Đây là nhiệm vụ vô cùng nặng nề, nhưng Đại đoàn 308 đã hoàn thành rất tốt. Nhận lệnh gấp, không được chuẩn bị, song với tinh thần trách nhiệm cao, ý thức rõ tầm quan trọng, đại đoàn đã vượt qua mọi khó khăn để thực hiện mệnh lệnh, hành quân thần tốc từ Điện Biên Phủ sang Thượng Lào. Cuộc tiến quân bất ngờ của đại đoàn chẳng những tiêu diệt được sinh lực địch, phá vỡ phòng tuyến sông Nậm Hu, buộc địch phân tán thêm khối chủ lực, mà còn lập thế nghi binh lừa địch, tạo điều kiện thuận lợi cho quân ta ở Điện Biên Phủ làm công tác chuẩn bị theo phương châm "đánh chắc, tiến chắc", tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Thực hiện việc vây ép phía tây trung tâm cứ điểm Điện Biên Phủ, đại đoàn đã xây dựng được một hệ thống chiến hào liên hoàn, có chiều sâu phía tây cánh đồng Mường Thanh, làm chỗ dựa để tiến công tiêu diệt nhanh gọn các cứ điểm 106, 206, tiến vào chia cắt sân bay, đánh bại các cuộc phản kích của địch, buộc chúng rơi vào thế bị vây hãm, không thể tiếp tế, chi viện, ứng cứu và bị tiêu diệt khi ta tiến hành tổng công kích.
Trải qua các hoạt động chiến đấu trong Đông Xuân 1953-1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại đoàn 308 đã đúc rút được một số bài học quý báu:
Trước hết là bài học về tinh thần kỷ luật, chấp hành nghiêm mệnh lệnh. Bài học này được thể hiện rất rõ trong cuộc tiến công bất ngờ của đại đoàn vào phòng tuyến sông Nậm Hu. Tuy nhận lệnh gấp, thời gian làm công tác bảo đảm, chuẩn bị hầu như không có, khó khăn chồng chất, nhưng đại đoàn không hề do dự, đòi hỏi ở trên một điều kiện gì, lập tức dồn sức thực hiện mệnh lệnh. Với tinh thần kỷ luật đó, đại đoàn đã vượt qua được mọi khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, giáng đòn chiến lược đập tan phòng tuyến sông Nậm Hu, phá vỡ một phần quan trọng thế trận của địch ở Điện Biên Phủ. Đại đoàn đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Đảng ủy, Bộ Chỉ huy mặt trận khen ngợi.
Bài học thứ hai là bài học về tinh thần cách mạng, ý chí tiến công, quyết chiến đấu hy sinh đến cùng để hoàn thành nhiệm vụ. Đây là bài học có ý nghĩa rất lớn suốt trong quá trình chiến đấu trong Đông Xuân 1953-1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ. Cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 308 đã thể hiện tinh thần cách mạng, ý chí chiến đấu cao. Do đó, dù gặp phải tình huống khó khăn, gian khổ ác liệt, chịu hy sinh tổn thất đến đâu, cán bộ chiến sĩ đại đoàn cùng tìm cách khắc phục để giành chiến thắng.
Bài học thứ ba là bài học về tính sáng tạo, linh hoạt, tìm ra cách đánh hiệu quả nhất để tiêu diệt địch. Bài học này đã thể hiện nổi bật ở Trung đoàn 36 trong trận đánh tiêu diệt cứ điểm 106. Trước một cứ điểm có nhiều hỏa lực mạnh của địch, lại bố trí ở địa hình trống trải, khó tiếp cận, trung đoàn đã tổ chức bộ đội đào chiến hào lấn dần vào sát cứ điểm địch, rồi đào luồn qua hàng rào, bất ngờ vọt lên, đánh thẳng vào trung tâm. Cách đánh này gọi là đánh lấn, đỡ thương vong mà rất hiệu quả, địch bị xung phong bất ngờ, khó chống đỡ.
Từ Trung đoàn 36, cách đánh này đã được Bộ Chỉ huy mặt trận phổ biến tới các đơn vị để áp dụng vây ép địch. Sau này, cách đánh lấn đã được nghiên cứu thành chiến thuật vây lấn đánh cứ điểm địch trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Đối với Đại đoàn 308, những chiến công mà đại đoàn làm nên trong Đông Xuân 1953-1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ thực sự là những trang sử oanh liệt nhất của đại đoàn.
Những chiến công, những bài học kinh nghiệm của đại đoàn cũng như của các đơn vị bạn trên toàn mặt trận được rút ra từ cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, đỉnh cao là Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, sẽ mãi mãi là những tấm gương, những điều chỉ dẫn cho các thế hệ cán bộ chiến sĩ Sư đoàn 308 hôm nay và mai sau.
-----------------
Nội dung: Thượng tá Nguyễn Đức Khiển, Phó Sư đoàn trưởng về chính trị Sư đoàn 308
Trích trong sách: “50 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ: Điện Biên Phủ - Hợp tuyển công trình khoa học”, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, 2005. Trước đó, bài đã in trong sách: Quân đội nhân dân Việt Nam - Bộ Tư lệnh Quân khu 2, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Quân và dân Tây Bắc với chiến thắng Điện Biên Phủ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999.
Ảnh: Báo Nhân Dân, TTXVN
Trình bày: Ngọc Bích
Cảm ơn các cụ các mợ ONET đã vào động viên thớt.
Em đưa vào đây chỉ một số bài em thấy nội dung hấp dẫn và lượng kiến thức phong phú trong chuyên đề này. CCCM nên đọc chuyên đề của báo Nhân dân điện tử về 70 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (đã dẫn link) để có nhiều thông tin hơn.
Em cũng muốn hỏi CCCM về một bài thơ mà trước đây em được học cũng liên quan đến chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Vừa rồi cũng xem lại một số bài tiêu biểu của nhà thơ Tố Hữu nhưng không thấy. Em nhờ CCCM cho thông tin về bài thơ này : tên bài thơ và tác giả, và nếu được thì CCCM post vào đây toàn bộ bài thơ đấy.
Trong bài thơ đấy có đoạn mà em nhớ như sau (có thể sai khác vài từ) :
Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng
Ôi tổ quốc vinh quang tổ quốc
Ngàn muôn năm dân tộc ta ơi
Việt Nam anh dũng sáng ngời
Ánh gương độc lập giữa trời soi chung
Hỡi ai kiếp bần cùng nô lệ
Hãy đứng lên mà bẻ xiềng gông
Tự do đã nở hoa hồng
Trong dòng máu đỏ trên đồng Viêt Nam ....
Cảm ơn CCCM đã ủng hộ.
Buổi sáng ngày 5/4/1954, đơn vị Clédic có thêm một đại đội thuộc Tiểu đoàn dù xung kích số 8 được tăng cường xuống Điện Biên Phủ hòng chiếm lại hoàn toàn Cứ điểm 105 (Huguette 6). Sau đó, Tiểu đoàn 2 thuộc Trung đoàn dù thuộc địa số 1 do Minaud chỉ huy tới thay cho đơn vị Clédic rút về phía sau làm lực lượng dự bị.
De Castries gửi điện yêu cầu Cogny tăng viện gấp cho Điện Biên Phủ cả lương thực, thực phẩm, thuốc men, đạn dược, thậm chí cả binh lính.
Trước tình cảnh ở Điện Biên Phủ, Navarre trông đợi vào kế hoạch ném bom Vautour (Chiến dịch Chim kền kền), động viên binh lính cố cầm cự cho tới mùa mưa Việt Minh sẽ phải rút.
Xác máy bay bị quân ta bắn rơi và phá hủy nằm ngổn ngang trên chiến trường Điện Biên Phủ
Trong bài viết “Thế trận lòng dân” trên địa bàn Tây Bắc trong kháng chiến chống thực dân Pháp – Bài học trong xây dựng khu vực phòng thủ hiện nay (Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Chiến thắng Điện Biên Phủ - Giá trị lịch sử và hiện thực (7/5/1954-7/5/2019), Thiếu tướng Trịnh Văn Quyết, Chính ủy Quân khu 2 viết, để khơi dậy, quy tụ và phát huy được sức mạnh “thế trận lòng dân”, Khu ủy Tây Bắc và các cấp ủy Đảng, chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân Tây Bắc đã quán triệt sâu sắc đường lối vừa kháng chiến, vừa kiến quốc của Đảng, nhận thức rõ vai trò, sức mạnh to lớn của nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ Trung ương Đảng, Chính phủ và Tổng Quân ủy giao cho Khu Tây Bắc.
Đoàn xe đạp thồ trên đường vào chiến dịch Điện Biên Phủ
Trên cơ sở đó tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục sâu rộng trong cán bộ, đảng viên, nhân dân và lực lượng vũ trang về đường lối kháng chiến, kiến quốc của Đảng, truyền thống đấu tranh cách mạng của dân tộc, từ đó nâng cao tinh thần yêu nước; đồng thời tổ chức các phong trào hành động cách mạng rộng lớn, xây dựng lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Bác Hồ và sự thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến.
Chú trọng xây dựng, củng cố các tổ chức Đảng, bộ máy chính quyền các cấp từng bước vững mạnh, phát huy tốt vai trò hạt nhân lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức các phong trào hành động cách mạng ở địa phương, cơ sở.
Tập trung xây dựng chế độ mới, thực hiện đầy đủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang 3 thứ quân từng bước lớn mạnh, hiệu suất chiến đấu cao, đủ sức phối hợp với lực lượng chủ lực của Bộ chiến đấu tiêu diệt kẻ thù.
Đặc biệt là chú trọng xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc, tạo thành khối thống nhất, không có sự phân biệt, chia rẽ, kỳ thị, trong phong trào hành động cách mạng.
Phát huy tiềm năng và thế mạnh của hậu phương tại chỗ, với tinh thần “Tất cả cho mặt trận”, “Tất cả để chiến thắng”, trên khắp miền Tây Bắc, đồng bào các dân tộc Thái, Mường, Mông, Dao, Hà Nhì... thi đua phục vụ chiến dịch. Nhiều gia đình đã vét những hạt thóc giống cuối cùng, hoặc nhịn bữa, ăn sắn, ăn khoai để dành gạo cho chiến dịch.
Nhiều phụ nữ nghe theo tiếng gọi của Đảng chẳng quản gian khổ, hiểm nguy, nô nức lên đường, mở đường, gánh gạo, cấp dưỡng, tải thương...
Ngày xuất bản : 5/4/2024
Nội dung : Thiếu tá, ThS Trần Quốc Dũng - Viện Lịch sử quân sự, Toản Thu Ngọc
Ảnh: TTXVN
Trình bày: HÙNG HIẾU
Một trong những nhân tố quyết định làm nên chiến thắng trong Đông-Xuân 1953-1954, với đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, đó là sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, linh hồn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, người chỉ huy tối cao của chiến dịch Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh ý thức rất rõ mối quan hệ dân tộc và giai cấp, chính trị và quân sự, chiến tranh và hòa bình… đặc biệt là những nhân tố tạo nên sức mạnh quyết định thắng lợi kháng chiến cũng như của Chiến dịch Điện Biên Phủ, đó là: Đường lối chính trị và quân sự đúng đắn của Đảng; đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân và toàn diện; chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng; sự đồng lòng và lòng tin của nhân dân…
Nhưng để những nhân tố ấy phát huy tạo thành sức mạnh chiến thắng kẻ thù thì phải có chủ trương, biện pháp cụ thể và cần có những con người - nhân dân, cán bộ, chiến sĩ thấm nhuần, biết vận dụng sáng tạo vào trong thực tiễn quân sự. Vì vậy, Người cùng Trung ương Đảng nghiên cứu kỹ tình hình, âm mưu của địch và lực lượng quân sự của ta ở các chiến trường, nhất là ở Bắc Bộ để xác định chủ trương, giải pháp quân sự trong Thu-Đông 1953, đặc biệt là những việc cần làm để phá tan âm mưu mới của địch; đề ra kế hoạch hoạt động quân sự của ta... Đồng thời, tiếp tục tạo động lực vật chất, tinh thần để nhân dân, cán bộ, chiến sĩ ta tin tưởng, phấn khởi, nỗ lực hiện thực hóa trong thực tiễn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc tại An toàn khu Định Hóa, Thái Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Pháp. (Ảnh: TTXVN)
Cuối tháng 9/1953, Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng họp tại Định Hóa (Thái Nguyên) bàn về nhiệm vụ quân sự Đông-Xuân 1953-1954, kết luận Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn “Tổng Quân ủy phải có kế hoạch lâu dài về mọi mặt để đối phó với kẻ địch trên chiến trường toàn quốc, sau đó phải có kế hoạch đẩy mạnh những hoạt động du kích ở đồng bằng Bắc Bộ. Về hướng hoạt động lấy tây bắc là hướng chính, các hướng khác là hướng phối hợp. Hướng chính hiện nay không thay đổi, nhưng hoạt động thì có thể thay đổi. Phép dùng binh là phải thiên biến vạn hóa”.
Người chỉ đạo Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh trên cơ sở tư tưởng và phương hướng chiến lược cơ bản đã được Hội nghị lần thứ tư của Trung ương Đảng vạch ra, cần tiếp tục giữ vững quyền chủ động đánh địch trên cả hai mặt trận chính diện và sau lưng địch, phối hợp trên phạm vi cả nước và phối hợp trên toàn Đông Dương để điều động các đơn vị chủ lực đánh địch ở những hướng chúng tương đối sơ hở, tiêu diệt nhiều sinh lực địch trong những điều kiện thuận lợi, buộc địch phải phân tán đối phó; trong khi đó thì đẩy mạnh chiến tranh du kích trên khắp các chiến trường sau lưng địch trên phạm vi cả nước...
Tháng 12/1953, tại chiến khu Việt Bắc (Thái Nguyên), Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở mặt trận có tính chiến lược tiêu diệt tập đoàn cứ điểm quân viễn chinh tinh nhuệ Pháp ở Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Đặc biệt, trên chiến trường chính Bắc Bộ, sử dụng bộ đội chủ lực tiến công hướng tây bắc, tiêu diệt quân địch còn chiếm đóng Lai Châu, giải phóng hoàn toàn địa bàn hướng này; các đơn vị bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp với Quân giải phóng Pathét Lào mở cuộc tiến công vào vùng Trung Lào, tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng. Bố trí bí mật một bộ phận quan trọng bộ đội chủ lực tại một địa điểm cơ động sẵn sàng hành động khi địch tăng viện binh lên Tây Bắc để tiêu diệt sinh lực chúng.
Trong trường hợp địch đánh sâu vào một hướng nào đó của căn cứ địa Việt Bắc nhằm cắt đứt giao thông, tiếp tế, phá hoại các tuyến chi viện tiền tuyến và gây tổn thất cho vùng tự do của ta, buộc chủ lực ta ở Tây Bắc rút về thì phải tìm cách nhử địch vào thế trận bày sẵn của ta rồi sử dụng một bộ phận chủ lực tiêu diệt chúng. Ở đồng bằng cần đẩy mạnh chiến tranh du kích vùng sau lưng địch; củng cố và phát triển các căn cứ du kích, khu du kích, phối hợp đắc lực với các khu, tiêu diệt và tiêu hao một bộ phận sinh lực của địch khi chúng tiến ra vùng tự do.
Ngày 20/11/1953, thực dân Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, biến vùng lòng chảo Điện Biên thành một tập đoàn cứ điểm mạnh chưa từng có nhằm giăng cái bẫy thu hút, tiêu diệt lực lượng chủ lực của ta hòng đi đến kết thúc chiến tranh có lợi cho Pháp.
Trước tình hình đó, Bộ Tổng tư lệnh nhận định “Địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ cơ bản có lợi cho ta”, kịp thời nhận định lãnh đạo, chỉ đạo quân và dân ta bám sát địch, điều tra tìm hiểu rõ ý định của địch, tuyên truyền, giải thích cho nhân dân và có kế hoạch bảo vệ tài sản nhân dân, động viên nhân dân phục vụ bộ đội diệt địch, trừ gian... Đồng thời, cùng Trung ương và Bộ Chính trị điều chỉnh phương án và thông qua kế hoạch tác chiến Đông-Xuân của Tổng Quân ủy để giành thắng lợi.
Ngày 6/12/1953, chủ trì cuộc họp Bộ Chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định tình hình chiến sự Đông-Xuân 1953-1954 và thống nhất quyết định chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược, đòn quyết định kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Trên cương vị thống soái tối cao, Người chỉ rõ: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng. Không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phải hoàn thành cho kỳ được”.
Để bảo đảm công tác chuẩn bị và chỉ huy chiến dịch, Người cùng Bộ Chính trị quyết định thành lập Bộ Chỉ huy và Đảng ủy Mặt trận do Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp làm Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy Mặt trận.
Thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, Hồ Chủ tịch trực tiếp giao nhiệm vụ cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp nghiên cứu kế hoạch tác chiến và mở chiến dịch Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Để bảo đảm đầy đủ mọi nhu cầu cung cấp cho Chiến dịch, Người kêu gọi “Toàn dân, toàn Đảng và Chính phủ nhất định đem toàn lực chi viện Chiến dịch Điện Biên Phủ và nhất định làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch này”; thành lập Hội đồng cung cấp Mặt trận do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Ủy viên Bộ Chính trị làm Chủ tịch; cử đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị vào Thanh Hóa là vùng tự do đông dân, nhiều gạo và đồng chí Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng về chiến trường đồng bằng Liên khu 3 quen thuộc để phổ biến nhiệm vụ, hướng dẫn, chỉ đạo các địa phương này huy động nhân lực, vật lực phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ.
Đồng thời, Người cùng Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo các chiến trường trên khắp cả nước đẩy mạnh tiến công địch để chia lửa với mặt trận Điện Biên Phủ…
Khi đồng chí Võ Nguyên Giáp chào Người lên đường đi Chiến dịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Tổng tư lệnh ra mặt trận, “Tướng quân tại ngoại”! Trao cho chú toàn quyền. Có vấn đề gì khó khăn, bàn thống nhất trong Đảng ủy, thống nhất với cố vấn thì cứ quyết định rồi báo cáo sau” và Người nhắc: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh”.
Chính nhờ sự tin tưởng cao độ của Người mà Đại tướng đã có một “quyết định khó khăn nhất” trong cuộc đời làm tướng, đó là quyết định chuyển từ phương châm “đánh nhanh, thắng nhanh” thành “đánh chắc, tiến chắc”, và thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ đã chứng minh tính đúng đắn của quyết định này.
Ngay từ trong quá trình chuẩn bị Chiến dịch, nhằm tăng cường sức mạnh chiến đấu của quân đội, Người cùng Trung ương Đảng điều chỉnh, bố trí công tác cho một số vị trí cán bộ lực lượng vũ trang theo đề án Tổng Quân ủy trình; chỉ đạo các địa phương từ Bình Trị Thiên trở ra đẩy mạnh công tác tuyển thêm hơn 4 vạn quân mới để nâng tổng quân số của ta lên khoảng 23 vạn và tăng cường trang bị cho bộ đội.
Đặc biệt, trước tình hình bộ đội ta tuy đã trưởng thành một bước khá rõ rệt về chất lượng chính trị và quân sự, gây cho địch nhiều thiệt hại nhưng đã bộc lộ nhiều khuyết điểm lớn, Người cùng Trung ương Đảng chỉ thị Tổng Quân ủy tiến hành kế hoạch xây dựng quân đội theo nguyên tắc chủ lực thì phát triển bộ binh nhưng đồng thời phát triển thêm các binh chủng mới như pháo, cao xạ, công binh; tăng cường chất lượng bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương đi đôi với việc phát triển thêm số lượng, đẩy mạnh hoạt động của chủ lực và du kích chiến tranh sau lưng địch để giữ các cơ sở lực lượng vũ trang địa phương và chuẩn bị cho tổ chức thêm bộ đội chủ lực…
Bộ tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam nghiên cứu kế hoạch tác chiến. (Ảnh: TTXVN)
Cùng với việc tiếp tục cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, đẩy mạnh tác chiến trên các chiến trường kìm chân, phân hóa quân chủ lực địch không cho chúng chi viện cho chiến trường chính Bắc Bộ và Điện Biên Phủ, Người còn tập trung chỉ đạo công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, xây dựng các đoàn thể cách mạng, xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên, xây dựng quân đội.
Đẩy mạnh công cuộc cải cách ruộng đất, phát triển văn hóa, giáo dục và giác ngộ, giúp đỡ nông dân thi đua sản xuất. Tăng cường kỷ luật, sự giác ngộ chính trị, lòng dũng cảm và chủ nghĩa anh hùng trong cán bộ, chiến sĩ. Cải tiến công tác hằng ngày nhất là về lề lối làm việc, nắm và báo cáo tình hình, khắc phục các khuyết điểm của các tổ chức đảng và Chính phủ.
Đồng thời, dành nhiều tâm huyết giải quyết vấn đề giao thông, cầu đường là điều mà Người coi là công việc rất quan trọng, cũng là chiến dịch mà cán bộ, đảng viên, nhân dân tham gia là những người chiến sĩ.
Đối với những kẻ lầm đường theo giặc, Người chỉ đạo các đoàn thể cách mạng phải giải thích và kêu gọi họ quay về với Tổ quốc, làm cho họ tin tưởng rằng Chính phủ và đồng bào ta sẵn sàng khoan hồng với những người con biết cải tà quy chính.
Mặc dù bận trăm công nghìn việc, Người vẫn dành thời gian chấn chỉnh cách viết, chỉ rõ do trình độ của đại đa số đồng bào ta lúc đó không cho phép đọc dài, điều kiện giấy mực của ta không cho phép viết dài và in dài, thì giờ của ta là dành cho đánh giặc, lao động, không cho phép xem lâu… nên việc viết phải ngắn, càng ngắn chừng nào càng tốt chừng ấy. Người cũng yêu cầu mỗi khi viết phải xác định rõ mục đích viết để làm gì? Viết cho ai? Viết cái gì? Trong viết, phải có lập trường vững vàng: ta, bạn, thù thì viết mới đúng. Đặc biệt, để giáo dục, thức tỉnh người dân, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên về chế độ mới, về Đảng, về cuộc đấu tranh, về đường lối cách mạng và các tổ chức cách mạng; vấn đề giai cấp, phong kiến, tư bản, đế quốc chủ nghĩa và chế độ dân chủ, cách thực hiện dân chủ mới, chủ nghĩa xã hội và cộng sản… Người đã viết một tác phẩm lớn: Thường thức chính trị.
Với tất cả những việc làm trên đây, Người đã góp phần phá bỏ nền tảng kinh tế, xã hội của chế độ cũ, đưa nhân dân lên làm chủ. Giúp người dân, đặc biệt là nông dân chiếm hơn 90% dân số lúc ấy nắm được đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ; nhận rõ Đảng, Chính phủ luôn luôn săn sóc đến lợi ích của họ và giúp họ nhận rõ nguồn gốc sự nghèo khổ, biết cách đấu tranh chống lại sự nghèo khổ, thức tỉnh lòng căm thù của họ đối với áp bức bóc lột.
Cũng thông qua việc Người làm mà cán bộ, chiến sĩ, nhân dân ta tin vào Người, đi theo Người. Mỗi cán bộ, đảng viên, người dân, chiến sĩ có quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm, biết vượt mọi khó khăn gian khổ để làm tròn nhiệm vụ. Ở bất kỳ địa vị nào, hoàn cảnh nào, dù làm việc to việc nhỏ, đều đoàn kết một lòng chung quanh Đảng, cách mạng, đem hết tinh thần, lực lượng phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Đồng thời, luôn tin tưởng vào lực lượng vô cùng to lớn của giai cấp, của nhân dân, vào tương lai vẻ vang của dân tộc, vào kháng chiến nhất định thắng lợi nhưng phải trường kỳ gian khổ tự lực cánh sinh, vào chính sách đúng đắn và sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và của Chính phủ ta cũng như tin tưởng vào chính mình, luôn luôn cố gắng…
Nhờ có tinh thần ấy và luôn thấm nhuần tinh thần ấy, mỗi người dân, cán bộ, đảng viên, chiến sĩ ta đã tìm ra cho mình chìa khóa để hiểu và giải quyết các vấn đề; để cố gắng cho xứng đáng là một chiến sĩ cách mạng, một người thợ xây dựng xã hội mới hạnh phúc và tự do, góp phần tạo nên lực lượng vô cùng to lớn và sức mạnh vô địch để đẩy mạnh kháng chiến, kiến quốc, đem đến cho người lính, người dân công, nhân dân yên tâm chiến đấu, phục vụ và là tinh thần, lực lượng, động lực, sức mạnh để Chiến dịch thắng lợi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và nói chuyện với một số đơn vị bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc nhưng Người luôn sâu sát, tỉ mỉ, gần gũi với nhân dân, cán bộ, chiến sĩ. Trong suốt quá trình diễn ra Chiến dịch Điện Biên Phủ, Người không chỉ cùng Đảng, Chính phủ, Đảng ủy và Bộ Chỉ huy Chiến dịch kịp thời đề ra những quyết sách mà còn luôn quan tâm, kịp thời chỉ đạo, động viên, hướng dẫn cán bộ, nhân dân, chiến sĩ ta về mọi việc.
Trong thư gửi cán bộ và chiến sĩ lên đường ra mặt trận, Người nhắc nhở “Thu-đông năm nay, các chú lại có nhiệm vụ tiến quân vào Điện Biên Phủ để tiêu diệt thêm sinh lực địch, mở rộng thêm căn cứ kháng chiến, giải phóng thêm đồng bào bị giặc đè nén... các chú phải chiến đấu anh dũng hơn, chịu đựng gian khổ hơn, phải giữ vững quyết tâm trong mọi hoàn cảnh... Bác và Chính phủ chờ tin thắng lợi để khen thưởng các chú”.
Các vị trí của địch trên đồi Him Lam bị trúng đạn pháo của ta đang bốc cháy, các vị trí trên đồi này đã bị tiêu diệt ngay trong ngày 13/3, ngày mở đầu chiến dịch. (Ảnh: TTXVN)
Sau chiến thắng Him Lam ngày 14/3/1954, Người có thư gửi cán bộ, chiến sĩ Điện Biên Phủ; tiếp đó, sau chiến thắng Đồi Độc Lập, ngày 15/3/1954, Người cùng Trung ương Đảng điện khen ngợi, động viên, cổ vũ và căn dặn cán bộ, chiến sĩ mặt trận, nhắc lại tầm quan trọng của chiến dịch này và tin tưởng cán bộ, chiến sĩ ta sẽ phát huy thắng lợi vừa qua, quyết tâm vượt mọi khó khăn gian khổ để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang sắp tới: “Nhiệm vụ các chú lần này rất to lớn, khó khăn, nhưng rất vinh quang”; “Chiến dịch này là một chiến dịch lịch sử của quân đội ta, đánh thắng chiến dịch này có ý nghĩa quân sự và chính trị quan trọng”. Người yêu cầu cán bộ và đảng viên ở các đơn vị, cơ quan và Mặt trận “phải nhận rõ vinh dự và trách nhiệm nặng nề trong Chiến dịch lịch sử này, đồng thời làm cho toàn thể chiến sĩ thấu triệt quyết tâm của Trung ương, tích cực phát huy tinh thần chiến đấu anh dũng và chịu đựng gian khổ, giành toàn thắng cho Chiến dịch”; “phải cố gắng, chiến đấu dẻo dai, bền bỉ, chớ chủ quan khinh địch, giành toàn thắng cho chiến dịch này”.
Ngày 8/5/1954, một ngày sau khi kết thúc Chiến dịch, Người có Thư khen ngợi bộ đội, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào Tây Bắc đã chiến thắng vẻ vang ở Điện Biên Phủ. Trong thư, Người khen ngợi cán bộ, chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào địa phương đã làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang nhưng không quên nhắc nhở: “Thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bắt đầu. Chúng ta không nên vì thắng mà kiêu, không nên chủ quan khinh địch. Chúng ta kiên quyết kháng chiến để tranh lại độc lập, thống nhất, dân chủ, hòa bình. Bất kỳ đấu tranh về quân sự hay ngoại giao cũng đều phải đấu tranh trường kỳ gian khổ mới đi đến thắng lợi hoàn toàn”.
Sau đó, Người lại có bài thơ Quân ta toàn thắng ở Điện Biên Phủ để ghi nhận ý chí, quyết tâm, tinh thần chiến đấu, chiến thắng của quân và dân ta. Ngoài ra, Người còn viết nhiều bài báo, trả lời phỏng vấn nhiều tờ báo nước ngoài khẳng định thắng lợi tất yếu của chiến dịch và cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thưởng huy hiệu cho các chiến sĩ lập nhiều chiến công trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Với chiến thắng Điện Biên Phủ “vang dội năm châu, chấn động địa cầu”, quân và dân ta đã giáng đòn quyết định tạo bước ngoặt lịch sử làm thay đổi hẳn cục diện chiến tranh giữa ta và địch, trực tiếp đưa đến việc ký kết Hiệp định Geneva về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ, chấm dứt hoàn toàn ách xâm lược của thực dân Pháp trên đất nước ta và các nước trên bán đảo Đông Dương, mở ra giai đoạn cách mạng mới - tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc, đấu tranh giải phóng miền nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên Chủ nghĩa xã hội và góp phần to lớn vào phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ của nhân loại.
Trong chiến thắng đó và trong cả thắng lợi của sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là người đã đem đến cho đồng bào, chiến sĩ cả nước ta con đường đúng đắn, niềm tin sắt đá, sức mạnh phi thường để vượt qua mọi khó khăn, gian khổ đi đến thắng lợi hoàn toàn, để “Quân ta vui hát khải hoàn ca”.
Sách xuất bản từ Hội thảo Khoa học “Chiến thắng Điện Biên Phủ - Giá trị lịch sử và hiện thực (7/5/1954 - 7/5/2019)”
Nội dung: Đại tá, TS ĐỖ NGỌC TUYÊN
Trình bày: PHƯƠNG NAM
Cách công binh 'khoét núi, mở hào' vây lấn Điện Biên Phủ 70 năm trước
Tọa đàm Nghệ thuật quân sự Chiến dịch Điện Biên Phủ - Bài học thực tiễn trong chiến đấu hiện nay do Bộ tư lệnh Quân đoàn 12 cùng báo Quân đội nhân dân tổ chức ngày 4/4. Tham luận từ tướng lĩnh quân đội, nhà nghiên cứu khoa học, nhân chứng tham gia chiến trận... làm rõ những sáng tạo trong chiến dịch 70 năm trước cũng như bài học kinh nghiệm từ chiến trường vận dụng trong tình hình mới.
Những chiến sĩ công binh từng tham gia đào hào năm ấy còn nhớ "ngày nhận xẻng lưỡi sáng, to như chiếc quạt nan, đến lúc đào xong tiếp cận được giặc Pháp còn trơ một mảnh sắt". Công sự luôn được đào ban đêm, có ngày mưa, bộ đội dầm trong hào, dùng mũ đựng bùn, nước đổ đi.
Thông tin đầy đủ mời CCCM xem tại đây :
Công bố nhiều tài liệu về chiến dịch Điện Biên Phủ
Gần 200 tài liệu lưu trữ gốc trong hàng nghìn hồ sơ về chiến dịch Điện Biên Phủ được Trung tâm Lưu trữ quốc gia 3 giới thiệu đến công chúng, ngày 5/4.
Xem thông tin đầy đủ theo link này
https://vnexpress.net/cong-bo-nhieu-tai-lieu-ve-chien-dich-dien-bien-phu-4731038.html
Các loại vũ khí hiện đại và phương tiện chiến tranh có nhiều thứ mang nhãn hiệu Mỹ bị quân ta phá hủy và thu được tại mặt trận Điện Biên Phủ. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Tại hội nghị, các đại đoàn báo cáo thành tích, ưu khuyết điểm của mình. Kết luận hội nghị, đồng chí Chỉ huy trưởng chiến dịch chỉ rõ: ta đã tiêu diệt 4 cứ điểm phía đông, tiêu diệt và bức hàng 2 cứ điểm phía tây, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của dịch. Nguyên nhân thắng lợi do chủ trương, phương châm và kế hoạch tác chiến chính xác..
Các loại vũ khí hiện đại và phương tiện chiến tranh có nhiều thứ mang nhãn hiệu Mỹ của giặc Pháp ở Điện Biên Phủ bị quân ta phá hủy và thu được. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Bên cạnh kết quả đạt được, hội nghị cũng chỉ ra một số hạn chế, khuyết điểm nghiêm trọng về chiến thuật, về chấp hành mệnh lệnh, cá biệt có đồng chí rời bỏ nhiệm vụ... Một số cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm không tuân thủ nguyên tắc về chỉ huy, về chiến thuật, về nắm địch, về tập trung binh hỏa lực không đủ khi đánh công sự vững chắc, không tiết kiệm đạn dược...
Nguyên nhân chính là do chấp hành mệnh lệnh chưa nghiêm, thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu quyết tâm, lập trường không vững. Thực tế ta không tiêu diệt được A1, một phần do khuyết điềm về tổ chức trinh sát không tỉ mỉ ở phía sau A1. Tại đây địch có một giao thông hào đi từ khu trung tâm lên A1 bảo đảm an toàn cho các đơn vị địch phản kích mà ta không phát hiện1.
Cảnh quân Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ. Ảnh chụp từ bức tranh panorama tại Bảo tàng chiến thắng Điện Biên Phủ. (Ảnh: Thành Đạt)
Phía địch:
Tập đoàn cứ điểm kiểm kê: Dự trữ đạn pháo chỉ còn 418 quả 155mm, 616 quả 105mm và 1422 quả cối 120mm; đạn pháo sáng cho cối 60mm của các đơn vị bộ binh tiền duyên cũng như cho cối 81mm không còn. Một phi đội C119 đã thả 18 tấn đạn 105mm, hai khẩu đại bác 75mm và thuốc men xuống gần bản Cò Mỵ rơi vào trận địa của ta 2.
Ngày xuất bản: 6/4/2024
Nội dung: Thiếu tá, ThS TRẦN QUỐC DŨNG, Viện Lịch sử quân sự.
Ảnh: TTXVN, Báo Nhân Dân
Trình bày: VŨ HẢI
Chiến hào của ta nhích dần chung quanh Phân khu Hồng Cúm. Pierre Langlais lệnh cho bính lính lấp giao thông hào của ta và lấp được 20m hào.
- Pháp điều 11 máy bay C119 thả dù lương thực và đạn dược tiếp tế cho Điện Biên Phủ.
Cảnh lính Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, Ảnh: TTXVN
- Tại cứ điểm 208 (Huguette 2), 70 lính Thái thuộc Đại đội 12 Tiểu đoàn lính Thái số 3 đào ngũ. Quân Pháp phải đưa lực lượng tới cứ điểm 208 tước vũ khí đại đội lính Thái, còn những sĩ quan Pháp chỉ huy đại đội này được điều về tăng cường cho Đại đội 1 Tiểu đoàn ngụy dù số 5.
Lính Pháp tại Điện Biên Phủ.
- Tại Paris, Tướng Partridge - Tư lệnh Không quân Mỹ khu vực Thái Bình Dương đề nghị gặp tướng Navarre để bàn cụ thể kế hoạch Vautour ném bom ồ ạt Điện Biên Phủ.
Tướng René Cogny (người cầm gậy), Christian de Castries (không đội mũ), và tướng Henri Navarre (giữa).
Nội dung: Thiếu tá, ThS Trần Quốc Dũng - Viện Lịch sử quân sự - Ngọc Toản Thu
Trình bày: Phi Nguyên
Ảnh: TTXVN, Nhân Dân
Bộ Chỉ huy Chiến dịch hạ quyết tâm tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đã đề ra cho đợt 2: tiêu diệt thêm một bộ phận sinh lực địch, chiếm thêm một số vị trí có lợi, đưa trận địa tiến công và bao vây vào gần địch hơn nữa, thắt chặt thêm vòng vây, đánh chiếm sân bay, đạt đến mục đích triệt hẳn tiếp tế và tăng viện của địch, uy hiếp chúng mạnh hơn nữa.
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ còn lại của đợt 2, Bộ Chỉ huy Chiến dịch chỉ thị các đơn vị nắm chắc, tiến hành những công tác sau:
- Tăng cường xây dựng trận địa tiến công và bao vây, thực sự coi đó là một quá trình chiến đấu quyết liệt với địch.
Trận địa ta càng vào gần, vòng vây càng khép chặt, địch sẽ càng ngoan cố đối phó. Chúng sẽ phản kích nhiều lần, bằng bộ binh có cả xe tăng, pháo binh và không quân chi viện để chiếm lại những khu vực đã mất. Vì vậy, ta phải có trận địa tốt để bao vây và trụ bám đánh địch phản kích, phải bố trí lực lượng thích hợp, có kế hoạch hiệp đồng chặt chẽ giữa binh lực và hỏa lực; tổ chức đánh tiêu diệt xe tăng: đánh đến đâu giữ chắc đến đó.
Giao thông hào của ta đã cắt đôi sân bay Mường Thanh, tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến sĩ xung kích tiêu diệt địch
- Khống chế không phận Điện Biên Phủ bằng mọi thứ hỏa lực, suốt cả ngày lẫn đêm, tổ chức tranh đoạt dù tiếp tế và tiếp viện đường không, làm mất chỗ dựa chủ yếu còn lại của địch, đẩy chúng vào tình thế ngày càng nguy khốn.
Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị xung kích, các chiến sĩ cao xạ pháo đang đánh trả quyết liệt máy bay địch ở Điện Biên Phủ
- Tổ chức những bộ phận nhỏ, những tổ bắn tỉa, những đội hỏa lực cơ động đến gần địch, thực hiện tiêu hao rộng rãi, làm cho địch mất dần sức chiến đấu, hoang mang cao độ.
Bị quân ta tấn công, địch ở các vị trí khu đồi C chạy toán loạn, các chiến sĩ xung kích của ta ở dưới các giao thông hào đang dùng súng trường bắn tỉa.
- Chiếm bằng được một số vị trí có lợi, đưa trận địa tiến công vào gần, thắt chặt dần vòng vây.
Những trận đánh gần khu trung tâm không chỉ đơn thuần là đánh điểm mà đều là những trận đánh điểm, đánh địch phản kích, một hình thức đánh điểm diệt viện hoặc đánh điểm chặn viện1.
Các đơn vị xung kích của ta dưới sự chỉ huy của anh hùng quân đội Nguyễn Quốc Trị đang tấn công sân bay Mường Thanh
Phía địch:
Cảnh quân Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ. Ảnh: TTXVN
Địch tăng cường 167 lính nhảy dù cho Điện Biên Phủ.
Hai máy bay C119 trút toàn bộ số đạn pháo mang theo ra ngoài bãi thả dù. Đến sáng, một đơn vị Pháp được cử ra tận bản Cò Mỵ để thu nhặt thì không còn vết tích gì về số đạn pháo đã thả lạc.
Tại Sài Gòn, Đại tá Gentil, Trưởng ban kỹ thuật Quân đội Pháp cho biết đã tham khảo ý kiến các chuyên gia ở Pháp và đề xuất có thể gây mưa nhân tạo trên đoạn Đường 41 dẫn đến Điện Biên Phủ. Những trận mưa nhân tạo, kết hợp với những cơn dông tự nhiên có thể gây khó khăn cho xe ô tô tải chở vật liệu tiếp tế cho ta.
Dù khả năng đạt kết quả của công trình thử nghiệm này rất yếu, Navarre đồng ý cho huy động các phương tiện để thử nghiệm.
Tại Washington, Ngoại trưởng Mỹ Foster Dulles tiếp Đại sứ Pháp Bonnet và cho biết: Mỹ chỉ có thể can thiệp vào Đông Dương trong khuôn khổ một hành động tập thể của phương Tây[2].
[1] Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử cuộc kháng chiến chống thưc dân Pháp (1945-1954), Tập 6, Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, kháng chiến kết thúc thắng lợi, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2016, tr.271, 272.
[2] JEAN POUGET, Tướng Navarre với trận Điên Biên Phủ, Người dịch Lê Kim, Nxb Công an nhân dân phối hợp với Công ty Văn hóa Phương Nam phối hợp thực hiện, tr.476.
Ngày xuất bản: 8/4/2024
Nội dung: Thiếu tá, ThS Trần Quốc Dũng - Viện Lịch sử quân sự, Ngọc Toản Thu
Trình bày: MINH ĐỨC
Ảnh: TTXVN, Báo Nhân Dân
Chiến dịch này là một chiến dịch lịch sử quy mô to lớn hơn các chiến dịch trước. Do đó, công tác thương binh cũng đòi hỏi một sự cố gắng mới về tổ chức cũng như về tinh thần phục vụ. Chúng ta lại làm việc trong điều kiện phương tiện thiếu thốn, cần phải khắc phục nhiều khó khăn; tuy vậy các đồng chí đã cố gắng nhiều trong việc chuyển thương, săn sóc điều trị anh em thương binh.
Thời gian qua, các đồng chí đã lập được nhiều thành tích, một số anh em thương binh lành mạnh đã trở về bổ sung cho đơn vị chiến đấu. Đạt được những thành tích ấy là do các đồng chí đã phát huy được tinh thần yêu mến thương binh như ruột thịt, biết coi anh em thương binh là những chiến sĩ dũng cảm nhất của quân đội, là những người con yêu quý của Tổ quốc. Điều đó chứng tỏ tinh thần trách nhiệm của các đồng chí trước nhân dân, trước Đảng. Các đồng chí đã góp phần công lao đáng kể vào thắng lợi vẻ vang vừa qua.
Nhân dân các thị trấn ở Thanh Hóa tiến đưa các đoàn dân công xe đạp thồ lên đường phục vụ tiền tuyến năm 1954.
Tôi gửi lời khen ngợi toàn thể các đồng chí và thân ái hỏi thăm toàn thể các đồng chí, nhất là những đồng chí vì tận tụy phục vụ mà bị yếu mệt.
Từ nay đến lúc tiêu diệt hoàn toàn quân địch ở Điện Biên Phủ, chúng ta còn phải trải qua nhiều khó khăn gian khổ.
Các đồng chí cần tiếp tục nâng cao tỉnh thần dũng cảm, khắc phục mọi khó khăn gian khổ hoàn thành nhiệm vụ, phục vụ cứu chữa anh em thương binh cho chu đáo.
Cụ thể là phải:
- Triệt để chấp hành đúng chính sách thương binh.
- Cải tiến công tác hộ lý, điều trị, phẫu thuật để giảm phần đau đớn cho thương binh, chăm sóc và cứu chữa cho anh em thương binh chóng lành mạnh.
- Thành thực kiểm điểm, tìm ra những khuyết điểm để sửa chữa và những ưu điểm để phát huy, không tự túc tự mãn.
Chúc các đồng chí mạnh khỏe, cố gắng lập công mới. Bộ Tổng Tư lệnh chờ đợi thành tích của các đồng chí để khen thưởng những đồng chí và đơn vị có nhiều công lao.
Chào thân ái và quyết thắng[1].
--------
Chú thích: [1] Đảng ủy Quân sự Trung ương - Bộ Quốc phòng, Một số văn kiện chỉ đạo chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.485, 486.
Ngày xuất bản: 8/4/2024
Nội dung: Viện Lịch sử quân sự
Trình bày: Ngọc Bích
Ảnh: TTXVN
Ngày 9/4/1954, de Castries huy động một tiểu đoàn có xe tăng và hỏa lực mạnh yểm hộ, mở cuộc phản kích chiếm lại Đồi C1 để cải thiện thế đứng chân của chúng tại khu đông trận địa trung tâm, nhưng bị Trung đoàn 98 Đại đoàn 316 liên tiếp bẻ gãy ba đợt xung phong.
Cuộc chiến đấu ác liệt đang diễn ra trên khu vực Đồi C. Ảnh: TTXVN
16 giờ, ta phát bức điện về việc trao đổi thương binh: Gửi Ông Chỉ huy quân đội viễn chính Pháp ở Điện Biên Phủ - “stop” - Chúng tôi đã nhận được lời thông báo của ông về chuyện thương binh chúng tôi đang đợi chỉ thị của cấp trên và hy vọng mai sẽ trả lời được cho ông biết giờ hẹn gặp - “stop” - Ký tên Trung đoàn trưởng trong Quân đội nhân dân Việt Nam bố trí ở phía đông Điện Biên Phủ !.
Cơ quan quân y báo cáo có 240 thương binh "được nằm" còn 350 người khác vẫn "phải ngồi" trong hầm hố chật hẹp. Thương binh nào không cần phải có thầy thuốc theo dõi thường xuyên được trả về đơn vị. Tổng số thương binh ở trạm xá và ở đơn vị vào thời điểm này là trên 1.500 người !.
Các chiến sĩ quân y của ta luôn luôn bám sát trận địa, cứu chữa kịp thời những trường hợp bị thương. Ảnh: TTXVN
18 giờ, địch sử dụng 2 máy bay Helldiver của hàng không mẫu hạm Arromanches bay thấp trên Đường 41 tìm đánh phá những đoàn vận tải của ta đang trên đường chuyển ra mặt trận.
Một máy bay của địch đã bị pháo cao xạ của ta bố trí ở Him Lam (Béatrice) bắn, rơi xuống phía tây Nà Noọng (Claudine 4).
Trong đêm, Pháp tiếp tục bổ sung 77 lính dù và 195 tấn hàng tiếp tế xuống Điện Biên Phủ, nhưng địch chỉ thu nhặt được 6 tấn.
Ngày xuất bản: 9/4/2024
Nội dung: Thiếu tá, ThS TRẦN QUỐC DŨNG –
Viện Lịch sử quân sự, NGỌC TOẢN THU
Trình bày: VŨ ANH TUẤN
Ảnh: TTXVN
Đông Xuân 1953-1954, quân và dân Hà Nội đã đẩy mạnh tiến công địch bằng nhiều hình thức, phương pháp khác nhau, gây cho thực dân Pháp nhiều khó khăn và tổn thất, góp phần cùng với các lực lượng giành thắng lợi trong Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Đoàn quân về tiếp quản Thủ đô 10/10/1954. (Ảnh: Bảo tàng lịch sử quốc gia)
Sau những thất bại liên tiếp trên chiến trường Đông Dương, đặc biệt là ở Bắc Bộ, nhưng với bản chất ngoan cố, thực dân Pháp tranh thủ viện trợ của Mỹ, mở rộng và đẩy mạnh chiến tranh hòng tìm lối thoát danh dự bằng thắng lợi quân sự.
Vào giữa năm 1953, Tướng Nava được Chính phủ Pháp chỉ định làm Tổng Chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương. Nava chủ trương “không chấp nhận một sự rút lui nào hết”, đồng thời đề ra kế hoạch với nội dung chính là: Tăng cường lực lượng quân sự, tiếp tục chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” với quy mô rộng lớn nhằm giành thắng lợi quyết định trong vòng 18 tháng.
Một trong những nội dung quan trọng của kế hoạch Nava là tăng cường “bình định” và phòng ngự ở đồng bằng Bắc Bộ, bằng mọi cách bảo vệ bằng được khu then chốt Hà Nội, Hải Phòng và hệ thống đường bộ, đường sắt nối hai thành phố này, từ đó cải thiện tình hình quân sự ở Bắc Bộ. Trong kế hoạch Nava, Hà Nội được xác định là trọng điểm trong hệ thống phòng ngự của Pháp ở đồng bằng Bắc Bộ. Tại Hà Nội, Nava bố trí một bộ phận quan trọng lực lượng dự bị cơ động chiến lược tới hàng vạn tên sẵn sàng chi viện, ứng cứu cho các chiến trường[1]. Ngoài ra, Hà Nội còn là trung tâm chỉ huy của địch ở chiến trường Bắc Đông Dương; là “kho người, kho của” rất quan trọng của địch.
Trong kế hoạch Nava, Hà Nội được xác định là trọng điểm trong hệ thống phòng ngự của Pháp ở đồng bằng Bắc Bộ.
Trước yêu cầu đẩy mạnh phong trào kháng chiến, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn mới của địch, tháng 4/1953, Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ Hà Nội quyết định: Trên cơ sở tích cực xây dựng và phát triển lực lượng, đẩy mạnh hơn nữa phong trào chống bắt lính, chống thu thuế, chống thất nghiệp… phải chú ý đẩy mạnh các hoạt động phá hoại địch về quân sự. Thực hiện quyết định của hội nghị, Ban Chỉ huy Mặt trận Hà Nội[2] chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, nhất là các cơ quan tuyên giáo, địch vận, quân báo, tranh thủ các cơ sở hợp pháp trong nội thành phát động công nhân đẩy mạnh các hoạt động đấu tranh với địch.
Do chủ động từ trước nên ta đã nắm được nhiều nghiệp đoàn lớn, nhỏ ở Hà Nội làm cơ sở cho cuộc đấu tranh. Bên cạnh việc xây dựng và nắm các tổ chức công khai, để tranh thủ quần chúng, ta tiếp tục củng cố các tổ chức trung kiên, bí mật như công đoàn, thanh niên, phụ nữ… Trong khi các cơ sở của ta ở nội thành được củng cố và có bước phát triển thì việc gây dựng cơ sở ở ngoại thành vẫn gặp nhiều khó khăn. Để lãnh đạo phong trào được thuận lợi, Thành ủy và Ban Chỉ huy Mặt trận Hà Nội cho tổ chức hai ban cán sự bắc và nam ngoại thành để gây dựng lại cơ sở từ đầu.
Cán bộ, công nhân viên Nhà máy Điện Yên Phụ diễn tập đánh địch giáp lá cà tại Hà Nội, tháng 6/1966 (Ảnh: Trần Nguyên Hợi/Cổng thông tin Tập đoàn Điện lực)
Dưới sự chỉ đạo của Thành ủy và Ban Chỉ huy Mặt trận Hà Nội, phong trào đấu tranh chính trị, kinh tế của nhân dân Hà Nội được phát triển mạnh mẽ, buộc địch phải có nhiều nhượng bộ, như tăng lương cho công nhân thêm 20% và công chức 15%. Ở ngoại thành, ta vận động nông dân làm đơn đòi miễn thuế đảm phụ quốc phòng, không nộp đảm phụ hương dũng, không mua vé xổ số; tố cáo tội ác, tội ăn hối lộ, hà hiếp dân của bọn tay sai, buộc địch phải bỏ tù một số tên tề, mật vụ, chỉ điểm gian ác để trấn an tinh thần nhân dân.
Để bổ sung quân số ngày càng thiếu hụt cho các mặt trận, nhất là mặt trận Điện Biên Phủ, địch tăng cường các hoạt động bắt lính ngày càng trắng trợn. Trước tình hình đó, ta chủ động vận động quần chúng đấu tranh bằng các hình thức: Không khai, không trình diện và lẩn trốn; phát động phong trào ba trốn trong thanh niên: Trốn tại chỗ, trốn về quê và trốn ra vùng tự do. Cuộc đấu tranh của nhân dân Hà Nội đã làm cho nhiều đợt bắt lính của địch không thu được kết quả như mong muốn. Trong khi đó hàng nghìn thanh niên được ta giác ngộ hoặc được các đoàn thể của ta giúp đỡ đưa ra vùng tự do an toàn.
Song song với công tác chống bắt lính, công tác địch vận cũng được Ban Chỉ huy Mặt trận tập trung chỉ đạo. Ban địch vận phân công từng đồng chí chuyên trách chỉ đạo vận động từng loại binh lính địch như: Ngụy binh trong quân đội liên hiệp Pháp, ngụy binh trong bảo chính đoàn, cảnh binh, lính Âu-Phi. Đối với ngụy binh, ta chủ yếu tuyên truyền vận động họ đòi giải ngũ, không ra trận, bỏ về quê, chạy về với kháng chiến...; với lính Âu-Phi, ta nêu khẩu hiệu “Đòi hòa bình và hồi hương”.
Ta đặc biệt chú ý tận dụng các quan hệ họ hàng, anh em, bạn bè để làm công tác địch vận, đồng thời cũng tận dụng những quần chúng có điều kiện dễ tiếp xúc với địch để vận động binh lính địch. Quần chúng của ta tìm cách khêu gợi tâm lý nhớ nhà, nhớ quê hương, làng xóm trong binh lính địch; tuyên truyền các tin thắng lợi của kháng chiến, thất bại của quân đội liên hiệp Pháp, hướng cho họ suy nghĩ chán ghét chiến tranh xâm lược, căm thù bọn chỉ huy đầu sỏ.
Sau mỗi trận càn của địch ra vùng tự do, Hà Nội là nơi thu hồi quân bại trận trở về, khi mặt trận càng mở rộng binh lính bị thương dồn về các nhà thương Đồn Thủy, Phủ Doãn, Bạch Mai càng nhiều. Ta tranh thủ những tên thoát chết này để tuyên truyền về sự tàn khốc của cuộc chiến, về sức mạnh của kháng chiến, thế thất bại không thể tránh khỏi của quân xâm lược, từ đó đã đánh mạnh vào tâm lý ham sống sợ chết của quân địch, khiến cho hàng ngũ của chúng ngày càng hoang mang, rệu rã.
Trong hàng ngũ địch, nhiều cuộc đấu tranh có tính chất phản chiến đã nổ ra như cáo ốm không ra trận, không đi càn; phản đối hành động dã man của chỉ huy trong những cuộc càn quét, đòi tăng lương, khi bị bắt buộc phải ra trận thì tìm cách đào ngũ. Sau trận càn Yên Vỹ, hơn 200 tên thuộc Tiểu đoàn lính dù số 2 ngụy đã phản đối ra trận, bị địch gọt trọc đầu giam trong thành Hà Nội. Sau trận càn bắc sông Luộc, hơn 1.000 ngụy binh đóng ở Nhà máy gạch Hưng Ký phá rào ra ngoài, vây phá các bốt cảnh binh để phản đối chỉ huy.
Phong trào chống bắt lính cùng với phong trào vận động binh lính địch bỏ ngũ, rã ngũ, trở về với kháng chiến làm cho âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt” của địch bị thất bại một bước. Kế hoạch bắt lính, xây dựng một đội quân ngụy mạnh của Nava cơ bản bị phá sản. Bên cạnh đó những cuộc rải truyền đơn, treo cờ cách mạng và báo chí ở vùng tự do đưa vào nội thành tuyên truyền loan tin chiến thắng của ta, thiệt hại của địch đã góp phần giữ vững lòng tin của quần chúng vào cuộc kháng chiến, tin vào sự tất thắng của cách mạng, đồng thời động viên quần chúng nhân dân tiếp tục đấu tranh mạnh mẽ.
Quyết tử quân thề kiên quyết sống chết giữ vững Thủ đô, 12/1946. (Ảnh: Bảo tàng lịch sử quốc gia)
Đông Xuân 1953-1954, Kế hoạch Nava bộc lộ nhiều yếu điểm nghiêm trọng. Chiến tranh du kích ở đồng bằng Bắc Bộ tiếp tục phát triển mạnh mẽ khiến địch phải tăng quân đối phó khắp nơi.
Mâu thuẫn giữa tập trung quân để xây dựng lực lượng cơ động mạnh với việc “bình định” giữ đất, giữ dân thêm gay gắt, thực dân Pháp ngày càng lúng túng bị động. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng quyết định đập tan Kế hoạch Nava, đánh bại âm mưu mở rộng chiến tranh của thực dân Pháp bằng Kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954; chủ động mở một loạt chiến dịch đánh địch ở Tây Bắc, Thượng Lào, Trung Lào, Hạ Lào, Tây Nguyên, nhằm phá vỡ khối cơ động chiến lược của Nava, đồng thời tập trung toàn lực cho trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ.
Tranh thủ thuận lợi, quân và dân Hà Nội đẩy mạnh đấu tranh về mọi mặt, đưa phong trào tiến lên kịp thời phối hợp với các chiến trường. Các phong trào chống thuế của tiểu thương, thợ thủ công, đòi tăng lương trong công nhân không ngừng phát triển. Trong giới phụ nữ, lợi dụng sự mị dân của chính quyền bù nhìn, ta lập ra Hội phụ nữ Bắc Hà, lôi cuốn được đông đảo chị em thuộc nhiều tầng lớp trong xã hội tham gia; Hội đã có nhiều hoạt động để bảo vệ quyền lợi cho bà mẹ và trẻ em, vận động vệ sinh phòng bệnh, đòi chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương…
Trên mặt trận văn hóa-giáo dục, trong Hội nghị giáo dục toàn quốc tháng 2 năm 1954 do chính quyền bù nhìn tổ chức ở Hà Nội, ta đòi dùng tiếng Việt trong trường đại học, đòi dạy lịch sử Việt Nam trong trường phổ thông, đòi bỏ chương trình học quân sự, tăng học bổng cho học sinh. Ngày 10/3/1954, nhân ngày kỷ niệm khởi nghĩa Hai Bà Trưng, phụ nữ và thanh niên Hà Nội tổ chức nói chuyện ở Nhà hát lớn đã công khai kiến nghị “chống trụy lạc hóa thanh niên” được đông đảo nhân dân ủng hộ.
Địch lập các “Ủy ban động viên” ở nội, ngoại thành và “Tòa án quân sự” nhằm truy tố những người trốn lính và uy hiếp phong trào đấu tranh của nhân dân. Nhưng phong trào đấu tranh chống bắt lính vẫn lan rộng trong các ngành, các giới cả nội và ngoại thành. Học sinh, sinh viên các trường tiếp tục đấu tranh chống “quân sự hóa học đường”, tẩy chay kỳ thi vào các trường sĩ quan. Ở các trường đại học, nơi địch khống chế sinh viên tương đối chặt, ta vận động tổng hội sinh viên đưa ra khẩu hiệu “xin miễn động viên sinh viên cho tới khi tốt nghiệp” nhằm trì hoãn việc bắt sinh viên đi học sĩ quan của địch. Thanh niên đang độ tuổi quân dịch trốn ra vùng tự do ngày một đông, mỗi khi địch vây ráp, anh em chạy đến đâu cũng được đồng bào che chở, giúp đỡ.
Đầu tháng 3/1954, trong khi tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đang bị ta bao vây và chuẩn bị tiến công, được sự chỉ đạo của Thành ủy, Ban Chỉ huy Mặt trận Hà Nội quyết định đánh sân bay Gia Lâm, góp phần làm gián đoạn cầu hàng không tiếp tế, chi viện của địch cho Điện Biên Phủ. Sân bay Gia Lâm là một sân bay lớn của Pháp ở Đông Dương, nằm ngay ngoại vi Hà Nội[3]. Từ sân bay này, mỗi ngày có hơn 100 lần chiếc máy bay cất cánh đi bắn phá hậu phương của ta và chuyên chở khoảng 400 tấn vũ khí, đạn dược, thực phẩm, thuốc men cho binh lính địch ở các mặt trận, đặc biệt là Điện Biên Phủ. Sân bay được bảo vệ hết sức nghiêm ngặt, bên ngoài là hệ thống đồn bốt, hàng rào thép gai, bãi mìn dày đặc; bên trong sân bay lực lượng bảo vệ lên tới 2.000 tên, gồm một Trung đoàn lính Âu-Phi, lính người Việt và một đội mật thám.
Các chiến sĩ tổ mũi nhọn đánh sân bay Gia Lâm đêm 3 rạng sáng 4-3-1954. (Ảnh: Bảo tàng lịch sử quốc gia)
Sau một thời gian bí mật tiến hành công tác chuẩn bị, nghiên cứu kỹ tình hình, Ban Chỉ huy Mặt trận quyết định sử dụng 16 đồng chí, trong đó có 3 đồng chí du kích địa phương do đồng chí Vũ Văn Sự chỉ huy, tập kích sân bay vào đêm ngày 3 rạng sáng ngày 4/3/1954. Kết quả ta tiêu diệt 16 tên địch, phá hủy 18 máy bay gồm: 5 chiếc B26, 10 chiếc Đacôta, 3 chiếc chở hành khách; đốt phá một nhà sửa chữa máy bay, một kho xăng, hoạt động của sân bay trong nhiều ngày tiếp theo bị đình trệ. Trận đánh sân bay Gia Lâm là một trận đánh dùng lực lượng nhỏ, tinh nhuệ, với lối đánh táo bạo, bất ngờ, đạt hiệu suất chiến đấu cao.
Qua trận đánh cho thấy Lực lượng vũ trang Hà Nội có sự trưởng thành rõ rệt về nghệ thuật tập kích căn cứ địch trong điều kiện được bố phòng cẩn mật, bị địch kìm kẹp, khủng bố ác liệt; nếu có quyết tâm cao, chỉ huy chặt chẽ, kế hoạch chiến đấu tỉ mỉ, chu đáo, ta vẫn có thể đánh gây tổn thất lớn cho chúng. Cùng với trận đánh vào sân bay Gia Lâm, các trận tập kích vào căn cứ không quân Đồ Sơn đêm 31/1/1954 và sân bay Cát Bi đêm 7/3/1954 của quân và dân Hải Phòng đã gây nhiều khó khăn cho địch trong việc tiếp tế, ứng cứu tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Tiếp tục chia lửa với Mặt trận Điện Biên Phủ, chiều ngày 4/4/1954, quân và dân huyện Gia Lâm lại đánh thắng một trận vang dội trên Đường 5, lật nhào một đoàn tàu 13 toa chở quân lương, quân trang và vũ khí của địch từ Hải phòng lên Hà Nội; cuối tháng 4/1954, giữa lúc tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đang bị bao vây tiêu diệt, công nhân Sở binh lương Hà Nội đốt kho làm cháy hàng nghìn chiếc dù, gây cho địch nhiều khó khăn trong việc tiếp tế cho Điện Biên Phủ. Ngoài ra, cơ sở của ta trong đoàn xe tải ở Đấu Xảo chỉ đạo anh em lái xe phá hủy hàng trăm xe rồi trốn về với kháng chiến.
Để phối hợp với chiến trường chính, Ban Chỉ huy Mặt trận Hà Nội chỉ đạo các đơn vị đẩy mạnh các hoạt động phá hoại, mục tiêu nhằm vào những nơi tập trung đông sĩ quan, binh lính; các kho vũ khí, xăng dầu, quân trang quân dụng, trại lính, những chuyến tàu chở quân của địch. Ban Chỉ huy Mặt trận đã thành lập một ban chuyên trách giúp Thành ủy Hà Nội về công tác phá hoại, trong đó lấy lực lượng bộ đội làm nòng cốt.
Ngoài ra còn dựa vào công đoàn, lấy lực lượng công nhân trẻ, thợ chuyên môn có tay nghề cao, những người làm phu, bồi bếp cho địch..., để tổ chức thành 4 tiểu tổ làm công tác phá hoại ở nội thành và 3 tiểu tổ hoạt động ở ngoại thành và vùng ven, đồng thời lập 2 tổ làm nhiệm vụ cất giấu vũ khí và 1 tiểu tổ làm nhiệm vụ liên lạc bí mật. Nhờ đó công tác phá hoại được phát triển mạnh mẽ, như: Công nhân Nhà máy xe lửa Gia Lâm sản xuất cờ lê, tuốc nơ vít cho du kích Đường 5 phá đường sắt của địch; công nhân lò bánh mì trong thành Hà Nội đánh hỏng máy nướng bánh làm ảnh hưởng tới việc tiếp tế bánh mỳ cho lính Pháp ở các mặt trận. Hoạt động phá hoại đã gây rất nhiều khó khăn cho địch.
Tháng 3/1954, phối hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ, Thành ủy Hà Nội quyết định đánh sân bay Gia Lâm, căn cứ hậu cần bằng đường hàng không lớn nhất của thực dân Pháp ở miền bắc Đông Dương. (Ảnh: baochinhphu.vn)
Trong khi chiến sự ở Điện Biên Phủ diễn ra ác liệt, địch thất bại liên tiếp, tại Hà Nội ta tập trung lực lượng đẩy mạnh công tác địch vận, tuyên truyền tin chiến thắng của ta, gây phong trào phản đối ra trận, đào ngũ trốn về quê trong hàng ngũ binh lính địch. Để công tác địch vận được hiệu quả, ta tán phát hàng vạn giấy thông hành, truyền đơn kêu gọi binh lính địch đào ngũ trở về nhà. Nội dung tuyên truyền chủ yếu tập trung vào việc giải thích chính sách của ta đối với binh sĩ địch; nói rõ cho họ biết về nhà sẽ được cách mạng khoan hồng, được hưởng quyền lợi về ruộng đất.
Đối với sĩ quan địch cung cấp tin tức cho ta hoặc tổ chức phản chiến tập thể sẽ được khoan hồng. Ban địch vận đã có nhiều sáng kiến trong công tác tuyên truyền, như chụp truyền đơn vào phim rồi chuyển cho các cơ sở của ta ở nội thành in lại thành ảnh, sáng kiến đó không những bảo đảm bí mật hơn trong việc vận chuyển tài liệu, mà còn nhanh chóng đáp ứng nhu cầu về số lượng truyền đơn ngày càng nhiều. Hình thức của truyền đơn cũng rất phong phú, phía sau những tờ truyền đơn được in ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cờ đỏ sao vàng, còn được ghi thêm dòng chữ “dùng thay giấy thông hành” được binh lính địch rất tin tưởng tìm kiếm. Nhiều tên coi đó như bùa hộ mệnh để khi có điều kiện thì trốn về với ta, hoặc đề phòng nếu bị bắt thì lấy đó làm bằng chứng đã có liên lạc với ta từ trước. Ngoài tuyên truyền bằng truyền đơn, ta còn rất coi trọng hình thức tuyên truyền miệng, gặp những tên ở mặt trận về, ta khêu gợi họ kể về sự tàn khốc của mặt trận, về những thiệt hại, đau đớn của chúng, khiến cho những tên chưa đi cũng mất hết tinh thần.
Nhiều tên tự thương để được ở lại Hà Nội hoặc trốn về với gia đình, nhiều đơn vị địch vừa đi càn ở đồng bằng về thoái thác tập thể, lấy cớ “không được nghỉ ngơi không đi”. Có đơn vị đã ở Điện Biên Phủ nay lại bị điều lên tuyên bố “đã đi Điện Biên Phủ rồi, dành cho đơn vị khác, không đi nữa”. Tiểu đoàn nhảy dù số 5, Tiểu đoàn dù số 7 không muốn tham chiến ở Điện Biên Phủ, binh lính đóng ở sân bay Bạch Mai trong 5 ngày có tới 1.200 tên đào ngũ… Công tác địch vận ở Hà Nội thời gian này thực sự có tác dụng kìm hãm lực lượng địch ở hậu phương, gây nhiều khó khăn cho chúng trong việc ứng cứu, chi viện cho mặt trận Điện Biên Phủ.
Để kịp thời cung cấp tin tức cho Trung ương Đảng, Bộ Tổng Tư lệnh và Thành ủy lãnh đạo kháng chiến, công tác điều tra nắm tình hình địch được Ban Chỉ huy Mặt trận Hà Nội rất coi trọng. Ban Quân báo Mặt trận được tăng cường lực lượng, nêu cao trách nhiệm và đẩy mạnh hoạt động. Một mặt dựa vào khả năng nắm tình hình địch của quần chúng nhân dân, mặt khác các đội viên tìm cách gây cơ sở trong các cơ quan quân sự, trong doanh trại, công xưởng của địch; ngay trong các cơ quan đầu não cơ mật của địch như Sở mật thám, Bộ Tham mưu ngụy, ta cũng tạo được nhân mối.
Do đó cơ sở quân báo của ta hết sức rộng rãi: Có người là sĩ quan trong cơ quan tham mưu chuyên cung cấp tình hình tác chiến của địch, có người là cảnh binh biết trước các đợt bắt lính của chúng đã chủ động báo cho ta để kịp thời đối phó, có chị tiểu thương qua việc thầu rau cung cấp cho doanh trại địch nắm được quân số biến động của chúng cũng cung cấp cho ta, trong văn phòng quân y của địch, ta cũng có cơ sở nắm được số thương vong của chúng sau mỗi trận đánh… Do đó, nhiều tin tức quan trọng, nhất là những tin về điều động quân số, vũ khí đạn dược, lương thực cho Điện Biên Phủ, quân báo của ta ở mặt trận đều nắm được và báo cáo lên cấp trên kịp thời.
Ngày 7/5/1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, tin chiến thắng nhanh chóng được báo về Sở Chỉ huy Mặt trận Hà Nội (lúc này ở Khoái Châu, Hưng Yên). Trong niềm vui khôn xiết, tin chiến thắng nhanh chóng được lan truyền khắp cơ quan và khu căn cứ, nhân dân địa phương được tin cùng đến chung vui với bộ đội, cả Hà Nội xôn xao tin chiến thắng.
Phối hợp với Điện Biên Phủ, ở đồng bằng Bắc Bộ các đơn vị bộ đội địa phương và dân quân du kích dồn dập uy hiếp mạnh các thành phố, thị xã lớn. Trên tuyến đường Hà Nội, Hải Phòng, quân và dân ta đánh mìn liên tục làm nhiều vị trí đồn, bốt của địch bị nhổ, nhiều xã ven đường tuy vẫn còn tề nhưng thực chất do ta nắm. Thấy không thể căng quân trấn giữ khắp nơi, địch rút bỏ 4 tỉnh Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Hà Nam, co cụm lại bảo vệ Hà Nội và trục đường huyết mạch nối với Hải Phòng.
Từ đây phong trào chống bắt lính, vận động binh lính địch đào ngũ phát triển với một khí thế mới. Các cơ quan của Mặt trận Hà Nội cùng các cơ sở, các đoàn thể tích cực vận động nhân dân đấu tranh với địch làm cho hàng ngũ của chúng tan rã từng mảng lớn. Đến tháng 6 năm 1954 riêng ngành công vận đã tiếp nhận và đưa ra vùng giải phóng hơn 100 lính dù và hơn 400 lính ngụy. Theo thống kê của địch trong thời gian này hơn 19.000 sĩ quan và binh lính địch đào, bỏ ngũ, chưa kể hàng nghìn tên trong bảo chính đoàn và địa phương quân tan rã tại chỗ hoặc trở về với nhân dân.
Như vậy, cuộc đấu tranh của quân và dân Hà Nội trên các mặt trận chính trị, kinh tế, quân sự, địch vận, văn hóa trong Đông Xuân 1953-1954 không những làm thất bại ý đồ bảo vệ khu vực then chốt Hà Nội của địch, mà còn làm phá sản âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của thực dân Pháp; không cho địch rảnh tay ứng cứu, chi viện cho chiến trường Điện Biên Phủ. Mặt trận Hà Nội đã góp phần quan trọng cùng với quân và dân cả nước làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954 “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Nội dung: Thiếu tướng Nguyễn Hồng Thái
Trình bày: NGỌC DIỆP
(Bài đăng tại Hội thảo Khoa học “Chiến thắng Điện Biên Phủ - Giá trị lịch sử và hiện thực (07/5/1954 - 07/5/2019)”.