@a98@hatam Đây là Top 20 quốc gia về trữ lượng than thế giới (Đơn vị: tỷ tấn) Nghe nói, Quyết định 55/2024 phê duyệt Chiến lược phát triển ngành công nghiệp than Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045, có nói sẽ khai thác thử nghiệm bể than sông Hồng trước 2040. Vì hình như trữ lượng của VN hiện chỉ còn nhiều tại bể than châu thổ sông Hồng.
Bể than sông Hồng nằm sâu đến 2km, công nghệ hiện nay không thể khai thác được, đây chỉ là bánh vẽ thôi. Hình như ở VN chỉ có mỏ Quảng Ninh là khai thác được thì phải, em đọc thấy nói 90% than là từ Quảng Ninh, không biết 10% còn lại là mỏ nào?
Trong các Bản Quy hoạch điện trước, có nói nói đến bể than này. Còn vẽ ra thì có, và có bàn là công nghệ khí hóa (đốt cháy) ở mỏ dưới lòng đất, rồi dẫn khí đó lên để dùng phát điện! Chắc công nghệ của tương lai 50 năm nữa, mới làm.
Công nghệ này đã được nghiên cứu từ lâu, nhưng không ai dám triển khai thương mại vì rủi ro ô nhiễm nước ngầm. Em e là ta có chờ 50 năm cũng không được.
@a98@hatam Đây là Top 20 quốc gia về trữ lượng than thế giới (Đơn vị: tỷ tấn) Nghe nói, Quyết định 55/2024 phê duyệt Chiến lược phát triển ngành công nghiệp than Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045, có nói sẽ khai thác thử nghiệm bể than sông Hồng trước 2040. Vì hình như trữ lượng của VN hiện chỉ còn nhiều tại bể than châu thổ sông Hồng.
Bể than sông Hồng nằm sâu đến 2km, công nghệ hiện nay không thể khai thác được, đây chỉ là bánh vẽ thôi. Hình như ở VN chỉ có mỏ Quảng Ninh là khai thác được thì phải, em đọc thấy nói 90% than là từ Quảng Ninh, không biết 10% còn lại là mỏ nào?
@a98@hatam Đây là Top 20 quốc gia về trữ lượng than thế giới (Đơn vị: tỷ tấn) Nghe nói, Quyết định 55/2024 phê duyệt Chiến lược phát triển ngành công nghiệp than Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045, có nói sẽ khai thác thử nghiệm bể than sông Hồng trước 2040. Vì hình như trữ lượng của VN hiện chỉ còn nhiều tại bể than châu thổ sông Hồng.
Bể than sông Hồng nằm sâu đến 2km, công nghệ hiện nay không thể khai thác được, đây chỉ là bánh vẽ thôi. Hình như ở VN chỉ có mỏ Quảng Ninh là khai thác được thì phải, em đọc thấy nói 90% than là từ Quảng Ninh, không biết 10% còn lại là mỏ nào?
@a98@hatam Đây là Top 20 quốc gia về trữ lượng than thế giới (Đơn vị: tỷ tấn) Nghe nói, Quyết định 55/2024 phê duyệt Chiến lược phát triển ngành công nghiệp than Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045, có nói sẽ khai thác thử nghiệm bể than sông Hồng trước 2040. Vì hình như trữ lượng của VN hiện chỉ còn nhiều tại bể than châu thổ sông Hồng.
Bể than sông Hồng nằm sâu đến 2km, công nghệ hiện nay không thể khai thác được, đây chỉ là bánh vẽ thôi. Hình như ở VN chỉ có mỏ Quảng Ninh là khai thác được thì phải, em đọc thấy nói 90% than là từ Quảng Ninh, không biết 10% còn lại là mỏ nào?
QN giờ cũng có mỏ khai thác ở độ sâu vài km rồi cụ. Mỏ lộ thiên hết rồi.
@a98@hatam Đây là Top 20 quốc gia về trữ lượng than thế giới (Đơn vị: tỷ tấn) Nghe nói, Quyết định 55/2024 phê duyệt Chiến lược phát triển ngành công nghiệp than Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045, có nói sẽ khai thác thử nghiệm bể than sông Hồng trước 2040. Vì hình như trữ lượng của VN hiện chỉ còn nhiều tại bể than châu thổ sông Hồng.
Bể than sông Hồng nằm sâu đến 2km, công nghệ hiện nay không thể khai thác được, đây chỉ là bánh vẽ thôi. Hình như ở VN chỉ có mỏ Quảng Ninh là khai thác được thì phải, em đọc thấy nói 90% than là từ Quảng Ninh, không biết 10% còn lại là mỏ nào?
QN giờ cũng có mỏ khai thác ở độ sâu vài km rồi cụ. Mỏ lộ thiên hết rồi.
Làm gì đến mấy km cụ ơi, bài báo năm 2023 nói sâu nhất là 300m dưới mặt nước biển, như vậy hầm mỏ sâu lắm cỡ 400m thôi:
@a98@hatam Đây là Top 20 quốc gia về trữ lượng than thế giới (Đơn vị: tỷ tấn) Nghe nói, Quyết định 55/2024 phê duyệt Chiến lược phát triển ngành công nghiệp than Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045, có nói sẽ khai thác thử nghiệm bể than sông Hồng trước 2040. Vì hình như trữ lượng của VN hiện chỉ còn nhiều tại bể than châu thổ sông Hồng.
Bể than sông Hồng nằm sâu đến 2km, công nghệ hiện nay không thể khai thác được, đây chỉ là bánh vẽ thôi. Hình như ở VN chỉ có mỏ Quảng Ninh là khai thác được thì phải, em đọc thấy nói 90% than là từ Quảng Ninh, không biết 10% còn lại là mỏ nào?
Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang.... có than nhưng trữ lượng chắc không nhiều
@a98@hatam Đây là Top 20 quốc gia về trữ lượng than thế giới (Đơn vị: tỷ tấn) Nghe nói, Quyết định 55/2024 phê duyệt Chiến lược phát triển ngành công nghiệp than Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045, có nói sẽ khai thác thử nghiệm bể than sông Hồng trước 2040. Vì hình như trữ lượng của VN hiện chỉ còn nhiều tại bể than châu thổ sông Hồng.
Bể than sông Hồng nằm sâu đến 2km, công nghệ hiện nay không thể khai thác được, đây chỉ là bánh vẽ thôi. Hình như ở VN chỉ có mỏ Quảng Ninh là khai thác được thì phải, em đọc thấy nói 90% than là từ Quảng Ninh, không biết 10% còn lại là mỏ nào?
Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang.... có than nhưng trữ lượng chắc không nhiều
Nước ta hình như có rất nhiều thứ, nhưng phân bố tản mạn, trữ lượng thấp. Trừ bể than Quảng Ninh - Đông Triều, sắt Thạch Khê, thiếc Tĩnh Túc và apatit Lào Cai.
Riêng bể than Quảng Ninh là than antraxit nhiệt lượng cao, trước đây vỉa lộ thiên rất sẵn, nhưng nay coi như đã khai thác hết, hầu như cạn kiệt, lò đã xuống tới -400 m hoặc sâu hơn. Bản thân em đã nghe đồn dự báo "hết trữ lượng" 2 lần cách nhau hơn 10 năm rồi. Thái nguyên thì chỉ có một ít than mỡ, thích hợp để luyện cốc.
Hiện tại, dù có xuất đi một số than chất lượng cao, ta đã phải nhập than khá nhiều. Một nhà máy nhiệt điện cũng đã ngốn 2-5 triệu tấn than mỗi năm!
Bể than nâu Sông Hồng nghe nói trữ lượng lớn, nhưng lại nằm ở độ sâu rất lớn, ~ 3 km. Với công nghệ hiện tại thì không thể khai thác hiệu quả được. Cách đây một số thời gian, có nghe nói tới ý kiến "của ai đó" rằng sẽ khai thác ngay bằng cách đốt, rồi thu lấy 'khí than" trên mặt đất. Bản thân em thì cho rằng đó sẽ là một cách làm vô cùng vô trách nhiệm, tàn phá của cải của tương lai để thu được cái lợi bé tí teo trước mắt! Em thì nghĩ rằng nếu chúng ta chưa thể khai thác hiệu quả thì nên để dành cho con cháu chúng ta, khi chúng nó có thể dùng khoa học và công nghệ mới để sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên không tái sinh này.
Nếu các cụ để ý, tại đâu đó vùng Trung Á thuộc LX cũ, một giếng mỏ cũ bỏ hoang được đốt cách đây cả mấy chục năm vẫn cháy liên tục, không thể nào dập tắt nổi.
Theo như các cụ thảo luận trên đây thì dường như điện hạt nhân mới là loại điện thân thiện với môi trường nhất so với các loại điện khác?
Chính là vậy, cụ ạ!
Một "viên" nhiên liệu kích cỡ đường kính 8-10 mm, dài 20-25 mm là cho đủ năng lượng cho nhu cầu trung bình của một hộ gia đình trong 1 năm. Em có viên mô phỏng đó, nhưng hiện tại để đâu tìm chưa ra, 12 năm trước rồi!
Nếu không bị sự cố gì, thì NPP là an toàn nhất. Tần suất bị sự cố không nhiều so với các loại hình khác.
Cuối cùng thì Pháp cũng bổ sung được một lò phản ứng hạt nhân mới vào mạng lưới điện trong 25 năm qua. Tôi bổ sung và hiệu chỉnh chút, dự án Flamanville 3 được khởi công vào năm 2007, với kế hoạch hoàn thành vào năm 2012. Tuy nhiên, dự án đã gặp phải nhiều vấn đề kỹ thuật và trì hoãn, dẫn đến việc hoàn thành muộn hơn 12 năm (chứ không phải 10 năm) so với dự kiến ban đầu.
Ban đầu, dự án được ước tính có tổng chi phí khoảng 3,3 tỷ euro. Tuy nhiên, đến khi hoàn thành, con số này đã tăng lên gấp bốn lần, lên tới khoảng 13,2 tỷ euro. Thiết kế cơ bản của lò EPR là một sự hợp tác giữa các công ty năng lượng hạt nhân hàng đầu của Châu Âu, bao gồm Framatome của Pháp và Siemens của Đức.
Sở dĩ chậm tiến độ và đội vốn, là vì:
Sự cố và sai sót trong quá trình thi công: Trong quá trình thi công, đã xảy ra nhiều sự cố và sai sót, buộc các nhà thầu phải dừng công việc để khắc phục.
Sự thiếu kinh nghiệm của các nhà thầu: Một số nhà thầu tham gia dự án chưa có đủ kinh nghiệm trong việc xây dựng các lò phản ứng hạt nhân thế hệ mới, dẫn đến việc chất lượng công việc không được đảm bảo.
Sau lò này nếu sau muộn nhất là 10 năm tới, Pháp bổ sung xây thêm 1 lò mới thì mới duy trì được competency của các kỹ sư và công nhân, nếu để lâu quá không xây mà chỉ bảo trì, thì kinh nghiệm sẽ lại mai một hết thôi.
Lò phản ứng hạt nhân mạnh nhất của Pháp kết nối vào lưới điện quốc gia Thứ bảy 21/12/2024
EPR, lò phản ứng nước áp suất thế hệ mới, là lò thứ 4 được hoàn thành trên thế giới, cũng là lò phản ứng mạnh nhất Pháp với công suất 1.600 MW, sẽ cung cấp điện cho hơn 2 triệu hộ gia đình.
Spoiler
Chi tiết
Lò phản ứng hạt nhân hàng đầu của Pháp tại Flamanville ở Normandy đã được kết nối với lưới điện quốc gia sau hơn 10 năm trì hoãn. (Ảnh: AFP).
Ngày 21/12, Pháp đã kết nối lò phản ứng điện hạt nhân mạnh nhất của mình với lưới điện quốc gia, trong sự kiện mà các nhà lãnh đạo ca ngợi là một khoảnh khắc mang tính bước ngoặt sau nhiều năm trì hoãn và trục trặc kỹ thuật.
Giám đốc điều hành (CEO) của công ty Điện lực Pháp (EDF), ông Luc Remont thông báo lò phản ứng EPR Flamanville 3 ở Normandy đã bắt đầu cung cấp điện cho các hộ gia đình từ 11h48 theo giờ Pháp (17h48 giờ Việt Nam).
Trên mạng xã hội X, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron nhấn mạnh: "Đây là khoảnh khắc tuyệt vời cho đất nước," và cho biết đây là "một trong những lò phản ứng hạt nhân mạnh nhất thế giới."
EPR, lò phản ứng nước áp suất thế hệ mới, là lò thứ 4 được hoàn thành trên thế giới. Đây là lò phản ứng mạnh nhất Pháp với công suất 1.600 MW. Lò này sẽ cung cấp điện cho hơn 2 triệu hộ gia đình.
Ông Remont cũng nhận định đây là “sự kiện lịch sử." Ông cho biết lần gần nhất một lò phản ứng hạt nhân được khởi động ở Pháp là cách đây 25 năm tại Civaux 2 (Tây Nam).
Việc khởi động chậm tiến độ 12 năm sau vô số trục trặc kỹ thuật khiến chi phí của dự án tăng vọt lên ước tính 13,2 tỷ euro (13,76 tỷ USD), gấp 4 lần so với ước tính ban đầu là 3,3 tỷ euro.
Điện hạt nhân chiếm khoảng 3/5 sản lượng năng lượng của Pháp và nước này tự hào có một trong những chương trình điện hạt nhân lớn nhất thế giới.
Tổng thống Macron đã quyết định tăng cường năng lượng hạt nhân để tăng tính bền vững của lĩnh vực năng lượng bằng cách đặt hàng 6 lò phản ứng EPR2 và đưa ra các lựa chọn cho 8 lò phản ứng nữa, ước tính trị giá hàng chục tỷ euro.
Vừa đưa bài trên, nên tôi bổ sung bài viết của mình, sắp xếp ý có thể hơi lộn xộn chút, mong các bác thông cảm. Bài viết này do vô tình nhớ lại sự cố Fukushima, không có hệ thống làm mát thụ động, nên bị trục trặc, vì thế bài này viết về nó, và nhân cơ hội này bổ sung 1 về lõi nóng chảy (core catcher), một đặc điểm thiết kế chỉ có dòng lò VVER của Nga là có
Nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi sử dụng các hệ thống làm mát chủ động, không có hệ thống làm mát thụ động hiện đại như ở một số thiết kế lò phản ứng mới hơn Khi mất điện do động đất và sóng thần, các bơm nước và hệ thống làm mát chủ động tại Fukushima bị vô hiệu hóa hoàn toàn. Vì không có hệ thống làm mát thụ động, nhà máy không thể duy trì nhiệt độ an toàn cho lõi phản ứng, dẫn đến hiện tượng quá nhiệt và nóng chảy.
Hệ thống làm mát thụ động là (Passive Cooling System hay passive safety system) gì? - Hệ thống làm mát thụ động là một thiết kế tiên tiến trong các nhà máy điện hạt nhân hiện đại, giúp giảm sự phụ thuộc vào nguồn điện hoặc thiết bị cơ khí để làm mát lò phản ứng trong trường hợp khẩn cấp. - Hệ thống làm mát thụ động là một hệ thống an toàn trong các lò phản ứng hạt nhân, được thiết kế để làm mát lõi lò phản ứng một cách tự nhiên, không cần đến nguồn điện bên ngoài. Khi xảy ra sự cố mất điện hoặc các sự cố khác, hệ thống này sẽ tự động kích hoạt và đảm bảo lõi lò luôn được làm mát, ngăn chặn tình trạng quá nhiệt và tan chảy.
Đặc điểm chính: 1. Hoạt động không cần nguồn điện: Sử dụng các hiện tượng tự nhiên như đối lưu, dẫn nhiệt, và bay hơi để truyền tải nhiệt từ lõi lò ra ngoài. Không phụ thuộc vào máy bơm nước hoặc hệ thống cấp điện.
Đối lưu tự nhiên: Nhiệt từ lõi lò sẽ làm nóng chất làm mát (thường là nước), khiến chất làm mát nở ra, trở nên nhẹ hơn và tự động di chuyển lên trên. Chất làm mát lạnh hơn, nặng hơn sẽ chìm xuống và tiếp tục quá trình làm mát. Trọng lực: Nước làm mát sẽ chảy theo trọng lực vào các bể chứa lớn, tạo ra một vòng tuần hoàn tự nhiên. Sự bay hơi: Một phần nước làm mát có thể bay hơi, hấp thụ nhiệt và làm giảm nhiệt độ của lõi lò.
2. Đơn giản và tự động: Hệ thống được kích hoạt tự động trong trường hợp mất điện hoặc hệ thống chủ động bị hỏng. Không yêu cầu can thiệp phức tạp từ con người.
3. Hiệu quả cao trong việc ngăn chặn sự cố lan rộng: Có khả năng duy trì nhiệt độ ổn định trong nhiều ngày mà không cần nguồn điện hoặc nước bổ sung.
Ví dụ về hệ thống làm mát thụ động: - AP1000 (Westinghouse): Sử dụng hệ thống làm mát thụ động (Passive Core Cooling System - PCCS) có thể hoạt động tới 72 giờ mà không cần sự can thiệp của con người. Hệ thống này bao gồm các bồn nước đặt cao để cung cấp nước làm mát tự nhiên nhờ trọng lực và đối lưu nhiệt. Tương tự như EPR, AP1000 cũng có các hệ thống làm mát thụ động dựa trên nguyên lý đối lưu tự nhiên và trọng lực. Hệ thống này được thiết kế để cung cấp khả năng làm mát cho lõi lò trong thời gian dài mà không cần can thiệp của con người.
- Lò phản ứng EPR: Có các tính năng làm mát khẩn cấp cải tiến, mặc dù không hoàn toàn "thụ động" như AP1000, nhưng vẫn an toàn hơn so với thiết kế cũ. Lò phản ứng EPR được thiết kế với nhiều hệ thống làm mát thụ động, bao gồm các bể chứa nước lớn và các đường ống dẫn nước có độ dốc tự nhiên. Khi xảy ra sự cố, nước sẽ chảy tự do vào các bể chứa này và làm mát lõi lò.
- Hualong One (HPR1000, Trung Quốc): Passive Residual Heat Removal System (PRHRS), tương tự như PHRS của lò VVER-1200 của Nga, giúp duy trì an toàn trong trường hợp khẩn cấp.
-----------------------------------------------
Hệ thống làm mát thụ động ở lò VVER-1200 Lò phản ứng VVER-1200 (phiên bản nâng cấp của dòng VVER của Nga) được trang bị hệ thống làm mát thụ động tiên tiến nhằm tăng cường an toàn và khả năng tự vận hành trong trường hợp khẩn cấp. Dưới đây là các đặc điểm chính:
1. Đặc điểm chính của hệ thống làm mát thụ động: 1.1. Hệ thống tản nhiệt thụ động qua bộ trao đổi nhiệt (Passive Heat Removal System - PHRS): Nguyên lý hoạt động: - Sử dụng các bộ trao đổi nhiệt thụ động được đặt trong các bồn nước lớn bên trong hoặc bên ngoài vỏ bảo vệ lò. - Nước trong bồn bay hơi tự nhiên do tiếp xúc với các bề mặt trao đổi nhiệt, mang theo nhiệt từ lõi lò phản ứng ra ngoài. - Hơi nước sinh ra được ngưng tụ và quay trở lại bồn nước, tạo thành chu trình tuần hoàn tự nhiên mà không cần bơm nước hoặc nguồn điện.
Khả năng duy trì: - PHRS có thể duy trì làm mát lõi lò phản ứng và ngăn chặn quá nhiệt trong thời gian lên tới 72 giờ, hoàn toàn không cần can thiệp từ bên ngoài.
1.2. Hệ thống cấp nước thụ động cho máy phát hơi nước: - Trong trường hợp khẩn cấp, các bồn nước dự trữ lớn tự động cung cấp nước làm mát tới máy phát hơi nước bằng trọng lực, ngay cả khi mất điện hoàn toàn (station blackout). - Đảm bảo duy trì áp suất và nhiệt độ trong giới hạn an toàn.
1.2. Hệ thống làm mát bể chứa lõi nóng chảy (Core Catcher Cooling System): Một tính năng độc đáo của VVER-1200 là "core catcher" (bẫy lõi tan chảy). Nếu lõi phản ứng bị tan chảy (trong tình huống nghiêm trọng nhất), hệ thống này sẽ giữ và làm mát vật liệu nóng chảy, ngăn chúng làm hỏng lớp vỏ bảo vệ của lò. Các lò phản ứng VVER hiện đại của Nga, như VVER-1200, được thiết kế với bẫy lõi nóng chảy để ngăn chặn vật liệu phóng xạ xuyên qua đáy lò trong trường hợp tan chảy lõi. Đây là một đặc điểm đặc trưng của thiết kế VVER, không phổ biến trong các lò phản ứng phương Tây như EPR, EPR2, AP1000. Bẫy lõi nóng chảy là một tính năng an toàn bổ sung trong một số loại lò phản ứng hạt nhân, bao gồm VVER-1200. Đây là một cấu trúc đặc biệt được đặt bên dưới lò phản ứng, có khả năng chứa đựng hoàn toàn lõi lò nếu trong trường hợp xấu nhất, lõi lò bị tan chảy.
Chức năng: - Ngăn chặn sự phóng xạ: Bẫy lõi nóng chảy sẽ ngăn chặn các vật liệu phóng xạ từ lõi lò tan chảy tiếp xúc với môi trường bên ngoài, giảm thiểu rủi ro ô nhiễm phóng xạ. - Làm mát: Bẫy lõi nóng chảy thường được làm bằng vật liệu có khả năng hấp thụ nhiệt tốt, giúp làm nguội lõi lò tan chảy và giảm thiểu nguy cơ nổ hơi.
VVER-1200 và các phiên bản mới hơn (VVER-1300, VVER-TOI) Được trang bị bẫy lõi nóng chảy nhằm ngăn chặn vật liệu phóng xạ nóng chảy xuyên qua đáy lò phản ứng, bảo vệ môi trường khỏi nhiễm phóng xạ.
VVER-1000 (cũ hơn): Không được trang bị bẫy lõi nóng chảy. Các lò VVER-1000 vẫn tuân thủ các tiêu chuẩn an toàn của thời kỳ phát triển nhưng thiếu tính năng tiên tiến như bẫy lõi. Trong các thiết kế VVER-1000 cũ, sự bảo vệ tập trung vào việc giữ áp suất và làm mát lõi trong các sự cố mất làm mát hoặc tăng áp suất. VVER-1000 không có bẫy lõi nóng chảy và hệ thống làm mát thụ động hiện đại, nhưng vẫn được đánh giá là an toàn cho các tiêu chuẩn của thời kỳ thiết kế. Dường như VVER-1000 có version bổ sung, có chứa hệ thống làm mát thụ động
So với VVER-1000, dòng VVER-1200 hiện đại hơn đáng kể: - Bẫy lõi nóng chảy: VVER-1200 có tính năng này, trong khi VVER-1000 thì không. - Hệ thống làm mát thụ động: VVER-1200 có hệ thống làm mát thụ động tiên tiến, duy trì an toàn đến 72 giờ mà không cần nguồn điện. VVER-1000 chủ yếu dựa vào hệ thống chủ động.
2. Ưu điểm của hệ thống làm mát thụ động: Hoạt động mà không cần nguồn điện: Hệ thống dựa vào đối lưu tự nhiên, không cần máy bơm, động cơ, hoặc điện.
Tự kích hoạt khi cần thiết: Hệ thống tự động hoạt động trong trường hợp mất điện hoặc các hệ thống chủ động bị hỏng, không yêu cầu thao tác thủ công.
Kéo dài thời gian can thiệp: Duy trì làm mát trong tối thiểu 72 giờ, cho phép nhân viên vận hành có đủ thời gian để triển khai các biện pháp khẩn cấp.
Giảm thiểu nguy cơ phát tán phóng xạ: Các tính năng thụ động và bẫy lõi tan chảy đảm bảo các vật liệu phóng xạ không thoát ra môi trường bên ngoài.
3. So sánh với các thiết kế khác: VVER-1200 được đánh giá có hệ thống làm mát thụ động tiên tiến và hiệu quả ngang tầm với các thiết kế lò như AP1000 (Westinghouse) và EPR (Framatome), nhưng đơn giản hơn trong thiết kế. Điểm độc đáo là bẫy lõi nóng chảy, không có trong nhiều thiết kế phương Tây. Các thiết kế EPR, AP1000 này không sử dụng bẫy lõi nóng chảy mà dựa vào các hệ thống làm mát tiên tiến và lớp vỏ bảo vệ (containment) để ngăn lõi nóng chảy thoát ra. Các thiết kế hiện đại của Trung Quốc, như Hualong One (HPR1000), cũng không có bẫy lõi nóng chảy, thay vào đó tập trung vào các hệ thống làm mát thụ động và cấu trúc bảo vệ chắc chắn.
Tại Nga, đây là các lò theo họ VVER (không tính các dạng lò neutron nhanh như BN-600, BN-800). Thông tin được cập nhật đến tháng 12 năm 2024
1. Lò phản ứng VVER-1000:
Nhà máy điện hạt nhân Novovoronezh: Tổ máy số 5 và 6: Được trang bị lò VVER-1000, hiện đang vận hành.
Nhà máy điện hạt nhân Balakovo: Tổ máy số 1, 2 và 3: Được trang bị lò VVER-1000, hiện đang vận hành.
Nhà máy điện hạt nhân Kalinin: Tổ máy số 1 và 2: Được trang bị lò VVER-1000, hiện đang vận hành.
Nhà máy điện hạt nhân Rostov: Tổ máy số 1 và 2: Được trang bị lò VVER-1000, hiện đang vận hành.
2. Lò phản ứng VVER-1200:
Nhà máy điện hạt nhân Novovoronezh: Tổ máy số 6: Được trang bị lò VVER-1200, hiện đang vận hành.
Nhà máy điện hạt nhân Leningrad: Tổ máy số 1 và 2: Được trang bị lò VVER-1200, hiện đang vận hành.
Nhà máy điện hạt nhân Rostov: Tổ máy số 4: Được trang bị lò VVER-1200, hiện đang vận hành.
3. Lò phản ứng VVER-TOI:
Nhà máy điện hạt nhân Kursk: Tổ máy số 1 và 2: Được trang bị lò VVER-TOI, hiện đang xây dựng. Nhà máy điện hạt nhân Smolensk: Tổ máy số 1 và 2: Được trang bị lò VVER-TOI, hiện đang xây dựng.
Nga đang có kế hoạch xây dựng thêm nhiều tổ máy VVER-1200 tại các nhà máy điện hạt nhân khác, như Kursk II, Smolensk II, và một số nhà máy khác. Các lò VVER-1000 vẫn hoạt động ổn định, tuy nhiên các nhà vận hành đang tiến hành các chương trình nâng cấp để cải thiện độ an toàn và hiệu suất của các lò này.
Trong số các bạn VN đi học ở Nga, có mấy chục bạn được tham gia vao xây dựng nhà máy điện hạt nhân Rostov, chắc là tổ máy số 4 với lò VVER-1200, không phải là các tổ máy cũ VVER-1000 nhỉ?
Cuối cùng thì Pháp cũng bổ sung được một lò phản ứng hạt nhân mới vào mạng lưới điện trong 25 năm qua. Tôi bổ sung và hiệu chỉnh chút, dự án Flamanville 3 được khởi công vào năm 2007, với kế hoạch hoàn thành vào năm 2012. Tuy nhiên, dự án đã gặp phải nhiều vấn đề kỹ thuật và trì hoãn, dẫn đến việc hoàn thành muộn hơn 12 năm (chứ không phải 10 năm) so với dự kiến ban đầu.
Ban đầu, dự án được ước tính có tổng chi phí khoảng 3,3 tỷ euro. Tuy nhiên, đến khi hoàn thành, con số này đã tăng lên gấp bốn lần, lên tới khoảng 13,2 tỷ euro. Thiết kế cơ bản của lò EPR là một sự hợp tác giữa các công ty năng lượng hạt nhân hàng đầu của Châu Âu, bao gồm Framatome của Pháp và Siemens của Đức.
Sở dĩ chậm tiến độ và đội vốn, là vì:
Sự cố và sai sót trong quá trình thi công: Trong quá trình thi công, đã xảy ra nhiều sự cố và sai sót, buộc các nhà thầu phải dừng công việc để khắc phục.
Sự thiếu kinh nghiệm của các nhà thầu: Một số nhà thầu tham gia dự án chưa có đủ kinh nghiệm trong việc xây dựng các lò phản ứng hạt nhân thế hệ mới, dẫn đến việc chất lượng công việc không được đảm bảo.
Sau lò này nếu sau muộn nhất là 10 năm tới, Pháp bổ sung xây thêm 1 lò mới thì mới duy trì được competency của các kỹ sư và công nhân, nếu để lâu quá không xây mà chỉ bảo trì, thì kinh nghiệm sẽ lại mai một hết thôi.
Lò phản ứng hạt nhân mạnh nhất của Pháp kết nối vào lưới điện quốc gia Thứ bảy 21/12/2024
EPR, lò phản ứng nước áp suất thế hệ mới, là lò thứ 4 được hoàn thành trên thế giới, cũng là lò phản ứng mạnh nhất Pháp với công suất 1.600 MW, sẽ cung cấp điện cho hơn 2 triệu hộ gia đình.
Spoiler
Chi tiết
Lò phản ứng hạt nhân hàng đầu của Pháp tại Flamanville ở Normandy đã được kết nối với lưới điện quốc gia sau hơn 10 năm trì hoãn. (Ảnh: AFP).
Ngày 21/12, Pháp đã kết nối lò phản ứng điện hạt nhân mạnh nhất của mình với lưới điện quốc gia, trong sự kiện mà các nhà lãnh đạo ca ngợi là một khoảnh khắc mang tính bước ngoặt sau nhiều năm trì hoãn và trục trặc kỹ thuật.
Giám đốc điều hành (CEO) của công ty Điện lực Pháp (EDF), ông Luc Remont thông báo lò phản ứng EPR Flamanville 3 ở Normandy đã bắt đầu cung cấp điện cho các hộ gia đình từ 11h48 theo giờ Pháp (17h48 giờ Việt Nam).
Trên mạng xã hội X, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron nhấn mạnh: "Đây là khoảnh khắc tuyệt vời cho đất nước," và cho biết đây là "một trong những lò phản ứng hạt nhân mạnh nhất thế giới."
EPR, lò phản ứng nước áp suất thế hệ mới, là lò thứ 4 được hoàn thành trên thế giới. Đây là lò phản ứng mạnh nhất Pháp với công suất 1.600 MW. Lò này sẽ cung cấp điện cho hơn 2 triệu hộ gia đình.
Ông Remont cũng nhận định đây là “sự kiện lịch sử." Ông cho biết lần gần nhất một lò phản ứng hạt nhân được khởi động ở Pháp là cách đây 25 năm tại Civaux 2 (Tây Nam).
Việc khởi động chậm tiến độ 12 năm sau vô số trục trặc kỹ thuật khiến chi phí của dự án tăng vọt lên ước tính 13,2 tỷ euro (13,76 tỷ USD), gấp 4 lần so với ước tính ban đầu là 3,3 tỷ euro.
Điện hạt nhân chiếm khoảng 3/5 sản lượng năng lượng của Pháp và nước này tự hào có một trong những chương trình điện hạt nhân lớn nhất thế giới.
Tổng thống Macron đã quyết định tăng cường năng lượng hạt nhân để tăng tính bền vững của lĩnh vực năng lượng bằng cách đặt hàng 6 lò phản ứng EPR2 và đưa ra các lựa chọn cho 8 lò phản ứng nữa, ước tính trị giá hàng chục tỷ euro.
Vừa đưa bài trên, nên tôi bổ sung bài viết của mình, sắp xếp ý có thể hơi lộn xộn chút, mong các bác thông cảm. Bài viết này do vô tình nhớ lại sự cố Fukushima, không có hệ thống làm mát thụ động, nên bị trục trặc, vì thế bài này viết về nó, và nhân cơ hội này bổ sung 1 về lõi nóng chảy (core catcher), một đặc điểm thiết kế chỉ có dòng lò VVER của Nga là có
Nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi sử dụng các hệ thống làm mát chủ động, không có hệ thống làm mát thụ động hiện đại như ở một số thiết kế lò phản ứng mới hơn Khi mất điện do động đất và sóng thần, các bơm nước và hệ thống làm mát chủ động tại Fukushima bị vô hiệu hóa hoàn toàn. Vì không có hệ thống làm mát thụ động, nhà máy không thể duy trì nhiệt độ an toàn cho lõi phản ứng, dẫn đến hiện tượng quá nhiệt và nóng chảy.
Hệ thống làm mát thụ động là (Passive Cooling System hay passive safety system) gì? - Hệ thống làm mát thụ động là một thiết kế tiên tiến trong các nhà máy điện hạt nhân hiện đại, giúp giảm sự phụ thuộc vào nguồn điện hoặc thiết bị cơ khí để làm mát lò phản ứng trong trường hợp khẩn cấp. - Hệ thống làm mát thụ động là một hệ thống an toàn trong các lò phản ứng hạt nhân, được thiết kế để làm mát lõi lò phản ứng một cách tự nhiên, không cần đến nguồn điện bên ngoài. Khi xảy ra sự cố mất điện hoặc các sự cố khác, hệ thống này sẽ tự động kích hoạt và đảm bảo lõi lò luôn được làm mát, ngăn chặn tình trạng quá nhiệt và tan chảy.
Đặc điểm chính: 1. Hoạt động không cần nguồn điện: Sử dụng các hiện tượng tự nhiên như đối lưu, dẫn nhiệt, và bay hơi để truyền tải nhiệt từ lõi lò ra ngoài. Không phụ thuộc vào máy bơm nước hoặc hệ thống cấp điện.
Đối lưu tự nhiên: Nhiệt từ lõi lò sẽ làm nóng chất làm mát (thường là nước), khiến chất làm mát nở ra, trở nên nhẹ hơn và tự động di chuyển lên trên. Chất làm mát lạnh hơn, nặng hơn sẽ chìm xuống và tiếp tục quá trình làm mát. Trọng lực: Nước làm mát sẽ chảy theo trọng lực vào các bể chứa lớn, tạo ra một vòng tuần hoàn tự nhiên. Sự bay hơi: Một phần nước làm mát có thể bay hơi, hấp thụ nhiệt và làm giảm nhiệt độ của lõi lò.
2. Đơn giản và tự động: Hệ thống được kích hoạt tự động trong trường hợp mất điện hoặc hệ thống chủ động bị hỏng. Không yêu cầu can thiệp phức tạp từ con người.
3. Hiệu quả cao trong việc ngăn chặn sự cố lan rộng: Có khả năng duy trì nhiệt độ ổn định trong nhiều ngày mà không cần nguồn điện hoặc nước bổ sung.
Ví dụ về hệ thống làm mát thụ động: - AP1000 (Westinghouse): Sử dụng hệ thống làm mát thụ động (Passive Core Cooling System - PCCS) có thể hoạt động tới 72 giờ mà không cần sự can thiệp của con người. Hệ thống này bao gồm các bồn nước đặt cao để cung cấp nước làm mát tự nhiên nhờ trọng lực và đối lưu nhiệt. Tương tự như EPR, AP1000 cũng có các hệ thống làm mát thụ động dựa trên nguyên lý đối lưu tự nhiên và trọng lực. Hệ thống này được thiết kế để cung cấp khả năng làm mát cho lõi lò trong thời gian dài mà không cần can thiệp của con người.
- Lò phản ứng EPR: Có các tính năng làm mát khẩn cấp cải tiến, mặc dù không hoàn toàn "thụ động" như AP1000, nhưng vẫn an toàn hơn so với thiết kế cũ. Lò phản ứng EPR được thiết kế với nhiều hệ thống làm mát thụ động, bao gồm các bể chứa nước lớn và các đường ống dẫn nước có độ dốc tự nhiên. Khi xảy ra sự cố, nước sẽ chảy tự do vào các bể chứa này và làm mát lõi lò.
- Hualong One (HPR1000, Trung Quốc): Passive Residual Heat Removal System (PRHRS), tương tự như PHRS của lò VVER-1200 của Nga, giúp duy trì an toàn trong trường hợp khẩn cấp.
-----------------------------------------------
Hệ thống làm mát thụ động ở lò VVER-1200 Lò phản ứng VVER-1200 (phiên bản nâng cấp của dòng VVER của Nga) được trang bị hệ thống làm mát thụ động tiên tiến nhằm tăng cường an toàn và khả năng tự vận hành trong trường hợp khẩn cấp. Dưới đây là các đặc điểm chính:
1. Đặc điểm chính của hệ thống làm mát thụ động: 1.1. Hệ thống tản nhiệt thụ động qua bộ trao đổi nhiệt (Passive Heat Removal System - PHRS): Nguyên lý hoạt động: - Sử dụng các bộ trao đổi nhiệt thụ động được đặt trong các bồn nước lớn bên trong hoặc bên ngoài vỏ bảo vệ lò. - Nước trong bồn bay hơi tự nhiên do tiếp xúc với các bề mặt trao đổi nhiệt, mang theo nhiệt từ lõi lò phản ứng ra ngoài. - Hơi nước sinh ra được ngưng tụ và quay trở lại bồn nước, tạo thành chu trình tuần hoàn tự nhiên mà không cần bơm nước hoặc nguồn điện.
Khả năng duy trì: - PHRS có thể duy trì làm mát lõi lò phản ứng và ngăn chặn quá nhiệt trong thời gian lên tới 72 giờ, hoàn toàn không cần can thiệp từ bên ngoài.
1.2. Hệ thống cấp nước thụ động cho máy phát hơi nước: - Trong trường hợp khẩn cấp, các bồn nước dự trữ lớn tự động cung cấp nước làm mát tới máy phát hơi nước bằng trọng lực, ngay cả khi mất điện hoàn toàn (station blackout). - Đảm bảo duy trì áp suất và nhiệt độ trong giới hạn an toàn.
1.2. Hệ thống làm mát bể chứa lõi nóng chảy (Core Catcher Cooling System): Một tính năng độc đáo của VVER-1200 là "core catcher" (bẫy lõi tan chảy). Nếu lõi phản ứng bị tan chảy (trong tình huống nghiêm trọng nhất), hệ thống này sẽ giữ và làm mát vật liệu nóng chảy, ngăn chúng làm hỏng lớp vỏ bảo vệ của lò. Các lò phản ứng VVER hiện đại của Nga, như VVER-1200, được thiết kế với bẫy lõi nóng chảy để ngăn chặn vật liệu phóng xạ xuyên qua đáy lò trong trường hợp tan chảy lõi. Đây là một đặc điểm đặc trưng của thiết kế VVER, không phổ biến trong các lò phản ứng phương Tây như EPR, EPR2, AP1000. Bẫy lõi nóng chảy là một tính năng an toàn bổ sung trong một số loại lò phản ứng hạt nhân, bao gồm VVER-1200. Đây là một cấu trúc đặc biệt được đặt bên dưới lò phản ứng, có khả năng chứa đựng hoàn toàn lõi lò nếu trong trường hợp xấu nhất, lõi lò bị tan chảy.
Chức năng: - Ngăn chặn sự phóng xạ: Bẫy lõi nóng chảy sẽ ngăn chặn các vật liệu phóng xạ từ lõi lò tan chảy tiếp xúc với môi trường bên ngoài, giảm thiểu rủi ro ô nhiễm phóng xạ. - Làm mát: Bẫy lõi nóng chảy thường được làm bằng vật liệu có khả năng hấp thụ nhiệt tốt, giúp làm nguội lõi lò tan chảy và giảm thiểu nguy cơ nổ hơi.
VVER-1200 và các phiên bản mới hơn (VVER-1300, VVER-TOI) Được trang bị bẫy lõi nóng chảy nhằm ngăn chặn vật liệu phóng xạ nóng chảy xuyên qua đáy lò phản ứng, bảo vệ môi trường khỏi nhiễm phóng xạ.
VVER-1000 (cũ hơn): Không được trang bị bẫy lõi nóng chảy. Các lò VVER-1000 vẫn tuân thủ các tiêu chuẩn an toàn của thời kỳ phát triển nhưng thiếu tính năng tiên tiến như bẫy lõi. Trong các thiết kế VVER-1000 cũ, sự bảo vệ tập trung vào việc giữ áp suất và làm mát lõi trong các sự cố mất làm mát hoặc tăng áp suất. VVER-1000 không có bẫy lõi nóng chảy và hệ thống làm mát thụ động hiện đại, nhưng vẫn được đánh giá là an toàn cho các tiêu chuẩn của thời kỳ thiết kế. Dường như VVER-1000 có version bổ sung, có chứa hệ thống làm mát thụ động
So với VVER-1000, dòng VVER-1200 hiện đại hơn đáng kể: - Bẫy lõi nóng chảy: VVER-1200 có tính năng này, trong khi VVER-1000 thì không. - Hệ thống làm mát thụ động: VVER-1200 có hệ thống làm mát thụ động tiên tiến, duy trì an toàn đến 72 giờ mà không cần nguồn điện. VVER-1000 chủ yếu dựa vào hệ thống chủ động.
2. Ưu điểm của hệ thống làm mát thụ động: Hoạt động mà không cần nguồn điện: Hệ thống dựa vào đối lưu tự nhiên, không cần máy bơm, động cơ, hoặc điện.
Tự kích hoạt khi cần thiết: Hệ thống tự động hoạt động trong trường hợp mất điện hoặc các hệ thống chủ động bị hỏng, không yêu cầu thao tác thủ công.
Kéo dài thời gian can thiệp: Duy trì làm mát trong tối thiểu 72 giờ, cho phép nhân viên vận hành có đủ thời gian để triển khai các biện pháp khẩn cấp.
Giảm thiểu nguy cơ phát tán phóng xạ: Các tính năng thụ động và bẫy lõi tan chảy đảm bảo các vật liệu phóng xạ không thoát ra môi trường bên ngoài.
3. So sánh với các thiết kế khác: VVER-1200 được đánh giá có hệ thống làm mát thụ động tiên tiến và hiệu quả ngang tầm với các thiết kế lò như AP1000 (Westinghouse) và EPR (Framatome), nhưng đơn giản hơn trong thiết kế. Điểm độc đáo là bẫy lõi nóng chảy, không có trong nhiều thiết kế phương Tây. Các thiết kế EPR, AP1000 này không sử dụng bẫy lõi nóng chảy mà dựa vào các hệ thống làm mát tiên tiến và lớp vỏ bảo vệ (containment) để ngăn lõi nóng chảy thoát ra. Các thiết kế hiện đại của Trung Quốc, như Hualong One (HPR1000), cũng không có bẫy lõi nóng chảy, thay vào đó tập trung vào các hệ thống làm mát thụ động và cấu trúc bảo vệ chắc chắn.
Tại Nga, đây là các lò theo họ VVER (không tính các dạng lò neutron nhanh như BN-600, BN-800). Thông tin được cập nhật đến tháng 12 năm 2024
1. Lò phản ứng VVER-1000:
Nhà máy điện hạt nhân Novovoronezh: Tổ máy số 5 và 6: Được trang bị lò VVER-1000, hiện đang vận hành.
Nhà máy điện hạt nhân Balakovo: Tổ máy số 1, 2 và 3: Được trang bị lò VVER-1000, hiện đang vận hành.
Nhà máy điện hạt nhân Kalinin: Tổ máy số 1 và 2: Được trang bị lò VVER-1000, hiện đang vận hành.
Nhà máy điện hạt nhân Rostov: Tổ máy số 1 và 2: Được trang bị lò VVER-1000, hiện đang vận hành.
2. Lò phản ứng VVER-1200:
Nhà máy điện hạt nhân Novovoronezh: Tổ máy số 6: Được trang bị lò VVER-1200, hiện đang vận hành.
Nhà máy điện hạt nhân Leningrad: Tổ máy số 1 và 2: Được trang bị lò VVER-1200, hiện đang vận hành.
Nhà máy điện hạt nhân Rostov: Tổ máy số 4: Được trang bị lò VVER-1200, hiện đang vận hành.
3. Lò phản ứng VVER-TOI:
Nhà máy điện hạt nhân Kursk: Tổ máy số 1 và 2: Được trang bị lò VVER-TOI, hiện đang xây dựng. Nhà máy điện hạt nhân Smolensk: Tổ máy số 1 và 2: Được trang bị lò VVER-TOI, hiện đang xây dựng.
Nga đang có kế hoạch xây dựng thêm nhiều tổ máy VVER-1200 tại các nhà máy điện hạt nhân khác, như Kursk II, Smolensk II, và một số nhà máy khác. Các lò VVER-1000 vẫn hoạt động ổn định, tuy nhiên các nhà vận hành đang tiến hành các chương trình nâng cấp để cải thiện độ an toàn và hiệu suất của các lò này.
Tôi rất quan tâm đến các sinh viên được cử sang Nga học ngành hạt nhân. Tạm chưa nói đến các bạn đã chuyển sang làm việc ở những ngành khác có liên quan như trong bài dưới này, tôi lại quan tâm đến những bạn vẫn còn làm việc trong ngành này ở Nga hoặc trong các dự án nhà máy điện hạt nhân của Nga ở nước ngoài. Thấy bảo có những bạn đã tham gia xây nhà máy điện hạt nhân ở Rostov, thấy bác @ngo-rung có nói đến chương trình VTV có đưa tin là cấp chính phủ họp nói về vấn đề gọi các bạn sinh viên đang làm cho Nga quay về, nói có đầy đủ danh sách ai đang làm ở đâu, có đến vài trăm bạn, cả làm việc tại Nga và cho Nga ở nước ngoài. Tiếc là bác ấy không nhớ chương trình đó là chương trình gì, diễn ra hôm nào? Bác nào nhớ thì cho biết, tôi muốn tìm xem. Nếu có đến vài trăm bạn thì cũng không quá lãng phí, vì hồi xưa VN mình hình như cũng chỉ cử 400-500 bạn sang Nga học thì phải?
Sau 8 năm tạm dừng, Ninh Thuận chuẩn bị làm điện hạt nhân
12/12/2024 06:50 GMT+7
...
Gặp lại người được học về điện hạt nhân Theo UBND tỉnh Ninh Thuận, dự án điện hạt nhân Ninh Thuận được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư lần đầu vào năm 2009. Tổng diện tích quy hoạch xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2 là 1.642,22 ha, ảnh hưởng đến 1.100 hộ dân với gần 4.000 người.
Sau khi công bố quy hoạch địa điểm, tỉnh đã chỉ đạo hoàn thành công tác đo đạc, kiểm kê, áp giá bồi thường tại địa điểm dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1, các khu tái định canh định cư, khu nghĩa trang, với tổng diện tích 479 ha/1.029 ha và triển khai 10 dự án thành phần phục vụ tái định cư.
Đồng thời tỉnh Ninh Thuận cũng đã cử 88 học sinh, sinh viên tham gia học tập ngành công nghệ hạt nhân tại Liên bang Nga. Đến nay có 44 người tốt nghiệp về nước và được Tập đoàn Điện lực Việt Nam giới thiệu việc làm, 29 người tự tìm việc làm và còn 15 người chưa về nước.
Sau hơn 6 năm học tập và nghiên cứu công nghệ điện hạt nhân ở Nga, hiện anh Nguyễn Nhật Trường (phường Văn Hải, TP Phan Rang - Tháp Chàm) đã trở về nước và làm việc tại Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân.
Anh Trường kể năm 2013 anh là một trong những học sinh đầu tiên ở Ninh Thuận được cử sang Nga để học tập ngành thiết kế, xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân tại Đại học Tổng hợp quốc gia Nga nghiên cứu về hạt nhân "MEPhI".
Đến năm 2016, khi có chủ trương tạm dừng dự án điện hạt nhân, bản thân anh cùng nhiều du học sinh khác có lo lắng nhưng vẫn không ngừng học tập với mong muốn sớm trở về cống hiến cho quê hương.
"Nay dự án điện hạt nhân Ninh Thuận được tái khởi động, mở ra cơ hội mới cho nguồn năng lượng sạch của quốc gia và là xu hướng của thế giới hiện nay. Tôi hy vọng dự án sớm được triển khai thực hiện và nếu có cơ hội sẽ đóng góp sức mình bằng những kiến thức học ngay trên chính quê nhà" - anh Trường nói.
Chị Nguyễn Thị Thùy Dung, một du học sinh ngành điện hạt nhân khác, đã về nước năm 2021, phấn khởi nói việc tái khởi động điện hạt nhân Ninh Thuận sẽ mở ra cơ hội mới cho nhiều du học sinh trở về cống hiến đúng chuyên ngành.
Ngoài ra, dự án cũng sẽ tạo thêm nhiều việc làm mới cho học sinh sinh viên và người dân địa phương nói chung.
"Những gì chúng tôi đã được học cho thấy công nghệ điện hạt nhân rất hiện đại, tạo ra nguồn năng lượng dồi dào để phục vụ các ngành kinh tế. Vì thế, tôi kỳ vọng Việt Nam sẽ sớm có nhà máy điện hạt nhân và bản thân được đóng góp vào sự phát triển đó" - chị Dung chia sẻ.
"Thủ tướng Phạm Minh Chính giao Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn chỉ đạo Bộ Công Thương kiểm điểm trách nhiệm tập thể, cá nhân trong việc chậm trễ trình bổ sung cập nhật kế hoạch, xử lý theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước, báo cáo Thủ tướng kết quả thực hiện trước ngày 25/1/2025.
...
Theo sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương đã tổ chức họp rà soát điều chỉnh Quy hoạch điện VIII, đưa ra các nhiệm vụ sẽ thực hiện và đề xuất các mốc tiến độ (dự kiến) hoàn thành.
Cụ thể, trước ngày 3/1/2025, trình Thủ tướng Chỉnh phủ phê duyệt Nhiệm vụ lập điều chỉnh Quy hoạch điện VIII, chỉ định đơn vị tư vấn lập điều chỉnh Quy hoạch và báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐMC) của đề án.
Trước ngày 5/1/2025, các địa phương, tập đoàn và cơ quan liên quan phải cung cấp thông tin, số liệu cho Bộ Công Thương để tính toán phương án phát triển điện lực. Trước ngày 5/2/2025, Bộ Công Thương/đơn vị tư vấn phải hoàn thành dự thảo lần 1 của đề án điều chỉnh Quy hoạch điện VIII, tổ chức hội thảo lấy ý kiến các Bộ, ngành liên quan.
Trước ngày 10/2/2025, Bộ Công Thương sẽ hiệu chỉnh đề án theo góp ý của các Bộ, ngành, địa phương, trình Thủ tướng lần 1. Tiếp đó, tổ chức tiếp thu, chỉnh sửa, hoàn thiện các bước theo quy định và trình Thủ tướng theo đúng chỉ đạo."
Chả nhẽ trước đây không có phương án B, phương án C ... cho điện hạt nhân đút sẵn gầm bàn ạ.
Có mấy tháng mà lập lại quy hoạch thế này thì có kịp không thưa cụ @hatam
"Thủ tướng Phạm Minh Chính giao Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn chỉ đạo Bộ Công Thương kiểm điểm trách nhiệm tập thể, cá nhân trong việc chậm trễ trình bổ sung cập nhật kế hoạch, xử lý theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước, báo cáo Thủ tướng kết quả thực hiện trước ngày 25/1/2025.
...
Theo sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương đã tổ chức họp rà soát điều chỉnh Quy hoạch điện VIII, đưa ra các nhiệm vụ sẽ thực hiện và đề xuất các mốc tiến độ (dự kiến) hoàn thành.
Cụ thể, trước ngày 3/1/2025, trình Thủ tướng Chỉnh phủ phê duyệt Nhiệm vụ lập điều chỉnh Quy hoạch điện VIII, chỉ định đơn vị tư vấn lập điều chỉnh Quy hoạch và báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐMC) của đề án.
Trước ngày 5/1/2025, các địa phương, tập đoàn và cơ quan liên quan phải cung cấp thông tin, số liệu cho Bộ Công Thương để tính toán phương án phát triển điện lực. Trước ngày 5/2/2025, Bộ Công Thương/đơn vị tư vấn phải hoàn thành dự thảo lần 1 của đề án điều chỉnh Quy hoạch điện VIII, tổ chức hội thảo lấy ý kiến các Bộ, ngành liên quan.
Trước ngày 10/2/2025, Bộ Công Thương sẽ hiệu chỉnh đề án theo góp ý của các Bộ, ngành, địa phương, trình Thủ tướng lần 1. Tiếp đó, tổ chức tiếp thu, chỉnh sửa, hoàn thiện các bước theo quy định và trình Thủ tướng theo đúng chỉ đạo."
Chả nhẽ trước đây không có phương án B, phương án C ... cho điện hạt nhân đút sẵn gầm bàn ạ.
Có mấy tháng mà lập lại quy hoạch thế này thì có kịp không thưa cụ @hatam
Làm tăng tốc lên thì làm được thôi. Các bản Dự thảo Quy hoạch điện thường 5 năm làm mới 1 lần, đơn vị chủ chốt làm Quy hoạch điện trước kia là Viện Năng lượng của Bộ Công thương (trước đó là thuộc EVN).
Với bản Đề án (Dự án) Điều chỉnh Quy hoạch điện 8 theo yêu cầu của CP, có nhiều số liệu có sẵn rồi, nhiều năm nằm ngăn kéo, giờ lấy ra để tái sử dụng.
Nga mong muốn cùng Việt Nam thúc đẩy hợp tác trong khoa học - công nghệ và bày tỏ sẵn sàng tham gia xây dựng ngành công nghiệp điện hạt nhân của Việt Nam.
Tại buổi hội đàm hôm nay ở Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính và Thủ tướng Nga Mikhail Mishustin khẳng định tầm quan trọng của hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, khẳng định mong muốn tiếp tục hợp tác trong triển khai xây dựng Trung tâm Nghiên cứu khoa học công nghệ hạt nhân tại Việt Nam, theo thông cáo của Bộ Ngoại giao.
Thủ tướng Mishustin cho biết Moskva hợp tác với nhiều nước trong phát triển điện hạt nhân, khẳng định Nga sẵn sàng tham gia xây dựng ngành công nghiệp điện hạt nhân của Việt Nam. Ông cũng đề nghị hai nước thúc đẩy hợp tác thêm trong các lĩnh vực y tế, lao động và hóa dược.
Trong chuyến thăm Việt Nam hồi tháng 6/2024 của Tổng thống Nga Vladimir Putin, hai bên đã ký bản ghi nhớ về kế hoạch triển khai Dự án xây dựng Trung tâm Nghiên cứu khoa học và công nghệ hạt nhân tại Việt Nam do tập đoàn năng lượng Rosatom tiến hành. Ông Putin khẳng định phát triển năng lượng nguyên tử hòa bình là lĩnh vực hứa hẹn trong mở rộng hợp tác Việt - Nga.
Cuối tháng 11/2024, Quốc hội quyết nghị tái khởi động dự án điện hạt nhân Ninh Thuận sau 8 năm tạm dừng, sau khi nhận đề xuất từ chính phủ về khởi động lại dự án nhằm giúp đa dạng hóa nguồn cung cấp điện, bảo đảm an ninh năng lượng. Thủ tướng Phạm Minh Chính đã yêu cầu Bộ trưởng Công Thương chỉ đạo triển khai, hoàn thành việc đầu tư dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận trong 5 năm.
Thủ tướng Phạm Minh Chính và Thủ tướng Nga Mikhail Mishustin (trái) tại lễ ký kết Thông cáo chung và các văn kiện hợp tác Việt - Nga, sau lễ đón chính thức và hội đàm vào ngày 14/1. Ảnh:Giang Huy
Tại cuộc hội đàm giữa Thủ tướng Phạm Minh Chính và Thủ tướng Mishustin, hai bên nhất trí tiếp tục tăng cường đối thoại, củng cố tin cậy chính trị, thúc đẩy tiếp xúc, trao đổi đoàn ở các cấp và trên các kênh, tạo cơ sở cho hợp tác song phương phát triển toàn diện, nhất là trong lĩnh vực kinh tế - thương mại, đầu tư, năng lượng - dầu khí, giáo dục - đào tạo, văn hóa, du lịch và khoa học - công nghệ.
Hai Thủ tướng ghi nhận kim ngạch thương mại song phương tăng trưởng tích cực, song còn nhiều dư địa để khai thác, tiếp tục nghiên cứu tạo điều kiện mở cửa cho hàng hóa của nhau như nông sản, dược phẩm.
Việt - Nga ghi nhận tầm quan trọng của hợp tác trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, tăng cường giảng dạy tiếng Việt tại Nga và tiếng Nga tại Việt Nam, thúc đẩy hợp tác thông qua Mạng lưới các trường Đại học Kỹ thuật. Nga tiếp tục cấp học bổng đào tạo nhân lực cho Việt Nam trong các lĩnh vực khoa học công nghệ, nghệ thuật... Hai bên nhất trí thúc đẩy hợp tác kết nối giao thông, trong đó có hàng hải, đường sắt và giao thông đô thị.
Hai lãnh đạo cũng trao đổi về các vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm, khẳng định tiếp tục phối hợp chặt chẽ, ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn đa phương. Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị phía Nga ủng hộ việc bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông, giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên Hợp Quốc, nhất là UNCLOS 1982.
Thủ tướng Phạm Minh Chính mong chính phủ Nga tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi và bảm đảm an toàn về người, tài sản cho cộng đồng người Việt. Ông cũng khẳng định chính phủ Việt Nam luôn quan tâm và sẽ bảo đảm thuận lợi cho công dân Nga sinh sống, học tập.
Sau hội đàm, Thủ tướng Phạm Minh Chính và Thủ tướng Mikhail Mishustin đã ký Thông cáo chung về kết quả chuyến thăm và cùng chứng kiến lễ ký kết một số văn kiện hợp tác trong lĩnh vực khoa học, thông tin truyền thông, văn hóa.
Tổng Bí thư Tô Lâm tiếp Thủ tướng Nga Mikhail Mishustin vào ngày 14/1. Ảnh:Giang Huy
Cùng ngày, Tổng Bí thư Tô Lâm đã tiếp Thủ tướng Nga Mikhail Mishustin. Tổng Bí thư Tô Lâm cho rằng chuyến thăm có ý nghĩa rất quan trọng, diễn ra đúng vào dịp hai nước kỷ niệm 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao và là chuyến thăm Việt Nam đầu tiên của ông Mishustin trên cương vị Thủ tướng Nga. Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh Việt Nam luôn coi Nga là đối tác quan trọng hàng đầu trong chính sách đối ngoại.
Thủ tướng Mikhail Mishustin khẳng định Nga luôn coi Việt Nam là một trong những đối tác ưu tiên quan trọng nhất của Nga tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, nhất là tại Đông Nam Á.
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đón Thủ tướng Nga Mikhail Mishustin ở Nhà Quốc hội ngày 14/1. Ảnh:Giang Huy
Tại cuộc gặp Thủ tướng Nga, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh Quốc hội Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với Hội đồng Liên bang và Duma Quốc gia Quốc hội Liên bang Nga. Hai bên tích cực thúc đẩy trao đổi đoàn cấp cao, triển khai hiệu quả cơ chế Ủy ban hợp tác liên nghị viện.
Năm 2025, Quốc hội Việt Nam sẵn sàng đón Chủ tịch Duma Quốc gia thăm chính thức Việt Nam và đồng chủ trì Phiên họp lần thứ tư Ủy ban hợp tác liên nghị viện.
Việt Nam và Liên Xô thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1950. Tháng 6/1994, Việt Nam và Nga ký Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga. Hai bên xác lập quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện năm 2012.
Kim ngạch song phương hai nước 11 tháng năm 2024 đạt 4,1 tỷ USD, tăng 27,4% so với cùng kỳ năm 2023. Cộng đồng người Việt Nam tại Nga có khoảng 60.000-80.000 người. Từ năm 2019, Nga tăng số học bổng cho Việt Nam lên khoảng 1.000 suất mỗi năm. Hiện có khoảng hơn 5.000 sinh viên Việt Nam du học tại Nga.