@a98 @meotamthe @hatam @ktqsminh @ngo-rung @elevonic
MUỘN CÒN HƠN KHÔNG: VIỆT NAM ĐÃ NHẬN RA VẤN ĐỀ CHÍNH?
Trong hơn ba thập kỷ theo đuổi hội nhập và hiện đại hóa, Việt Nam đã miệt mài tìm kiếm một mô hình công nghệ phù hợp để vừa phát triển kinh tế, vừa xây dựng năng lực tự chủ chiến lược. Chúng ta đi qua nhiều con đường khác nhau: học hỏi phương Tây, tiếp thu công nghệ Nhật – Hàn, tự mày mò trong nước, và tranh thủ hợp tác đa phương. Nhưng đến hôm nay, khi Chính phủ phê duyệt Đề án đưa 1.500 công dân mỗi năm sang Nga, Trung Quốc, Đông Âu và các nước Liên Xô cũ để đào tạo dài hạn giai đoạn 2026–2035, Việt Nam dường như đã xác nhận một điều mà những người hiểu công nghiệp đã thấy từ lâu: mô hình công nghệ của Nga và di sản Liên Xô là phù hợp nhất với điều kiện phát triển của chúng ta.Đây không phải là sự lựa chọn cảm tính. Đây là kết luận của một quá trình dài quan sát, thử nghiệm và so sánh. Công nghệ phương Tây tuy hào nhoáng và được truyền thông tôn vinh, nhưng lại đặt ra những yêu cầu vượt xa khả năng của một quốc gia có nền tảng công nghiệp đang phát triển. Hạ tầng phụ trợ phải đạt chuẩn rất cao, chuỗi cung ứng phải tinh vi, chi phí bản quyền và bảo trì quá lớn, còn khả năng nội địa hóa gần như bằng không. Nói cách khác, công nghệ phương Tây đẹp nhưng… không dành cho những nước có điểm xuất phát thấp. Thậm chí ngay cả Trung Quốc, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, cũng từng không thể hấp thụ trọn vẹn công nghệ Mỹ – châu Âu, và buộc phải xây dựng hệ sinh thái kỹ thuật riêng.
Điều đáng nói là Trung Quốc đã chứng minh một điều quan trọng: công nghệ Liên Xô kết hợp với sự cải tiến bản địa có thể đánh bại phương Tây trong nhiều lĩnh vực trọng yếu. Họ tiếp thu những nền tảng cơ học, tự động hóa, vật liệu, năng lượng, hàng không – vũ trụ từ Liên Xô, sau đó tự phát triển lên theo hướng “vừa phải – mạnh mẽ – dễ sản xuất – dễ nhân rộng”. Kết quả là ngày nay, họ dẫn đầu toàn cầu về sản xuất công nghiệp, năng lượng tái tạo, UAV quân sự, vũ khí giá rẻ hiệu quả cao, điện tử công suất và chuỗi cung ứng chiến lược. Trong khi đó, phương Tây nhiều khi chỉ còn “dẫn đầu trong tưởng tượng” – quảng bá nhiều hơn thực chất.
Công nghệ Liên Xô – Nga có một đặc tính mà các nước đang phát triển rất cần: tính thực dụng. Nó không yêu cầu quá nhiều về chất lượng hạ tầng; nó chấp nhận điều kiện vận hành khắc nghiệt; nó cho phép sửa chữa đơn giản; nó mở rộng biên độ nội địa hóa; và quan trọng hơn hết, nó không được xây dựng trên hệ thống ràng buộc bản quyền – tiêu chuẩn – chuỗi cung ứng do các tập đoàn tư bản kiểm soát. Khi Việt Nam đào tạo nhân lực theo hệ quy chiếu công nghệ này, chúng ta không chỉ mua kiến thức, mà đang mở ra khả năng chủ động làm chủ dây chuyền, quy trình và thiết kế – điều mà mô hình phương Tây hiếm khi cho phép.Việc đưa 1.500 người mỗi năm sang Nga, Trung Quốc và Đông Âu vì vậy không chỉ là câu chuyện giáo dục, mà là thông điệp chính sách: Việt Nam đang tái định vị trục phát triển công nghệ của mình. Trong dài hạn, đây là hướng đi thực tế nhất nếu chúng ta muốn xây dựng nền công nghiệp có sức sống, có tính độc lập, và có khả năng phục vụ cả mục tiêu kinh tế lẫn quốc phòng. Những ngành mà các nước này mạnh – từ cơ khí hạng nặng, điện khí hóa, điều khiển – tự động hóa, hàng không, năng lượng, đến khoa học vật liệu – đều là các ngành mà Việt Nam cần, nhưng lại là những lĩnh vực mà phương Tây không muốn hoặc không thể chia sẻ ở mức độ đủ sâu.
Muộn còn hơn không. Chúng ta đã từng có thời gian dài chạy theo những thứ hào nhoáng nhưng xa lạ với điều kiện phát triển của chính mình. Hôm nay, Việt Nam dường như đã xác định được nền tảng phù hợp, đã tìm thấy con đường hợp lý hơn và đã chủ động điều chỉnh chiến lược đào tạo nguồn nhân lực – thứ tài nguyên quan trọng nhất của bất kỳ quốc gia nào. Nếu được triển khai đúng, quyết định này có thể tạo ra lớp kỹ sư – nhà khoa học nòng cốt giúp Việt Nam tái thiết năng lực công nghiệp, giảm phụ thuộc và bước vào chu kỳ phát triển bền vững hơn.Và nếu xem đây là một lời thừa nhận thì nó là lời thừa nhận tích cực: chúng ta đã nhận ra vấn đề chính. Quan trọng là chúng ta nhận ra đúng lúc để còn kịp sửa.
Em nghĩ vẫn chủ yếu học Tây, NN đang có định hướng biến tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ 2, giảng dạy tất cả các môn bằng tiếng Anh.
@a98 @meotamthe @hatam @ktqsminh @ngo-rung @elevonic
MUỘN CÒN HƠN KHÔNG: VIỆT NAM ĐÃ NHẬN RA VẤN ĐỀ CHÍNH?
Trong hơn ba thập kỷ theo đuổi hội nhập và hiện đại hóa, Việt Nam đã miệt mài tìm kiếm một mô hình công nghệ phù hợp để vừa phát triển kinh tế, vừa xây dựng năng lực tự chủ chiến lược. Chúng ta đi qua nhiều con đường khác nhau: học hỏi phương Tây, tiếp thu công nghệ Nhật – Hàn, tự mày mò trong nước, và tranh thủ hợp tác đa phương. Nhưng đến hôm nay, khi Chính phủ phê duyệt Đề án đưa 1.500 công dân mỗi năm sang Nga, Trung Quốc, Đông Âu và các nước Liên Xô cũ để đào tạo dài hạn giai đoạn 2026–2035, Việt Nam dường như đã xác nhận một điều mà những người hiểu công nghiệp đã thấy từ lâu: mô hình công nghệ của Nga và di sản Liên Xô là phù hợp nhất với điều kiện phát triển của chúng ta.Đây không phải là sự lựa chọn cảm tính. Đây là kết luận của một quá trình dài quan sát, thử nghiệm và so sánh. Công nghệ phương Tây tuy hào nhoáng và được truyền thông tôn vinh, nhưng lại đặt ra những yêu cầu vượt xa khả năng của một quốc gia có nền tảng công nghiệp đang phát triển. Hạ tầng phụ trợ phải đạt chuẩn rất cao, chuỗi cung ứng phải tinh vi, chi phí bản quyền và bảo trì quá lớn, còn khả năng nội địa hóa gần như bằng không. Nói cách khác, công nghệ phương Tây đẹp nhưng… không dành cho những nước có điểm xuất phát thấp. Thậm chí ngay cả Trung Quốc, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, cũng từng không thể hấp thụ trọn vẹn công nghệ Mỹ – châu Âu, và buộc phải xây dựng hệ sinh thái kỹ thuật riêng.
Điều đáng nói là Trung Quốc đã chứng minh một điều quan trọng: công nghệ Liên Xô kết hợp với sự cải tiến bản địa có thể đánh bại phương Tây trong nhiều lĩnh vực trọng yếu. Họ tiếp thu những nền tảng cơ học, tự động hóa, vật liệu, năng lượng, hàng không – vũ trụ từ Liên Xô, sau đó tự phát triển lên theo hướng “vừa phải – mạnh mẽ – dễ sản xuất – dễ nhân rộng”. Kết quả là ngày nay, họ dẫn đầu toàn cầu về sản xuất công nghiệp, năng lượng tái tạo, UAV quân sự, vũ khí giá rẻ hiệu quả cao, điện tử công suất và chuỗi cung ứng chiến lược. Trong khi đó, phương Tây nhiều khi chỉ còn “dẫn đầu trong tưởng tượng” – quảng bá nhiều hơn thực chất.
Công nghệ Liên Xô – Nga có một đặc tính mà các nước đang phát triển rất cần: tính thực dụng. Nó không yêu cầu quá nhiều về chất lượng hạ tầng; nó chấp nhận điều kiện vận hành khắc nghiệt; nó cho phép sửa chữa đơn giản; nó mở rộng biên độ nội địa hóa; và quan trọng hơn hết, nó không được xây dựng trên hệ thống ràng buộc bản quyền – tiêu chuẩn – chuỗi cung ứng do các tập đoàn tư bản kiểm soát. Khi Việt Nam đào tạo nhân lực theo hệ quy chiếu công nghệ này, chúng ta không chỉ mua kiến thức, mà đang mở ra khả năng chủ động làm chủ dây chuyền, quy trình và thiết kế – điều mà mô hình phương Tây hiếm khi cho phép.Việc đưa 1.500 người mỗi năm sang Nga, Trung Quốc và Đông Âu vì vậy không chỉ là câu chuyện giáo dục, mà là thông điệp chính sách: Việt Nam đang tái định vị trục phát triển công nghệ của mình. Trong dài hạn, đây là hướng đi thực tế nhất nếu chúng ta muốn xây dựng nền công nghiệp có sức sống, có tính độc lập, và có khả năng phục vụ cả mục tiêu kinh tế lẫn quốc phòng. Những ngành mà các nước này mạnh – từ cơ khí hạng nặng, điện khí hóa, điều khiển – tự động hóa, hàng không, năng lượng, đến khoa học vật liệu – đều là các ngành mà Việt Nam cần, nhưng lại là những lĩnh vực mà phương Tây không muốn hoặc không thể chia sẻ ở mức độ đủ sâu.
Muộn còn hơn không. Chúng ta đã từng có thời gian dài chạy theo những thứ hào nhoáng nhưng xa lạ với điều kiện phát triển của chính mình. Hôm nay, Việt Nam dường như đã xác định được nền tảng phù hợp, đã tìm thấy con đường hợp lý hơn và đã chủ động điều chỉnh chiến lược đào tạo nguồn nhân lực – thứ tài nguyên quan trọng nhất của bất kỳ quốc gia nào. Nếu được triển khai đúng, quyết định này có thể tạo ra lớp kỹ sư – nhà khoa học nòng cốt giúp Việt Nam tái thiết năng lực công nghiệp, giảm phụ thuộc và bước vào chu kỳ phát triển bền vững hơn.Và nếu xem đây là một lời thừa nhận thì nó là lời thừa nhận tích cực: chúng ta đã nhận ra vấn đề chính. Quan trọng là chúng ta nhận ra đúng lúc để còn kịp sửa.
Em không lạc quan lắm vì với con số 1500 người, quá nhỏ bé, em cho là đây chỉ đơn giản là vì Ta có ký với Nga và Trung Quốc các văn bản có nội dung cam kết hợp tác chặt chẽ hơn ở nhiều mặt, trong đó có cả các mặt về tư tưởng, chính trị, văn hoá, việc đưa đi học ok, nhưng nội dung em nghĩ là vừa đủ để cho có. Chính trị đôi khi phải nhìn một cách tiêu cực và moi móc mới có thể thấy được mặt thật của tình huống. Nhất là khi chính sách bây giờ chuyển đổi xanh, hướng sang trend của phương Tây, chính sách trở thành trung tâm tài chính thế giới, cũng hướng sang phương Tây, những thứ này có thể gạt những thứ kia sang vệ đường một cách dễ dàng, do vậy em không lạc quan như bác Lý Thanh Hà. Nhưng sắp tới thế sự hỗn loạn, đừng nói chuyện đưa đi học hành và đưa về để xây dựng với số lượng nhân tài khiêm tốn như vậy, để bảo đảm mình an toàn yên ổn cũng đang dần trở thành vấn đề lớn rồi.



