Tin tức và bình luậ...
 
Notifications
Clear all

Tin tức và bình luận về kinh tế - xã hội phương Tây - Vol. 1

718 Bài viết
25 Thành viên
435 Reactions
24.3 K Lượt xem
(@langtubachkhoa)
Lão niên
Được ưa thích
Bá tước Phương Nam – langtubachkhoa
Trung lưu rank 3
Tài sản: 67799.33
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 20338
 

BS. TRẦN VĂN PHÚC

Nhà giàu Mỹ trừng phạt cả thế giới bằng cách áp “thuế có đi có lại”, nhưng bất ngờ lão Mỹ phải tuyên bố dừng lại 90 ngày, một trong những nguyên nhân lão Mỹ phải dừng là vì gia đình anh Nhật báo tháo hết sạch nợ của lão Mỹ.
Tan làm lúc 5 giờ, tôi xuống bến xe buýt, rồi đi bộ đến chợ rau. Nhìn thấy những quả cà chua tôi hỏi: “Em gái, một cân giá bao nhiêu?” “Mười ngàn đồng anh ạ”, cô bán hàng trả lời; tôi đáp: “Tám ngàn được không em?” “Anh ơi, em nhập đã chín ngàn”, vừa nói cô vừa đưa cho tôi một cái túi nilon. Tôi cầm lấy, nhặt cà chua lên cân đúng 1kg và đưa tờ 10 ngàn đồng: “Không cần trả lại đâu em”. Cô gái liếc nhìn tôi, cười rất tươi, rồi nhặt thêm bốn quả cho vào túi.
Trên đường về tôi liên tưởng đến ngày xưa, tổ tiên của chúng ta chưa có tiền, hàng hoá được trao đổi trực tiếp.
Vậy tiền được dùng để làm gì?
Kì nghỉ cuối tuần, tôi về một miền quê leo núi, sau gần hai giờ tôi leo đến đỉnh, nơi có một ngôi chùa cổ. Trước tam bảo, tôi thành tâm thắp một nén hương trầm, rồi quyên góp 100 ngàn. Sư cô đưa cho tôi một lá bùa. Tôi rất vui. Lá bùa được cất trong ví. Chiều thứ Hai tan làm lúc 5 giờ, tôi xuống bến xe buýt, rồi đi bộ đến chợ rau. Khi lấy ví ra trả tiền, cô bán rau nhìn thấy lá bùa và nói: “Đẹp quá! Anh có thể bán cho em giá 200 ngàn không?”

Nợ quốc gia và trái phiếu kho bạc là gì?
Trong kinh tế học, có một khái niệm cơ bản nhất đó là trái phiếu kho bạc do Mỹ phát hành, có nghĩa là chính phủ Mỹ đi vay tiền bằng cách viết giấy nợ. Hiểu nôm na là, trong một ngôi làng nọ, lão nhà giàu Mỹ sang nhà chị Hoa và anh Nhật để vay tiền đô la, phát hiện gia đình anh Việt nghèo xác xơ nhưng trong két sắt đang có một ít đô la nên lão Mỹ cũng hỏi vay luôn. Các bên đồng ý cho vay, lão Mỹ viết giấy nợ đưa cho họ, trong giấy nợ lão Mỹ viết những lời hứa như mức lãi suất và thời gian trả nợ.
Tờ giấy nợ đó, cũng tương tự lá bùa sư cô đưa cho tôi, chính là trái phiếu kho bạc Mỹ.
Bạn đọc sẽ thắc mắc, tại sao anh Việt nghèo vậy lại cho lão Mỹ giàu nứt đố đổ vách vay tiền, tức là bỏ đô la trong két sắt nhà mình để mua lấy cái tờ giấy ghi nợ, để hiểu điều này xin bạn đọc hãy nghe tôi giải thích rõ ràng về số tiền trong két sắt nhà anh Việt, thuật ngữ chuyên môn gọi là dự trữ ngoại hối. Két sắt nhà anh Việt chính là Ngân hàng Trung ương nằm ở phố Lý Thái Tổ. Phần lớn đô la trong két sắt nhà anh Việt, nó đến từ những đứa con anh biết cách xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài, tức là các công ti xuất khẩu. Ví dụ, đứa con gái út của anh Việt may được mấy bộ quần áo đẹp bán cho lão Mỹ, kiếm được 1 triệu đô la. Nhưng con gái anh Việt không được cầm tiền đô la, mà giao dịch phải thông qua người bố chính là anh Việt, anh trực tiếp nhận 1 triệu đô la từ lão Mỹ rồi cho vào két sắt, sau đó ông in 25 tỉ tiền VNĐ đưa cho con gái út. Như vậy, 1 triệu đô la đó nằm ở Ngân hàng Trung ương, nó trở thành dự trữ ngoại hối của Việt Nam.
Tất nhiên, Ngân hàng Trung ương cũng có nguồn đô la từ một số công ti nước ngoài, đầu tư vốn làm ăn vào Việt Nam. Ví dụ, thằng cu Múc con lão Mỹ bỏ ra 10 triệu đô la để xây nhà máy sản xuất ô tô điện trên đất nhà anh Việt, nhưng anh Việt không cho nó cầm đô la chi tiêu trong đất nhà mình. Vậy anh Việt thu lại 10 triệu đô la của nó, cho vào két sắt, rồi anh in ra 250 tỉ VNĐ đưa cho cu Múc để nó trả tiền thuê đất, mua nguyên vật liệu, trả tiền thuê công nhân và thi công ở tại nhà anh Việt.
Két sắt nhà anh Việt giữ đô la, nó không chỉ thể hiện anh Việt giàu hay nghèo, mà cái quan trọng nữa đó là nó phòng khi gia đình anh có biến cố, ốm đau bệnh tật phải tiêu số tiền lớn, cũng như điều tiết các hoạt động chi tiêu của gia đình sao cho hài hoà. Nói bằng ngôn ngữ chuyên môn, thì Ngân hàng Trung ương giữ một số ngoại tệ như một bức tường lửa tài chính, nó dùng để kiểm soát ngoại hối. Tỉ giá hối đoái VNĐ biến động do ảnh hưởng của thị trường. Ví dụ VNĐ tăng giá quá mạnh. Những bài trước tôi đã nói, nếu đồng tiền VNĐ của anh Việt bị tăng giá quá mạnh, anh Việt sẽ tăng số đô la dự trữ trong két sắt bằng cách in thêm tiền VNĐ đổi lấy đô la từ trong ví của những đứa con, với biện pháp này giá VNĐ sẽ giảm xuống.
Có nhiều hoạt động làm cho số đô la trong két nhà anh Việt luôn thay đổi, ví dụ như con gái út của anh Việt đi Mỹ hay ra nước ngoài làm ăn cần mang theo 1 triệu đô la, nên sẽ gặp anh Việt để đổi, anh Việt mở két lấy 1 triệu đô la giao cho con gái, đồng thời anh thu lại 25 tỉ VNĐ cất vào tủ. Ví dụ khác, cu Múc con lão Mỹ nó rút về nước, thì nó cũng phải đổi tiền. Ngoài ra, anh Việt phải dùng đô la mua súng ống, chíp công nghệ, mua vân vân mây mây.
Tuy nhiên, số tiền đô la mà anh Việt cất trong két sắt quá lớn, thì nó sẽ nguy hiểm nếu xảy ra cháy nhà. Nhưng xác suất cháy nhà rất thấp nên chẳng đáng lo. Cái không ổn nhất khi két nhà anh Việt giữ quá nhiều đô la, đó là sự lãng phí, bởi xét cho cùng những đồng đô la mà ó không được lưu thông thì chúng chỉ là những tờ giấy vẽ rất xấu, chẳng có giá trị gì.
Tại sao giữ đống đô la trong két lại không có giá trị?
Bạn đọc hãy tưởng tượng, thằng con trai anh Nhật sang nhà lão Mỹ học hành 1 năm nên phải trả 1 triệu đô la cho lão Mỹ, lão Mỹ dùng 1 triệu đô la ấy trả nợ tiền chơi gái nhà chị Hoa, chị Hoa dùng 1 triệu đô la trả nợ tiền mua son phấn nhà anh Hàn, anh Hàn trả 1 triệu đô la tiền nợ mua rượu quốc lủi nhà anh Việt, anh Việt dùng 1 triệu đô la trả cho anh Nhật số nợ tiền mua thóc giống cùng các nguyên vật liệu thiết bị chưng cất rượu. Cứ như thế, đồng tiền nó lưu thông hết vòng này đến vòng khác, ai cũng có lợi, ai cũng hạnh phúc; có nghĩa là đồng tiền đã có giá trị. Ngược lại, 1 triệu đô la nằm im trong két sắt nhà anh Nhật, thì chẳng ai được hưởng lợi lộc gì, nghĩa là số tiền đó chỉ như đống giấy lộn.
Vậy anh Việt phải xử lí như thế nào với số đô la trong két?
Ngân hàng Trung ương không phải là một công ti, cũng không phải là ngân hàng thương mại, nên không thể kinh doanh làm ăn, không thể dùng tiền đó mua nhà ở Mỹ hay đầu tư chứng khoán ở Mỹ để kiếm lời. Vậy anh Việt phải tính toán, giữ lại số đô la cần giữ trong két sắt đề phòng rủi ro và điều tiết chi tiêu khi cần, còn lại anh cho lão Mỹ vay. Tức là anh Việt dùng đô la mua tờ giấy nợ của lão Mỹ, uy tín của lão Mỹ khỏi bàn cãi, định kì lão trả lãi cho anh là được.
Như vậy, bạn đọc đã hiểu tại sao chính phủ các nước cần dùng số đô la trong ngân hàng trung ương để mua trái phiếu Mỹ, loại trái phiếu do Mỹ phát hành và được bảo lãnh bằng uy tín của chính phủ Mỹ, đồng thời được bảo quản tốt. Cứ như vậy, nhu cầu đảm bảo an toàn và dự trữ ngoại hối tại nhiều quốc gia trên thế giới đã tạo ra thị trường trái phiếu đô la Mỹ.
Hoa Kỳ thực sự không phải trả lại khoản nợ gốc.
Bạn đọc lại hình dung anh Việt cho lão Mỹ vay 10 tỉ đô la, trong giấy nợ ghi thời hạn trả vào ngày X tháng Y năm Z, nhưng đến ngày đáo hạn lão Mỹ lại hỏi vay anh Việt 15 tỉ đô la và anh Việt đồng ý. Lúc này, lão Mỹ bảo tôi nợ anh 10 tỉ, vậy anh chỉ cần đưa tôi 15 – 10 = 5 tỉ đô la, anh đưa tôi cái tờ giấy biên nợ cũ, tôi gửi anh tờ mới. Nghĩa là suốt đời lão Mỹ vay tiền và chỉ cần trả lãi. Giải thích theo thuật ngữ chuyên môn, khi đáo hạn, Hoa Kỳ sẽ vay tiền mới hay còn gọi là phát hành nợ mới để trả nợ cũ. Bộ tài chính Hoa Kỳ chỉ cần trả lãi. Trái phiếu này về cơ bản tương đương với tín dụng của chính phủ Hoa Kỳ đang lưu hành trên thị trường và có cùng bản chất với đồng đô la Mỹ. Do đó, trái phiếu đô la Mỹ đã được tiền tệ hóa.
Trong cuộc sống, khả năng cho vay tiền là một nghệ thuật, khả năng ghi giấy biên nhận nợ và dùng những tờ giấy biên nhận nợ để vay tiền còn là nghệ thuật khó gấp bội, đây chính là sự bá quyền của đồng đô la mà không đồng tiền nào trên thế giới được phép.
Tôi giả sử những quốc gia như Argentina, Hi Lạp, Zimbabwe tuyên bố cho thế giới vay tiền của họ, thì chắc chắn không một quốc gia nào dám mua những cái giấy ghi nợ ấy.
Chúng ta hãy tiếp tục.
Ngoài anh Việt, chị Hoa, anh Hàn và anh Nhật cho lão Mỹ vay tiền, thì còn bố đẻ lão Mỹ cùng những đứa con của lão cho vay, đặc biệt hơn nữa là chính lão Mỹ tự vay tiền trong két sắt của mình. Bố đẻ lão Mỹ có một cái máy in tiền, ông bố này cứ mải mê in tiền, rồi cho thằng con trai nghịch tử chính lão Mỹ vay. Ngoài ra, ông bố già này còn dùng số tiền mình in, để trả cho các mặt hàng mà lũ cháu làm ra chưa bán được.
Ông bố này chính là Cục Dự trữ Liên bang.
Theo dữ liệu do Bộ Tài chính Hoa Kỳ, tính đến năm 2022 nợ quốc gia của Mỹ đã vượt quá 30 nghìn tỉ đô la. Nhưng lượng trái phiếu kho bạc do các quốc gia khác nắm giữ không lớn, dưới 8 nghìn tỉ, điều đó có nghĩa là tổng số tiền mà Hoa Kỳ nợ các quốc gia khác trên thế giới là dưới 8 nghìn tỉ. Còn lại 30 – 8 = 22 nghìn tỉ còn lại, chính phủ Hoa Kỳ nắm giữ hơn 6 nghìn tỉ. Nói cách khác, chính phủ Mỹ nợ chính mình 6 nghìn tỉ, nợ các tổ chức trong nước (chủ yếu là Cục Dự trữ Liên bang) 16 nghìn tỉ.
Bạn đọc sẽ cảm thấy kì lạ khi lão Mỹ nợ chính mình 6 nghìn tỉ đô la. Thực ra, không có gì lạ ở đây cả. Bộ quần áo lão Mỹ mặc có rất nhiều túi, túi áo ngực có một ví tiền lương hưu của bọn con cháu, túi quần bên phải là cái ví của quỹ giáo dục, tóm lại mỗi túi có một cái ví. Tiền nhiều trong ví thì không ổn. Vì thế, lão Mỹ vay luôn tiền từ các ví, nhét vào đó cái tờ giấy ghi nợ là xong. Cũng như vậy, lão vay tiền của những đứa con, chỉ cần ghi cho nó cái giấy nợ.
Trong số các chủ nợ của lão Mỹ hiện nay, anh Nhật là chủ nợ lớn nhất với hơn 1000 tỉ đô la, tiếp theo là chị Hoa với 761 tỉ đô la.
Ngược dòng thời gian một chút, trong cuộc chiến thương mại 1.0 chị Hoa là chủ nợ lớn nhất của lão Mỹ, thời điểm này lão Mỹ thấy nhà chị Hoa bị lạm phát do dịch bệnh, những đứa con của chị Hoa phải tiêu pha nhiều mà tiền không kiếm được, thuận nước đẩy thuyền, lão Mỹ chơi đểu xỏ háng chị Hoa bằng cách giục ông bố in tiền ngày đêm hết công suất, bằng cách này lão Mỹ pha loãng số tiền nợ của chị Hoa. Hãy tưởng tượng thế này cho dễ hiểu, trước năm 2021 thì 1 triệu đô la chị Hoa cho lão Mỹ vay có thể mua được 1 căn biệt thự, nhưng sau năm 2021 thì 3 triệu đô la mới mua được vẫn căn biệt thự ấy, tức là lão Mỹ đã cướp trắng của chị Hoa hai phần ba căn biệt thự, cái này gọi là pha loãng nợ. Nhưng chị Hoa không chịu ngồi yên, để không tiếp tục lỗ, chị trả đũa lão Mỹ bằng cách bán tống bán tháo nợ Mỹ. Việc bán các tờ giấy ghi nợ đã giúp chị Hoa ổn định tỉ giá hối đoái đồng tiền nhân dân tệ của nhà mình. Ngoài ra, việc bán nợ ấy cũng giúp chị Hoa có đô la để giao cho các con chị mang đi làm ăn, đúng lúc dịch bệnh khó khăn các con chị Hoa rất cần tiền để làm lụng, giữ vững kinh tế gia đình.
Viết tới đây, bạn đọc sẽ thấy lão Mỹ sống dựa vào ông bố in tiền và lão đi vay, lão vay lung tung tứ mẹt. Ông bố già cứ nhìn vào cái tờ giấy ghi nợ để in tiền. Ví dụ, một thằng con mất nết của lão Mỹ từ nước ngoài chạy về đòi lão trả nợ đậy 10 tỉ vì con lão làm ăn ở nhà chị Hoa bị phá sản, lão Mỹ sẽ bảo tao chẳng có đồng nào trong túi, vậy để tao nói ông nội mày in tiền, in xong lão đút túi số tiền đó, rồi viết cái giấy nợ 10 tỉ bảo thằng con trai mang đưa cho chị Hoa.
Trong xã hội tín dụng Mỹ thì vay tiền chính là in tiền.
Nếu đồng đô la được in, các nước sản xuất trên thế giới vẫn sẽ đẩy mạnh sản xuất và nhanh chóng kiếm đô la Mỹ. Sau khi kiếm được đô la, họ sẽ dùng tiền để mua thực phẩm, năng lượng và những thứ khác hỗ trợ sinh kế của người dân, mua vũ khí để tăng cường năng lực quân sự và mua thiết bị, công nghệ để hỗ trợ chuỗi công nghiệp trong nước. Trong mọi trường hợp, trong quá trình thương mại toàn cầu hóa, việc sản xuất một sản phẩm nhất định ở một quốc gia là kết quả của sự hợp tác và phân công lao động giữa nhiều quốc gia.
Lấy ô tô làm ví dụ. Một chiếc ô tô thường được cấu thành từ hơn 10 ngàn bộ phận độc lập không thể tháo rời, điều đó có nghĩa là có khoảng 10 ngàn ngành công nghiệp liên quan tham gia vào một chiếc ô tô. Những ngành công nghiệp này không thể tồn tại trong cùng một quốc gia. Chẳng hạn ở Nhật, ô tô là ngành công nghiệp trụ cột và chỉ làm chủ các công nghệ khoa học quan trọng như linh kiện ô tô cốt lõi và chip, các thành phần khác đòi hỏi sự phân công lao động và hợp tác từ các quốc gia khác. Lúc này, đồng đô la Mỹ là cần thiết, phải có đô la để lưu thông. Đồng đô la Mỹ liên tục được in để chi tiêu, năng suất của thế giới vẫn đang tăng lên vì một số quốc gia vẫn đang trong quá trình chuyển đổi công nghiệp, năng suất tăng lên sẽ hấp thụ được lượng đô la Mỹ in thêm.
Tuy nhiên, việc Mỹ in quá nhiều tiền nhằm mục đích tác động tiêu cực đến Trung Quốc, nhưng lại gây lạm phát trong nước Mỹ ở thời điểm năm 2021. Đây chủ yếu là lạm phát về phía cung do sự gián đoạn chuỗi cung ứng trong thời kì dịch bệnh. Ngoài ra, Mỹ in tiền quá nhanh, vượt quá tốc độ tiêu dùng, cũng gây ra lạm phát. Lúc này, Trung Quốc lại chơi bài thuận nước đẩy thuyền, bán tống bán tháo nợ Mỹ, nhiều quốc gia mua số nợ này. Mua nợ = In tiền. Cả thế giới đua nhau in tiền, các quốc gia cứ nhìn vào tờ giấy nợ mà in đồng tiền của mình, đồng đô la mất giá, thế là toàn thế giới kéo Mỹ chìm xuống.

Tôi giải thích thêm việc Trung Quốc bán tháo nợ.
Bạn đọc hãy tưởng tượng, lão Mỹ in quá nhiều tiền, những đứa con dùng số tiền ấy tiêu vung tàn tán bằng cách mua trứng của nhau, một quả trứng ban đầu chỉ 0,2 đô la bỗng tăng lên 1 đô la tại nhà lão Mỹ. Con gái út lão Mỹ nhập trứng từ nhà chị Hoa giá chỉ 0,1 đô la, về nhà lão Mỹ bán giá 1 đô la, ngược lại con trai chị Hoa phải chấp nhận mua đùi gà Mỹ giá cao, vậy chẳng phải ăn cướp sao. Ban đầu, chị Hoa chỉ cần 100 triệu đô la mua được một cái tàu, nhưng sau đó phải bỏ ra gấp 10 lần như thế vẫn chưa mua nổi. Trong hoàn cảnh này, số tiền chị Hoa cho lão Mỹ vay, lãi suất chị Hoa thu được so với đồng tiền trượt giá, rõ ràng lãi thực tế đang là con số âm. Vì vậy, chẳng có cách nào khác, chị Hoa phải bán tống bán tháo giấy ghi nợ.
Nhật Bản mua nợ nhiều nhất.
Nợ của lão Mỹ khác với nợ của chị Hoa và anh Nhật, lão Mỹ vay tiền để tiêu dùng, chị Hoa và anh Nhật bán và mua nợ của nhau là để lấy tiền sản xuất. Khi đại dịch xảy ra năm 2000, con cháu lão Mỹ không thể làm việc, nên lão Mỹ phải đi vay tiền cho con cháu tiêu sài. Ngoài ra, lão Mỹ phải vay để cứu thị trường tài chính không bị sụp đổ, đâu tư vào các cuộc cách mạng màu như Thổ Nhĩ Kỳ và Kazakhstan, đầu tư vào các tổ chức phi chính phủ tham gia vào chủ nghĩ quân phiệt. Ngược lại, thời điểm đó chị Hoa bán nợ, là để có tiền đầu tư cho công ăn việc làm. Nhà anh Nhật cũng đang cần đồng yên để sản xuất trong nước, anh lấy số đô la trong két sắt mua lại những tờ giấy nợ của chị Hoa, nhìn vào tờ giấy nợ đó anh Nhật in ra đồng yên để phát cho các con làm ăn.

Các quốc gia hối hả mua nợ Mỹ.
Mọi người đều cảm thấy không vui khi mua trái phiếu kho bạc Mỹ, bởi Mỹ chỉ bỏ ra chi phí in tiền, lãi suất nợ của Mỹ rất thấp, số tiền mà người dân làm việc chăm chỉ để kiếm được lại bị Mỹ lấy đi bằng một tờ giấy nợ. Đó là chưa kể, Mỹ vay tiền của bạn để mua đồ, vay tiền của bạn để chế tạo vũ khí rồi bán cho quốc gia theo Mỹ chiến đấu với quốc gia của bạn, như vậy sẽ không thể vui. Sẽ càng không thể vui nếu lãi suất vay bằng 0. Tháng 8 năm 2021, sau khi rút quân khỏi Afghanistan, Hoa Kỳ đã giữ lại 7 tỉ đô la tài sản nước ngoài của Afghanistan. Hãy nghĩ xem Afghanistan nghèo đến mức nào, họ có thể dùng gì 7 tỉ ấy để mua thực phẩm, thì người dân sẽ hạnh phúc biết bao. Thời điểm ấy người nghèo Afghanistan sắp chết đói và chết cóng. Sau khi chiếm giữ 7 tỉ và chặn các dòng tiền, Hoa Kỳ đã sử dụng một thứ “vũ khí” lợi hại là lương thực để kiểm soát 25 triệu người nghèo ở Afghanistan, trong đó có 3 triệu trẻ em phải bỏ học. Khi những người dân đó sắp chết đói, người Mỹ sẽ tiến lên và đưa cho họ hai ổ bánh mì rồi để họ đi diễu hành và gây rối, cuộc cách mạng màu ở Afganistan diễn ra chỉ đơn giản như vậy đấy.
Nhưng nếu chúng ta không cho Mỹ vay thì sao?
Như tôi đã nói, tiền mặt đô la Mỹ cất giữ trong kho bạc trong nước, sẽ trở nên vô giá trị. Chưa kể việc cất giữ một số tiền lớn có khá nhiều bất trắc, ví dụ như cháy, trộm cắp, tham ô tham nhũng, hay một số kẻ lợi dụng chức vụ để sử dụng số tiền phi pháp. Vậy chỉ còn một giải pháp, đó là gửi tiền vào hệ thống đô la Mỹ, nhưng lãi suất gửi tiền vào ngân hàng Hoa Kỳ là 0, nên việc gửi tiền này cũng vô nghĩa.

Tiền nhiều chỉ mỗi cách cho vay.
Cho chính phủ Mỹ vay tiền, vừa là cách để giữ tiền, vừa có lãi định kì. Nhưng bất kì cá nhân hoặc tổ chức nào vay quá nhiều tiền, các chủ nợ sẽ rất kinh hoàng nếu họ tiếp tục vay, ngay cả khi bên vay là chính phủ. Chính phủ Mỹ và các ông chủ tư bản lớn ở Hoa Kỳ đang vay quá nhiều nên họ mở tiệc. Tiền vay họ mua đủ loại, từ năng lượng, khoáng sản, lương thực, thực phẩm, cho đến khoai tây chiên. Thậm chí các chính phủ đang phải cho Hoa Kỳ vay tiền với lãi suất 0% và liên tục đưa tiền vào túi Mỹ. Tiền chảy vào thị trường tài chính và đẩy giá tài sản tài chính lên cao, giúp các ông chủ ở Mỹ thu được lợi nhuận khổng lồ. Trong thời kì dịch bệnh, với việc nới lỏng chính sách tiền tệ của Hoa Kỳ, tài sản của 500 người giàu nhất Hoa Kỳ đã tăng lên gấp nhiều lần. Một báo cáo mới cho thấy dựa trên dữ liệu từ Forbes, tài sản của các tỉ phú Mỹ đã tăng 62% từ tháng 3 năm 2020 đến tháng 3 năm 2022.

Bản chất an toàn của trái phiếu đô la Mỹ.
Có hai lí do để trái phiếu đô la Mỹ an toàn.
Một là, do sự bá chủ của đồng đô la, có nghĩa là đồng đô la đủ sức thống trị, trở thành đồng tiền trú ẩn, đảm bảo an toàn. Hoa Kỳ rất coi trọng tín dụng tiền tệ và có tinh thần hợp đồng tốt trong kinh doanh. Tín dụng tiền tệ không liên quan gì đến gian lận ngoại giao hay chính trị của Hoa Kỳ. Các nước phương Tây là xã hội theo hợp đồng, coi trọng tinh thần hợp đồng, họ hiểu rằng kinh doanh là kinh doanh, chiến tranh là chiến tranh và chính trị là chính trị. Xét cho cùng, việc gặt hái lợi ích của thế giới bằng cách dựa vào sự bá quyền của đồng đô la có lợi hơn nhiều so với việc vi phạm hợp đồng.
Các đồng tiền khác chẳng có gì đảm bảo.
Ngay cả đồng rúp của Nga cũng đã từng dễ dàng để xảy ra khủng hoảng. Năm 1998, Soros tấn công đồng rúp, Putin đã ngay lập tức đẩy giá đồng rúp xuống mức thấp nhất và tuyên bố gia hạn trả nợ trái phiếu chính phủ do nước ngoài tài trợ, trực tiếp tịch thu nguồn vốn nước ngoài do Soros dẫn đầu. Hành động này của Putin đã được cứu được đồng rúp. Nhưng thật oái oăm, uy tín tín dụng quốc gia của Nga đã giảm xuống mức thấp nhất, thấp đến nỗi khi Nga phát hành trái phiếu để vay đô la Mỹ, lãi suất trên thị trường quốc tế tăng trực tiếp lên 100%. Có nghĩa là, Nga vay 1 tỉ đô la, thì phải trả 2 tỉ. Nga bị gắn cái mác “ngố” cũng đúng, bởi Nga cố gắng đối phó với một cá nhân là Soros, đã luôn vô tình làm tổn thương rất nhiều người khác. Điều này cũng có tác động đáng kể đến các công ti xuất nhập khẩu của Nga và là một trong những lí do khiến nền kinh tế nước này phát triển chậm.
Thứ hai, trái phiếu chính phủ Mỹ có bản chất an toàn, bởi đó là trái phiếu của một quốc gia phát triển.
Các nước phát triển phát hành trái phiếu, độ an toàn sẽ cao, trong khi lãi suất thấp. Ngược lại, các nước đang phát triển gặp nhiều khó khăn hơn trong việc phát hành trái phiếu, lãi suất cũng cao hơn. Thực ra điều này rất dễ hiểu. Quốc gia phát triển tương đương với người giàu có. Quốc gia đang phát triển tương đương với những người trẻ tuổi đang khởi nghiệp, bắt đầu từ con số 0, rủi ro trong làm ăn có phần cao.
Ở cùng thời điểm, người giàu có và người trẻ tuổi đến vay tiền bạn, người giàu trả lãi rất thấp còn người nghèo chấp nhận trả lãi rất cao, bạn sẽ cho ai vay?
Tất nhiên là người giàu rồi, lãi suất thấp hơn cũng được miễn là họ có thể đảm bảo việc hoàn trả. Việc cho người trẻ vay còn tùy thuộc vào tình hình, nếu người trẻ ấy có sự nghiệp tốt thì chúng ta có thể cân nhắc, còn nếu không có gì chắc chắn sẽ không cho vay.
Ví dụ, lãi suất trái phiếu chính phủ của Hoa Kỳ rất thấp, của Đức thậm chí còn bằng 0%, trong khi của Nga năm 1998 lãi suất 100% mà vẫn không vay được.
Thậm chí Trung Quốc phát hành trái phiếu lãi suất âm.
Nghĩa là, nếu bạn cho Trung Quốc vay tiền, bạn sẽ phải trả lãi khi đáo hạn. Cụ thể, vào tháng 11 năm 2020, Bộ Tài chính Trung Quốc đã phát hành 4 tỉ euro trái phiếu chính phủ tại châu Âu, với lãi suất -0,152%, đáo hạn 5 năm. Điều này có nghĩa là, các quốc gia cho Trung Quốc vay 4 tỉ euro, sau 5 năm chỉ còn 3,34 tỉ. Vậy mà các quốc gia vẫn tranh nhau mua, trái phiếu của Trung Quốc đã được bán hết chỉ trong vòng hai ngày rưỡi, tỉ lệ mua thành công là 4,5:1, nghĩa là có 4,5 quốc gia xếp hàng để mua một trái phiếu Trung Quốc nhưng chỉ 1 quốc gia mua thành công.
Tại sao các nước chấp nhận cho vay lãi suất âm? Điều này liên quan đến bản chất an toàn của trái phiếu chính phủ. Dịch bệnh hoành hành vào năm 2020 và nền kinh tế của nhiều quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề. Thế giới đang cạnh tranh để bơm tiền vào thị trường, các quỹ đang đổ về và lãi suất ngân hàng được giảm trực tiếp xuống mức thấp nhất. Vào thời điểm này, một số quỹ lớn bị mất giá thụ động, việc giữ tiền trở nên không an toàn. Vào thời điểm đó, tất cả két sắt ở châu Âu đều bán hết, số tiền quá lớn không thể giữ, phải thuê Trung Quốc trông chừng, bởi nếu giữ tiền sẽ còn đáng sợ hơn nữa nếu có người tham ô hoặc làm điều gì đó tương tự.
Đến đây tôi xin tóm tắt lại:
- Ở các nước phát triển, lợi suất trái phiếu chính phủ thấp;
- Ở các nước đang phát triển, lợi suất trái phiếu chính phủ cao;
- Khi tình hình kinh tế toàn cầu xấu, hoặc có chiến tranh hay dịch bệnh, các tổ chức đầu tư có xu hướng mua trái phiếu chính phủ để phòng ngừa rủi ro và sẽ chọn trái phiếu tốt nhất trong số những trái phiếu tệ nhất và tìm kiếm một quốc gia có nền tảng kinh tế tốt.
Nếu mọi người để ý sẽ thấy, trái phiếu đô la Mỹ có một kì tăng giá vào tháng 12 năm 2021. Tại sao lợi suất trái phiếu kho bạc Hoa Kỳ tăng? Như tôi đã nói ở trên, lợi suất trái phiếu kho bạc Hoa Kỳ cao hơn có nghĩa là giá trái phiếu kho bạc Hoa Kỳ đang giảm, điều này có nghĩa là nhiều người bán trái phiếu hơn và ít người mua trái phiếu hơn. Nguyên nhân chính là Hoa Kỳ đã đề xuất tăng lãi suất và thu hẹp bảng cân đối kế toán trong quá trình quản lí kì vọng của mình. Cái gọi là sự thu hẹp bảng cân đối kế toán có nghĩa là sự thu hẹp bảng cân đối kế toán. Tài sản của Cục Dự trữ Liên bang là gì? Đó là trái phiếu kho bạc Hoa Kỳ, là giấy nợ do Bộ Tài chính Hoa Kỳ phát hành. Bây giờ Cục Dự trữ Liên bang sẽ thu hẹp bảng cân đối kế toán của mình, nghĩa là trả lại giấy nợ cho bạn. Bạn trả lại tiền đô la cho Mỹ, Hoa Kỳ sẽ lấy lại đô la và ngăn không cho nó tràn vào thị trường.
Khi các quốc gia nghe điều này, sẽ nghĩ rằng các đại lí lớn sẽ dẫn đầu việc bán ra ở mức cao, như vậy chẳng phải họ sẽ bị ép giá và rút tiền trước sao? Hơn nữa, khi đồng đô la Mỹ tăng lãi suất, tức là đồng tiền đô la sẽ mạnh lên. Giữ đô la Mỹ không phải tốt hơn giữ trái phiếu Mỹ sao? Ở đây, bạn có thể coi trái phiếu kho bạc Hoa Kỳ như một loại tiền tệ. Khi đồng đô la Mỹ mạnh hơn, tiền tệ của các quốc gia khác sẽ mất giá và trái phiếu kho bạc Mỹ cũng sẽ mất giá so với đồng đô la Mỹ, điều đó có nghĩa là giá sẽ giảm. Khi giá trái phiếu kho bạc Hoa Kỳ giảm, lợi suất sẽ tăng.
Sau đó vào tháng 2 năm 2022, cuộc chiến Nga – Ukraine đã nổ ra, đồng đô la Mỹ mạnh lên, vốn châu Âu được chuyển đổi thành đô la rồi ồ ạt chạy sang Hoa Kỳ. Làm sao? Thị trường trái phiếu hay thị trường chứng khoán? Càng có nhiều người mua trái phiếu Hoa Kỳ, giá lại tăng và lợi suất lại giảm.

Vậy tại sao nợ của Hoa Kỳ lại tăng trở lại?
Đầu tiên là dòng vốn châu Âu gần như đã tháo chạy và đồng đô la Mỹ tiếp tục tăng lãi suất. Việc tăng lãi suất đã được thực hiện, đồng đô la Mỹ tiếp tục mạnh lên và các loại tiền tệ trên toàn thế giới đã mất giá. Mọi người đều cảm thấy đồng đô la Mỹ hấp dẫn, nhưng trái phiếu Mỹ thì không. Hơn nữa, khi cuộc chiến Nga-Ukraine leo thang, Châu Âu và Hoa Kỳ đã tăng cường lệnh trừng phạt kinh tế đối với Nga. Dưới lệnh trừng phạt đáp trả của Nga, giá hàng hóa toàn cầu đã tăng vọt. Mọi người đều cần đô la Mỹ để mua năng lượng, thực phẩm và khoai tây chiên để dự trữ.
Mọi người nên đọc tin tức ở giai đoạn này. Một số nước xuất khẩu ngũ cốc không những không bán ngũ cốc mà còn nhập khẩu một lượng lớn ngũ cốc và tích trữ. Năng lượng cũng bị tích trữ. Hơn nữa, cuộc khủng hoảng năng lượng và lương thực vẫn tiếp diễn và giá cả vẫn tăng cao. Các công ti xuất nhập khẩu cần phải chi nhiều đô la Mỹ hơn để mua nguyên liệu thô phục vụ chế biến và sản xuất. Tại sao nên giữ trái phiếu Hoa Kỳ có lợi suất thấp vào thời điểm này? Khi đồng đô la Mỹ bước vào chu kì thắt chặt, dòng vốn nước ngoài từ khắp nơi trên thế giới sẽ đổ về Hoa Kỳ để rút dự trữ ngoại hối. Nếu mọi người không nhanh chóng bán trái phiếu Hoa Kỳ và đổi chúng lấy đô la Mỹ, dự trữ ngoại hối sẽ bùng nổ, tỉ giá hối đoái của họ sẽ bị siết chặt, đồng tiền của họ sẽ mất giá xuống mức thấp nhất, hoạt động nhập khẩu sẽ kết thúc và nền kinh tế sẽ sụp đổ, sẽ cần một lượng lớn đô la Mỹ để bổ sung thanh khoản.
Do đó, bằng cách bán trái phiếu kho bạc Hoa Kỳ với giá thấp và đổi chúng lấy đô la Mỹ, lợi suất trái phiếu kho bạc Hoa Kỳ sẽ tăng nhanh chóng và cao hơn lợi suất trái phiếu chính phủ các quốc gia, kết quả là nợ của Hoa Kỳ tăng lên.


   
phamdung, is3 and TuanLong reacted
Trả lờiTrích dẫn
 A98
(@a98)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu
Tài sản: 10793.83
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 2429
Topic starter  

Intel cắt tiếp 20% nhân lực:

image

Phương án giải quyết khủng hoảng tiêu chuẩn của công ty Mỹ: cắt, cắt!


   
Trả lờiTrích dẫn
quangsot
(@quangsot-2-2-2-2-2-2-2-2-2-2-2-2-2-2)
Lão niên
Cú nhóm giường bệnh
Được ưa thích
Khá giả rank 1
Tài sản: 176722.44
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 10034
 

Người Mỹ ngày càng phụ thuộc vào các khoản vay để mua hàng tạp hóa - khảo sát

Một cuộc khảo sát mới cho thấy khoảng một phần tư người dùng mua ngay, trả sau đang trả tiền mua thực phẩm bằng các khoản vay.

Người Mỹ ngày càng phụ thuộc vào các khoản vay mua ngay, trả sau (BNPL) để mua hàng tạp hóa, một cuộc khảo sát do thị trường cho vay trực tuyến Lending Tree thực hiện cho thấy. Xu hướng này chắc chắn sẽ tiếp tục và tình hình khó có thể cải thiện trong thời gian tới, các nhà phân tích của thị trường cảnh báo, trích dẫn lạm phát, lãi suất cao và mối lo ngại ngày càng tăng về thuế quan.

Cuộc khảo sát được nền tảng này tiến hành vào đầu tháng 4 với khoảng 2.000 người tiêu dùng Mỹ trong độ tuổi từ 18 đến 70, trong đó khoảng một nửa cho biết họ đã sử dụng dịch vụ BNPL.

Chương trình cho vay ngắn hạn đã trở nên ngày càng phổ biến trong vài năm qua, vì nó cho phép chia nhỏ các khoản mua thành các khoản thanh toán nhỏ hơn, các nhà cung cấp thường không tính lãi suất, trong khi điểm tín dụng không được tính đến. Tuy nhiên, thanh toán trễ hoặc chồng chéo nhiều khoản vay có thể dẫn đến phí cao.

Khoảng 41% người dùng BNPL thừa nhận đã thiếu thanh toán, với con số tăng từ 34% được thị trường ghi nhận vào năm ngoái. Gần một phần tư người dùng BNPL cho biết họ có thêm ba khoản vay đang hoạt động cùng một lúc. Đồng thời, phần lớn người dùng BNPL - khoảng 62% - tin tưởng sai lầm rằng các khoản vay loại này giúp cải thiện điểm tín dụng của họ, trong khi 26% khác không chắc chắn về vấn đề này, cuộc khảo sát chỉ ra.

Cuộc thăm dò cho thấy mức tăng trưởng gần gấp đôi về việc sử dụng BNPL để tài trợ cho hàng tạp hóa, với 25% người dùng chương trình thanh toán cho thực phẩm của họ thông qua chương trình này so với chỉ 14% vào năm ngoái. Theo cuộc khảo sát, hoạt động này đặc biệt phổ biến đối với những người dùng khoản vay Gen Z, với hàng tạp hóa là giao dịch mua BNPL phổ biến thứ tư của họ.

Nhà phân tích tài chính tiêu dùng chính của Lending Tree, Matt Schulz, cho biết việc sử dụng BNPL chắc chắn sẽ tăng lên và xu hướng được quan sát trong cuộc khảo sát khó có thể thay đổi ít nhất là trong ngắn hạn. Nhà phân tích này cảnh báo không nên lạm dụng các khoản vay BNPL, mô tả đây là "công cụ không tính lãi suất thực sự tốt", nhưng cảnh báo về "nhiều rủi ro khi quản lý sai".

“Lạm phát vẫn là một vấn đề. Lãi suất vẫn thực sự cao. Có rất nhiều bất ổn xung quanh thuế quan và các vấn đề kinh tế khác, và tất cả sẽ cộng lại thành nhiều người tìm cách kéo dài ngân sách của họ theo bất kỳ cách nào có thể”, ông nói, cảnh báo tình hình với các khoản vay có khả năng “trở nên tồi tệ hơn”.

Đọc bài gốc tại đây.


   
Trả lờiTrích dẫn
(@langtubachkhoa)
Lão niên
Được ưa thích
Bá tước Phương Nam – langtubachkhoa
Trung lưu rank 3
Tài sản: 67799.33
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 20338
 

Liên minh Kiểm toán Châu Âu: Chiến lược vi điện tử của EU hoàn toàn không phù hợp với thực tế
29 tháng 4 năm 2025
Theo báo cáo chính thức của Tòa án Kiểm toán Châu Âu, chiến lược của Liên minh Châu Âu nhằm đảm bảo nguồn cung cấp vi mạch của riêng mình "hoàn toàn không phù hợp với thực tế". Các kiểm toán viên tính toán rằng thị trường Châu Âu sẽ không đạt được mục tiêu cung cấp 20% vi mạch của thế giới vào năm 2030.

Kế hoạch đầy tham vọng
Các nhà chức trách Châu Âu đã không thực hiện được "Đạo luật Chip" và giờ họ cần phải chỉnh sửa chiến lược cũ hoặc viết một kế hoạch mới, tờ The Guardian đưa tin.

Đạo luật Chip Châu Âu, nhằm mục đích trao cho Liên minh Châu Âu (EU) 20% thị phần bán dẫn toàn cầu vào năm 2030, có khả năng sẽ thất bại. Theo báo cáo của Tòa án Kiểm toán Châu Âu (ECA), tốc độ thực hiện chiến lược hiện tại quá chậm, nguồn tài trợ không đủ và tổ chức kém.

Dự báo của Ủy ban Châu Âu xác nhận kỳ vọng bi quan: đến năm 2030, thị phần chip của EU sẽ chỉ đạt 11,7% - tăng nhẹ so với mức 9,8% vào năm 2022. Mặc dù sản lượng chip ở Châu Âu đang tăng trưởng, nhưng các khu vực khác như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan và Hoa Kỳ đang tăng trưởng nhanh hơn nhiều.

Theo thành viên ECA Annemie Turtelboom, chất bán dẫn là một lĩnh vực phát triển nhanh với sự cạnh tranh địa chính trị khốc liệt tính đến tháng 4 năm 2025 đến mức EU sẽ cần phải tăng gần gấp bốn lần công suất sản xuất để đạt được mục tiêu của mình, nhưng tiến độ hiện tại là không đủ.

Các kiểm toán viên đã tìm thấy bốn vấn đề chính với Đạo luật Chip. Một mục tiêu không thực tế, với mục tiêu 20% thị phần sản xuất chip toàn cầu được nêu vào năm 2030 là quá tham vọng so với khả năng hiện tại của EU. Một chiến lược cạnh tranh yếu kém, với việc EU phải cạnh tranh với các nước Châu Á đang phát triển nhanh vào năm 2025, nhưng kế hoạch không phải là vượt qua họ mà là cố gắng bắt kịp. Nguồn tài trợ hạn chế, với khoản đầu tư của EU thấp hơn đáng kể so với các công ty hàng đầu trong ngành như TSMC và Samsung, làm giảm khả năng cạnh tranh. Thiếu sự đổi mới, với bản thân chiến lược không tập trung vào các công nghệ tiên tiến và thu hút nhân tài cần thiết để dẫn dắt ngành.

Những khó khăn phát sinh
Phần lớn nguồn tài trợ không đến từ Ủy ban Châu Âu (EC) mà từ các quốc gia riêng lẻ ở Châu Âu, khiến việc phối hợp và kiểm soát sự phát triển của ngành công nghiệp bán dẫn trở nên khó khăn. Trong số 86 tỷ euro dự kiến ​​đầu tư vào năm 2030, EC chỉ chiếm 4,5 tỷ euro (5,1 tỷ đô la), hay 5%. Điều này dẫn đến các vấn đề về minh bạch, vì các quốc gia thành viên không bắt buộc phải báo cáo về tiến độ của các dự án được tài trợ theo Đạo luật Chip.

Một khó khăn khác là sự phân bổ nguồn vốn không đồng đều. Phần lớn nguồn tài trợ đã được chuyển đến một số quốc gia, đặc biệt là Đức. Đồng thời, một số tiền đáng kể đã được chuyển đến các công ty lớn như Intel. Tuy nhiên, Intel gần đây đã đóng băng hai dự án ở châu Âu – các nhà máy ở Magdeburg (Đức) và Wroclaw (Ba Lan), điều này đặt ra câu hỏi về lợi nhuận đầu tư.

Kế hoạch này không khả thi
Trong báo cáo của ECA, các kiểm toán viên thừa nhận rằng “Đạo luật CHIP”, có hiệu lực vào năm 2023 và là phản ứng đối với sự gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu do đại dịch Covid-19 gây ra, đã tạo động lực mới cho ngành vi mạch của EU, nhưng lưu ý rằng các khoản đầu tư từ đạo luật này khó có thể củng cố đáng kể vị thế của EU trong lĩnh vực này.

ECA khuyến nghị rằng Ủy ban châu Âu đánh giá vào cuối năm 2025 liệu các tham vọng và mục tiêu của Đạo luật Chip có còn thực tế hay không, có tính đến các nguồn lực có sẵn để đạt được chúng, sự cạnh tranh toàn cầu và các yếu tố như chi phí năng lượng và sự phụ thuộc vào nguyên liệu thô.

Các quan chức của Ủy ban châu Âu nên bắt đầu chuẩn bị một chiến lược bán dẫn mới với sự hợp tác của các quốc gia thành viên và ngành công nghiệp, ECA cho biết trong một báo cáo. Cơ quan hành pháp EU có nghĩa vụ pháp lý phải đánh giá Đạo luật Chip vào tháng 9 năm 2026.

Sản xuất gấp đôi
"Tính đến ngày 8 tháng 2 năm 2022, thị phần sản xuất vi mạch của chúng tôi chỉ đạt 10%, hoàn toàn không đủ. Chúng tôi phải tăng gấp đôi con số này trong những năm tới", Phó Chủ tịch Ủy ban Châu Âu Margrethe Vestager phát biểu tại một cuộc họp báo ở Brussels. "Trong bối cảnh đại dịch Covid-19, chúng tôi phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt vi mạch nghiêm trọng, điều này đã dẫn đến hậu quả xã hội nghiêm trọng, đóng cửa nhà máy và thiếu sản xuất", bà nhấn mạnh. Vestager lưu ý rằng việc mở rộng sản xuất vi mạch ở Châu Âu sẽ giúp tránh được vấn đề về chuỗi vận chuyển, vốn đã trở thành một trong những yếu tố chính dẫn đến tình trạng thiếu hụt hiện nay trên thị trường. Theo bà, vào đầu năm 2022, EU chủ yếu sản xuất các loại chip thế hệ trước, vẫn được sử dụng rộng rãi trong công nghệ, nhưng chúng lớn hơn, chậm hơn và kém tin cậy hơn so với các loại vi mạch thế hệ mới. Đồng thời, theo Phó Chủ tịch Ủy ban châu Âu, các nước EU đang chiếm vị trí dẫn đầu trong việc phát triển các công nghệ điện tử mới. Do đó, theo bà, EU phải thu hẹp khoảng cách giữa phát triển và sản xuất vi mạch của riêng mình.

Ủy ban châu Âu cũng đề xuất tăng cường và đào tạo chuyên sâu cho nhân sự trong ngành điện tử. Một yếu tố khác của chiến lược mới là mở rộng quan hệ đối tác với các đối tác nước ngoài có cùng chí hướng, bao gồm trao đổi công nghệ, chuyên gia và cung cấp các nguồn lực quan trọng. Theo Vestager, sản xuất vi mạch tại châu Âu hiện đang được thảo luận trong Hội đồng công nghệ EU-Hoa Kỳ, cũng như với Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore. Vestager nhấn mạnh vào thời điểm đó rằng chiến lược của EU này sẽ không giúp khắc phục tình trạng thiếu vi mạch hiện tại, nhưng sẽ giúp ngăn ngừa tình trạng thiếu hụt mới phát sinh.

European Union of Auditors: EU microelectronics strategy completely out of touch with reality
Европейский союз аудиторов: Стратегия ЕС в области микроэлектроники полностью оторвана от реальности
29 Apr 2025

This post was modified 5 tháng trước by langtubachkhoa

   
Trả lờiTrích dẫn
(@langtubachkhoa)
Lão niên
Được ưa thích
Bá tước Phương Nam – langtubachkhoa
Trung lưu rank 3
Tài sản: 67799.33
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 20338
 

Tôi đưa loạt 3 bài này vào đây, vì nó không còn chỉ là vấn đề của riêng Boeing nữa, mà liên quan đến cả nước Mỹ

Đăng bởi: @langtubachkhoa

Boeing và ngành công nghiệp Mỹ nói chung hiện tại nổi bật 3 vấn đề:

1.  Mỹ đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng kỹ sư, chuyên gia giỏi và lao động lành nghề trong các ngành chế tạo, ngành công nghiệp nặng như hàng không, cơ khí, và sản xuất công nghiệp (Tính đến năm 2025).
Theo McKinsey, sự khan hiếm lao động có tay nghề cao đã đẩy mức lương trung bình trong ngành chế tạo và xây dựng tăng hơn 20% kể từ quý I năm 2020 .​

Nguyên nhân chính bao gồm:​
- Sự chuyển hướng của lực lượng lao động trẻ: Nhiều sinh viên và kỹ sư trẻ ưu tiên các ngành công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, phần mềm, và dữ liệu lớn, dẫn đến sự thiếu hụt nhân lực này.​
Nước Mỹ đang sản sinh nhiều kỹ sư và chuyên gia trong các lĩnh vực như phần mềm, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, nhưng lại ngày càng thiếu hụt nhân lực trong các ngành như hàng không, cơ khí chế tạo, kỹ thuật vật liệu, chế tác chính xác.
Những ngành đòi hỏi kinh nghiệm thực tế sâu, đào tạo lâu dài, và sự tỉ mỉ – như trong thiết kế máy bay – đang thiếu người kế cận có trình độ cao.

- Thiếu hụt chương trình đào tạo chuyên sâu: Việc thiếu các chương trình đào tạo chuyên sâu và thực hành trong lĩnh vực chế tạo khiến cho số lượng kỹ sư có trình độ và công nhân có tay nghề cao không đáp ứng đủ nhu cầu thị trường.​

- Sự già hóa lực lượng lao động: Nhiều kỹ sư kỳ cựu của Boeing đã về hưu hoặc chuyển sang lĩnh vực tư vấn, trong khi thế hệ kế cận chưa được đào tạo và chuẩn bị đầy đủ để thay thế.​ Sự chuyển giao thế hệ không kịp thời đã khiến năng lực kỹ thuật lõi bị đứt đoạn.

- Các thế hệ trẻ lại ít hứng thú với mô hình làm việc lâu năm và quy trình kỹ thuật nghiêm ngặt. Việc media liên tục ca ngợi hình mẫu hoạt bát, cá tính năng động này này nọ cũng là một trong những nguyên nhân khiến họ ít hứng thú với việc làm việc trong những lĩnh vực này. Đây là một chủ đề lớn cần phân tích chuyên sâu hơn

2. Tư duy nhiệm kỳ và áp lực từ các chỉ số KPI tài chính
Trong nhiều năm qua, các CEO của các tập đoàn lớn, bao gồm cả Boeing, đã bị áp lực bởi các chỉ số KPI tài chính ngắn hạn như lợi nhuận quý, giá cổ phiếu, và tỷ suất lợi nhuận.

Ví dụ cơ chế thưởng vẫn dựa trên cổ phiếu và EBITDA, nên tư duy nhiệm kỳ, ngắn hạn, làm đẹp sổ sách trở nên phổ biến
CEO hiện đại của các tập đoàn công nghiệp, đặc biệt là công ty đại chúng như Boeing, phải trả lời trước các nhà đầu tư và hội đồng quản trị, nên thường bị cuốn vào những hoạt động như:

- Tìm cách tối ưu chi phí để nâng lợi nhuận ngắn hạn (trong đó nổi bật là cắt giảm kiểm soát chất lượng và tăng cường outsourcing)
- Cắt giảm bộ phận R&D nếu chưa sinh lời ngay.
- Tăng mua lại cổ phiếu thay vì đầu tư dài hạn.
Kết quả: Nhiều CEO chỉ cần "đẹp sổ sách" trong nhiệm kỳ rồi rút lui với hàng triệu USD tiền thưởng, bất kể hậu quả dài hạn.

Boeing từng được coi là hình mẫu về kỹ thuật và an toàn, nhưng việc đặt trọng tâm vào dòng tiền, vào các KPI tài chính này đã dẫn tới những hậu quả:
- Cắt giảm bộ phận và chi phí kiểm soát chất lượng: Để đạt được mục tiêu tài chính, nhiều công ty đã giảm bớt các quy trình kiểm soát chất lượng, dẫn đến việc sản phẩm không đạt tiêu chuẩn và gây ra các sự cố nghiêm trọng.​
cắt giảm bộ phận kiểm soát chất lượng.
- Gia tăng outsourcing nhưng lại giao thầu cho bên thứ ba không đủ năng lực kiểm tra kỹ thuật: Việc gia công cho các nhà thầu không đủ năng lực đã dẫn đến việc kiểm soát chất lượng trở nên khó khăn, như trường hợp của Boeing với nhà cung cấp Spirit AeroSystems .​
- Thiếu đầu tư vào R&D: Áp lực tài chính khiến cho các công ty giảm đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, ảnh hưởng đến khả năng đổi mới và cạnh tranh trong dài hạn.​

Từ đây Boeing liên tục lặp lại các sai sót nghiêm trọng như sự cố 737 MAX, lỗi cấu trúc thân máy bay 787 Dreamliner, 777X trễ tiến độ, và gần đây là sự cố cửa thoát hiểm 737 MAX 9.

3. Những khó khăn khi muốn cải cách để khắc phục
Việc cải cách để khắc phục các vấn đề trên không hề đơn giản và đối mặt với nhiều thách thức:​
- Thay đổi văn hóa doanh nghiệp: Việc chuyển từ tư duy tài chính sang tư duy kỹ thuật và chất lượng đòi hỏi thời gian và sự cam kết từ toàn bộ tổ chức.​
Nếu cơ chế thưởng vẫn dựa trên cổ phiếu và EBITDA, thì tư duy "ngắn hạn – làm đẹp sổ sách" vẫn sẽ lặp lại.
Cải cách thật sự phải bắt đầu từ cấu trúc sở hữu và quyền lực của kỹ sư trong công ty, điều mà Boeing từng có thời kỳ rất mạnh (như thời phát triển 747).
Tái thiết văn hóa kỹ thuật cần thời gian, đầu tư, và niềm tin – thứ mà Boeing đã đánh mất từ khách hàng và cả nhân viên.
- Khôi phục niềm tin: Sau các sự cố nghiêm trọng, việc khôi phục niềm tin từ khách hàng, nhà đầu tư, và cơ quan quản lý là một quá trình dài và khó khăn.​
- Đầu tư vào đào tạo và phát triển nhân lực:
Hiện nay khó thu hút lại nhân tài kỹ thuật từng rời bỏ Boeing. Nên cần có các chương trình đào tạo và phát triển kỹ sư để đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao trong ngành chế tạo.​
- Tăng cường kiểm soát chất lượng: Boeing đã bắt đầu thực hiện các biện pháp như tăng cường đào tạo cho thợ máy và kiểm tra viên chất lượng, cũng như áp dụng các cuộc kiểm tra ngẫu nhiên để cải thiện chất lượng sản phẩm .​

Tóm lại, để khắc phục những vấn đề hiện tại, các công ty như Boeing cần phải thực hiện một cuộc cải tổ toàn diện, từ việc thay đổi văn hóa doanh nghiệp, đầu tư vào nhân lực, đến việc tăng cường kiểm soát chất lượng và đổi mới công nghệ. Đây là một quá trình dài hạn đòi hỏi sự cam kết và nỗ lực không ngừng từ toàn bộ tổ chức.

Về tổng thể
Mỹ đang đối diện với nguy cơ đánh mất ưu thế chế tạo cao cấp, thứ từng giúp nước này vượt trội trong thế kỷ 20.
Không chỉ là Boeing, mà các ngành như chế tạo tàu thủy, năng lượng nguyên tử, hay linh kiện bán dẫn cũng từng bị tài chính hóa và tụt hậu trước châu Á và châu Âu.

 


   
Trả lờiTrích dẫn
(@langtubachkhoa)
Lão niên
Được ưa thích
Bá tước Phương Nam – langtubachkhoa
Trung lưu rank 3
Tài sản: 67799.33
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 20338
 

Tiếp bài trước

Đăng bởi: @langtubachkhoa

 

 

 

@a98
Từ bài viết bên trên thì có thể viết một bài phân tích chuyên sâu hơn với tiêu đề kiểu như "Boeing và Thách Thức của Công Nghiệp Chế Tạo Cao Cấp Mỹ: Thiếu Hụt Kỹ Sư, Tư Duy Nhiệm Kỳ và Nỗ Lực Cải Cách"

1. Khủng hoảng thiếu hụt kỹ sư trong hàng không và chế tạo chính xác
Hoa Kỳ đang đối mặt với sự thiếu hụt nghiêm trọng nhân lực kỹ thuật lành nghề trong các ngành công nghiệp chế tạo cao cấp như hàng không vũ trụ và cơ khí chính xác. Tại Boeing – biểu tượng của ngành hàng không Mỹ – vấn đề này thể hiện rõ nét qua làn sóng kỹ sư kỳ cựu về hưu và khoảng trống thế hệ kế cận. Chỉ riêng cuối năm 2022, hơn 500 kỹ sư giàu kinh nghiệm và 130 nhân viên kỹ thuật tại Boeing đồng loạt nghỉ hưu sớm do thay đổi trong chính sách lương hưu

Theo công đoàn kỹ sư Boeing, gần 30% kỹ sư của hãng vào năm 2018 đã trên 55 tuổi​, báo hiệu một “lỗ hổng kinh nghiệm” lớn khi nhiều người trong số họ rời đi. Boeing thừa nhận tình trạng này tạo ra nguy cơ mất mát kiến thức tích lũy: đến cuối thập kỷ 2020s, khi hãng dự kiến phát triển dòng máy bay mới, số kỹ sư từng tham gia thiết kế chiếc máy bay hoàn toàn mới cuối cùng (787 Dreamliner năm 2011) sẽ còn rất ít.
Hãng đã phải tuyển dụng ồ ạt kỹ sư mới và thậm chí đề nghị thưởng hàng trăm nghìn USD để giữ chân một số chuyên gia chủ chốt, nhưng phần lớn kỹ sư lão luyện vẫn lựa chọn nghỉ hưu, khiến Boeing phải thuê lại nhiều người trong họ dưới dạng thời vụ​. Điều này cho thấy sự hụt hẫng trong việc kế thừa nhân lực kỹ thuật chất lượng cao tại Boeing nói riêng và ngành hàng không Mỹ nói chung.

Tình trạng thiếu hụt kỹ sư giỏi không chỉ giới hạn ở Boeing mà là vấn đề chung của nền sản xuất Mỹ. Một báo cáo năm 2023 ước tính Hoa Kỳ cần khoảng 400.000 kỹ sư mới mỗi năm, trong khi có đến 1/3 số vị trí kỹ sư đang thiếu người và xu hướng này sẽ kéo dài ít nhất đến 2030​

​Khoảng trống này chủ yếu do dân số kỹ sư lớn tuổi về hưu quá nhiều: gần 75% sự thiếu hụt lao động sản xuất đến năm 2033 sẽ do nghỉ hưu​. Hiện nay, có tới 25% lao động sản xuất Mỹ trên 54 tuổi, và nhóm 55-64 rời ngành với tốc độ cao hơn hẳn các ngành khác​
Trong giai đoạn 2024–2033, dự kiến ngành sản xuất Mỹ cần thêm khoảng 3,8 triệu lao động, nhưng có thể chỉ đủ người lấp một nửa số đó​

Nguyên nhân xuất phát từ cả cung và cầu: số người trẻ theo học các ngành kỹ thuật không đủ thay thế lớp về hưu, cộng với sức hấp dẫn của các lĩnh vực công nghệ khác (như CNTT, tài chính) khiến nhiều kỹ sư trẻ không ở lại với nghề. Thống kê cho thấy chỉ 13% học sinh Mỹ bày tỏ muốn trở thành kỹ sư thực sự tốt nghiệp đại học ngành kỹ thuật, và chỉ khoảng một nửa số cử nhân kỹ thuật làm đúng nghề kỹ sư – nhiều người rẽ sang các công việc công nghệ khác hấp dẫn hơn​. Thêm vào đó, chính sách hạn chế thị thực H-1B khiến nguồn kỹ sư nhập cư bổ sung bị giới hạn​

Tất cả những yếu tố này đã tạo nên “cơn khát” nhân lực kỹ thuật trong lĩnh vực sản xuất cao cấp tại Mỹ. Trên phạm vi quốc tế, nhiều quốc gia phát triển cũng gặp thách thức tương tự về nhân lực kỹ thuật, dù bối cảnh có khác nhau. Đức, với nền công nghiệp cơ khí hùng mạnh, đang phải chật vật do lực lượng lao động già hóa và thiếu người trẻ kế tục. Dân số 20 tuổi của Đức hiện chỉ khoảng 800.000 so với 1 triệu cách đây một thập kỷ​

Kết quả là cuối năm 2022, 58% doanh nghiệp công nghiệp Đức thiếu nhân lực cho các vị trí kỹ thuật​, đặc biệt khan hiếm các chuyên gia trong những lĩnh vực then chốt như hàng không vũ trụ và kỹ thuật xây dựng​

Mặc dù Đức có hệ thống đào tạo nghề kép (Duale Ausbildung) lâu đời và văn hóa coi trọng kỹ sư, nhiều người trẻ Đức ngày nay thích làm trong ngành tài chính hơn sản xuất do lương cao và công việc ổn định hơn​

Nhật Bản thậm chí còn đối mặt tình trạng già hóa nghiêm trọng hơn – lực lượng kỹ sư của họ đang thu hẹp nhanh chóng khi thế hệ “bùng nổ dân số” nghỉ hưu. Nhật đã phải nới lỏng chính sách nhập cư lao động kỹ năng: từ năm 2024, nước này dự kiến tăng gấp đôi hạn ngạch tiếp nhận lao động lành nghề nước ngoài (lên tới 820.000 người) để bù đắp thiếu hụt trong các lĩnh vực như sản xuất, xây dựng, nông nghiệp...​

Pháp và châu Âu cũng không nằm ngoài xu hướng. Ngành công nghiệp hạt nhân Pháp là một ví dụ điển hình: Sau nhiều năm không xây nhà máy mới, một thế hệ kỹ sư và thợ lành nghề đã mai một, dẫn đến việc dự án lò phản ứng EPR Flamanville bị chậm cả thập kỷ do lỗi kỹ thuật và hàn nối kém chất lượng. Báo cáo điều tra thừa nhận “mất mát kỹ năng” trong quãng gián đoạn dài đã góp phần làm dự án chậm tiến độ và đội chi phí​

Hàn Quốc – quốc gia nổi tiếng về điện tử và đóng tàu – hiện đào tạo rất nhiều kỹ sư, nhưng cũng bắt đầu gặp khó khăn trong việc thu hút nhân tài cho ngành sản xuất. Xu hướng chuộng ngành nghề “danh giá” hơn đang khiến các lĩnh vực kỹ thuật cao cấp hụt hơi: ví dụ, những sinh viên xuất sắc ở Hàn Quốc đang đổ xô vào trường y thay vì kỹ thuật, khiến ngành bán dẫn lo thiếu hụt khoảng 56.000 kỹ sư từ nay đến 2031​.

Mặc dù các tập đoàn như Samsung, SK Hynix mang lại công việc ổn định, tỷ lệ sinh viên bỏ ngành kỹ thuật để thi lại vào trường y vẫn tăng vọt, làm dấy lên lo ngại về mất lợi thế cạnh tranh trong các lĩnh vực then chốt như chip và AI​

Tóm lại, sự thiếu hụt kỹ sư giỏi trong ngành chế tạo là vấn đề chung của các nước công nghiệp phát triển, nhưng ở Mỹ tình trạng này trở nên trầm trọng hơn bởi nhiều thập kỷ thiên hướng dịch vụ và công nghệ số đã làm suy giảm lực lượng kỹ sư sản xuất, khiến việc thu hút lớp trẻ vào ngành chế tạo càng khó khăn. Chỉ khoảng 11% nền kinh tế Mỹ hiện nay là sản xuất, so với 24% ở Đức​, chênh lệch này cho thấy Mỹ đã “mỏng” nhân lực công nghiệp hơn, và nay để phục hưng sản xuất (như mục tiêu của các đạo luật đầu tư mới) cần giải quyết gốc rễ bài toán nhân lực kỹ thuật.

2. Tư duy nhiệm kỳ, chạy theo chỉ số tài chính và hệ quả an toàn suy giảm
Bên cạnh vấn đề nhân lực, văn hóa quản trị doanh nghiệp theo đuổi lợi nhuận ngắn hạn đã để lại những hậu quả nghiêm trọng trong ngành hàng không Mỹ, nổi bật nhất là trường hợp Boeing. Từng được tôn vinh như hình mẫu công ty kỹ thuật sáng tạo (“Nếu không phải Boeing, tôi sẽ không đi” – khẩu hiệu tự hào của khách hàng xưa kia)​, Boeing đã trải qua sự thay đổi văn hóa sâu sắc từ cuối thập niên 1990 khi tập trung “chạy theo con số” hơn là sản phẩm. Bước ngoặt là vụ sáp nhập McDonnell Douglas năm 1997, sau đó các lãnh đạo từ McDonnell Douglas nắm quyền và “tái tạo” Boeing theo hướng đề cao lợi nhuận cổ đông thay vì truyền thống lấy kỹ sư làm trung tâm​. Cựu CEO Harry Stonecipher từng tuyên bố thẳng thắn rằng mục tiêu của ông là biến Boeing thành công ty “vận hành như một doanh nghiệp, thay vì một hãng kỹ thuật vĩ đại”​

Tư duy đó nhanh chóng thấm vào văn hóa Boeing hai thập kỷ qua, ưu tiên cắt giảm chi phí, tối ưu lợi nhuận ngắn hạn và giá cổ phiếu, đôi khi đánh đổi cả những nguyên tắc kỹ thuật cốt lõi. Hậu quả của tư duy nhiệm kỳ và áp lực thành tích tài chính thể hiện rõ trong thảm kịch 737 MAX. Để cạnh tranh nhanh với Airbus, Boeing đã vội vã phát triển 737 MAX dựa trên khung máy bay cũ nhằm tiết kiệm chi phí và thời gian, đồng thời tìm cách giảm thiểu yêu cầu đào tạo phi công để thuận lợi bán hàng. Kết quả là hệ thống điều khiển bay mới (MCAS) của MAX được thiết kế dựa vào duy nhất một cảm biến mà không có dự phòng, vi phạm nguyên tắc an toàn hàng không vốn luôn đòi hỏi dư thừa hệ thống trong trường hợp hỏng hóc​

Việc chấp nhận điểm lỗi đơn lẻ nghiêm trọng như vậy cho thấy tiếng nói của đội ngũ kỹ sư đã bị lu mờ trước áp lực thương mại – “văn hóa mới” tại Boeing đã khiến một số người tin rằng rủi ro đó là chấp nhận được​

​Hai vụ tai nạn thảm khốc năm 2018 và 2019 cướp đi 346 sinh mạng là hệ quả đau lòng của lỗ hổng này, phơi bày những sai lầm cơ bản do chạy theo tiến độ và chi phí.

Bên cạnh khía cạnh thiết kế, việc cắt giảm nhân sự và thuê ngoài (outsourcing) tràn lan cũng làm suy yếu chất lượng kỹ thuật tại Boeing. Trong giai đoạn 2010s, để tiết kiệm chi phí, Boeing đã sa thải nhiều kỹ sư lâu năm và giao một phần công việc phát triển phần mềm cho các nhà thầu trả lương thấp ở nước ngoài​. Nhiều lập trình viên trẻ từ Ấn Độ được thuê với mức lương chỉ khoảng 9 đôla/giờ để viết và kiểm thử phần mềm cho 737 MAX​. Theo lời kể của kỹ sư kỳ cựu Mark Rabin, quá trình này thường kém hiệu quả và lỗi lặp đi lặp lại, phải chỉnh sửa nhiều vòng do các nhà thầu không đủ hiểu biết sâu về hàng không​. Thậm chí, có quản lý từng tuyên bố Boeing “không cần kỹ sư cao cấp vì sản phẩm đã quá quen thuộc”, hàm ý rằng họ có thể dựa vào nhân lực rẻ tiền hơn​.

Tư duy coi kỹ sư là gánh nặng chi phí như vậy đã triệt tiêu văn hóa chú trọng chi tiết và an toàn vốn có. Những năm 2013–2019, Boeing dành tới 43 tỷ USD mua lại cổ phiếu để làm đẹp giá cổ phiếu – con số khổng lồ thậm chí còn lớn hơn tổng lợi nhuận hãng làm ra trong giai đoạn đó​

Ngược lại, đầu tư cho nghiên cứu & phát triển (R&D) và các quy trình an toàn lại bị “thắt lưng buộc bụng”. Công tác giám sát chất lượng và thử nghiệm độc lập bị đơn giản hóa: Boeing vận động trao quyền tự chứng nhận (ODA) để giảm bớt sự giám sát của FAA, dẫn đến xung đột lợi ích nghiêm trọng trong đảm bảo an toàn. Sau thảm họa, người ta mới phát hiện hàng loạt trục trặc tưởng chừng sơ đẳng: ví dụ, một hãng hàng không phát hiện ốc vít ở bộ phận lái đuôi máy bay MAX 8 không được siết chặt đầy đủ, khiến FAA phải kiểm tra lại hàng loạt chiếc MAX khác​

Đầu năm 2024, một chiếc 737-9 MAX của Alaska Airlines thậm chí suýt gây tai nạn khi cửa thoát hiểm bung khỏi máy bay giữa không trung do thiếu bu-lông gắn chốt cửa từ khi rời nhà máy (Báo chí đã đăng hình ảnh bên trong khoang máy bay Boeing 737-9 MAX của Alaska Airlines sau sự cố bung cửa trên không (2024). Điều tra cho thấy nhiều bu-lông giữ chốt cửa đã không được lắp khi máy bay xuất xưởng​)​.
Những lỗi chất lượng đáng báo động này cho thấy quy trình kiểm soát chất lượng đã bị suy giảm dưới áp lực sản xuất nhanh và rẻ.

Đây là minh chứng rõ ràng cho việc cắt giảm quy trình kiểm soát chất lượng có thể dẫn đến lỗi lắp ráp nguy hiểm, làm suy giảm uy tín an toàn sản phẩm.

Văn hóa “lấy tài chính làm trung tâm” tại Boeing đã khiến hãng trả giá đắt về danh tiếng và lâu dài là cả hiệu quả kinh doanh. Từ chỗ từng được tin tưởng tuyệt đối về an toàn, Boeing giờ đây bị giám sát gắt gao và đánh mất niềm tin của công chúng. Ngay cả các khách hàng truyền thống cũng lên tiếng phê bình: CEO Scott Kirby của United Airlines nhận định Boeing cần “thay đổi văn hóa một cách triệt để” và nên hành động nhanh hơn để lấy lại vị thế​.

Trên thị trường, Airbus đã vượt Boeing và liên tục lập kỷ lục giao hàng, còn cổ phiếu Boeing 5 năm qua giảm ~35% trong khi chỉ số S&P500 tăng ~80%​. Nghịch lý là việc đặt lợi nhuận lên trên sản phẩm rốt cuộc lại hại cả lợi nhuận của Boeing: trong vòng 10 năm, tổng mức sinh lời cổ phiếu của hãng kém thị trường ~6% mỗi năm​

Nói cách khác, chiến lược chạy theo lợi ích ngắn hạn không chỉ làm sản phẩm kém an toàn mà còn làm xói mòn giá trị doanh nghiệp về dài hạn​

Không chỉ Boeing, nhiều doanh nghiệp sản xuất Mỹ đã từng rơi vào vòng xoáy “quý nào biết quý đó”. Áp lực từ Phố Wall buộc các CEO phải ưu tiên báo cáo tài chính đẹp trong ngắn hạn, đôi khi hy sinh các khoản đầu tư chiến lược.

Chẳng hạn, trong ngành ô tô, từng có trường hợp tập đoàn tiết kiệm vài đô-la trên mỗi bộ phận để rồi phải triệu hồi hàng triệu xe vì lỗi kỹ thuật chí mạng (vụ GM với công tắc đánh lửa năm 2014 là ví dụ). Việc outsourcing (thuê ngoài, gia công ở nước rẻ) tràn lan trong thập niên 2000 giúp giảm chi phí trước mắt, nhưng đồng thời khiến nhiều hãng Mỹ mất dần năng lực cốt lõi và phụ thuộc vào chuỗi cung ứng bên ngoài. Khi sự cố xảy ra, họ khó kiểm soát chất lượng tận gốc.

Ngược lại, các đối thủ ở châu Âu và Đông Á thường có cách tiếp cận thận trọng hơn. Tại Đức, văn hóa doanh nghiệp truyền thống coi trọng lợi ích lâu dài của các bên liên quan (nhân viên, khách hàng, cộng đồng) hơn là chỉ cổ đông. Nhiều công ty công nghiệp Đức (đặc biệt nhóm Mittelstand) thuộc sở hữu gia đình qua nhiều thế hệ, chú trọng xây dựng thương hiệu bền vững thay vì chạy theo quý. Mô hình quản trị có đại diện công nhân trong hội đồng quản trị cũng giúp tiếng nói về chất lượng, an toàn được lắng nghe. Tuy vậy, Đức không phải không có bài học: vụ Volkswagen “Dieselgate” năm 2015 (gian lận khí thải nhằm đạt tiêu chuẩn rẻ tiền thay vì cải tiến động cơ) cho thấy ngay cả hãng có CEO xuất thân kỹ sư cũng có thể sa vào cạm bẫy thành tích. Hậu quả là VW chịu phạt nặng nề, thiệt hại hàng chục tỷ USD và uy tín bị tổn hại tương tự cách Boeing vấp ngã trong hàng không.

Tại Nhật Bản, tinh thần “monozukuri” (nghệ thuật làm sản phẩm) và triết lý Kaizen giúp các hãng duy trì chất lượng cao suốt nhiều thập kỷ. Các CEO Nhật truyền thống thường thăng tiến từ kỹ thuật, gắn bó trọn đời với công ty, ít bị áp lực cổ đông hơn do cơ cấu cổ đông chéo và ngân hàng hỗ trợ. Tuy nhiên, những năm gần đây, suy thoái kinh tế kéo dài và cạnh tranh toàn cầu cũng khiến một số hãng Nhật đi tắt sai lầm. Vụ Takata – nhà sản xuất túi khí ô tô – vì cắt giảm chi phí đã bỏ qua cảnh báo an toàn, dẫn đến sản phẩm bị lỗi nổ túi khí gây chết người. Hàng chục triệu xe phải triệu hồi trên toàn cầu và Takata phá sản năm 2017 – bài học đau xót về đặt lợi nhuận trên an toàn.

Pháp và châu Âu nói chung, nhờ quy định nghiêm ngặt và sự giám sát chặt chẽ (ví dụ trong hàng không có Cơ quan An toàn Hàng không EU EASA), phần nào ngăn được những sai lệch quá mức. Airbus – đối thủ của Boeing – dù cũng chịu áp lực thương mại, nhưng có sự hậu thuẫn của các chính phủ châu Âu trong các dự án dài hạn, nên ít nhất không phải đánh đổi an toàn để đổi lợi nhuận ngắn hạn. Dẫu vậy, châu Âu cũng có trường hợp dự án công nghiệp bị chậm và đội vốn do quản trị phức tạp giữa nhiều bên (như dự án máy bay vận tải quân sự A400M từng trễ hẹn và phải tái cấu trúc).

Ở Hàn Quốc, các tập đoàn chaebol thường do gia tộc lãnh đạo, họ có tầm nhìn dài hơi để truyền lại cho thế hệ sau, đồng thời chính phủ luôn khuyến khích đầu tư mở rộng sản xuất. Các công ty như Samsung, Hyundai nổi tiếng chi mạnh tay cho R&D và mở rộng quy mô, chấp nhận lợi nhuận biên thấp trong ngắn hạn để chiếm lĩnh thị phần toàn cầu. Điều này giúp Hàn Quốc vươn lên trong nhiều ngành. Tuy nhiên, áp lực tiến nhanh cũng có mặt trái: ví dụ, sự cố Samsung Galaxy Note 7 (2016) với pin lỗi cháy nổ cho thấy ngay cả tập đoàn công nghệ hàng đầu cũng có thể để tốc độ lấn át kiểm soát chất lượng, phải thu hồi sản phẩm và chịu tổn thất tài chính lẫn uy tín. Rõ ràng, cân bằng giữa tăng trưởng lợi nhuận và đảm bảo kỹ thuật là thách thức chung của mọi nền công nghiệp – và khi cán cân nghiêng hẳn về lợi nhuận trước mắt, rủi ro tai hại sẽ tăng cao.

3. Nỗ lực cải cách và phục hồi văn hóa kỹ thuật – thách thức và triển vọng
Sau những bài học đau đớn, câu hỏi đặt ra là làm thế nào để các công ty như Boeing và rộng hơn là ngành sản xuất Mỹ cải cách nhằm khắc phục tình trạng này. Việc khôi phục văn hóa kỹ thuật, tăng cường đào tạo/R&D và lấy lại niềm tin của khách hàng lẫn nhân viên không phải là điều có thể làm trong một sớm một chiều. Thực tế, sức ỳ tổ chức và lực cản từ nhiều phía khiến quá trình cải tổ gặp không ít khó khăn.

Đối với Boeing, sau khủng hoảng 737 MAX, hãng đã đưa ra nhiều cam kết “lột xác” văn hóa an toàn. Ban lãnh đạo mới dưới thời CEO David Calhoun (từ 2020) tách bạch hẳn vai trò kỹ thuật an toàn: Boeing thành lập Ủy ban An toàn sản phẩm và bổ nhiệm Giám đốc Kỹ thuật (Chief Engineer) báo cáo trực tiếp lên CEO nhằm đảm bảo tiếng nói kỹ thuật được chú trọng. Hãng cũng cải tổ quy trình thiết kế và phê chuẩn, tăng cường trao đổi với FAA thay vì tự kiểm như trước. Tư duy “safety first” được tuyên bố là kim chỉ nam trong các buổi họp toàn công ty. Tuy nhiên, thay đổi văn hóa là việc đòi hỏi thời gian và sự kiên trì. Như nhà phân tích Ronald Epstein (Bank of America) nhận xét, văn hóa doanh nghiệp không thể thay đổi chỉ bằng “khẩu hiệu, chỉ thị hay họp hành một giờ” – nó đòi hỏi sự chuyển biến thực sự trong thói quen và tư duy hàng ngày của cả tổ chức​

Epstein – vốn là tiến sĩ kỹ thuật trước khi làm tài chính – kêu gọi Boeing phải “đại tu văn hóa một cách mạnh mẽ”, trong đó “thắp lại ngọn lửa đam mê kỹ thuật và xây dựng lại niềm tin cho nhân viên” là điều tối quan trọng​. Ông nhấn mạnh rằng khi sản phẩm liên quan trực tiếp tính mạng con người, tiếng nói và quy trình của kỹ sư phải được đặt lên trên những toan tính chi phí của lãnh đạo kinh doanh​. Để làm được điều đó, Boeing cần đưa các kỹ sư phát triển sản phẩm lên các vị trí quyết sách cao nhất, thay vì chỉ các giám đốc tài chính, qua đó định hướng tương lai bằng tầm nhìn kỹ thuật chứ không phải tối ưu cổ phiếu​.

Ý tưởng này tương đồng với thực tiễn tại Airbus – nơi nhiều lãnh đạo cấp cao có nền tảng kỹ sư và phi công thử nghiệm, góp phần giữ cân bằng giữa thương mại và kỹ thuật. Thậm chí, cựu giám đốc công nghệ Airbus Paul Eremenko còn khuyên Boeing nên đặt ra một “mục tiêu tham vọng” mang tính kỹ thuật (chẳng hạn phát triển máy bay không phát thải hoàn toàn trong thời gian ngắn) để khơi dậy nhiệt huyết và niềm tự hào kỹ sư trong đội ngũ, qua đó kéo công ty ra khỏi lối mòn ngắn hạn. Dễ thấy, động lực tinh thần và tầm nhìn dài hạn sẽ là chìa khóa để Boeing thu hút và giữ chân nhân tài kỹ thuật trong môi trường cạnh tranh nhân lực hiện nay.

Về đào tạo và R&D, Boeing và các hãng sản xuất Mỹ đang đứng trước lựa chọn hoặc đầu tư mạnh tay cho tương lai, hoặc tụt hậu trong thập kỷ tới. Trong quá khứ, Boeing từng dẫn đầu công nghệ hàng không nhờ những khoản đầu tư lớn (ví dụ dự án 707, 747 hay 787 đều là những “cú cược” công nghệ táo bạo). Nhưng giai đoạn vừa qua, chi tiêu R&D của Boeing tương đối thấp so với quy mô – năm 2024 ước tính Boeing chỉ chi khoảng 3,8 tỷ USD cho R&D​, một con số khiêm tốn nếu so với doanh thu và so với đối thủ Airbus (vốn thường đầu tư mạnh cho các chương trình mới). Để khôi phục vị thế, Boeing buộc phải tăng cường R&D cho thế hệ máy bay thương mại mới (dự kiến cuối thập niên 2020) cũng như các công nghệ hàng không tương lai (máy bay xanh, tự động hóa...). Thách thức ở đây là thuyết phục cổ đông chấp nhận lợi nhuận thấp trong vài năm để đổi lấy bước nhảy vọt về công nghệ sau này. Tương tự, trong ngành chip hay năng lượng ở Mỹ, các công ty đang hưởng ưu đãi từ đạo luật CHIPS và đạo luật Khoa học phải cam kết dùng một phần ngân sách cho đào tạo nhân lực và nghiên cứu tại chỗ​. Chính phủ Mỹ cũng khuyến khích mô hình học nghề và đào tạo tại nhà máy – học những kỹ năng thực tiễn chỉ đòi hỏi bằng nghề thay vì 4 năm đại học – nhằm nhanh chóng bổ sung lao động kỹ thuật cho ngành sản xuất​. Tuy nhiên, việc thực hiện còn chậm và chưa đồng bộ. Để lấp đầy khoảng trống 1,9 triệu lao động sản xuất thiếu hụt, các chuyên gia cho rằng cần chính sách rộng hơn, từ tăng học bổng khuyến khích học nghề kỹ thuật, đến mở rộng visa thu hút kỹ sư nước ngoài chất lượng cao​. Đây cũng là những quyết sách đòi hỏi tầm nhìn dài hạn từ giới lãnh đạo, vượt qua tâm lý nhiệm kỳ chính trị.

Một trở ngại lớn trong cải tổ là sức ép tài chính chưa hề giảm bớt. Sau đại dịch và khủng hoảng MAX, Boeing rơi vào khó khăn tài chính (đã lỗ tích lũy hơn 11 tỷ USD giai đoạn 2019-2021​). Điều này vô hình trung tạo áp lực cho ban lãnh đạo tập trung cắt lỗ và cải thiện dòng tiền nhanh. Khi phải “lo trước mắt” như vậy, việc đầu tư cho tương lai dễ bị xem nhẹ. Hơn nữa, các cổ đông lớn có thể gây sức ép nếu thấy công ty chi quá nhiều cho tuyển dụng, đào tạo mà chưa thấy lợi tức. Bên trong Boeing, một bộ phận quản lý trung gian từng quen với lối làm cũ có thể kháng cự thay đổi – ví dụ, họ e ngại siết chặt quy trình an toàn sẽ làm chậm giao hàng, ảnh hưởng thưởng KPI của họ. Sự hoài nghi cũng tồn tại ở nhân viên: sau nhiều năm chứng kiến giá trị kỹ sư bị hạ thấp, niềm tin của kỹ sư Boeing vào lãnh đạo đã xói mòn. Xây lại niềm tin ấy đòi hỏi lãnh đạo phải thực sự lắng nghe và trao quyền nhiều hơn cho đội ngũ kỹ thuật.

Một tín hiệu tích cực là Boeing gần đây tích cực tuyển dụng sinh viên mới ra trường và hợp tác với các trường kỹ thuật để đào tạo theo nhu cầu. Lynne Hopper – Phó chủ tịch mảng chiến lược kỹ thuật Boeing – cho biết hãng đang đưa nhiều kỹ sư trẻ tham gia các dự án phát triển ở cả mảng thương mại (như 777X) lẫn quốc phòng, vũ trụ để tích lũy kinh nghiệm cho thế hệ kế tiếp​. Đây là cách “ươm mầm” thế hệ kỹ sư mới, nhưng kết quả cần thời gian để chín muồi. Trên bình diện toàn ngành, việc phục hồi văn hóa kỹ thuật cũng cần sự chung tay của nhiều bên. Chính phủ Mỹ đã và đang đóng vai trò hỗ trợ bằng các khoản đầu tư liên bang lớn vào sản xuất và công nghệ (trên 2.100 tỷ USD theo các đạo luật gần đây​, đồng thời đề cao khẩu hiệu sản xuất tại Mỹ.

Tuy vậy, nếu không có lực lượng kỹ sư, kỹ thuật viên đủ mạnh, các nhà máy xây lên sẽ thiếu người vận hành. Do đó, chính phủ liên bang và tiểu bang đang tài trợ các chương trình STEM ở phổ thông, học nghề ở cao đẳng cộng đồng, mong tạo ra “pipeline” nhân lực lâu dài.

So sánh với các nước khác, Mỹ có phần đi sau Đức ở mô hình đào tạo nghề gắn với doanh nghiệp (Đức nổi tiếng với hệ thống thực tập sinh và hợp tác trường nghề-công ty), nên thời gian tới các nhà hoạch định Mỹ có xu hướng học hỏi mô hình này​. Đức sau khi nhận thấy thiếu hụt kỹ sư cũng đã nới lỏng thị thực tay nghề và tăng cường quảng bá hình ảnh ngành sản xuất để thu hút giới trẻ.

Nhật Bản bắt đầu cải tổ văn hóa làm việc để hấp dẫn lao động nước ngoài vào các ngành kỹ thuật – một thay đổi lớn ở quốc gia vốn đóng kín lao động nhập cư. Pháp thì đặt trọng tâm vào duy trì năng lực cốt lõi: chẳng hạn, sau bài học Flamanville, lãnh đạo EDF tuyên bố công nghiệp hạt nhân Pháp phải liên tục có dự án (xây lò mới, sửa lò cũ) để “giữ lửa” tay nghề cho đội ngũ kỹ sư, công nhân​. Điều này tương tự ngành hàng không – cần liên tục thiết kế, thử nghiệm máy bay mới để thế hệ kỹ sư trẻ học hỏi từ thế hệ trước, tránh khoảng trống kinh nghiệm.

Hàn Quốc cũng đang cố gắng làm cho lĩnh vực kỹ thuật hấp dẫn hơn: chính phủ mở thêm trường chuyên ngành chip, tặng học bổng và cơ hội việc làm tại các “cluster” công nghệ cao, hy vọng ngăn chảy máu chất xám sang lĩnh vực khác​. Các tập đoàn Hàn Quốc thì mở rộng tuyển dụng toàn cầu, sẵn sàng trả lương cao để kéo kỹ sư giỏi từ các nước (ví dụ, Samsung, SK đã tuyển nhiều chuyên gia nước ngoài về AI, chip).

Điều này cho thấy cạnh tranh nhân tài kỹ thuật giờ không còn biên giới – Mỹ, Trung, Nhật, Hàn đều tăng cường “săn đầu người”, buộc các công ty như Boeing muốn thu hút người giỏi cũng phải tạo môi trường làm việc tốt, đề cao giá trị kỹ sư chứ không chỉ dựa vào danh tiếng xưa.

Tóm lại, cải cách văn hóa và tái đầu tư cho kỹ thuật là con đường sống còn để ngành hàng không và công nghiệp chế tạo cao cấp Mỹ lấy lại phong độ. Bài học Boeing là lời cảnh tỉnh đắt giá: chỉ khi nào sản phẩm và con người kỹ thuật được đặt làm ưu tiên số một, doanh nghiệp mới có thể bền vững về cả uy tín lẫn lợi nhuận. Chặng đường phía trước không dễ dàng – việc lấp đầy khoảng trống thế hệ đòi hỏi nhiều năm đào tạo; việc thay đổi tư duy lãnh đạo đòi hỏi dũng khí đi ngược lại áp lực ngắn hạn. Song những chuyển động tích cực đã bắt đầu: Boeing đang “nhìn lại cội rễ” để khôi phục chất lượng, còn chính phủ và xã hội Mỹ cũng đang đề cao giá trị của sản xuất sau đại dịch (nhận ra tầm quan trọng của chuỗi cung ứng nội địa). Nếu những nỗ lực này được duy trì, kết hợp với việc học hỏi mô hình đào tạo và quản trị dài hạn từ Đức, Nhật, Pháp, Hàn Quốc, ngành công nghiệp chế tạo cao cấp của Mỹ có cơ hội lấy lại vị thế dẫn đầu bằng chính sức mạnh kỹ thuật và đổi mới – thứ đã từng làm nên hào quang Boeing và nhiều tượng đài công nghiệp Mỹ trong quá khứ.

Chú thích:

Các số liệu và nhận định trên được tổng hợp và cập nhật đến năm 2025, nhằm cung cấp cái nhìn toàn diện và so sánh quốc tế về bài toán nhân lực và văn hóa quản trị trong lĩnh vực chế tạo công nghệ cao. Các doanh nghiệp Mỹ nói chung và Boeing nói riêng đang đứng trước cơ hội và thách thức để cải tổ mạnh mẽ, hướng tới phát triển bền vững hơn trong tương lai.

Tài liệu tham khảo: 
Boeing’s Culture Needs an Overhaul. Take It From Its Customers.
The planemaker should heed critiques from airlines or risk losing business to rival Airbus.
January 23, 2024
https://www.bloomberg.com/opinion/articles/2024-01-23/boeing-s-culture-needs-an-overhaul-take-it-from-its-customers

Boeing Introduces Enhanced Quality Control Measures to Address Safety Concerns
01/04/2025
https://worldmagzine.com/airlines/boeing-introduces-enhanced-quality-control-measures-to-address-safety-concerns/

What’s Gone Wrong at Boeing
Behind the 737 Max’s persistent problems is the erosion of a valuable corporate culture. That will be harder to fix than a loose bolt.
January 15, 2024
https://www.theatlantic.com/ideas/archive/2024/01/boeing-737-max-corporate-culture/677120/

Boeing's 737 Max Software Outsourced to $9-an-Hour Engineers
June 28, 2019
https://www.industryweek.com/supply-chain/article/22027840/boeings-737-max-software-outsourced-to-9-an-hour-engineers

Boeing’s Struggles Highlight the Perils of Stock Buybacks
25/03/2024
https://greenalphaadvisors.com/boeings-struggles-highlight-the-perils-of-stock-buybacks/

What the Boeing debacle teaches us about company culture and the tension between safety and profits
02/01/2024
https://www.minnpost.com/twin-cities-business/2024/02/what-the-boeing-debacle-teaches-us-about-company-culture-and-the-tension-between-safety-and-profits/

Boeing's R&D expenditures from FY 2001 to FY 2024
https://www.statista.com/statistics/268991/expenditures-on-research-and-development-by-boeing/

Boeing’s Struggles Highlight the Perils of Stock Buybacks
25/03/2024
https://greenalphaadvisors.com/boeings-struggles-highlight-the-perils-of-stock-buybacks/

Boeing Lost Hundreds of Experienced Seattle-Area Engineers Last Month
Dec. 8, 2022
https://www.aviationpros.com/aircraft/commercial-airline/news/21289365/boeing-lost-hundreds-of-experienced-seattle-area-engineers-last-month

Tradespeople wanted: The need for critical trade skills in the US
April 9, 2024 | Article
https://www.mckinsey.com/capabilities/people-and-organizational-performance/our-insights/tradespeople-wanted-the-need-for-critical-trade-skills-in-the-us

An Engineer Shortage?
July 24, 2024
https://potsandpansbyccg.com/2024/07/24/an-engineer-shortage/

Will a Worker Shortage Kill the U.S. Manufacturing Boom?
The United States is witnessing a boom in manufacturing investment, stimulated by massive government subsidies, but the skilled workforce necessary to support it is severely lacking.
Last updated September 30, 2024
https://www.cfr.org/blog/will-worker-shortage-kill-us-manufacturing-boom

Pontifications: Boeing faces thousands of retirements in next five years
March 19, 2018
https://leehamnews.com/2018/03/19/pontifications-boeing-faces-thousands-of-retirements-in-next-five-years/

A national challenge with deep-seated causes
https://www.raconteur.net/insights/germanys-industrial-skills-shortage-challenges-and-solutions

Japan to double cap on skilled foreign workers from fiscal 2024
March 9, 2024
https://www.staffingindustry.com/news/global-daily-news/japan-double-cap-skilled-foreign-workers-fiscal-2024

The US Needs Workers. Germany's Apprenticeship Model Can Help.
July 19, 2024
https://www.industryweek.com/talent/education-training/article/55127256/german-model-apprenticeships-are-key-to-us-reshoring

Challenges facing the USA in matching Germany on advanced manufacturing for green growth
https://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S2096248723000486
International Journal of Innovation Studies, Volume 8, Issue 1, March 2024, Pages 13-24

Weld repairs at Flamanville 3
The viability of Flamanville 3 steam generators depends on weld repairs. Rumyana Vakarelska reviews repair plans.
February 6, 2020
https://www.neimagazine.com/advanced-reactorsfusion/weld-repairs-at-flamanville-3-7759940/

South Korea's semiconductor industry faces crisis as top students choose medical schools
March 12, 2025 | 07:59 pm PT
https://e.vnexpress.net/news/tech/tech-news/south-korea-s-semiconductor-industry-faces-crisis-as-top-students-choose-medical-schools-4860765.html

 

This post was modified 5 tháng trước by langtubachkhoa

   
Trả lờiTrích dẫn
(@langtubachkhoa)
Lão niên
Được ưa thích
Bá tước Phương Nam – langtubachkhoa
Trung lưu rank 3
Tài sản: 67799.33
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 20338
 

Tiếp tục loạt bài

Đăng bởi: @langtubachkhoa

Làm sâu thêm ý này ở bài trên "Các thế hệ trẻ lại ít hứng thú với mô hình làm việc lâu năm và quy trình kỹ thuật nghiêm ngặt. Việc media liên tục ca ngợi hình mẫu hoạt bát, cá tính năng động này này nọ cũng là một trong những nguyên nhân khiến họ ít hứng thú với việc làm việc trong những lĩnh vực này"

Đây là một góc khuất rất quan trọng nhưng ít khi được đề cập trực diện: vai trò của truyền thông đại chúng (media) và văn hóa xã hội hiện đại trong việc định hình thang giá trị nghề nghiệp của giới trẻ, đặc biệt là đối với những ngành nghề kỹ thuật nghiêm ngặt, đòi hỏi kiên nhẫn và cam kết lâu dài như hàng không, cơ khí chế tạo, năng lượng hạt nhân, đóng tàu...

1. Sự thay đổi trong truyền thông và thang giá trị nghề nghiệp: Từ kỹ sư cần mẫn đến người nổi bật “đa năng, năng động”
Trong vài thập kỷ trở lại đây, hình mẫu lý tưởng trong văn hóa đại chúng đã thay đổi rất rõ rệt:

Thập niên 1950–1980: Kỹ sư, kỹ thuật viên, bác sĩ, nhà nghiên cứu... là những hình mẫu được đề cao – gắn liền với trí tuệ, sáng tạo, và đóng góp cho đất nước. Các nhân vật như kỹ sư vũ trụ, nhà khoa học hạt nhân, hay phi công là hình ảnh biểu tượng.

Từ thập niên 2000 trở đi: Truyền thông chuyển mạnh sang tôn vinh các hình mẫu “tự do – linh hoạt – nổi bật” như:
- Doanh nhân khởi nghiệp, influencer, người làm nội dung số (content creator), lifestyle coach.
- Những cá nhân “dám nghĩ khác, làm khác”, có “chất riêng”, không bị bó buộc bởi khuôn mẫu tổ chức.
- Lối sống “trải nghiệm”, “đa nghề”, “đổi nghề linh hoạt” (portfolio career).

Trong khi đó, hình ảnh của một người kỹ sư máy bay ngồi trước bản vẽ CAD suốt nhiều năm, gắn bó với một dự án 10 năm để hoàn thiện một cánh máy bay, hay một kỹ sư hạt nhân tuân thủ quy trình an toàn ngặt nghèo... ít khi xuất hiện trong các phim ảnh, mạng xã hội hay show truyền hình với hình ảnh hấp dẫn.

Từ đây dẫn đến hệ quả:
- Giới trẻ ít được truyền cảm hứng từ nghề kỹ thuật. Trong môi trường mà thành công được mô tả là nhanh chóng, năng động, nhiều spotlight – các nghề đòi hỏi kiên nhẫn, quy trình, sự sâu sắc, nghiêm ngặt và trầm lặng dễ bị “lép vế”.
- Ngành kỹ thuật bị gán mác “khô khan – bảo thủ”: Rất nhiều sinh viên kỹ thuật bỏ ngành giữa chừng vì cảm thấy thiếu ý nghĩa hoặc cảm hứng cá nhân, trong khi thực tế họ chưa thấy được giá trị xã hội lâu dài của công việc mình làm.

2. Lý tưởng “đa nhiệm – đa nghề” thay vì kỹ nghệ chuyên sâu
Hiện tượng giới trẻ mong muốn:
- Không làm một nghề suốt đời.
- Tự do địa điểm, thời gian (digital nomad).
- Làm việc ít nhưng thu nhập cao, sống “cân bằng”.

điều này cũng mâu thuẫn với đặc trưng “deep work” và chuyên sâu dài hạn của các ngành chế tạo cao cấp. Các lĩnh vực như phát triển máy bay, tàu ngầm, thiết kế cánh tua bin... thường đòi hỏi thời gian 5–10 năm để một kỹ sư từ giỏi lý thuyết đến thực sự làm được việc. Những điều đó không phù hợp với kỳ vọng “tức thời – nổi bật nhanh” mà truyền thông hiện đại đang cổ vũ.

3. Vai trò truyền thông trong điều chỉnh lại hình ảnh ngành kỹ thuật
Ở một số nước, đã có những chiến dịch phản truyền thông nhằm lấy lại vị thế cho nghề kỹ thuật:
- Đức: Chương trình “MINT Zukunft schaffen” (STEM kiến tạo tương lai) được phát trên các kênh truyền hình phổ thông để tôn vinh kỹ sư, thợ lành nghề.
- Pháp: Sau thất bại EPR Flamanville, truyền thông Pháp nỗ lực chiếu phim tài liệu, talkshow về nghề kỹ sư hạt nhân để thu hút giới trẻ.
- Nhật Bản: NHK sản xuất nhiều phim tài liệu rất sâu sắc về monozukuri (nghệ thuật chế tạo), phản ánh công việc kỹ sư như một hành trình nghệ thuật và cống hiến.
- Mỹ thì mới khởi động lại tinh thần này sau COVID-19, trong bối cảnh nhận ra mình “mỏng kỹ sư” khi muốn phục hưng sản xuất. Các tổ chức như National Science Foundation, các trường đại học kỹ thuật lớn (MIT, Caltech, Purdue...) đang bắt tay với truyền thông để kể lại “câu chuyện hấp dẫn về kỹ sư Mỹ thời đại mới”.

Kết luận
Văn hóa truyền thông hiện đại không phải là nguyên nhân duy nhất, nhưng chắc chắn là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến giới trẻ xa rời các ngành kỹ thuật đòi hỏi cam kết dài hạn. Việc ca ngợi lối sống linh hoạt, nhanh thành công, không ràng buộc... đã vô tình làm cho những công việc trầm lặng – nhưng mang tính nền móng của xã hội – bị lu mờ.
Nếu không có sự thay đổi về mặt truyền thông – từ giáo dục phổ thông đến điện ảnh, YouTube, TikTok – thì các nỗ lực cải cách kỹ thuật, đào tạo hay tái công nghiệp hóa sẽ không đủ lực kéo nhân sự quay trở lại với ngành. Đây là một “trận chiến về hình ảnh” cần được đầu tư kỹ lưỡng như một phần của chính sách công nghiệp.

 

 

This post was modified 5 tháng trước by langtubachkhoa

   
Trả lờiTrích dẫn
quangsot
(@quangsot-2-2-2-2-2-2-2-2-2-2-2-2-2-2)
Lão niên
Cú nhóm giường bệnh
Được ưa thích
Khá giả rank 1
Tài sản: 176722.44
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 10034
 

Bộ trưởng Tài chính Hoa Kỳ Scott Bessent: "Chính phủ Hoa Kỳ sẽ không bao giờ vỡ nợ... Bộ Tài chính sẽ không dùng bất kỳ thủ đoạn nào. Chúng tôi sẽ đảm bảo rằng trần nợ được nâng lên."


   
Trả lờiTrích dẫn
(@langtubachkhoa)
Lão niên
Được ưa thích
Bá tước Phương Nam – langtubachkhoa
Trung lưu rank 3
Tài sản: 67799.33
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 20338
 

Tỷ lệ các nam thiếu niên từ lớp 8 đến lớp 10 tại Hoa Kỳ đồng ý qua các năm với 2 vấn đề:
- Nữ giới nên có cơ hội việc làm như nam giới.
- Nam và nữ nên được trả bằng nhau nến như họ làm việc như nhau.
Tỷ lệ đồng ý đạt đỉnh vào năm 2018 và giảm liên tục từ đó đến nay.

image

Tỷ lệ nam thiếu niên lớp 8-10 có mẹ qua giáo dục đại học, cao đẳng trước đây từng ủng hộ 2 vấn đề trên. Nhưng đến thời điêm này tỷ lệ ủng hộ chỉ bằng hoặc thậm chí là thấm hơn các nam thiếu niên có mẹ không trải qua giáo dục đại học, cao đẳng.

image

(Vũ Lê)


   
Trả lờiTrích dẫn
(@langtubachkhoa)
Lão niên
Được ưa thích
Bá tước Phương Nam – langtubachkhoa
Trung lưu rank 3
Tài sản: 67799.33
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 20338
 

Pháp, Tây Ban Nha và Hy Lạp đang soạn thảo một dự luật trình lên Liên minh châu Âu yêu cầu các mạng xã hội – bao gồm cả Facebook và X (Twitter) – phải xác minh độ tuổi người dùng. Dự luật sẽ áp đặt các hạn chế nghiêm ngặt đối với trẻ em dưới 15 tuổi. Để đăng nhập vào mạng xã hội, người dùng buộc phải xác minh danh tính – nếu không sẽ bị chặn truy cập.
Dự luật cũng yêu cầu mọi thiết bị có truy cập Internet phải có khả năng xác minh tuổi của chủ sở hữu. Điều này đồng nghĩa với việc tính ẩn danh trên mạng sắp trở thành quá khứ – các nền tảng mạng xã hội sẽ phải thu thập dữ liệu thật của từng người dùng.
Tại cuộc họp của các bộ trưởng phụ trách chính sách kỹ thuật số EU vào ngày 6 tháng 6, ba quốc gia nói trên sẽ chính thức trình bày đề xuất của mình. Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã bày tỏ ủng hộ sáng kiến này, cho rằng mạng xã hội gây hại đến sức khỏe tâm thần của trẻ em – và đó là một “sự thật đã được chứng minh”.
Kết quả có thể là: Internet tại châu Âu sẽ giống như một hệ thống kiểm soát bằng vé – chỉ được vào khi có "hộ chiếu", và mọi cú nhấp chuột hay lượt thích đều bị giám sát.

https://www.euractiv.com/section/tech/news/france-spain-and-greece-urge-eu-to-curb-child-access-to-social-media/


   
is3 reacted
Trả lờiTrích dẫn
(@langtubachkhoa)
Lão niên
Được ưa thích
Bá tước Phương Nam – langtubachkhoa
Trung lưu rank 3
Tài sản: 67799.33
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 20338
 

@a98 @ktqsminh @ngo-rung @hatam @phuongminha6 @meotamthe

Cuộc tranh luận nảy lửa giữa Gary Stevenson và Daniel Priestley về tài chính, bất bình đẳng, và khởi nghiệp vừa thu hút hàng triệu lượt xem.

Hai người, một bên là nhà kinh tế học từng kiếm 35 triệu đô cho Citibank khi mới 24 tuổi, một bên là triệu phú khởi nghiệp từ tay trắng, tranh luận gay gắt về việc:
1. Tại sao người nghèo ngày càng nghèo?
2. Liệu khởi nghiệp có thực sự là lối thoát?
3. Và chuyện gì sẽ xảy ra với thế hệ tiếp theo?
Bài viết này tóm gọn 12 bài học đắt giá nhất từ 200 phút đối thoại, để bạn trẻ có thể rút ngắn cả thập kỷ vật lộn tài chính chỉ trong vài phút đọc - Mà bạn chỉ mất 5 phút để đọc
-
1. Sự thật cay đắng – người nghèo không hề lười
Gary nói:
“Bạn bè tôi không thể nuôi con nổi. Không phải vì họ lười mà vì hệ thống này đang vắt kiệt họ.”
Họ làm 2–3 công việc, nhưng tiền thuê nhà, hóa đơn điện nước và chi phí sinh hoạt vượt xa thu nhập.
Điều tồi tệ là, khi không thành công, xã hội quay lại đổ lỗi cho họ.
Điều đó tạo nên khủng hoảng tinh thần kéo dài.
-
2. “Chăm chỉ” không còn đủ nữa
Daniel đưa ra quan điểm từ trải nghiệm cá nhân:
“Tôi từng làm việc chân tay – giao pizza, phục vụ tại McDonald’s.
Nhưng tôi học cách trở thành người làm chủ.
Và tôi tin rằng bất kỳ ai cũng có thể làm được điều tương tự.”
Tuy nhiên, Gary phản bác với góc nhìn hệ thống:
“Khi bạn thuộc nhóm thiểu số may mắn, rất dễ nghĩ rằng ai cũng có thể làm được như mình.
Nhưng bạn không sống trong thực tế mà 99% còn lại đang đối mặt mỗi ngày.”
Câu hỏi được đặt ra là: Nếu ai cũng có thể thành công, vậy tại sao không ai làm được?
Phải chăng vấn đề không nằm ở nỗ lực cá nhân, mà ở cấu trúc xã hội đang ngày càng triệt tiêu cơ hội của phần lớn người dân?
-
3: Bất bình đẳng là cấu trúc, không phải lựa chọn cá nhân
Gary từng kiếm hàng triệu đô bằng cách đặt cược vào việc xã hội ngày càng bất công và anh đã đúng suốt 15 năm.
Khi chính phủ bơm 1.000 tỷ bảng trong đại dịch, anh đặt câu hỏi:
“Tiền sẽ chảy về đâu? Ai sẽ giàu lên?”
Câu trả lời rõ ràng mà ai cũng biết: phần lớn rơi vào tay những người vốn đã giàu.
Tiền không phân phối theo nhu cầu, mà theo quyền sở hữu tài sản.
=>> Bất bình đẳng không phải do cá nhân chưa đủ cố gắng, mà do hệ thống ưu ái cho người đã có.
-
4: Bạn đang chơi trò chơi “kẻ giữ tài sản” hay “người tạo ra giá trị”?
Daniel phân biệt hai kiểu người giàu:
1. Người tạo ra giá trị – những người xây dựng sản phẩm, dịch vụ mới, mang lại giá trị thực cho xã hội.
2. Người giữ tài sản – những người không tạo ra gì mới, chỉ sở hữu tài sản và hưởng lợi từ việc tài sản tăng giá.
Daniel khẳng định: “Tôi giàu vì tôi tạo ra giá trị, không phải lấy từ ai khác.”
Gary phản biện: “Nếu vậy, tại sao tài sản của chúng ta tăng 30% trong khi nền kinh tế chỉ tăng 1%?”
=>> Một câu hỏi ngắn gọn nhưng chạm đến bản chất: phần lớn tài sản không đến từ việc tạo ra giá trị mới, mà từ việc sở hữu tài sản cũ – trong một hệ thống vốn đã thiên lệch.
-
5. Người giàu không bị đánh thuế như bạn tưởng
Gary nêu ra một nghịch lý trong hệ thống thuế:
Người lao động bình thường phải trả 50–60% thuế thu nhập
Trong khi đó, người thừa kế khối tài sản 10 tỷ bảng như Công tước xứ Westminster chỉ đóng khoảng 0.6% mỗi năm nhờ cấu trúc Trust
Anh nói thẳng: “Tôi làm việc quần quật để đưa gia đình thoát nghèo và phải trả 60%. Còn anh ta chẳng cần làm gì mà gần như không trả thuế.”
Hệ thống thuế hiện tại không đánh vào tài sản lớn được truyền đời, mà chủ yếu đánh vào thu nhập từ lao động.
Điều này khiến khoảng cách giàu – nghèo không những không thu hẹp, mà còn ngày càng được duy trì và hợp pháp hóa.
-
6. Cắt giảm thuế cho người lao động, tăng thuế với tài sản thừa kế
Gary nói tiếp “Tôi không chống doanh nhân. Tôi muốn giảm thuế cho người tạo ra giá trị. Nhưng hãy đánh thuế cao vào những ai chỉ ngồi giữ tài sản vài trăm triệu bảng rồi truyền lại cho con cái.”
Bởi vì nếu không:
- Tầng lớp trung lưu sẽ biến mất
- Con cái của người nghèo sẽ mãi nghèo
- Và toàn xã hội sẽ rơi vào vòng lặp bất bình đẳng
=>> Thuế không chỉ là công cụ tài khóa, mà còn là đòn bẩy để giữ công bằng cơ hội giữa các thế hệ.
-
7 Thị trường tự do chỉ là lý tưởng – không phải hiện thực
Daniel tin tưởng vào thị trường tự do, ủng hộ giảm thuế, thu hẹp vai trò nhà nước và lập luận rằng:
“Chính phủ càng can thiệp, nền kinh tế càng dễ sụp đổ.”
Gary phản bác bằng một lát cắt lịch sử: “70 năm qua là thời kỳ hiếm hoi mà tầng lớp trung lưu có thể sống tử tế.
Lý do là vì chúng ta từng đánh thuế người giàu cao, phân phối lại tài sản, và đầu tư mạnh vào nhà ở, y tế, giáo dục.
Thị trường tự do có thể hiệu quả trên lý thuyết, nhưng trong thực tế, chính sự can thiệp đúng lúc của nhà nước mới từng tạo ra một xã hội cân bằng và bền vững.
-
8. Công nghệ đang chia đôi thế giới
Daniel cảnh báo về một thực tế sau đại dịch: “Thế giới hậu COVID là thế giới số. Nếu bạn không làm trong lĩnh vực công nghệ, truyền thông hoặc tài chính, bạn sẽ bị bỏ lại phía sau.”
Các công ty công nghệ ngày nay có thể tạo ra doanh thu toàn cầu mà không cần hiện diện vật lý, đồng thời đặt trụ sở tại các thiên đường thuế như Luxembourg hay Dubai để tránh nghĩa vụ thuế với các quốc gia mà họ thực sự kinh doanh.
Kết quả là gì?
- Lợi nhuận tập trung vào một nhóm nhỏ ở các trung tâm công nghệ
- Các quốc gia mất dần nguồn thu từ thuế
- Người lao động ngoài ngành số bị tụt lại, không chỉ về thu nhập mà cả cơ hội phát triển
=>> Công nghệ mở rộng khả năng tiếp cận thị trường, nhưng đồng thời cũng mở rộng khoảng cách giữa các tầng lớp.

Video
EMERGENCY DEBATE: They Lied About The Economy Recovering! Is A Financial Apocalypse Coming?

(from YPFP)

This post was modified 4 tháng trước by langtubachkhoa

   
is3 and Leo77 reacted
Trả lờiTrích dẫn
(@langtubachkhoa)
Lão niên
Được ưa thích
Bá tước Phương Nam – langtubachkhoa
Trung lưu rank 3
Tài sản: 67799.33
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 20338
 

Đăng bởi: @langtubachkhoa

@a98 @ktqsminh @ngo-rung @hatam @phuongminha6 @meotamthe

Cuộc tranh luận nảy lửa giữa Gary Stevenson và Daniel Priestley về tài chính, bất bình đẳng, và khởi nghiệp vừa thu hút hàng triệu lượt xem.

Hai người, một bên là nhà kinh tế học từng kiếm 35 triệu đô cho Citibank khi mới 24 tuổi, một bên là triệu phú khởi nghiệp từ tay trắng, tranh luận gay gắt về việc:
1. Tại sao người nghèo ngày càng nghèo?
2. Liệu khởi nghiệp có thực sự là lối thoát?
3. Và chuyện gì sẽ xảy ra với thế hệ tiếp theo?
Bài viết này tóm gọn 12 bài học đắt giá nhất từ 200 phút đối thoại, để bạn trẻ có thể rút ngắn cả thập kỷ vật lộn tài chính chỉ trong vài phút đọc - Mà bạn chỉ mất 5 phút để đọc
-
1. Sự thật cay đắng – người nghèo không hề lười
Gary nói:
“Bạn bè tôi không thể nuôi con nổi. Không phải vì họ lười mà vì hệ thống này đang vắt kiệt họ.”
Họ làm 2–3 công việc, nhưng tiền thuê nhà, hóa đơn điện nước và chi phí sinh hoạt vượt xa thu nhập.
Điều tồi tệ là, khi không thành công, xã hội quay lại đổ lỗi cho họ.
Điều đó tạo nên khủng hoảng tinh thần kéo dài.
-
2. “Chăm chỉ” không còn đủ nữa
Daniel đưa ra quan điểm từ trải nghiệm cá nhân:
“Tôi từng làm việc chân tay – giao pizza, phục vụ tại McDonald’s.
Nhưng tôi học cách trở thành người làm chủ.
Và tôi tin rằng bất kỳ ai cũng có thể làm được điều tương tự.”
Tuy nhiên, Gary phản bác với góc nhìn hệ thống:
“Khi bạn thuộc nhóm thiểu số may mắn, rất dễ nghĩ rằng ai cũng có thể làm được như mình.
Nhưng bạn không sống trong thực tế mà 99% còn lại đang đối mặt mỗi ngày.”
Câu hỏi được đặt ra là: Nếu ai cũng có thể thành công, vậy tại sao không ai làm được?
Phải chăng vấn đề không nằm ở nỗ lực cá nhân, mà ở cấu trúc xã hội đang ngày càng triệt tiêu cơ hội của phần lớn người dân?
-
3: Bất bình đẳng là cấu trúc, không phải lựa chọn cá nhân
Gary từng kiếm hàng triệu đô bằng cách đặt cược vào việc xã hội ngày càng bất công và anh đã đúng suốt 15 năm.
Khi chính phủ bơm 1.000 tỷ bảng trong đại dịch, anh đặt câu hỏi:
“Tiền sẽ chảy về đâu? Ai sẽ giàu lên?”
Câu trả lời rõ ràng mà ai cũng biết: phần lớn rơi vào tay những người vốn đã giàu.
Tiền không phân phối theo nhu cầu, mà theo quyền sở hữu tài sản.
=>> Bất bình đẳng không phải do cá nhân chưa đủ cố gắng, mà do hệ thống ưu ái cho người đã có.
-
4: Bạn đang chơi trò chơi “kẻ giữ tài sản” hay “người tạo ra giá trị”?
Daniel phân biệt hai kiểu người giàu:
1. Người tạo ra giá trị – những người xây dựng sản phẩm, dịch vụ mới, mang lại giá trị thực cho xã hội.
2. Người giữ tài sản – những người không tạo ra gì mới, chỉ sở hữu tài sản và hưởng lợi từ việc tài sản tăng giá.
Daniel khẳng định: “Tôi giàu vì tôi tạo ra giá trị, không phải lấy từ ai khác.”
Gary phản biện: “Nếu vậy, tại sao tài sản của chúng ta tăng 30% trong khi nền kinh tế chỉ tăng 1%?”
=>> Một câu hỏi ngắn gọn nhưng chạm đến bản chất: phần lớn tài sản không đến từ việc tạo ra giá trị mới, mà từ việc sở hữu tài sản cũ – trong một hệ thống vốn đã thiên lệch.
-
5. Người giàu không bị đánh thuế như bạn tưởng
Gary nêu ra một nghịch lý trong hệ thống thuế:
Người lao động bình thường phải trả 50–60% thuế thu nhập
Trong khi đó, người thừa kế khối tài sản 10 tỷ bảng như Công tước xứ Westminster chỉ đóng khoảng 0.6% mỗi năm nhờ cấu trúc Trust
Anh nói thẳng: “Tôi làm việc quần quật để đưa gia đình thoát nghèo và phải trả 60%. Còn anh ta chẳng cần làm gì mà gần như không trả thuế.”
Hệ thống thuế hiện tại không đánh vào tài sản lớn được truyền đời, mà chủ yếu đánh vào thu nhập từ lao động.
Điều này khiến khoảng cách giàu – nghèo không những không thu hẹp, mà còn ngày càng được duy trì và hợp pháp hóa.
-
6. Cắt giảm thuế cho người lao động, tăng thuế với tài sản thừa kế
Gary nói tiếp “Tôi không chống doanh nhân. Tôi muốn giảm thuế cho người tạo ra giá trị. Nhưng hãy đánh thuế cao vào những ai chỉ ngồi giữ tài sản vài trăm triệu bảng rồi truyền lại cho con cái.”
Bởi vì nếu không:
- Tầng lớp trung lưu sẽ biến mất
- Con cái của người nghèo sẽ mãi nghèo
- Và toàn xã hội sẽ rơi vào vòng lặp bất bình đẳng
=>> Thuế không chỉ là công cụ tài khóa, mà còn là đòn bẩy để giữ công bằng cơ hội giữa các thế hệ.
-
7 Thị trường tự do chỉ là lý tưởng – không phải hiện thực
Daniel tin tưởng vào thị trường tự do, ủng hộ giảm thuế, thu hẹp vai trò nhà nước và lập luận rằng:
“Chính phủ càng can thiệp, nền kinh tế càng dễ sụp đổ.”
Gary phản bác bằng một lát cắt lịch sử: “70 năm qua là thời kỳ hiếm hoi mà tầng lớp trung lưu có thể sống tử tế.
Lý do là vì chúng ta từng đánh thuế người giàu cao, phân phối lại tài sản, và đầu tư mạnh vào nhà ở, y tế, giáo dục.
Thị trường tự do có thể hiệu quả trên lý thuyết, nhưng trong thực tế, chính sự can thiệp đúng lúc của nhà nước mới từng tạo ra một xã hội cân bằng và bền vững.
-
8. Công nghệ đang chia đôi thế giới
Daniel cảnh báo về một thực tế sau đại dịch: “Thế giới hậu COVID là thế giới số. Nếu bạn không làm trong lĩnh vực công nghệ, truyền thông hoặc tài chính, bạn sẽ bị bỏ lại phía sau.”
Các công ty công nghệ ngày nay có thể tạo ra doanh thu toàn cầu mà không cần hiện diện vật lý, đồng thời đặt trụ sở tại các thiên đường thuế như Luxembourg hay Dubai để tránh nghĩa vụ thuế với các quốc gia mà họ thực sự kinh doanh.
Kết quả là gì?
- Lợi nhuận tập trung vào một nhóm nhỏ ở các trung tâm công nghệ
- Các quốc gia mất dần nguồn thu từ thuế
- Người lao động ngoài ngành số bị tụt lại, không chỉ về thu nhập mà cả cơ hội phát triển
=>> Công nghệ mở rộng khả năng tiếp cận thị trường, nhưng đồng thời cũng mở rộng khoảng cách giữa các tầng lớp.

Video
EMERGENCY DEBATE: They Lied About The Economy Recovering! Is A Financial Apocalypse Coming?

(from YPFP)

 

 

Nhà kinh tế học từng kiếm 35 triệu đô cho Citibank khi mới 24 tuổi là Gary Stevenson.

Triệu phú khởi nghiệp từ tay trắng là Daniel Priestley.

Gary Stevenson – "Trader kiếm hàng chục triệu đô nhờ hiểu rõ sự bất bình đẳng"
Xuất thân từ một gia đình lao động ở Đông London.

Học kinh tế tại Đại học Oxford, rồi trở thành trader hàng đầu của Citibank.

Năm 24 tuổi, Gary kiếm được 35 triệu USD cho Citibank bằng cách đặt cược vào sự bất bình đẳng gia tăng sau khủng hoảng tài chính 2008.

Sau đó, anh rời phố tài chính để lên tiếng chỉ trích hệ thống kinh tế hiện tại.

Hiện tại là một nhà bình luận kinh tế nổi tiếng trên YouTube qua kênh Gary's Economics.

Daniel Priestley – "Doanh nhân triệu phú từ hai bàn tay trắng"
Sinh ra tại Úc, từng làm các công việc chân tay như giao pizza, phục vụ tại McDonald's.

Bắt đầu khởi nghiệp khi chỉ có vài trăm đô trong tay.

Từng xây dựng 4 công ty triệu đô tại Anh, Úc và Singapore.

Tác giả của các cuốn sách nổi tiếng về khởi nghiệp như:

Key Person of Influence

Entrepreneur Revolution

Oversubscribed

Hiện là CEO của Dent Global – một công ty chuyên huấn luyện và đầu tư vào các doanh nhân tiềm năng.

 


   
is3 reacted
Trả lờiTrích dẫn
(@langtubachkhoa)
Lão niên
Được ưa thích
Bá tước Phương Nam – langtubachkhoa
Trung lưu rank 3
Tài sản: 67799.33
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 20338
 

🇪🇺EU sẽ phân bổ 5,5 triệu euro để hỗ trợ khẩn cấp cho Radio Liberty
Điều này được tuyên bố bởi người đứng đầu bộ phận ngoại giao châu Âu, Kaja Kallas, sau cuộc họp của các bộ trưởng ngoại giao EU tại Brussels.
Các khoản tiền sẽ được chuyển qua Quỹ hỗ trợ dân chủ châu Âu. Theo Kallas, đây là khoản hỗ trợ khẩn cấp ngắn hạn và là nỗ lực lấp đầy khoảng trống trong ngân sách của đài phát thanh, nơi được cho là đóng vai trò quan trọng trong việc thông tin cho công dân của các quốc gia láng giềng EU.
Trước đó, chính quyền Trump đã ngừng hỗ trợ Radio Liberty, cáo buộc đài này phát tán "tuyên truyền cực đoan bằng tiền thuế của người dân Mỹ". Và vào tháng 4, Hoa Kỳ đã tắt vệ tinh mà đài phát thanh này phát sóng đến Nga.
(Quán Tin)


   
Trả lờiTrích dẫn
(@langtubachkhoa)
Lão niên
Được ưa thích
Bá tước Phương Nam – langtubachkhoa
Trung lưu rank 3
Tài sản: 67799.33
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 20338
 

Chồng tôi bị Microsoft cho nghỉ việc bởi một thuật toán — sau 25 năm, ngày làm việc cuối cùng của anh ấy lại chính là sinh nhật của anh.
Chồng tôi đã làm việc cho Microsoft được 25 năm. Anh vừa bị cho nghỉ việc — bị chọn ngẫu nhiên bởi một thuật toán máy tính. Ngày làm việc cuối cùng của anh ấy là thứ Sáu này — đúng vào sinh nhật lần thứ 48.
Anh ấy mắc chứng tự kỷ và bệnh đa xơ cứng. Anh là người trung thành, trầm lặng và thông minh nhất mà tôi từng biết. Chưa bao giờ nghỉ một ngày làm nào. Hiếm khi xin nghỉ bệnh (và nếu có thì cũng làm việc từ nhà). Làm hơn 60 giờ mỗi tuần. Anh nhận làm trực trong kỳ nghỉ Giáng sinh và Lễ Tạ ơn để đồng nghiệp có con nhỏ được nghỉ ở nhà. Anh ấy chưa bao giờ đòi tăng lương hay thăng chức — chỉ luôn âm thầm đến làm và giải quyết những vấn đề tưởng chừng không thể.
Anh từng nhận giải thưởng vì sửa những lỗi phần mềm trị giá hàng triệu đô. Anh hướng dẫn hàng trăm đồng nghiệp, trong đó có người sau này trở thành lãnh đạo đội ngũ và các phòng ban. Thậm chí đến các CEO cũng biết tên anh. Vậy mà cuối cùng anh lại bị sa thải — chỉ vì một bảng tính.
Cách đây vài tháng, anh vừa nhận được biểu tượng kỷ niệm 25 năm làm việc. Giờ thì bị dẫn ra khỏi văn phòng.
Nếu anh biết tôi đang viết những dòng này, chắc anh sẽ rất ngượng. Anh luôn tự hào vì mình mạnh mẽ, kiên cường và không phàn nàn. Nhưng tôi không thể để anh rời đi mà không ai biết câu chuyện này.
Tôi không cần sự thương hại. Tôi chỉ cần ai đó hiểu rằng thế giới này đang đối xử với những con người tận tụy như anh — những người cho đi mọi thứ một cách lặng lẽ, kiên định và không bao giờ đòi hỏi thêm — như thế nào.

Microsoft Worker Sacked After 25 Years Of Service On Birthday, Wife Shares Emotional PostMicrosoft claims the layoffs are part of its efforts to stay competitive and agile as it rapidly integrates AI into its products and services.
May 18, 2025
https://www.ndtv.com/world-news/microsoft-worker-sacked-after-25-years-of-service-on-birthday-wife-shares-emotional-post-8447202

Microsoft layoffs: My husband worked 25 years, rarely took leave, but was laid off by algorithm, says wife in viral post
May 19, 2025
https://economictimes.indiatimes.com/news/new-updates/microsoft-layoffs-my-husband-worked-25-years-rarely-took-leave-but-was-laid-off-by-algorithm-says-wife-in-viral-post/articleshow/121260149.cms

My husband was laid off from Microsoft by an algorithm — after 25 years, his last day is his birthday
https://www.reddit.com/r/TrueOffMyChest/comments/1knj1sd/my_husband_was_laid_off_from_microsoft_by_an/


   
is3 reacted
Trả lờiTrích dẫn
(@langtubachkhoa)
Lão niên
Được ưa thích
Bá tước Phương Nam – langtubachkhoa
Trung lưu rank 3
Tài sản: 67799.33
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 20338
 

@a98 @hatam @ktqsminh @ngo-rung @phuongminha6 @meotamthe
Giới tài chính chỉ muốn bắt dân chúng làm con tin, chỉ muốn tăng cường quyền kiểm soát của mình. Việc loại bỏ tiền mặt sẽ làm mất đi quyền tự do cá nhân và tạo điều kiện cho việc giám sát tài chính quá mức từ phía chính phủ và các tổ chức tài chính. Thực tế thì loại bỏ tiền mặt không chỉ nhằm mục đích chống tội phạm mà còn phục vụ lợi ích của các tổ chức tài chính. Việc chuyển hoàn toàn sang thanh toán điện tử có thể giúp các ngân hàng và công ty tài chính kiểm soát tốt hơn dòng tiền và thu thập dữ liệu về hành vi tiêu dùng của người dân. Điều này dẫn đến lo ngại về việc người dân trở thành "con tin" của hệ thống tài chính và mất đi quyền kiểm soát đối với tài sản của mình.

Pháp muốn xóa bỏ tiền mặt để chống buôn bán ma túy
Bộ trưởng Tư pháp Gerald Darmanin đã đưa ra đề xuất này trên kênh BFMTV.
“Tôi đã nhiều lần nói về điều này với những người hỏi làm sao để chấm dứt buôn bán ma túy ở các khu vực tội phạm. Chỉ cần một biện pháp đơn giản: xóa bỏ tiền mặt sẽ làm biến mất các điểm bán,” ông nói.
Theo Darmanin, việc chuyển hoàn toàn sang thanh toán không dùng tiền mặt sẽ khiến hoạt động buôn bán ma túy dễ bị kiểm soát tài chính, vì tội phạm sẽ khó che giấu dòng tiền.
Tuy nhiên, người dân Pháp vẫn chưa sẵn sàng từ bỏ tiền mặt. Dù trong năm 2024, thẻ ngân hàng đã vượt tiền giấy và tiền xu về mức độ phổ biến (62% so với 14%), khoảng 60% người dân vẫn coi khả năng thanh toán bằng tiền mặt là quan trọng. Các lý do phổ biến gồm: tính ẩn danh, thanh toán ngay lập tức và dễ kiểm soát chi tiêu.
Video

(Quán Tin)


   
is3 reacted
Trả lờiTrích dẫn
Trang 46 / 48
Chia sẻ: