Em lại tiếp tục!
Hệ thống Glonass
Glonass là hệ thống định vị toàn cầu dựa trên các vệ tinh trong không gian bay xung quanh trái đất, hệ thống này cung cấp các dịch vụ định vị, dẫn đường, xác định thời gian một cách tin cậy, miễn phí và dành cho tất cả mọi người trên thế giới.
Glonass được phát triển bởi Liên Xô với một số cột mốc thời gian như sau:
- 1967 – Tàu vũ trụ đầu tiên của Liên Xô mang tên “Cyclone” được phóng lên quỹ đạo - khởi đầu của hệ thống định vị quỹ đạo thấp đầu tiên của Liên Xô. Nó bao gồm bốn vệ tinh được đặt trong quỹ đạo tròn ở độ cao 1.000 km và độ nghiêng 83 độ so với mặt phẳng quy đạo và có thể cung cấp dữ liệu định với độ chính xác vài trăm mét.
- 1982 - Các chuyến bay thử nghiệm hệ thống định vị vệ tinh ở độ cao khoảng 20.000 km, được gọi là GLONASS được bắt đầu với việc phóng Kosmos-1413, Kosmos-1414 và Kosmos-1415.
- 1991 – Hệ thống Glonass được tiếp tục bởi Liên bang Nga, nước chính thức tuyên bố hệ thống hoạt động vào năm 1993 và đưa lên trạng thái tối ưu với 24 vệ tinh hoạt động vào năm 1995.
- Sau khi hoàn thành, hệ thống rơi vào tình trạng hư hỏng cùng với sự sụp đổ của nền kinh tế Nga và việc giảm tài trợ cho ngành công nghiệp vũ trụ.
- 2000 - tổng thống Vladimir Putin tập trung rót thêm nhiều kinh phí để vực lại hệ thống.
- 2007 - Tổng thống Nga Putin đã ký sắc lệnh về hệ thống định vị GLONASS cung cấp dịch vụ miễn phí cho khách hàng trên toàn cầu.
Một số phiên bản của Glonass
- GLONASS - được phóng vào năm 1982, nhằm mục đích hoạt động để định vị thời tiết, đo vận tốc và thời gian ở bất kỳ đâu trên thế giới hoặc không gian gần Trái đất của quân đội và các tổ chức chính thức.
- GLONASS-M - ra mắt năm 2003 thêm mã dân sự thứ hai, đây là dấu mốc quan trọng để các nhà khảo sát phát triển đầu thu tin hiệu vệ tinh phục vụ đo vẽ bản đồ.
- GLONASS-k - bắt đầu phục vụ năm 2011 có thêm 3 loại nữa là k1, k2 và k. Thêm tần số dân dụng thứ ba.
- GLONASS-K2 - ra mắt sau năm 2015
- GLONASS-KM - sẽ ra mắt sau năm 2025 (hiện đang trong giai đoạn nghiên cứu)
Hiệu suất làm việc của GLONASS ra sao?
So với các hệ thống vệ tinh trong GNSS, Glonass có thể nói là không thua kém về mặt kỹ thuật sau khi trải qua hàng loạt quá trình lên xuống đầy khó khăn, tổng quát như sau:
- Năm 2006, tín hiệu vệ tinh GLONASS cung cấp cho người dùng dân sự, hiệu suất đạt được chỉ khoảng 30 mét.
- Năm 2007, tổng thống Vladimir Putting đã yêu cầu toàn bộ hệ thống phải được cung cấp cho tất cả mọi người. và độ hiệu suất được tăng lên đáng kể, độ chính xác đạt tới khoảng 10 mét, nhưng vẫn kém hơn hiệu suất của GPS.
- Ngày nay, sau rất nhiều lần đầu tư nghiên cứu, cải tiến,hiệu suất làm việc của hệ thống GLONASS đã đạt tới độ chính xác ngang bằng với GPS
Một số thông tin xung quanh Glonass
- Từ năm 2011 đến năm 2020, chính phủ Nga đã đầu tư tổng cộng 15 tỷ đô và hệ thống định vị Glonass của mình
- Có 24 vệ tinh thuộc hệ thống Glonass đang hoạt động và bay xung quanh trái đất
- Chiều cao quỹ đạo của Glonass là 21150km
- Độ nghiêng so với mặt phẳng quỹ đạo là 64.8 độ
- Chu kỳ quỹ đạo của một vệ tinh là 11 giờ và 16 phút
Dịch vụ chính của GLONASS
- SPS - Standard Positioning Service - là một dịch vụ mở, miễn phí cho người dùng trên toàn thế giới - được cung cấp trong dải băng tần G1, G2.
- PPS - Precise Positioning Service - chỉ được giới hạn cho mục đích quân sự của Nga và các nước đồng minh.
Hệ thống Galileo
Gelileo là hệ thống định vị vệ tinh toàn cầu được phát triển bởi liên minh châu Âu, được điều hành, thiết kế và phát triển bởi Cơ quan GNSS Châu Âu (GSA) và Cơ quan vũ trụ châu Âu (ESA).
Đây là hệ thống định vị đầu tiên trên thế giới được sử dụng cho các mục đích dân dụng với độ chính xác cao.
Hệ thống định vị vệ tinh toàn cầu được đặt theo tên của nhà khoa học Gelileo người Ý, ông là cha đẻ của việc quan sát thiên văn học hiện đại, cha đẻ của ngành vật lý hiện đại, cũng là người khai sinh ra khoa học hiện đại.
Hiện trạng của Galileo
Các vệ tinh đầu tiên của hệ thống Galileo được phóng lần đầu tiên vào năm 2011, và đạt tới con số 26 vệ tinh vào năm 2018 và hoàn tất vào năm 2020. Hiện nay, hệ thống galileo đã bao gồm tổng cộng 30 vệ tinh bay ở độ cao 23.222km so với mực nước biển.
Các vệ tinh của Galileo được điều khiển, vận hành bởi 2 trạm mặt đất đặt tại Oberpfaffenhofen của Đức và Fucino của Ý.
Người dùng trên toàn thế giới đã có thể sử dụng tín hiệu vệ tinh Galileo vào năm 2016 trong việc xác định vị trí, chỉ đường với độ chính xác lên tới 1m. Các công ty trắc địa, đo vẽ bản đồ, xây dụng có thể sử dụng tín hiệu cao cấp hơn với độ chính xác lên tới centimet.
Đặc biệt, hệ thống Galileo còn có tính năng tìm kiếm cứu nạn bằng một hệ thống mang tên Cospas-Sarsat. Theo đó, người dùng sẽ gửi tín hiệu cầu cứu đến hiệu đến hệ thống này, và hệ thống sẽ truyền tín hiệu đó đến các trung tâm cứu hộ cứu nạn khu vực gần nhất. Nếu được truyền đi thành công, Cospas-Sarsat sẽ thông báo tới người dùng để họ yên tâm chờ đợi.
Hiện nay, chưa có thông tin nào về việc Galileo được sử dụng cho mục đích quân sự.
Dịch vụ của Gelileo
- Dịch vụ mở (Open Service – OS): Miễn phí cho tất cả mọi người
- Dịch vụ xác thực tin nhắn điều hướng mở (OS-NMA): Miễn phí cho tất cả mọi người
- Dịch vụ độ chính xác cao (HAS): Miến phí cho tất cả mọi người
- Dịch vụ xác thực tín hiệu (SAS): Dịch vụ trả phí dành cho doanh nghiệp
- Dịch vụ tìm kiếm cứu hộ cứu nạn (Sar) – một phần của Cospas-Sarsat
- Dịch vụ điều tiết công cộng (PRS) – Chỉ cung cấp cho người được các cơ quan chính phủ ủy quyền
Điểm mạnh của hệ thống Galileo
Tuy được sử dụng vào mục đích dân sự, nhưng hệ thống Galileo có hiệu suất ngang ngửa với những hệ thống định vị được phát triển chủ yếu phục vụ cho quân sự với 3 điểm nhấn được các chuyên gia công nhận:
Chính xác cao: Có tính năng định vị thời gian thực, độ chính xác cho người dùng lên tới 1m, và đạt tới hàng centimet nếu sử dụng các máy đo RTK chuyên dụng
Tin cậy: Với rất nhiều cải tiến, tín hiệu từ vệ tinh Galileo rất ổn định, tin cậy dù người dùng ở những địa hình khó khăn hiểm trở.
Tính khả dụng: Hệ thống Galileo có thể tương thích với các hệ thống khách như GPS, Glonass, giúp cho độ chính xác khi định vị được cải thiện đáng kể
Hôm rồi em lướt web xem đồng hồ thể thao, thấy một số hãng cho thông tin đồng hồ dùng tín hiệu của cả 4 hệ thống định vị gồm Mỹ Nga Âu và TQ, liệu có phải là mỗi hệ thống đơn lẻ lại yếu ở một số vùng không các cụ, có phải họ cho phép thiết bị nhận tín hiệu của cả 4 hệ thống là để nó có thể dùng ở mọi nơi không.
Em đang cân nhắc lựa chọn đồng hồ thể thao Huawei. Cụ nào dùng rồi hoặc có kinh nghiệm tư vấn cho em đc ko.
Không nên vật nhau với l*n vì bạn sẽ bị bẩn người mà con lợn nó lại thích thế
Hôm rồi em lướt web xem đồng hồ thể thao, thấy một số hãng cho thông tin đồng hồ dùng tín hiệu của cả 4 hệ thống định vị gồm Mỹ Nga Âu và TQ, liệu có phải là mỗi hệ thống đơn lẻ lại yếu ở một số vùng không các cụ, có phải họ cho phép thiết bị nhận tín hiệu của cả 4 hệ thống là để nó có thể dùng ở mọi nơi không.
Đúng rồi cụ, dùng mọi nơi và đồng hồ nó tự tổng hợp kết quả của nhiều thằng để ra kết quả định vị chuẩn.
Như hệ thống của Châu Âu chỉ có 2 trạm điều khiển và hiệu chỉnh ở Châu Âu nên các vùng khác có thể có sai số.
Hệ thống GPS thì Mỹ đặt nhiều trạm hiệu chỉnh ở nhiều điểm trên toàn cầu thì thông số hiệu chỉnh chuẩn hơn, nhưng lại phân biệt Dân sự - Quân sự.
Glonass và Beidu số trạm hiệu chuẩn cũng ít hơn nên ở những vùng xa trạm hiệu chuẩn cũng có sai số.
Trước em đọc đâu đó TQ xin đặt trạm hiệu chuẩn trên đất Mỹ mà nó đek cho
Hôm rồi em lướt web xem đồng hồ thể thao, thấy một số hãng cho thông tin đồng hồ dùng tín hiệu của cả 4 hệ thống định vị gồm Mỹ Nga Âu và TQ, liệu có phải là mỗi hệ thống đơn lẻ lại yếu ở một số vùng không các cụ, có phải họ cho phép thiết bị nhận tín hiệu của cả 4 hệ thống là để nó có thể dùng ở mọi nơi không.
Đúng rồi cụ, dùng mọi nơi và đồng hồ nó tự tổng hợp kết quả của nhiều thằng để ra kết quả định vị chuẩn.
Như hệ thống của Châu Âu chỉ có 2 trạm điều khiển và hiệu chỉnh ở Châu Âu nên các vùng khác có thể có sai số.
Hệ thống GPS thì Mỹ đặt nhiều trạm hiệu chỉnh ở nhiều điểm trên toàn cầu thì thông số hiệu chỉnh chuẩn hơn, nhưng lại phân biệt Dân sự - Quân sự.
Glonass và Beidu số trạm hiệu chuẩn cũng ít hơn nên ở những vùng xa trạm hiệu chuẩn cũng có sai số.
Trước em đọc đâu đó TQ xin đặt trạm hiệu chuẩn trên đất Mỹ mà nó đek cho
![]()
Đặt ở Mỹ đến lúc nó bắn tên lửa pha cuối chính xác tuyệt đối thì bủ mợ
Tranh thủ nghỉ lễ em lại xì pam
Hệ thống Beidu (Bắc Đẩu)
Hệ thống định vị vệ tinh Beidou - tên tiếng anh là BeiDou Navigation Satellite System, viết tắt là BDS, là hệ thống định vị vệ tinh do Trung Quốc đầu tư, xây dựng và phát triển.
Hệ thống Beidou thế hệ đầu tiên, mang tên gọi chính thức là BeiDou Satellite Navigation Experimental System hoặc Beidou 1, gồm 3 vệ tinh hoạt động từ năm 2000, chỉ có thể phủ sóng trong lãnh thổ Trung Quốc, và phục vụ chủ yếu cho Trung Quốc và khu vực, quốc gia lân cận. Beidou-1 ngừng hoạt động năm 2012.
Hệ thống Beidou thế hệ 2 mang tên chính thức là BeiDou Navigation Satellite System (BDS) hay còn gọi là COMPASS hoặc BeiDou-2 gồm 10 vệ tinh bay trên quỹ đạo, đi vào hoạt động năm 2011 và cung cấp dịch vụ cho khu vực Châu Á Thái Bình Dương.
Hệ thống Beidou thế hệ thứ 3, hay BDS-3 được phóng lên vào năm 2015, và hoàn thiện tổng số 35 vệ tinh bay xung quanh quỹ đạo trái đất vào năm 2020, chính thức cung cấp dịnh vị định vị, dần đường toàn cầu, là đối trọng của các hệ vệ tinh khác trong hệ thống GNSS: GPS, Galileo, Glonass.
Theo thời báo China Daily, tính đến năm 2015, có ít nhất 35 tỷ đô đã được đầu tư vào hệ thống định vị vệ tinh Bắc Đẩu (Beidou)
4 nguyên tắc hoạt động của hệ vệ tinh Beidou
Hệ thống BeiDou áp dụng bốn nguyên tắc cơ bản là cởi mở, độc lập, tương thích và tăng dần.
- Nguyên tắc cởi mở: Hệ thống BeiDou sẽ cung cấp dịch vụ mở chất lượng cao miễn phí cho người dùng trên toàn thế giới và giao tiếp với các quốc gia khác để tạo điều kiện phát triển công nghệ và công nghiệp GNSS.
- Nguyên tắc độc lập: Có nghĩa là Trung Quốc sẽ phát triển và vận hành hệ thống BeiDou một cách độc lập, cung cấp dịch vụ một cách độc lập cho người dùng trên toàn thế giới và đặc biệt cung cấp các dịch vụ chất lượng cao ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
- Nguyên tắc tương thích: Hệ thống BeiDou sẽ theo đuổi các giải pháp để hiện thực khả năng tương thích, tương tác với các hệ thống định vị vệ tinh khác để người dùng có thể nhận được dịch vụ tốt hơn.
- Nguyên tắc tăng dần: Dựa trên nguyên tắc tăng dần, hệ thống BeiDou sẽ đi theo mô hình từng bước phù hợp với sự phát triển kinh tế và kỹ thuật ở Trung Quốc, cung cấp các dịch vụ liên tục lâu dài cho người dùng, cải thiện hiệu suất hệ thống và đảm bảo quá trình chuyển đổi liền mạch và suôn sẻ giữa hệ thống các giai đoạn xây dựng.
Các thành phần của hệ thống định vị toàn cầu Beidou
Giống như các hệ thống định vị toàn cầu GNSS khác, hệ thống định vị vệ tinh Beidou cũng có 3 thành phần chính:
- Thành phần không gian: gồm 35 vệ tinh, trong đó có 5 vệ tinh địa tĩnh và 30 vệ tinh động.
- Thành phần mặt: đất gồm các trạm điều hành trên mặt đất được đặt tại Trung Quốc và các trạm giám sát được đặt dải rác toàn cầu.
- Thành phần người dùng: gồm tất cả các cá nhân, tập thể, doanh nghiệp được trang bị bộ thu tín hiệu định vị vệ tinh.
Một số hệ thống định vị địa phương
- Hệ thống định vị QZSS
QZSS viết tắt của Quasi-Zenith Satellite System - là một hệ thống định vị vệ tinh được phát triển bởi Nhật Bản. Mục tiêu của QZSS là cung cấp các dịch vụ định vị chính xác và ổn định cao trong khu vực Châu Á - Châu Đại Dương, tương thích với GPS và các hệ vệ tinh GNSS toàn cầu khác. Dịch vụ của QZSS được cung cấp vào năm 2018.
Sự hình thành và phát triển của QZSS
QZSS được chính phủ Nhật Bản cho phép vào năm 2002. Lúc đầu, hệ thống được phát triển bởi nhóm Advanced Space Business Corporation (ASBC), bao gồm Mitsubishi Electric Corp., Hitachi Ltd., và GNSS Technologies Inc.
Năm 2007 , khi ASBC sụp đổ, công trình được tiếp quản bởi JAXA cùng với Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Định vị Vệ tinh (SPAC), được thành lập vào tháng 2 năm 2007 và được sự chấp thuận của các Bộ trưởng liên quan đến nghiên cứu và phát triển QZSS.
Năm 2010, hoạt động đầu tiên được diễn ra với việc phóng các vệ tinh của hệ thống QZSS lên quỹ đạo. Tất cả chức năng của vệ tinh cùng trạm điều khiển mặt đất đã đi vào hoạt động và mang lại hiệu quả.
Các thử nghiệm đã chỉ ra rằng, một thiết bị thu tín hiệu vệ tinh của QZSS lẫn GPS có độ chính xác cao hơn 10% so với một thiết bị khác chỉ thu tín hiệu GPS.
Năm 2011, Chính phủ Nhật Bản đã quyết định đẩy nhanh việc triển khai QZSS để hệ thống có 7 vệ tinh trong tương lai.
Các thành phần cơ bản của QZSS
Giống như các hệ thống GNSS đang hoạt động khác, QZSS cũng có 3 thành phần:
Thành phần không gian: Tính đến thời điểm đầu năm 2021, hệ thống QZSS có tổng cộng 4 vệ tinh bay trên quỹ đạo, và đang được hoàn thiện để tới năm 2024, Nhật Bản sở hữu 7 vệ tinh trong hệ thống định vị vệ tinh QZSS.
Thành phần mặt đất: Gồm các trạm điều khiển mặt đất nhằm theo dõi, giám sát sự hoạt động của các vệ tinh, cũng như thu phát, hiệu chỉnh tín hiệu của các vệ tinh đó.
Thành phần người dùng: Người dùng khi trang bị thiết bị thu tín hiệu vệ tinh QZSS cùng các vệ tin khác có thể xác định được vị trí, thời gian, hướng đi của mình.
Ý nghĩa của QZSS
Về mặt kỹ thuật, các máy thu định vị GPS có thể xác định được tọa độ điểm khi quan sát được ít nhất 4 vệ tinh trong không gian. Tuy nhiên, số lượng vệ tinh quan sát được càng nhiều, thì tín hiệu càng ổn định, vị trí xác định được càng chính xác. QZSS đã góp phần không nhỏ giúp công tác đo đạc, khảo sát được nhanh hơn, tin cậy hơn và chính xác hơn, giúp công việc hiệu quả hơn.
- Hệ thống IRNSS
IRNSS viết tắt của Indian Regional Navigation Satellite System, là hệ thống định vị khu vực của Ấn Độ, được phát triển bởi Tổ Chức Nghiên Cứu Không Gian Ấn Độ. Hệ thống náy có tác dụng định vị, chỉ đường và một số ứng dụng chỉ giới hạn tại Ấn Độ và các khu vực lân cận nằm trong bán kính 1500km tính từ biên giới Ấn Độ.
Hệ thống dự kiến sẽ cung cấp khả năng quan sát vị trí, vận tốc và thời gian theo thời gian thực chính xác cho người dùng trên nhiều nền tảng khác nhau với khả năng cung cấp dịch vụ 24 giờ x 7 ngày trong mọi điều kiện thời tiết.
Thành phần chính của IRNSS
Cũng giống như các hệ thống vệ tinh GNSS trên toàn cầu khác, hệ thống định vị vệ tinh IRNSS của Ấn Độ cũng có 3 thành phần chính:
- Thành phần không gian: Phần không gian của IRNSS gồm 8 vệ tinh. Trong đó, 3 vệ tinh là các vệ tinh địa tĩnh tại các vị trí 34E, 83E và 131.5E, và 5 vệ tinh là các vệ tinh hoạt động trên quỹ đạo đồng bộ với trái đất (cùng độ cao với vệ tinh địa tĩnh) và cắt mặt phẳng xích đạo tại các điểm 55E và 111.5E. Các vệ tinh này sử dụng các tần số định vị tại tại tần số L5 (1164.45 – 1188.45 MHz) và tại băng tần S (2483.5 - 2500.0 MHz), sử dụng các điều chế BPSK và BOC(5,2), tín hiệu của các vệ tinh được phân biệt nhờ sử dụng công nghệ CDMA.
- Thành phần mặt đất: Thành phần mặt đất gồm các trạm điều khiển đặt tại Ấn Độ và một trạm chính Master Control Center nhằm điều khiển, định hướng, theo dõi, giám sát tính toàn vẹn, ổn định của hệ thống IRNSS
- Thành phần người dùng: Người dùng sẽ nhận được tín hiệu từ IRNSS thông qua các máy thu tín hiệu vệ tinh như điện thoại thông minh, các thiết bị chuyên dụng….., qua đó biết được vị trí, thời gian và đường đi. Các thiết bị chuyên dụng sẽ thu được tín hiệu từ nhiều hệ vệ tinh hơn, và có vị trí chính xác hơn các thiết bị cá nhân.
Hiệu suất của IRNSS
Hệ thống IRNSS hiện cung cấp hai loại dịch vụ:
- SPS - Standard Position System: Dịch vụ Định vị Tiêu chuẩn
- RS - (Dịch vụ bị hạn chế / được ủy quyền)
Cả hai dịch vụ này sẽ được cung cấp ở hai tần số, một ở băng tần L5 và một ở băng tần S (S-band)
Hệ thống này cung cấp độ chính xác vị trí tuyệt đối cao hơn 10 mét trong phạm vi biên giới Ấn Độ và tốt hơn 20 mét (66 ft) ở Ấn Độ Dương cũng như một khu vực kéo dài khoảng 1.500 km (930 mil) xung quanh Ấn Độ .
Tuy nhiên, so sánh với các hệ thống định vị vệ tinh toàn cầu khác, tín hiệu của IRNSS được cho là ổn định hơn do có tần số kép S và L.
Em đang cân nhắc lựa chọn đồng hồ thể thao Huawei. Cụ nào dùng rồi hoặc có kinh nghiệm tư vấn cho em đc ko.
Cụ đang dùng điện thoại Hoa Vĩ thì dùng luôn đồng hồ cùng hãng cho tiện.
Em lại chém tiếp
CẤU TẠO CHUNG CỦA MÁY THU ĐỊNH VỊ TOÀN CẦU (GNSS)
Các loại máy thu tín hiệu định vị GNSS được chế tạo khác nhau để phục vụ cho từng mục đích khác nhau. Hiện nay có các loại như sử dụng trong công tác đo đạc, dẫn đường, hàng hải, hàng không...với độ chính xác khác nhau, tùy thuộc vào mục đích sử dụng, giá thành của từng loại máy.
Cấu tạo của một thiết bị thu GNSS được chia ra làm các phần chính như sau:
- Anten: Hiện nay chủ yếu là anten đa hướng, tức là cùng một lúc có thể thu được tín hiệu của nhiều vệ tinh khác nhau. Chỉ tiêu quan trọng nhất của anten là tâm điện tử phải trùng với tâm hình học của nó, thêm vào đó anten phải có khả năng tự loại bỏ hoặc hạn chế được các hiện tượng đa đường dẫn.
- Bộ tần số radio: Đây là bộ phận dùng để phân loại, xử lý các tín hiệu sau khi nó vào máy thu bằng anten, căn cứ để phân loại xử lý là nhờ các C/A code. Các tín hiệu đã được sắp xếp trước thành các đơn vị riêng đối với mỗi một vệ tinh. Đơn giản, có thể hiểu bộ tần số radio được sử dụng để phân loại, tín hiệu của từng vệ tinh và duy trì việc theo dõi tín hiệu đó.
- Bộ vi xử lý: Được sử dụng để tính toán các giá trị về đo khoảng cách từ máy thu đến vệ tinh..
- Thiết bị điều khiển: Với các thiết bị được dẫn đường tự động, thiết bị điều khiển được sử dụng để phối hợp các hoạt động của máy thu, các lệnh được lập trình sẵn và được đưa vào máy thu bằng các phím chức năng, hoặc được nạp vào máy thu bằng các phần mềm ứng dụng.
- Thiết bị ghi: Dùng để lưu trữ lại các thông tin sau khi đã được xử lý, tính toán. Có các loại bộ nhớ trong và bộ nhớ ngoài.
- Nguồn năng lượng: Là bộ phận cung cấp năng lượng cho máy có thể hoạt động bình thường. Hiện nay, thường sử dụng pin AAA hoặc pin sạc điện – hoặc dùng chung nguồn với các thiết bị được tích hợp.
Các sai số ảnh hưởng đến kết quả đo đạc bằng vệ tinh
Do đặc thù các vệ tinh ở xa, khoảng cách lớn, chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khách quan nên thường xuất hiện các sai số. Các loại sai số có thể được phân theo nguyên nhân là: Sai số do vệ tinh; sai số liên quan đến sự truyền tín hiệu; sai số do máy thu.
Sai số do vệ tinh
Mỗi một vệ tinh đều được trang bị các đồng hồ điện tử có độ chính xác cao, song bản thân các đồng hồ này vẫn tồn tại các sai số nên ảnh hưởng đến kết quả đo đạc. Bởi vì bản chất của định vị toàn cầu là sử dụng thời gian chênh lệch giữa vệ tinh phát tín hiệu đi và máy thu để xác định tọa độ của các điểm.
Một loại sai số do vệ tinh đó là vệ tinh cung cấp thông tin (lịch vệ tinh) sai cho các trạm điều khiển, vận tốc vệ tinh không ổn định khi đi qua các khu vực khác nhau trên trái đất. Sự trao đổi tín hiệu giữa trạm điều khiển và vệ tinh được thực hiện theo nguyên tắc:
Thông tin phát ra từ vệ tinh để đến trạm điều khiển là t1, thời điểm trạm điều khiển nhận được thông tin là t2. Trạm điều khiển phát lại tiến hiệu và vệ tinh nhận được tín hiệu từ trạm là t3.
Căn cứ vào các thông tin truyền về của vệ tinh; trạm điều khiển sẽ tính toán và cho biết tại thời điểm t1, tọa
độ của vệ tinh là ở đâu và tại t3 (là khoảng thời gian để vệ tinh nhận được tín hiệu từ trạm điều khiển) tọa độ sẽ là ở đâu. Tuy nhiên, do các yếu tố khách quan, có thể tại thời điểm t3, vệ tinh chưa tới hoặc đi quá vị trí đã được dự đoán trước.
Sai số liên quan đến sự truyền tín hiệu
Sai số do sóng điện từ truyền qua tầng khí quyển.
Loại sai số này do ảnh hưởng của môi trường truyền tín hiệu; Trong không gian có tầng Đối lưu (ở khoảng cách từ 0km đến 50km) và tầng Điện ly (ở khoảng từ 50km đến 100km). Không khí trong tầng đối lưu chuyển động theo các chiều thẳng đứng và nằm ngang rất mạnh làm cho nước thay đổi cả 3 trạng thái (rắn-lỏng-khí), gây ra hang loạt quá trình thay đổi vật lý. Những hiện tượng mưa, mưa đá, gió, tuyết, sương giá, sương mù,... đều diễn ra ở tầng đối lưu. Trong khi đó ở tầng điện ly, ôxy và nitơ ở tầng này ở trạng thái ion, sóng vô tuyến phát ra từ một nơi nào đó trên vùng bề mặt Trái đất phải qua sự phản xạ của tầng điện li mới truyền đến các nơi trên thế giới. Tại đây, do bức xạ môi trường, nhiều phản ứng hóa học xảy ra đối với ôxy, nitơ, hơi nước, CO2...chúng bị phân tách thành các nguyên tử và sau đó ion hóa thành các ion như NO+, O+, O2+, NO3-, NO2-...và nhiều hạt bị ion hóa phát xạ sóng điện từ khi hấp thụ các tia mặt trời vùng tử ngoại xa. Do sự tồn tại của các ion cũng như các electron tự do, các loại bụi khí quyển là cho sóng khi truyền từ vệ tinh đến các máy thu, trạm điều khiển bị sai lệch.
Sai số do hiện tượng đa đường truyền tín hiệu.
Thực chất tín hiệu truyền trong không gian đến máy thu theo mọi hướng. Trong trường hợp lý tưởng, tín hiệu từ vệ tinh đến máy thu truyền theo một đường thẳng. Tuy nhiên, do trên mặt đất có các vật thể, công trình…. có khả năng phản xạ sóng cao, nên một số tín hiệu khi gặp các vật thể này sẽ phản xạ tín hiệu đi các hướng khác nhau, sau đó sẽ đi vào máy thu. Như vậy, cùng một thời điểm, máy thu sẽ nhận được nhiều hơn 1 sóng tín hiệu vệ tinh – được hiểu như sóng cùng 1 mã lại nhận được từ nhiều hướng khác nhau với các thời điểm khác nhau; từ đó làm ảnh hưởng đến kết quả đo đạc.
Các tín hiệu phản xạ thường yếu hơn tín hiệu truyền thẳng vì một phần năng lượng bị các vật khác hấp thụ và vì thường đi một quãng đường xa hơn sóng chính.
Để khắc phụ loại sai số này, có thể sử dụng các bộ lọc nhiễu bằng phần cứng hoặc phần mềm. Ngoài ra, khi sử dụng GNSS cố gắng tránh các khu vực có nhiều công trình có khả năng phản xạ sóng điện từ cao. Hoặc khi bắt buộc phải sử dụng tại các khu vực đấy thì chấp nhận kết quả định vị sẽ có sai số lớn hơn bình thường.
Sai số liên quan đến máy thu.
Bản thân máy thu GNSS cũng có thể là nguyên nhân gây ra các loại sai số; các loại sai số này bao gồm sai số do đồng hồ máy thu; sai số do tọa độ của các trạm điều khiển; sai số do định tâm, cân bằng máy thu….
Nguyên tắc của hoạt động của hệ thống định vị toàn cầu là sử dụng sự chênh lệch thời gian để tính toán ra khoảng cách. Tuy nhiên, đồng hồ trong máy thu cũng tồn tại các sai số do các yếu tố như điều kiện khí hậu, bảo quản, nguyên liệu chế tạo...nên không thể đồng bộ hóa với đồng hồ của vệ tinh. Việc tính toán sự chênh lệch sẽ không chính xác, từ đó dẫn đến sai số trong quá trình đo đạc.
Mặt khác, tọa độ của máy thu được xác định dựa trên tọa độ của vệ tinh; trong khi đó tọa độ vệ tinh lại được xác định dựa vào tọa độ của các trạm điều khiển. Tuy nhiên, tọa độ trạm điều khiển cũng không hoàn toàn chính xác, do chịu sai số bởi hình dạng trái đất và các loại sai số do dụng cụ đo đạc, chính vì vậy nó sẽ ảnh hưởng đến kết quả định vị bằng GNSS.
Ngoài ra, nguyên tắc định vị của máy GNSS, đặc biệt là trong công tác định vị tương đối đòi hỏi máy thu cần phải được định tâm, cân bằng chính xác, tuy nhiên do địa hình và kỹ năng của người sử dụng nên sẽ dẫn đến sai số khi định vị.