Hội nghị Ukraine ở Thụy Sĩ: Không có Nga, không có Trung Quốc, không có ý định hòa bình
Đó là tên bài báo của báo điện tử NachDenkSeiten đăng ngày 30.04.2024.
Tác giả: Artur Leier. Ông bắt đầu sự nghiệp chính trị của mình vào năm 2015 với vai trò trợ lý nghiên cứu, tập trung vào quan hệ quốc tế tại quốc hội bang của Hamburg và sau đó là Quốc hội Đức. Ông có kinh nghiệm nhiều năm trong việc tổ chức và điều hành các phái đoàn chính trị tới Nga cũng như các chuyến đi tác nghiệp báo chí đến vùng xung đột Ukraine. Gần đây, ông chủ yếu làm việc với tư cách là một nhà báo và viết các bài báo tập trung vào chính sách đối ngoại và nước Nga.
Dưới đây là toàn bộ bài báo (do Hồ Ngọc Thắng chuyển ngữ).
Bất chấp những nỗ lực tuyệt vọng của Thủ tướng Đức Olaf Scholz trong chuyến thăm Trung Quốc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không quan tâm đến hội nghị Ukraine ở Thụy Sĩ. Đây là dấu hiệu cho thấy tình trạng ngoại giao của phương Tây và đặc biệt là của Đức. Cộng hòa Liên bang Đức đang thất bại và ngày càng trở nên vô nghĩa trong chính sách đối ngoại.
Trong chuyến thăm Trung Quốc của Olaf Scholz, Ukraine một lần nữa là chủ đề chính từ phía Đức. Ở đây cũng vậy, đã có quan điểm một chiều về Ukraine, hoàn toàn trái ngược với lợi ích của Đức và sử dụng lối hùng biện cuồng loạn với những lời lên án gay gắt đối với Nga, điều này tiếp tục đốt cháy một số cây cầu còn lại giữa Đức và Nga và đặt Cộng hòa Liên bang Đức rõ ràng vào phe của những kẻ thù tự xưng của Nga.
Trung Quốc kiên trì chính sách đối ngoại của mình
Bản thân Thủ tướng cũng tuyên bố: “Lời nói của Trung Quốc có trọng lượng ở Nga”. Sự xuất hiện của Scholz tại Trung Quốc một lần nữa chứng minh tại sao Berlin không còn ảnh hưởng gì ở Moscow. Trong vòng vài năm, danh tiếng của Đức, trên khắp thế giới, đã rơi từ vị thế của một nhà hòa giải trung thực xuống vị thế của một kẻ kích động hung hãn cho một chế độ tham nhũng không liên quan gì đến Đức, EU hay NATO - nếu người ta nhìn vào thực tế ở Kiev tì thấy, không liên quan gì đến dân chủ, tự do và nhân quyền. Tuy nhiên, điều quan trọng đối với Berlin là phải bảo vệ những giá trị không tồn tại này ở Ukraine đến nỗi họ thậm chí đang phá hủy nền kinh tế và an ninh năng lượng của chính mình khi làm như vậy.
Do tầm quan trọng của Đức ngày càng mất đi, lựa chọn duy nhất còn lại mà Thủ tướng có thể đưa ra là yêu cầu mơ hồ và tuyệt vọng với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình để "tác động đến Nga" và nỗ lực thuyết phục Trung Quốc tham gia hội nghị Ukraine ở Thụy Sĩ, diễn ra vào tháng 6. Chúng ta thấy những nỗ lực trên tài khoản của Olaf Scholz đăng trên nền tảng X và trên báo chí Đức nhằm trình bày các cuộc nói chuyện cứ như thể là Trung Quốc đang cân nhắc việc tham gia hội nghị này và ít nhất là "ủng hộ" nó.
Tuy nhiên, đây chỉ là chiêu trò tu từ và thủ đoạn nhỏ, bám vào từng lời nói của phía Trung Quốc như cọng rơm cứu mạng. Vì người Trung Quốc vẫn hiểu ngoại giao và không nói “không” một cách cứng rắn nên một số người ở Đức đã nghĩ ra “có thể” (như đã được nêu trên tờ báo Tagesspiegel đăng ngày 16/4). Trên thực tế, các tuyên bố đã đủ rõ ràng, bất chấp mọi phong tục ngoại giao.
Chủ tịch Trung Quốc cho biết Trung Quốc đang “thúc đẩy các cuộc đàm phán hòa bình theo cách riêng của mình” và chỉ ủng hộ một hội nghị hòa bình được Nga và Ukraine, tức là cả hai bên trực tiếp tham gia cuộc xung đột, chấp nhận. Vì Nga không được mời tham dự hội nghị vào tháng 6 và có thể sẽ nhằm mục đích nhắc lại lập trường chống Nga của phương Tây nên sẽ không có sự tham gia của Trung Quốc.
Đức và EU không có chính sách đối ngoại của riêng mình
Người ta có thể nói rằng Tập Cận Bình và Olaf Scholz nói về những điều khác nhau bởi vì họ thực hiện chính sách đối ngoại ở các cấp độ khác nhau. Trung Quốc theo đuổi chính sách đối ngoại có chủ quyền ở cấp độ địa chính trị cao nhất, cũng như các quốc gia như Nga và Mỹ. Đức và EU tự đặt mình ở vị trí thấp hơn một bậc - với tư cách là tác nhân gián tiếp cho lợi ích đế quốc của Hoa Kỳ và nguồn tài chính xuyên quốc gia của nó. Do đó, Thủ tướng Đức đã có thể nỗ lực mang lại điều kiện tốt hơn cho các công ty Đức ở Trung Quốc, nhưng ông không được coi là một đối tác đàm phán nghiêm túc khi đề cập đến chính sách đối ngoại.
Điều đó không phải lúc nào cũng như vậy. Chỉ gần 20 năm trước, Gerhard Schröder và Jacques Chirac mới có thể đoàn kết nói “không” một cách rõ ràng chống lại cuộc chiến tranh Iraq, bất chấp mọi áp lực từ Anh và đặc biệt là Hoa Kỳ và cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, từ các phương tiện truyền thông xuyên Đại Tây Dương, muốn Pháp và Đức tham gia sâu nhất có thể vào cuộc chiến tội phạm này, được phát động với lý do vũ khí hủy diệt hàng loạt và thực sự được tiến hành vì dầu mỏ và các lợi ích chiến lược ở Trung Đông.
Vì vậy, ở một mức độ nào đó, một số chuyên gia cho rằng EU cần phát triển chính sách đối ngoại của riêng mình, là đúng. Điều quan trọng là nó có ý nghĩa gì và người phải xem xét kỹ. Bởi vì khi đảm nhận “trách nhiệm” thường được nhắc đến thì nên thận trọng. Nó thường là về việc thực thi chính sách đế quốc của phương Tây ở một khu vực khi Hoa Kỳ đang bận rộn với một khu vực khác.
Đây chính xác là những gì có thể quan sát thấy trong trường hợp của Ukraine. Khi Hoa Kỳ đang dần rút khỏi Ukraine vì phải tập trung vào Trung Quốc, chúng ta ngày càng nhận được nhiều thông tin từ Brussels rằng châu Âu hiện phải hỗ trợ Ukraine. Tuy nhiên, cấu trúc tân tự do của EU không phải là Châu Âu, và các quan chức ở Brussels không lên tiếng thay mặt người dân Châu Âu. Người ta không cần phải mong đợi bất kỳ sự cải thiện nào từ chính sách đối ngoại “của riêng” EU. Câu trả lời nằm ở những thay đổi tích cực ở cấp độ quốc gia. Khi các quốc gia như Đức và Pháp bắt đầu theo đuổi chính sách đối ngoại có chủ quyền trở lại, lợi ích của chính họ sẽ lại được thể hiện. Việc nói “không” với cuộc chiến tranh Iraq cho thấy điều này là có thể xảy ra.
Sau đó, chúng ta có thể mong đợi những sáng kiến hòa bình trung thực từ Đức một lần nữa thay vì những nỗ quá rõ ràng của Thủ tướng Đức nhằm gây chia rẽ giữa Bắc Kinh và Moscow. Khi đó, các ngoại trưởng Đức, không có chính sách đối ngoại nữ quyền hay nam tính, sẽ lại được coi trọng và đối xử bình đẳng, thay vì làm tổn hại đến danh tiếng của Đức trên toàn thế giới. Điều này không có nghĩa là lợi ích của người dân sẽ luôn luôn hoặc thậm chí thường đi trước lợi ích của tư bản, nhưng một chính sách thực dụng khách quan vì lợi ích của quốc gia dân tộc sẽ là một sự cải thiện to lớn.
Sự từ chối tham gia ngoại giao của phương Tây gây tổn hại cho giới thân phương Tây
Cần lưu ý rằng ngoại giao phương Tây chủ yếu góp phần làm suy yếu “bên phía vì hòa bình” trong giới có ảnh hưởng chính trị ở Nga. Niềm tin cốt lõi của họ rằng ngoại giao phải thắng, chứ không phải quân sự, ngày càng trở nên kém bền vững và ngày càng xa rời thực tế vì việc NATO và các căn cứ quân sự của Mỹ hung hãn bao vây Nga.
Ngay cả sau khi Ukraine leo thang chuẩn bị chiến tranh chống lại Cộng hòa Nhân dân Donbass và cuộc xâm lược Ukraine sau đó của Nga, vẫn có đủ cơ hội để nhanh chóng trở lại hòa bình. Trên thực tế, đã có những cuộc đàm phán ngay lập tức giữa các nhà đàm phán Nga và Ukraine tại Belarus và sau đó có tiến triển vượt bậc nhờ sự hòa giải của Thổ Nhĩ Kỳ. Có lẽ đây là cơ hội cuối cùng để bên phía vì hòa bình - hoàn toàn thân phương Tây - ở Moscow áp đặt ý tưởng của mình vào Điện Kremlin. Thay vào đó, các cuộc đàm phán đã đơn phương bị cắt đứt theo yêu cầu của phương Tây, và với mỗi tháng diễn ra chiến tranh, bên phía vì hòa bình này cũng ngày càng nhận thức được rằng phương Tây sẽ chỉ chấp nhận một thất bại hoàn toàn và cuối cùng là sự tiêu diệt Nga.
Điều này gây ra thiệt hại lâu dài cho danh tiếng của các quốc gia Tây Âu lớn và do đó cả EU ở Moscow. Hoa Kỳ đã quen với một cuộc xung đột địa chính trị gay gắt và cả hai bên đều không mang lại lợi ích gì cho nhau trong Chiến tranh Lạnh. Tuy nhiên, cuối cùng chủ nghĩa thực dụng trong hoạt động của người Mỹ thường chiếm ưu thế và một thỏa thuận đã được đưa ra. Tuy nhiên, nhận thức về Tây Âu lại khác, và các thế lực có ảnh hưởng ở Moscow đương nhiên coi mình là một phần của châu Âu. Không có gì bí mật rằng bản thân Putin là một người cởi mở với Đức và nói tiếng Đức tốt. Bài phát biểu của ông tại Quốc hội Đức năm 2001 là sự thể hiện trung thực nhất thái độ của ông vào thời điểm đó.
Bây giờ thân phương Tây, thân châu Âu hay thân Đức không giống nhau, nhưng hiếm có tổng thống nào ở Nga có khuynh hướng thân phương Tây như Putin - vì thế mà ông không ngừng nỗ lực tìm kiếm thỏa thuận, cả trong các cuộc gặp với Tổng thống Mỹ George Bush Jr. và với Thủ tướng Angela Merkel. Và ảnh hưởng của giới thân phương Tây ở Điện Kremlin cũng rất lớn. Với chính sách phản ngoại giao của mình, phương Tây đã biến một tổng thống như vậy thành đối thủ, thậm chí là kẻ thù. Bởi vì suy cho cùng, Putin là một chính khách và, bất chấp mọi thiện cảm chủ quan của mình, ông luôn quan tâm đến lợi ích khách quan của người dân.
Đây chính xác là lý do tại sao các nhóm chống phương Tây không đồng nhất về mặt ý thức hệ và chính sách đối nội ở Mátxcơva đã có thể chiến thắng và chỉ ra rằng họ luôn nói như vậy: Phương Tây đã mục nát về mặt chính trị, kinh tế và xã hội và thậm chí cả bề ngoài tươi đẹp trước đây phần lớn đã sụp đổ.
Điều khiến mọi việc trở nên khó khăn hơn đối với châu Âu hay EU là không có chính sách độc lập và phụ thuộc trực tiếp vào Mỹ. Vì vậy, Nga phải định hướng chính sách liên minh của mình về phía đông và phía nam. Đây hiện là lối suy nghĩ chủ đạo ở Moscow do phương Tây từ chối tham gia vào các hoạt động ngoại giao và chính trị quyền lực thiển cận mà không tính đến những hậu quả lâu dài.
Ngoại giao đòi hỏi tư duy dài hạn và kiến thức về lịch sử
Tất cả những điều này đang diễn ra trong bối cảnh những trải nghiệm thảm khốc vào những năm 1990. Sau khi Liên Xô sụp đổ, phương Tây vẫn tiếp tục duy trì và thậm chí leo thang chính sách chống Nga. Sự cai trị của Chế độ quyền lực tập trung (nguyên bản: Oligarchie) Yeltsin được ủng hộ tích cực, của cải quốc gia bị cướp bóc và phần lớn cuối cùng nằm ở các ngân hàng phương Tây. Mọi thứ được quảng cáo là tự do, dân chủ và kinh tế thị trường trên thực tế đều trái ngược với những gì đã hứa.
Điều này dẫn đến sự mất lòng tin lâu dài vào các chính trị gia và tư tưởng tự do trong người dân cũng như mong muốn có một bàn tay mạnh mẽ, hữu hình để đảm bảo trật tự, thay vì bàn tay vô hình của thị trường gây hỗn loạn và bán tháo đất nước. Thái độ của phương Tây được coi là cách nói nhẹ đi trong tuyên truyền của Liên Xô về chủ nghĩa đế quốc phương Tây. Một người đã trải qua hoặc sống sót ở phương Tây chỉ chấp nhận sự khuất phục hoàn toàn và chỉ hiểu được ngôn ngữ của sức mạnh. Có vẻ như là một sự giễu cợt khi thời điểm này tiếp tục được miêu tả một cách tích cực trong những đánh giá của phương Tây và những người theo chủ nghĩa tự do ở Nga. Đây cũng là lý do tại sao phe đối lập thân phương Tây ở Nga ngày nay trở nên vô nghĩa và chỉ nhằm tạo ra những hình ảnh và “ngọn hải đăng hy vọng” cho tuyên truyền của phương Tây.
Vậy nếu Vladimir Putin thắng mọi cuộc bầu cử tổng thống ngày càng rõ ràng và kết quả càng cao thì áp lực từ bên ngoài càng mạnh, thì đó là do kinh nghiệm của nhân dân Nga về ngày xưa và hôm nay. Điều này bao gồm ký ức sống động của những năm 1990, nhưng trên hết là chính sách chống Nga hiện tại của phương Tây. Nếu Cộng hòa Liên bang, quên đi lịch sử, và rồi lại kích động chống lại Nga và gửi xe tăng Đức đến Ukraine, thì điều này cũng bao gồm cả lễ kỷ niệm lịch sử về Chiến tranh thế giới thứ hai. Với những chính sách của mình, phương Tây chỉ đạt được mục tiêu là người dân Nga đoàn kết đứng sau Putin. Ông cũng giúp biến Nga và Trung Quốc thành đồng minh chiến lược.
Do đó, một hội nghị Ukraine ở Thụy Sĩ mà Nga không được mời tham dự không có ý định thực sự vì hòa bình. Nó không thuyết phục được những ai chưa bị thuyết phục, và trên thực tế đây chỉ là những chế độ của “tập thể phương Tây” phụ thuộc trực tiếp vào Hoa Kỳ. Nhưng nó một lần nữa cho người dân Nga thấy rằng chỉ có sự thất bại hoàn toàn và sự khuất phục mới được đưa ra. Điều này cũng thiển cận như tình hình chính trị sau sự sụp đổ của Liên Xô. Điều này chỉ có nghĩa là phe đối lập hữu cơ ở Nga, từ cánh tả sang cánh hữu, luôn phản đối phương Tây một cách kiên quyết và lâu dài. Sự tính toán thực sự cho điều này sẽ đến sau, sau thời của Vladimir Putin.
Một số người sau đó sẽ hoài niệm nhớ về vị tổng thống Nga thân Đức. Các chuyên gia và sử gia Nga sẽ chỉ ra rằng phương Tây đã thất bại trong việc chinh phục hoặc tiêu diệt Nga vào khoảng năm 2000, lẽ ra phải nhận ra điều này và sau đó có 30 năm để biến đế chế khổng lồ này trở thành đối tác bình đẳng. Với tư cách là trung tâm đế quốc đằng sau đại dương, Hoa Kỳ sẽ có thể khẳng định mình là nhân tố quyền lực trong thời gian dài hơn, ngay cả khi nước này đang sống trong tình trạng xã hội lạc hậu. Tuy nhiên, Cộng hòa Liên bang Đức phi công nghiệp hóa sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi chính sách về Nga. Các công dân Đức trong tương lai sẽ lặng lẽ phàn nàn về chính sách đối ngoại tự sát vào thời điểm này trong khi họ đạp xe chạy quanh các tuabin gió và tìm kiếm các chai không đã trả lệ phí ngay khi mua nước uống và nhiên liệu.
Bản quyền ảnh minh họa: Shutterstock / Michael Derrer Fuchs
Đường link của bài báo: