Lịch sử ngôi đền bắt đầu vào năm 1905, khi quan đẩu tỉnh Thủ Dầu Một là Ernest Outrey đã ra lệnh làm cấp tốc một ngôi nhà bằng gỗ dựa theo kiểu thức ngôi nhà truyền thống Nam kỳ, sau đó chuyên chở bằng tàu đem qua Pháp để tham dự cuộc triển lãm Colonial Exhibition Marseille tổ chức vào năm 1906.
Triển lãm Thuộc địa Marseilles năm 1906 là triển lãm thuộc địa thứ ba được tổ chức tại Pháp, sau triển lãm của Rouen năm 1896 và Rochefort-sur-Mer năm 1898.
Kế hoạch chung của triển lãm được vẽ bởi kiến trúc sư trưởng của thành phố. Khoảng 50 cung điện hoặc gian hàng sẽ mọc lên ở hai bên của một con hẻm lớn ở trung tâm với những hàng cây bắt đầu từ bùng binh Prado. Một nhà kính lớn có kích thước dài 40 m và rộng 10 m, được xây dựng gần lối vào chính và trồng những loại cây lạ để trang trí (hoa lan, cây cọ, dứa dại, huyết dụ, v.v.) hoặc cho mục đích kinh tế (cây cà phê, ca cao, cao su,…). Sử dụng chủ yếu vật liệu nhẹ, có thể tháo rời và phục hồi được.
Ngôi nhà Nam kỳ (tiền thân của Nghĩa sĩ miếu) trong khuôn viên Triển lãm Thuộc địa Marseilles năm 1906.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Năm 1907, chính quyền Pháp đem công trình đến triển lãm lần thứ hai trong khu vườn Thuộc địa ở ngoại ô Paris. Ngôi đền nằm tại vị trí này cho đến nay.
Ngôi nhà Nam Kỳ trong vườn Thuộc địa (Jardin colonial de Nogent-sur-Marne)
Sáng tai họ, điếc tai cày
Trong chiến tranh thế giới thứ Nhất, nhiều người Đông Dương đã tùng chinh sang nước Pháp làm lính hoặc làm thợ, trong đó chủ yếu là người Việt Nam. Khi kết thúc chiến tranh đã có hơn 1.500 lính, thợ Việt Nam hy sinh. Chính phủ Pháp muốn dành một phần trong Vườn thuộc địa để xây dựng một đài tưởng niệm các binh sĩ Việt Nam trận vong. Chính phủ Pháp giao việc xây dựng miếu cho Thống sứ Bắc Kỳ cùng thu xếp đồ vật thờ cúng và các hạng biển ngạch, liễn đối để trần thiết. Thống sứ Bắc Kỳ báo cho Tòa Khâm sứ, viên Khâm sứ mới bàn với bề tôi Cơ mật viện dâng tờ tâu xin giao cho bộ Lễ bàn bạc thi hành, lại xin ban cho một đạo sắc văn gởi tới đặt trong Nghĩa sĩ miếu để an ủi hồn thiêng.
Sắc văn có nội dung: “Đại Nam hoàng đế sắc ban cho lính chiến, lính thợ qua Tây: Ngày trước vâng lời dụ của trẫm ứng mộ qua quý quốc, có người làm việc lập công không nề lao khổ, có người cầm gươm khoác giáp dũng cảm xông lên, nhiệt thành với lân bang, hết lòng trong nghĩa vụ, không may mà chết. Người đời từ trước ai không chết, chết vì việc nước chết cương thường là chết được đúng chỗ, chết có tiếc gì. Nhưng hồn côi đất lạ, thân quyến ngóng trông, nhắc tới việc ấy, trẫm rất thương xót. Nay võ công cáo thành, lập đền kỷ niệm ở quý quốc để thờ cúng, linh sảng ngàn thu nhờ đó được cúng tế tiếc thương. Anh hùng muôn thuở ngang qua nơi ấy ngẫm nghĩ nhớ nhung, nếu có thiêng thì nơi chín suối cũng được an ủi. Kính thay!”
Sắc dụ của Khải Định ban cho đền
Rước sắc vào thờ trong miếu trong lễ khánh thành ngày 09/06/1920
Sáng tai họ, điếc tai cày
Sau khi công việc xây dựng hoàn tất, Bộ Thuộc địa gửi điện văn cho Phủ Toàn quyền Đông Pháp chuyển cho Tòa Khâm sứ Trung Kỳ hội thương báo cho Cơ mật viện biết để tâu lên vua xin chỉ. Vua Khải Định sai Thự Tổng đốc lãnh Tuần phủ Quảng Ngãi là Đặng Ngọc Oánh làm Khâm mệnh qua nước Pháp dự lễ khánh thành Nghĩa sĩ miếu. Khi đi ông đem theo đạo sắc văn của vua Khải Định ban cho các hương hồn chiến sĩ trận vong vì nước Pháp. Sắc văn được rước vào đặt trong Nghĩa sĩ miếu để an ủi hồn thiêng. Ngoài Khâm mệnh Đặng Ngọc Oánh còn có đại biểu xứ Nam Kỳ là Lê Quang Liêm.
Sứ thần triều đình An Nam Đặng Ngọc Oánh đọc diễn văn.
*** Thự Tổng đốc: Tổng đốc tạm quyền.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Tin tức về lễ khánh thành Nghĩa sĩ miếu (Temple ᴅu Souvenir Indochinois) đăng trên tờ Le Monde illustré, số ra ngày 19/06/1920
Sáng tai họ, điếc tai cày
Thống chế Joffre và Bộ trưởng Thuộc địa A. Sarraut đến dự lễ.
Thống chế Joffre, Bộ trưởng Thuộc địa A. Sarraut và ông Đặng Ngọc Oánh, đại diện triều đình Huế.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Nghĩa sĩ miếu được xây dựng theo quy chế đền thờ An Nam. Miếu gồm ba gian, hai chái, to lớn và tráng lệ. Bàn thờ gian giữa đặt di ảnh của Anh Duệ hoàng thái tử (Hoàng tử Cảnh), bàn thờ gian bên trái thờ lính chiến trận vong (đều có danh sách), có ảnh chân dung của phi tướng Đỗ Hữu Vị đặt ở đó. Ngoài ra người Cao Miên, Ai Lao trận vong cũng được thờ chung phía dưới. Bàn thờ gian bên phải thờ lính thợ trận vong.
Đỉnh đồng trước miếu
Sáng tai họ, điếc tai cày
Phi tướng Đỗ Hữu Vị, người có ảnh thờ trong miếu
Đỗ Hữu Vị (1883–1916) là một phi công người Việt phục vụ trong Quân đội Pháp, dẫn đầu các chuyến bay trinh sát đầu tiên ở Ma-rốc trong Thế chiến thứ nhất. Ông lập nhiều công tích và được chính phủ Pháp tặng thưởng huân chương Bắc Đẩu Bội tinh ngũ đẳng (Chevalier de la Légion d'honneur).
Đỗ Hữu Vị là con út của Tổng đốc Đỗ Hữu Phương (một trong tứ đại phú hộ Sài Gòn xưa - Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Định). Ông từng học tại trường Lasan Taberd ở Sài Gòn, sau được cha gửi sang Paris, Pháp cùng các anh trai để theo học trung học tại các trường Janson-de-Sailly và trường Louis Le Grand.
Năm 1904, ông dự thi và trúng tuyển vào Trường Võ bị Saint-Cyr. Ngay ở những kỳ thi đầu tiên, ông đã tỏ ra là người xuất chúng. Sau khi tốt nghiệp vào năm 1906 với quân hàm Thiếu uý, ông gia nhập trung đoàn Lê dương Pháp tới Ma-rốc.
Ông mất ngày 9 tháng 7 năm 1916, trong một cuộc tấn công quân Đức tại mặt trận sông Somme. Năm 1920, ông Clémenceau, lúc đó là Bộ trưởng Bộ Chiến tranh, đã ban hành một đặc quyền cho phép chuyển thi hài ông về An Nam.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Bốn phía có chấn song nghi trượng. Có hai cặp liễn đối sơn son thếp vàng treo trên cột miếu, cặp thứ nhất: “Dữ liệt cường tứ tải đằng danh, xả sanh thủ nghĩa/ Cử toàn Việt tam kỳ ứng mệnh, hứa quốc dĩ thân (Bốn năm cùng liệt quốc vang danh, bỏ mình giữ nghĩa/ Ba kỳ khắp Việt Nam ứng mệnh, vì nước trao thân); Cặp liễn thứ hai: “Nghĩa trọng giao lân, tráng chí tại sinh tử tồn vong chi ngoại/ Thân quy dị vực, trung hồn do huân cao thê sản kỳ gian” (Nghĩa trọng bang giao, chí mạnh ngoài việc mất còn sống chết/ Thân về cõi lạ, hồn trung còn nơi cúng tế tiếc thương).
Cặp liễn Dữ liệt cường tứ tải đằng danh, xả sanh thủ nghĩa/ Cử toàn Việt tam kỳ ứng mệnh, hứa quốc dĩ thân
Sáng tai họ, điếc tai cày
Trước Nghĩa sĩ miếu dựng thêm rạp hoa, bên trong miếu bày đủ hương đèn tự khí, ngoài đặt chuông trống và treo cờ các màu, lễ nhạc có một nửa tham chước tục lệ Á Đông.
Bức trướng đề mấy chữ "Dương danh vạn cổ" và "Vạn cổ (nghĩa??) trung"
Sáng tai họ, điếc tai cày
Cạnh Nghĩa sĩ miếu lại xây Nghĩa sĩ đài để kỷ niệm những người Đông Dương theo Thiên Chúa giáo trận vong, trên đó có ghi tên họ rõ ràng, có thể đọc được. Trên Nghĩa sĩ đài có dòng chữ Pháp: “AUX INDOCHINOIS CHRÉTIENS MORTS POUR LA FRANCE” (Tưởng niệm những người Công giáo Đông Dương chết vì nước Pháp).
Đài tưởng niệm riêng dành cho các tử sĩ Đông Dương theo Công giáo được xây dựng gần phía góc phải của Nghĩa sĩ miếu
Sáng tai họ, điếc tai cày




































