“Quân đội ta là một quân đội anh hùng. Quân đội ta đã phát triển từ nhỏ đến lớn, từ không đến có, từ yếu đến mạnh." - Hồ Chủ tịch
Sáng tai họ, điếc tai cày
Dân tộc anh hùng, nhân dân anh hùng đã sinh ra một quân đội anh hùng. Được Đảng và Hồ Chủ tịch tổ chức, lãnh đạo, giáo dục, quân đội ta sinh ra và lớn lên trong cao trào cách mạng của toàn dân. Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Tên gọi “Quân đội nhân dân” là do Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt với ý nghĩa “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân phục vụ”, “sẵn sàng chiến đấu hy sinh “vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân”. Tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam là Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, đội quân chủ lực đầu tiên được thành lập ngày 22 tháng 12 năm 1944 theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Mấy chục năm qua, được Đảng và Hồ Chủ tịch lãnh đạo, giáo dục, được toàn dân thương yêu, đùm bọc, quân đội ta đã phát triển từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, trưởng thành nhanh chóng và chiến thắng vẻ vang. Các đội quân tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam đã góp phần cùng với toàn dân lật đổ ách thống trị của đế quốc Nhật, Pháp, làm Cách mạng tháng Tám thắng lợi, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương tức Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay ra đời. Lịch sử dân tộc Việt Nam bước sang một giai đoạn mới: giai đoạn cách mạng Việt Nam do giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo.
Ngay khi mới thành lập, với bản Chính cương vắn tắt của Hội nghị hợp nhất (2-1930) và bản Luận cương chính trị của Hội nghị lần thứ nhất của Trung ương (10-1930), Đảng ta đã vạch ra đường lối cách mạng đúng đắn và nêu rõ nguyện vọng của giai cấp công nhân và nhân dân Đông Dương. Đó là làm "cách mạng tư sản dân quyền" do giai cấp công nhân lãnh đạo, tức là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ đế quốc Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập và xóa bỏ chế độ phong kiến, đem lại ruộng đất cho nông dân, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Đảng ta cũng đã vạch ra phương pháp cách mạng đúng đắn để nhân dân ta có thể đánh đổ ách thống trị của đế quốc Pháp. Đó là con đường phát động quần chúng đấu tranh giai cấp, lãnh đạo quần chúng từ đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị, tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay công nông, dựng nên nền chuyên chính dân chủ nhân dân và xây dựng xã hội mới.
Tập sách: “Luận cương chính trị” của Đảng Cộng sản Đông Dương do đồng chí Trần Phú khởi thảo và được Hội nghị Trung ương tháng 10 -1930 thông qua, được in và phổ biến bí mật tại Hà Tĩnh cuối năm 1930.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Ngay khi mới thành lập, Đảng đã phát động quân chúng gây thành một cao trào đấu tranh cách mạng rộng lớn trong những năm 1930 - 1931.
Mở đầu phong trào quần chúng do Đảng lãnh đạo là những cuộc bãi công của 3.000 công nhân đồn điền Phú Riềng (2-1930), của 4.000 công nhân nhà máy sợi Nam Định (3-1930), của 400 công nhân nhà máy diêm và nhà máy cưa Bến Thủy (4-1930). Các cuộc đấu tranh từ nhà máy lan dần về nông thôn. Nhiều cuộc mít tinh, biểu tình thị uy, chống bắt phu, chống thu thuế, bãi chợ, bãi công... nổ ra ở nhiều địa phương. Phong trào đấu tranh của quần chúng công nhân và nông dân tiếp tục phát triển và lan rộng khắp cả, nước. Tính chất của phong trào là đấu tranh chính trị.
Đỉnh cao nhất của phong trào đấu tranh quần chúng năm 1930-1931 là Xô-viết Nghệ-Tĩnh.
Cuộc biểu tình ngồi của công nhân cao su đồn điền Phú Riềng
Sáng tai họ, điếc tai cày
Ngày 1 tháng 5 năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, hòa nhịp với phong trào toàn quốc, ở Nghệ An đã nổ ra hai cuộc đấu tranh lớn của hàng vạn công nhân và nông dân. Sự liên kết giữa phong trào công nhân và phong trào nông dân ngày càng mật thiết. Đế quốc Pháp đã đàn áp tàn bạo các cuộc biểu tình, làm nhiều người chết và bị thương. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, quần chúng công nhân và nông dân không lùi bước, phong trào cuồn cuộn dâng lên khắp hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Đến tháng 9 năm 1930, phong trào lên tới đỉnh cao nhất. Một loạt những cuộc biểu tình hàng ngàn, hàng vạn người liên tiếp nổ ra quyết liệt chưa từng thấy. Các cuộc biểu tình này không còn chỉ là đấu tranh kinh tế, chính trị như trước nữa, mà quần chúng đã dùng bạo lực cách mạng phá huyện đường, phá nhà lao, vây đồn lính, trừng trị bọn cường hào, địa chủ, không thừa nhận chính quyền của địch. Phong trào tháng 9 năm 1930 như những đợt sóng dữ dội làm tan rã bộ máy thống trị của đế quốc và phong kiến ở nhiều vùng nông thôn hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh.
Chính quyền Xô-viết, một hình thức chính quyền cách mạng của công nông được thành lập ở nhiều thôn xã. Nó là hình thức chính quyền cách mạng đầu tiên ở nước ta. Nó đã kiên quyết trấn áp bọn phản cách mạng, đồng thời thực hiện những quyền tự do dân chủ cho nhân dân, chia lại ruộng công cho nông dân, bài trừ hủ tục...
Để đối phó với phong trào cách mạng, đế quốc Pháp dựa vào địa chủ, phong kiến thi hành chính sách khủng bố trắng vô cùng tàn bạo. Chúng điều động thêm quân lính về đóng đồn ở nhiều nơi trong hai tỉnh nói trên, dùng những đơn vị lính lê dương và lính dân tộc ít người để chia rẽ các dân tộc. Chúng phái những đơn vị cơ động đi dựng lại chính quyền của chúng ở các nơi vừa bị tan rã. Chúng nhằm vào các "làng đỏ" mà tiến công, tàn sát, dùng cả máy bay để đàn áp các cuộc biểu tình. Hàng ngàn người bị bắn tại chỗ. Hàng vạn người bị bắt. Hàng ngàn nóc nhà bị đốt cháy. Chúng còn dùng đủ mọi thủ đoạn xảo trá, thâm độc để mua chuộc, chia rẽ quần chúng.
Trung ương Đảng đã phê bình cuộc bạo động nổ ra không đúng thời cơ, trong lúc chưa có tình thế trực tiếp cách mạng. Nhưng trước sự việc đã xảy ra, Trung ương đã kịp thời phát động phong trào cả nước phối hợp đấu tranh bênh vực Nghệ - Tĩnh đỏ, chống khủng bố trắng và chỉ thị thành lập Đội tự vệ để bảo vệ quần chúng trong đấu tranh.
Các nhà máy, các cơ sở quần chúng cách mạng đã lựa chọn những phần tử ưu tú, có tinh thần hăng hái, can đảm, có sức khỏe trong Công hội, Nông hội, Đoàn thanh niên cộng sản... để lập ra đội tự vệ công nhân và nông dân. Các đội tự vệ này trang bị bằng gậy, búa, giáo mác, liềm hái... Những người dũng cảm nhất đã xung phong vào Đội cảm tử. Các đội tự vệ ấy gọi là Tự vệ đỏ (Xích vệ), đó là mầm mống đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng của nhân dân do Đảng ta lãnh đạo.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Sáng tai họ, điếc tai cày
Sáng tai họ, điếc tai cày
Trống trong Bảo tàng Xô viết Nghệ Tĩnh.
Trong cao trào cách mạng Xô viết Nghệ Tĩnh, tiếng trống được quần chúng nhân dân sử dụng như một vũ khí, góp phần tạo nên cơn bão táp cách mạng thời kỳ 1930-1931
Khi phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh mới nổi ra, tiếng trống là hiệu lệnh tập hợp quần chúng xuống đường đấu tranh. Khi tiếng trống ở một đình làng phát ra, bà con nô nức tay búa, tay liềm, tập hợp trước đình làng để đi đấu tranh.
Tiếng trống đã thay lời hiệu triệu, thúc giục làng trên xóm dưới, tổng này xã nọ, liên kết với nhau thành một khối thống nhất. Tiếng trống đánh lên, sức truyền cảm từ âm thanh tạo nên một khí thế xung trận, bất chấp sự đàn áp tàn bạo của bọn thực dân phong kiến, quần chúng cách mạng sục sôi khí thế ào lên như vũ bão, xông thẳng vào giữa sào huyệt của kẻ thù để đập phá các nhà máy, huyện đường, đòi tiền lương và ruộng đất.
Tiếng trống trong thời kỳ Xô viết Nghệ - Tĩnh không chỉ là vũ khí đấu tranh, mà còn kêu gọi mọi người hân hoan đi phá kho thóc của hào lý, chia cho dân nghèo. Tiếng trống nổi lên mời các tổ chức Tự vệ Đỏ, thanh niên, phụ nữ ra đình hội họp; giục mọi người đi học chữ quốc ngữ, sinh hoạt văn nghệ, đi đắp đập, làm đường xây dựng một chính quyền mới do nhân dân làm chủ.
Trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, tiếng trống còn là tín hiệu để bảo vệ tổ chức Đảng và chính quyền các mạng. Hiệu lệnh trống từ điếm canh vọng về, các cuộc hội họp của chi bộ, Đảng bộ, các thượng cấp Tỉnh uỷ, Xứ uỷ phải nhanh chóng rút lui sơ tán.
Không dừng lại ở Nghệ An - Hà Tĩnh, tiếng trống trong cao trào cách mạng Xô viết Nghệ Tĩnh là linh hồn của các cuộc đấu tranh, có sức lan toả ra khắp cả các tỉnh thành trong cả nước, tạo nên một cao trào “Bắc - Trung - Nam tràn sóng đấu tranh”.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Tháng 3 năm 1935, Đại hội lần thứ nhất của Đảng họp tại Ma Cao (Trung Quốc). Đại hội có riêng Nghị quyết về Đội tự vệ, xác định bản chất giai cấp, bản chất cách mạng của đội tự vệ, đó là một tổ chức có tính chất nửa quân sự của quần chúng nhân dân lao động, chủ yếu là của công nông, do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Thành phần là những người lao động có nhiệt tình, cương quyết, không phân biệt gái, trai, hoặc dân tộc, từ 18 tuổi trở lên, được giáo dục về nhiệm vụ và trách nhiệm chính trị của mình.
Về tổ chức, biên chế thì, "Từ 5 người tới 9 người tổ chức thành một tiểu đội", "Ba tiểu đội tổ chức một trung đội", "Ba trung đội tổ chức thành một đại đội", "Cứ theo phép "tam tam chế" mà tổ chức lên". "Tùy lực lượng phát triển của Đảng, của Thanh niên cộng sản đoàn, của các hội quần chúng mà định coi trong mỗi sản nghiệp, mỗi làng, hay xã tổ chức bao nhiêu tiểu đội, trung đội, đại đội, v.v. Căn cứ vào khu vực mà hiệp Công nông tự vệ đội thành bộ đội để tiện việc chỉ huy thao diễn". Đó là nhưng đội tự vệ thường trực.
Đi đôi với việc tổ chức tự vệ thường trực, Nghị quyết còn đề ra việc huấn luyện quân sự cho quần chúng và thu hút quần chúng tham gia công tác tự vệ. Như vậy, đội tự vệ vừa có nòng cốt vững chắc, vừa có lực lượng quần chúng đông đảo; đó là cách tổ chức thích hợp nhất lúc bấy giờ, đồng thời thể hiện quan điểm toàn dân vũ trang của Đảng.
Về trang bị, đội tự vệ tuy chỉ có vũ khí thô sơ, nhưng có tổ chức, có huấn luyện, có kế hoạch thống nhất, có tinh thần đấu tranh, hiểu rõ trách nhiệm cách mạng của mình và được quần chúng ủng hộ, nên có sức mạnh riêng. Đồng thời, phải tìm cách cướp lấy súng của địch mà trang bị cho mình, có càng nhiều vũ khí càng tốt để huấn luyện và chiến đấu khi cần thiết.
Về huấn luyện quân sự, nghị quyết đề ra chủ trương "Huấn luyện cho đồng chí, cho các Đội tự vệ công nông biết dùng các môn binh khí thông thường như súng lục, súng trận, liên thanh, tạc đạn; biết chiến thuật đánh nhau trong thành phố, chiến thuật du kích chiến tranh, v.v."”. Đối với quần chúng thì "Trong, sau những cuộc mít-tinh, cuộc thị oai, nếu có hoàn cảnh thuận tiện thì kéo quần chúng tập đi đứng cho có hàng ngũ, tập cách thức tránh tàu bay, trách tạc đạn, liên thanh, v.v…
Sáng tai họ, điếc tai cày
Từ sau Đại hội lần thứ nhất của Đảng (3-1935), tình hình thế giới đã có những biến chuyển mới: nguy cơ phát-xít gây chiến trên thế giới ngày càng tăng.
Trước tình hình ấy, căn cứ vào nghị quyết của Đại hội lần thứ VII của Quốc tế cộng sản và xuất phát từ điều kiện cụ thể của Việt Nam lúc đó, Hội nghị lần thứ nhất của Trung ương Đảng họp vào mùa hè năm 1936 đã quyết định tạm thời không nêu khẩu hiệu đánh đổ đế quốc Pháp và khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày, chủ trương thành lập Mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi (sau đổi là Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương, gọi tắt là Mặt trận dân chủ Đông Dương).
Trong thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936 - 1939), Đảng ta đã tập họp được hàng triệu quần chúng, đấu tranh chống bọn phản động thuộc địa và bọn vua quan phản động, đòi tự do dân chủ, đòi cải thiện dân sinh và bảo vệ hòa bình thế giới; tạo được một lực lượng cách mạng to lớn làm cơ sở cho phong trào dân tộc dân chủ những năm về sau.
Năm 1939, chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp đổ. Bọn phản động thuộc địa ở Đông Dương tuyên bố giải tán Đảng Cộng sản. Chúng đàn áp phong trào cách mạng, xóa bỏ một vài quyền dân chủ đơn sơ mà quần chúng nhân dân ta giành được trong thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936 - 1939).
Trước tình hình đó, Đảng ta quyết định chuyển trọng tâm công tác từ thành thị về nông thôn. Cách mạng Việt Nam chuyển sang một thời kỳ mới: Thời kỳ chiến tranh và cách mạng.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.
Trước tình hình mới, Hội nghị lần thứ sáu của Trung ương Đảng do đồng chí Nguyễn Văn Cừ chủ trì đã họp tháng 11 năm 1939.
Hội nghị phân tích tỉnh hình thế giới, vạch rõ sự khác nhau giữa chiến tranh đế quốc và chiến tranh cách mạng, phản đối chiến tranh đế quốc, lên án những tội ác tày trời của bè lũ đế quốc.
Hội nghị phân tích một cách toàn diện vấn đề dân tộc Đông Dương, vạch rõ mâu thuẫn chủ yếu ở Đông Dương lúc này là mâu thuẫn giữa các dân tộc Đông Dương với chủ nghĩa phát-xít.
Hội nghị nhấn mạnh vấn đề giải phóng dân tộc, coi đó là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Đông Dương trong thời kỳ chiến tranh, vì "Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để tranh lấy giải phóng độc lập".
Để đoàn kết rộng rãi toàn dân, chĩa mũi nhọn của cách mạng vào kẻ thù của dân tộc là chủ nghĩa đế quốc, phát-xit, Hội nghị đã đề ra chủ trương thành lập "Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương”
Hội nghị chủ trương phát triển đội tự vệ thật "to rộng, đủ dũng cảm và điềm tĩnh, khôn khéo và hy sinh bảo vệ quần chúng", và trong tương lai sẽ xây dựng "quốc dân cách mệnh quân".
Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11 năm 1939 có ý nghĩa rất quan trọng. Nghị quyết của Hội nghị đánh dấu sự chuyển hướng đúng đắn về chỉ đạo chiến lược cách mạng, giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, mở đường đi đến thắng lợi của cách mạng sau này.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Tháng 6 năm 1940, thực dân Pháp đầu hàng phát xít Đức trong thế chiến thứ hai. Tại Đông Dương, Pháp thẳng tay cướp bóc, khủng bố các phong trào đấu tranh của nhân dân. Một tâm lý bao trùm khắp nơi là nhiều người muốn nhân cơ hội này đứng dậy lật đổ ách thống trị thực dân, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, đây là cơ hội tốt nhất để giành lại chính quyền.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Khởi nghĩa Bắc Sơn
Bắc Sơn, thuộc tỉnh Lạng Sơn là nơi có truyền thống đấu tranh cách mạng. Từ năm 1933, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã đến Bắc Sơn vận động cách mạng, gây cơ sở đầu tiên ở xã Vũ Lăng. Năm 1937, cơ sơ này đã thành lập chi bộ Đảng. Từ ngày có chi bộ Đảng, năm nào ở đây cũng nổ ra những cuộc đấu tranh chống đi phu, đi lính, chống bọn hào lý phù thu lạm bổ của nhân dân. Đi đôi với nhưng cuộc đấu tranh về kinh tế, chính trị, các đội tự vệ cũng được tổ chức.
Đêm 22 tháng 9 năm 1940, quân Nhật đánh vào khu vực Lạng Sơn. Quân Pháp hèn nhát không dám chống cự. Trên đường rút chạy, chúng vứt súng đạn, quân phục cho dễ bề lẩn trốn nhưng vẫn hống hách, nhũng nhiễu, cướp bóc nhân dân ta. Trước sự tan rã và những hành động cướp bóc của quân đội Pháp, nhân dân Bắc Sơn đã thu nhặt vũ khí địch bỏ lại dọc đường, tước vũ khí của những toán quân đi lẻ để tự vũ trang và chiến đấu tự vệ. Không khí cách mạng sôi sục. Nhận thấy thời cơ thuận lợi, một số đảng viên cộng sản người địa phương thoát ngục Lạng Sơn về cùng với Đảng bộ Bắc Sơn quyết định phát động khởi nghĩa và lập Ủy ban khởi nghĩa.
Ngày 27 tháng 9 năm 1940, Ủy ban khơi nghĩa huy động lực lượng tự vệ phục kích một toán lính Pháp ở đèo Canh Tiếm, diệt 1 tên, thu súng rồi đuổi chúng chạy về đèo Dập Dị. Ngay đêm đó, tự vệ cùng với hơn 300 quần chúng thuộc hai xã Tam Hoa, Hưng Vũ (có 30 lính dõng tham gia) vũ trang bằng gậy gộc, giáo mác và 20 súng trường, 8 súng kíp, kéo về châu lỵ Bắc Sơn tiến đánh đồn Mỏ Nhài, chiếm đồn, thu 17 súng kíp, một máy chữ và toàn bộ sổ sách, bằng, triện. Ngay sau chiến thắng, hàng nghìn đồng bào các địa phương, từ già đến trẻ, đốt đuốc kéo đến, sung sướng reo hò, san bằng đồn bốt, cùng nghĩa quân mít-tinh mừng thắng lợi. Sau đó, tự vệ và quần chúng rầm rộ tiến ra các ngả 40 đường chặn đánh tàn binh Pháp, tước vũ khí, trấn áp cường hào phản động.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Cuộc khởi nghĩa đang tiếp diễn thì Nhật thỏa hiệp với Pháp và để cho Pháp rảnh tay đàn áp cách mạng Việt Nam. Thực dân Pháp tập trung lực lượng tiến theo hai đường đánh vào Bắc Sơn; đường thứ nhất từ Đình Cả - Vũ Nhai tới (có cả quân lấy từ Thái Nguyên), đường thứ hai từ Bình Gia xuống. Chúng chiếm lại châu lỵ, đốt phá các làng bản, bắt bớ, tàn sát, khủng bố nhân dân hòng dập tắt cuộc khởi nghĩa.
Xứ ủy Bắc Kỳ phái đồng chí Trần Đăng Ninh lên Bắc Sơn cùng với Đảng bộ địa phương lãnh đạo quần chúng đấu tranh giữ vững phong trào. Đồng chí Trần Đăng Ninh cùng Đảng bộ địa phương tập trung ngay số chiến sĩ tự vệ và quần chúng hăng hái, tích cực, tổ chức ra Quân du kích làm lực lượng nòng cốt cho cuộc khởi nghĩa.
Ngày 14 tháng 10 năm 1940, một cuộc hội nghị gồm cán bộ và đảng viên Bắc Sơn được triệu tập ở Sa Khao. Hội nghị quyết định lập chiến khu Bắc Sơn, tổ chức lực lượng vũ trang, thành lập chính quyền cách mạng, diệt trừ bọn phản cách mạng, tịch thu tài sản của chúng chia cho dân nghèo và vạch kế hoạch lãnh đạo quần chúng, chiến đấu chống địch khủng bố. Phong trào được củng cố, khí thế cách mạng dâng cao. Quân du kích đã tuyên truyền vận động nhân dân, giải thích chủ trương của Đảng bộ và kế hoạch chống địch khủng bố; tiến đánh Khôn Ràng, lùng bắt bọn phản động đầu sỏ, tịch thu tài sản của đế quốc và Việt gian chia cho nhân dân.
Ngày 25 tháng 10 năm 1940, Quân du kích tiến đánh địch tại nhà trường Vũ Lăng. Ở đây, tên châu úy cầm đầu bọn lính dõng đã tập trung được hơn 100 tay súng chuẩn bị mở đường cho giặc Pháp tiến công vào khu du kích. Quân ta vây trường Vũ Lăng, kêu gọi lính dõng theo cách mạng. Trước khí thế của quân cách mạng, địch hoảng sợ bỏ chạy. Tuy không tiêu diệt được địch nhưng chiến thắng Vũ Lăng đã có ảnh hưởng rộng lớn. Chính quyền của địch ở các làng bản tan ra. Quần chúng nhân dân phấn khởi lập chính quyền cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang. Lá cờ cách mạng nền đỏ sao vàng năm cánh được kéo lên. Chỉ trong vài ngày, lực lượng du kích đã phát triển lên gần 200 người, biên chế thành từng tiểu đội 10 người. Vũ khí phần lớn là súng kíp và một số súng trường.
Chiến thắng Vũ Lăng là thắng lợi đầu tiên của khởi nghĩa vũ trang từ sau khi Đảng ta chuyển hướng chỉ đạo chiến lược. Quần chúng khởi nghĩa đã khéo kết hợp lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang và vận động binh lính địch để tiến công địch, giành thắng lợi.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Sau chiến thắng Vũ Lăng, quân du kích tiến đánh đồn Mỏ Nhài, châu lỵ Bắc Sơn. Lực lượng địch ở đây đã được tăng cường gồm hơn 100 lính khố xanh và lính dõng do tên Boóc-đi-ê, đồn trưởng ở Đình Cả tới chỉ huy. Hai lần đi đánh, một lần tới nơi trời sáng, một lần địch biết trước chuẩn bị đối phó, ta thấy đánh không lợi nên rút về.
Ngày 28 tháng 10 năm 1940, ta tổ chức một cuộc tuần hành thị uy lớn có cờ đỏ sao vàng dẫn đầu từ Nam Nhi đến Vũ Lăng để mit-tinh thành lập chính quyền cách mạng và động viên lực lượng tiến đánh châu lỵ. Nhưng do tinh thần cảnh giác không đủ và công tác bố phòng có nhiều sơ hở nên bọn phản động địa phương dẫn quân Pháp theo đường tắt đánh úp vào cuộc mit-tinh. Các chiến sĩ du kích nổ súng để nhân dân chạy thoát, nhưng sau đó lực lượng du kích cũng tản mát mỗi người một ngả.
Giặc Pháp điên cuồng khủng bố. Phong trào tạm thời lắng xuống. Nhưng ngọn lửa cách mạng vẫn âm ỷ để rồi lại bùng lên.
Đảng bộ địa phương quyết định thu thập lại lực lượng vũ trang, điều động thêm lực lượng ở Vũ Nhai lên bổ sung, tổ chức được một trung đội du kích.
Quân địch ra sức khủng bố. Chúng kéo quân đi đốt phá các bản làng, bắn giết dã man các gia đình chiến sĩ du kích và quần chúng cách mạng, dồn làng tập trung dân để dễ bề kiểm soát. Đội du kích chuyển sang hoạt động phân tán, bám chắc lấy dân, duy trì cơ sở cách mạng, tổ chức quần chúng chống khủng bố. Lúc đó vào cuối năm, trời giá rét, mỗi người chỉ có một bộ áo chàm mỏng rách, thiếu lương thực, phải nhịn đói, gia đình bị địch khủng bố tàn sát, nhưng các chiến sĩ du kích vẫn một lòng tin tưởng vào cách mạng, vào nhân dân, quyết chiến đấu đến cùng.
Ngay khi cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra, Trung ương Đảng đã chỉ thị cho các đảng bộ phối hợp đấu tranh hưởng ứng phong trào. Đặc biệt, ở Ngọc Trạo (huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa) có phong trào tương đối mạnh, nhưng về sau cũng bị đàn áp nặng nề.
Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra trong khi cả nước chưa được chuẩn bị quân khởi nghĩa đã phải chiến đấu một cách lẻ loi. Nhưng Khởi nghĩa Bắc Sơn đã nổ tiếng súng đầu tiên báo hiệu thời kỳ đấu tranh vũ trang mới của dân tộc Việt Nam, và từ cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đã ra đời đứa con đầu lòng của lực lượng vũ trang cách mạng: Đội du kích Bắc Sơn. Đảng ta cũng đã rút ra được ở cuộc khởi nghĩa này những bài học lớn để chuẩn bị tốt cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 sau này.
Sáng tai họ, điếc tai cày