CÁC CHỨC QUAN VÕ
1. Thái úy, Thiếu úy
Đầu nhà Lý có hai chức Thái úy là Phụ quốc Thái úy, tức là chức Tể tướng, và Thái úy (không có hàm Phụ quốc), cùng với Thiếu úy, đều là chức quan tổng thống việc binh.
Nhà Trần, lấy chức Thái úy gia thêm cho các thân vương trong tôn thất. Người ở chức ấy phần nhiều vẫn giữ chức quan của mình mà kiêm hàm Tể tướng phụ chính (như đời Nhân Tông, Quang Khải lấy chức Thái úy làm Tướng quốc coi việc cả nước ; đời Anh Tông, Nhật Duật làm Hữu tướng Phụ chính ; đời Dụ Tông, cho Thái úy Nguyên Trác làm Tả tướng quốc), còn chức Thiếu úy chưa từng làm việc gì, chỉ là hư hàm thôi.
Đầu nhà Lê, Thái Tổ khởi nghĩa, chỉ đặt chức Thiếu úy. Sau khi dẹp yên giặc Minh mới đặt Thái úy cùng với ba chức Thái (Tam Thái), ba chức thiếu (Tam Thiếu), đều làm trọng chức của đại thần. Đời Hồng Đức định lại quan chế, phẩm trật Thái úy ở vào hàng Chánh nhất (Thiếu úy ở hàng Chánh nhị).
Đầu thời Trung hưng, Lượng Quốc công Trịnh Kiểm, Trưởng Quốc công Trịnh Tùng, trước sau cầm quyền nhà nước, đều phong chức ấy; đến niên hiệu Quang Hưng [1578 - 1599, Lê Thế Tông] trở đi, chỉ dùng làm hàm gia thêm cho võ tướng và thân thần.
Sáng tai họ, điếc tai cày
2. Tiết chế
Chức Tiết chế bắt đầu có từ đầu nhà Trần. Đời Nhân Tông, khoảng Thiệu Bảo [1279 - 1285], quân Nguyên xâm lược lần 2, vua cử Hưng Đạo vương làm Tiết chế, coi cả các quân trong nước, đó là quyền đổng thống (giám sát, đôn đốc) mà không phải là chính chức.
Trong đời Hồng Đức nhà Lê, Thánh Tông đánh Ai Lao ở miền Tây, mới đặt chức Tiết chế các doanh, sai Sùng Quận công Lê Thọ Vực Tiết chế các doanh du kích, Trấn lỗ tướng quân Lê Đình Ngạn làm Tiết chế các doanh hoành dã), quyền của Tiết chế còn là chia giữ các doanh.
Đến đời Lê Chiêu Tông, Trịnh Duy Sản làm Tiết chế các doanh thủy bộ (1516), Mạc Đăng Dung cũng được ban chức Tiết chế các xứ (1520), đều là các quyền thần, nghịch thần nhà Lê.
Đầu thời Trung hưng, Lượng Quốc công Trịnh Kiểm, Trưởng Quốc công Trịnh Tùng nối đời giữ binh quyền, cũng gia chức Tiết chế. Từ niên hiệu Quang Hưng [1578 - 1599, Lê Thế Tông] về sau, Trưởng Quốc công Trịnh Tùng tiến lên ngôi vương, Thế tử được nối phong Tiết chế Quốc công, quyền vị tôn trọng ở trên tất cả các đại thần. Các đời noi theo cho đến cuối nhà Lê.
Sáng tai họ, điếc tai cày
3. Ngũ phủ Chưởng, Thự
Lê Thánh Tông, đầu năm Quang Thuận, đặt năm phủ là Đô đốc phủ Trung quân, Nam quân, Bắc quân, Đông quân, Tây quân, mỗi phủ có các chức Tả đô đốc, Hữu đô đốc, Đồng tri, Thiêm sự, đều chuyên giữ việc quân.
Thời Trung hưng, khoảng đầu niên hiệu Quang Hưng [1578 - 1599, Lê Thế Tông], đặt thêm các quan Chưởng phủ sự, Thự phủ sự, dùng các trọng thần thân thuộc hay có công giữ những chức ấy, cùng với quan Tham tụng bên văn bàn bạc chính sự nhà nước, chức nhiệm long trọng. Đời Bảo Thái [1720 - 1729, Lê Dụ Tông] về sau, phần nhiều cho quan văn đổi sang những chức ấy (như Quốc lão Đặng Đình Tướng làm Chưởng phủ sự, Tham tụng Nguyễn Công Cơ làm Thự phủ sự). Những người dự chính sự được gia hàm Chưởng và Thự phủ sự.
Các chức Chưởng phủ, Thự phủ, Quyền phủ gọi là quan Ngũ phủ; Tham tụng, Bồi tụng gọi là quan Phủ liêu. Khi có chính lệnh gì thi hành đều xưng chung là các quan Ngũ phủ, Phủ liêu.
Chức Đô đốc bắt đầu đặt từ nhà Trần, đời Thuận Tông đặt Đô đốc phủ các lộ. Đầu nhà Lê noi theo, có chức Đại đô đốc. Đến giữa niên hiệu Quang Thuận (1460–1469, Lê Thánh Tông), chia làm năm phủ đô đốc.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Tướng quân
Nhà Đinh đặt quan có chức Thập đạo Tướng quân (Lê Hoàn làm Thập đạo Tướng quân). Đời Lý đặt các danh hiệu Phụ quốc Thựợng tướng quân, Uy nghi Đại tướng quân, Định thắng Đại tướng quân và tướng quân các vệ, đều là quan giữ việc binh.
Nhà Trần đặt Phiêu kỵ Tướng quân làm chức phong cho hoàng tử, ngoài ra như Trấn quốc Tướng quân, Phó tướng quân, Cấm vệ Tướng quân, tướng quân các vệ (như các chức Kim ngô, Long tiệp, Phụng thần, Xa kỵ, Thần sách, Kiêu kỵ) đều giữ việc binh.
Trần Khánh Dư, sau một trận thắng khi Nguyên Mông xâm lược lần thứ nhất, đã được Trần Thái Tông nhận là Thiên tử nghĩa nam và phong Phiêu kỵ Tướng quân.
Đầu nhà Lê, cũng đặt các chức Thượng tướng quân, Đại tướng quân. Đời Hồng Đức định lại quan chế, mới bãi chức tướng đi, không liệt vào giai phẩm, chỉ dùng làm chức tản quan (chỉ có tước phẩm, ko có thực chức) cho võ thần. Thời Trung hưng về sau, noi theo chế độ ấy, chỉ đặt chức Trấn điện Tướng quân, phẩm trật ở hàng Chánh ngũ, để coi giữ những đồ lỗ bộ (các đồ nghi trượng, như gươm, đao, phủ, việt,...) ở Cấm quân.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Tổng quản
Nhà Tiền Lê, Đại Hành bắt đầu đặt quan Tổng quản, kiêm hàm Tri quân dân sự, phong tước hầu, ngôi ở trên chức Thái úy, chức nhiệm quan trọng (lúc ấy chưa có chức Tể tướng, có lẽ đó là quan võ mà kiêm chức Tể tướng).
- Từ Mục làm Đại tổng quản tri quân dân,ban cho tước Hầu (làm nhiệm vụ Tể tướng, đứng đầu bá quan)
Nhà Lý đặt chức Tổng quản, không có hàm Tri quân dân, đó chỉ là chức coi việc binh.
Đầu nhà Trần bỏ chức ấy. Đến đời Thuận Tông Quang Thái [1388 - 1398], mới đặt Tổng quản phủ ở các lộ, giữ việc phòng giữ một địa phương.
Đầu nhà Lê noi theo, ở trong thì đặt các chức Đại tổng quản, Đô tổng quản, Đồng tổng quản để coi giữ quân lính, ở ngoài thì đặt Tổng quản, Đồng tổng quản để thống giữ các hạt. Từ đời Hồng Đức định lại quan chế mới bãi chức ấy.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Kiểm điểm
Đầu nhà Lê, đặt chức Điện tiền đô kiểm điểm, coi giữ Cấm quân, chức ở dưới Tổng quản. Đời Hồng Đức định lại quan chế, đặt chức Đô kiểm điểm, lại đặt thêm Tả Hữu kiểm điểm, phẩm trật ở hàng Chánh nhị, Tòng nhị. Thời Trung hưng về sau, tránh tên húy Thái vương Trịnh Kiểm, đổi làm Hiệu điểm, chức phẩm vẫn theo như cũ.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Chỉ huy
Nhà Đinh, Lê Hoàn được phong là Thập đạo tướng quân cùng chức Điện tiền đô chỉ huy sứ, hoặc Điện tiền chỉ huy sứ.
Nhà Tiền Lê, Đại Hành đặt quan, có chức Đô chỉ huy sứ. Nhà Lý noi theo. Nhà Trần bãi bỏ.
Đầu nhà Hậu Lê lại đặt Điện tiền Đô chỉ huy sứ, Chỉ huy sứ, Phó chỉ huy sứ và Tứ sương Chỉ huy sứ, đứng đầu các ty quân sự tại kinh đô. Từ đời Hồng Đức định lại quan chế, đặt thêm các chức Chỉ huy đồng tri, Chỉ huy thiêm sự, phẩm trật ở hàng Chánh tam trở xuống.
Thời Nguyễn, Đô chỉ huy sứ là chức chưởng quan đứng đầu ty Cẩm Y Vệ, một trong 2 vệ (vệ Cẩm Y và vệ Kim Ngô), lãnh trọng trách bảo vệ vua, trật Chánh nhị phẩm.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Tổng binh sứ
Đầu nhà Lê mới đặt chức Tổng binh quản lĩnh. Đời Hồng Đức định lại quan chế, đặt thêm các chức Đô tổng binh, Tổng binh thiêm sự, Tổng binh đồng tri, phẩm trật ở hàng Chánh tam trở xuống.
Sau Đại Ngu bị giặc Minh đánh bại và áp đặt ách đô hộ, Trương Phụ, Lý Bân và Vương Thông lần lượt là Tổng binh quân Minh (tại nước ta).
Sáng tai họ, điếc tai cày
Đề lĩnh
Đời Lê Tương Dực (1509-1516 mới đặt quan Tứ thành Đề lĩnh, có các chức Chưởng đề lĩnh, Phó đề lĩnh, Đồng đề lĩnh, để tuần phòng Kinh sư, nghe ngóng dò xét, tìm bắt kẻ gian phi. Các chức này thuộc ban võ, phẩm trật ở hàng Tòng nhất, Tòng nhị.
Thời Trung hưng về sau, mới dùng quan văn làm Đồng đề lĩnh, coi quân vụ bốn mặt thành, cùng với quan Đề lĩnh võ giai giữ việc ấy.
Quan chế đời Bảo Thái (1720 - 1729, Lê Dụ Tông) cho Đề lĩnh trật Chánh nhị phẩm, Phó đề lĩnh trật Tòng nhị phẩm.
Về sau thời kỳ Chúa Trịnh nắm quyền chức vụ chỉ mang tính chất quản lý chăm sóc các công trình, khai mương, tháo nước, đường sá,... Các công việc kiện tụng chỉ được tra hỏi các việc trộm cướp đánh nhau.
Vào thời nhà Nguyễn, Đề lĩnh chịu trách nhiệm coi việc quân sự của tỉnh.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Đốc đồng, Đốc thị
Chức Đốc đồng, Đốc thị, đặt ra từ đầu thời Lê Trung hưng. Ở các trấn đặt chức Đốc đồng, khám xét việc kiện cáo; ở trấn Nghệ An (Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay) đặt chức Đốc thị, dự coi việc biên cương. Chức Đốc đồng thì dùng quan tứ phẩm, ngũ phẩm trở xuống, chức Đốc thị, dùng quan tam phẩm, tứ phẩm. Cũng có khi lâm thời chọn người cho làm, không cứ quan phẩm.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Lãnh binh
Chức quan triều Nguyễn, đứng thứ 5 ở tỉnh, có nhiệm vụ trông coi việc quân sự, binh bị, trật tự trị an trong tỉnh, mang hàm Chánh ngũ phẩm. Có thể coi như là vị Tỉnh đội trưởng hiện nay.
Sáng tai họ, điếc tai cày
MỘT SỐ CHỨC QUAN MỚI XUẤT HIỆN DƯỚI TRIỀU NGUYỄN
1. Đại học sĩ
Chức đại thần ban Văn, mang hàm Chánh nhất phẩm. Triều Nguyễn, do nhà vua không lập chức Tể tướng triều đình, nên đã lấy bốn vị đại thần ở bốn điện là Cần
chánh điện, Văn minh điện, Đông các điện, Võ hiển điện làm Tứ trụ đại thần là:
- Cần chánh điện Đại học sĩ
- Văn minh điện Đại học sĩ
- Đông các ñiện Đại học sĩ
- Võ hiển ñiện Đại học sĩ
để bàn việc cơ mật của triều đình tại Cơ mật viện. Còn chức Hiệp biện Đại học sĩ, theo quan chế triều Nguyễn thì đây là một chức đại thần ban Văn, nhưng phẩm hàm thấp hơn bốn vị Đại học sĩ ở bốn điện trên một bậc, tức Tòng nhất phẩm.
Phan Thanh Giản (1796-1867) vị Tiến sĩ đầu tiên của Nam kỳ đã từng giữ chức Hiệp biện Đại học sĩ dưới triều Nguyễn Thiệu Trị (1841- 1847) và Nguyễn Tự Đức (1847-1883) trước khi bị triều đình luận tội, cách chức, đục tên ở bia Tiến sĩ.
Dưới triều Hậu Lê sơ và Lê Trung hưng cũng có một chức quan văn với nhiệm vụ soạn thảo giấy tờ của triều đình, làm việc ở toà Đông các với chức vụ Đông các Đại học sĩ, nhưng hàm chỉ là Chánh/Tòng tứ phẩm, ngang ngạch trật với chức Tế tửu Quốc tử giám. Giúp việc cho Đông các Đại học sĩ đời Hậu Lê có Đông các Học sĩ (Tòng ngũ phẩm) và Đông các Hiệu thư (Chánh lục phẩm).
Sáng tai họ, điếc tai cày
2. Tham tri
Chức quan của triều Nguyễn, nhân vật đứng thứ 2 ở một trong lục Bộ, gồm hai vị Tả Tham tri và Hữu Tham tri, mang hàm Tòng nhị phẩm. Vị quan này có nhiệm vụ phụ giúp hay thay mặt vị Thượng thư điều hành công việc của Bộ. Có thể coi như là Thứ trưởng Thường trực của Bộ hiện nay.
Nguyễn Du sau khi đi sứ nhà Thanh về (1814), được [Gia Long] thăng chức Tham tri Bộ Lễ.
Sáng tai họ, điếc tai cày
3. Tổng tài Quốc sử quán
Chức quan đứng đầu Quốc sử quán ở triều Nguyễn, có nhiệm vụ ghi chép lịch sử nước nhà. Chức Tổng tài này thường là do đại thần kiêm nhiệm, ít ra cũng mang phẩm hàm nhị phẩm trở lên. Cụ Cao Xuân Dục (1843-1923), tác giả của bộ Quốc triều khoa bảng lục và Quốc triều Hương khoa lục đã từng là quan Tổng tài Quốc sử quán và về hưu với hàm Đông các Đại học sĩ.
Nhà Trần, tên cơ quan này là Quốc sử viện, nhưng chưa rõ quan đứng đầu là chức vụ gì, chỉ biết sử ghi lại làm việc ở đây có quan Tu soạn (Chánh bát phẩm), Biên lục (Tòng bát phẩm).
Sáng tai họ, điếc tai cày
4. Tổng đốc
Quan đứng đầu tỉnh lớn hoặc liên tỉnh vào triều Nguyễn, mang hàm Chánh nhị phẩm. Còn quan đứng đầu các tỉnh nhỏ là Tuần phủ (Tuần vũ), mang hàm Tòng nhị
phẩm. Có thể coi hai chức trên như là Chủ tịch tỉnh hiện nay.
Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến từng được cử làm Tổng đốc 3 tỉnh Sơn-Hưng-Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang) năm 1893. Nhưng chỉ ít lâu sau chán ngán chốn quan trường, đau lòng trước cảnh đất nước rơi vào ách đô hộ của ngoại bang, năm Giáp Tuất (1884) Nguyễn Khuyến viện cớ bị bệnh xin cáo quan về quê, khước từ mọi thủ đoạn mua chuộc của thực dân Pháp để giữ trọn lòng “trung quân ái quốc”.
Sáng tai họ, điếc tai cày