Notifications
Clear all

Quan chế Việt Nam thời phong kiến

123 Bài viết
8 Thành viên
181 Reactions
7,843 Lượt xem
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

CÁC CƠ QUAN ĐẦU NÃO TẠI TRIỀU ĐÌNH

1. Tể tướng và Á tướng

Đây là hai vị đứng đầu triều đình, thay mặt vua để lo công việc triều chính là Tể tướng và Á tướng. Có thể coi như Thủ tướng và Phó thủ tướng thường trực hiện nay. Đây là người giải quyết toàn bộ công việc của chính phủ. Nơi làm việc của các vị này được gọi là Dinh thự: Dinh Tể tướng và Dinh Á tướng.

2. Chính sự viện

Viện này có nhiệm vụ coi xét, bàn bạc, quyết định các việc trọng đại của triều đình. Cơ quan này được thành lập từ đời vua Lê Thái Tổ (1428-1433). Các thành viên của viện là các đại thần của hai ban văn võ của triều đình. Đứng đầu cơ quan là vị Chính sự viện Thượng thư mang hàm tòng nhất phẩm hoặc chánh nhị phẩm, tức tương đương với vị Thượng thư hoặc Á tướng, để trông coi mọi việc trong viện và điều khiển các quan.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

3. Khu/Xu mật viện - Nội mật viện Cơ mật viện

Từ triều Lý (1010-1225) mới thành lập Khu/Xu mật viện. Nhiệm vụ của viện là trông coi về việc binh bị, đứng đầu có hai vị quan là Tả sứ Khu mật viện và Hữu sứ Khu mật viện.

Sang triều Trần (1225-1400), Hồ (1400-1407), vẫn tên gọi là Khu mật viện nhưng nhiệm vụ có thay đổi. Cơ quan này dưới triều Trần có nhiệm vụ tham dự bàn bạc các việc cơ mật trọng đại của triều đình. Vị quan đứng đầu viện là Khu mật viện Tham nghị triều sự.

Đến nhà Hậu Lê sơ (1428-1527), nhà Mạc (1527-1592) không kể thời suy tàn của triều đại này khi chạy lên đất Cao Bằng (1592-1677), nhà Lê trung hưng (1533-1788) thì cơ quan này đổi lên thành Nội mật viện, nhiệm vụ của viện không thay đổi nhưng tên chức quan lãnh đạo viện có khác. Người đứng đầu viện của các triều đại trên là quan Chánh sứ, giúp việc có quan Phó sứ.

Nhà Nguyễn (1802-1945) lại một nữa đổi tên viện thành Cơ mật viện và nhiệm vụ vẫn như cũ, tức vua bàn bạc những việc cơ mật trọng yếu của triều đình với bốn vị đại học sĩ mà nhà Nguyễn gọi là Tứ trụ đại thần kiêm nhiệm, bốn vị này làm việc ở bốn điện: Đông các điện, Văn minh điện, Võ hiển điện, Cần chánh điện

Như vậy, nếu thử so sánh Khu mật viện - Nội mật viện – Cơ mật viện với Chính sự viện (ở đời Hậu Lê sơ) thì nội dung nhiệm vụ công việc cùng thành viên tham dự của
Chính sự viện có rộng rãi hơn. Chính sự viện có nhiệm vụ xem xét tất cả các việc triều chính trọng đại và các thành viên tham dự là nhiều vị văn võ đại thần; trong khi đó nhiệm vụ của Khu mật viện - Nội mật viện - Cơ mật viện thì có tính thu hẹp hơn, chỉ bàn bạc những việc gì trọng yếu nhất, cơ mật nhất của quốc gia mà thôi và các thành viên tham dự gồm vua và một số đại thần quan trọng, tin cậy, thân cận của vua.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

4. Lục Bộ (Sáu Bộ)

Các triều trước chưa rõ, sang nhà Lý tuy có đặt chức Thượng thư nhưng không biết có đặt ra các bộ chưa vì không thấy sử sách chép rõ tên các bộ.

Nhà Trần đã lập ra bốn bộ là Bộ Lại, Bộ Binh, Bộ Hình, Bộ Hộ.

Sang nhà Hậu Lê sơ, các đời vua Lê Thái Tổ (1428-1433), Lê Thái Tông (1433-1442), Lê Nhân Tông (1442-1459) triều đình chỉ lập ra 03 bộ trông coi mọi việc chuyên môn là Bộ Lại, Bộ Lễ, Bộ Dân (một tên gọi khác của Bộ Hộ).

Sau khi Lê Nghi Dân giết em là vua Lê Nhân Tông để soán ngôi lên làm vua (1459-1460) đã đặt ra đủ 06 bộ là Bộ Lại, Bộ Hộ, Bộ Lễ, Bộ Binh, Bộ Hình, Bộ Công. Từ đây cho đến triều Nhà Nguyễn tên các bộ vẫn không thay đổi.

Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta và với hiệp ước Giáp Thân 1884 thì Bắc kỳ và Trung kỳ trở thành xứ bảo hộ (tuy có vua nhưng tất cả phải theo sự chỉ đạo của Toàn quyền Đông Dương thông qua vị quan làm trung gian cho triều đình và thực dân là vị Khâm sai đại thần, còn trước đó Nam kỳ đã là xứ thuộc địa của Pháp). Để cải tổ nền giáo dục kiểu cũ, thay vào đó là nền giáo dục mới, năm 1907 Pháp yêu cầu thành lập Bộ Học theo chỉ dụ của vua Duy Tân. Trước kia, việc học hành thi cử do Bộ Lễ phụ trách thì nay chuyển sang Bộ Học và như vậy công việc của Bộ Lễ lại thu hẹp hơn. Lúc này, thực dân Pháp còn yêu cầu triều đình bãi bỏ Bộ Công. Những công việc mà trước đây thuộc về Bộ Công nay thực dân Pháp trực tiếp nắm lấy nhằm khai thác tối đa tài nguyên ở thuộc địa.

Như vậy, cho đến 1907, thì Nam triều vẫn có 06 bộ và tên các bộ là Bộ Lại, Bộ Hộ, Bộ Lễ, Bộ Học, Bộ Hình, Bộ Binh (còn lúc này Bộ Công đã bị bãi bỏ).

Quan lãnh đạo mỗi bộ trải qua các triều đại đều đặt chức Thượng thư, tuỳ theo bộ mà vị Thượng thư được phong hàm từ tòng nhị phẩm đến tòng nhất phẩm. Nhân vật đứng thứ nhì trong bộ, giúp việc cho quan Thượng thư là hai vị Thị lang gồm Tả Thị lang và Hữu Thị lang (theo quan niệm dưới thời phong kiến, Tả quan trọng hơn Hữu). Hai vị này thường mang hàm chánh hoặc tòng tam phẩm. Riêng ở triều Nguyễn, dưới Thượng thư và để giúp việc cho Thượng thư là hai vị Tả, Hữu Tham tri (hàm hiệp ước Giáp Thân 1884), còn hai vị Tả, Hữu Thị lang (hàm Tòng tam phẩm) là nhân vật đứng hàng thứ ba trong mỗi bộ, sau Tả, Hữu Tham tri.

Mỗi bộ có các cơ quan chuyên trách như sau: Thanh lại ty; Tư vụ sảnh; Chiếu ma sở.

Thanh lại ty là cơ quan lo giải quyết các công việc chuyên môn của bộ. Phụ trách Thanh lại ty là quan Lang trung (hàm Chánh lục phẩm), giúp việc có quan Viên ngoại lang (hàm Tòng lục phẩm).

Tư vụ sảnh là cơ quan có nhiệm vụ giải quyết các công việc lặt vặt hàng ngày của bộ, người phụ trách Tư vụ sảnh là quan Tư vụ (hàm Chánh hoặc Tòng bát phẩm).

Riêng ở Bộ Hộ và Bộ Hình do đảm nhận nhiều công việc và những công việc đó thường phức tạp nên triều đình còn lập thêm một cơ quan văn phòng là Chiếu ma sở với nhiệm vụ ghi chép văn thư, giấy tờ vào sổ sách mà người phụ trách văn phòng này là quan Chiếu ma (hàm Tòng bát phẩm).

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

Nhiệm vụ chính yếu của các bộ như sau:

Bộ Lại

Trong Lục Bộ, bộ này là bộ quan trọng nhất với nhiệm vụ khảo xét, tuyển dụng, bổ nhiệm, thăng thưởng, giáng chức, phong chức, phong hàm, phong tước cho các quan lại từ triều đình trung ương đến địa phương. Có thể coi bộ này như Ban Tổ chức Chính phủ hay Bộ Nội vụ hiện nay.

Về tuyển dụng và bổ nhiệm quan lại thường theo ba nguyên tắc sau: Lệ tuyển cử, Lệ bảo cử, Lệ tập ấm.

Lệ tuyển cử là tuyển dụng quan lại qua khảo thí tại các khoa thi. Sĩ tử thi đỗ từ thi Hương trở lên nếu có nhu cầu làm quan thì gởi đơn lên Bộ Lễ, Bộ Lễ xác nhận chuyển qua Bộ Lại để xem xét và bổ dụng.

Lệ bảo cử là lệ mà triều đình cho phép một vị quan của triều đình, thường là vị đường quan (tức quan từ tam phẩm trở lên, có con dấu riêng) đứng ra bảo lãnh về nhân thân, lý lịch của người được bảo lãnh để Bộ Lại xem xét và tuyển dụng, nếu người đó được bổ dụng mà trong quá trình làm việc có sai phạm thì người bảo lãnh phải liên đới chịu trách nhiệm trước triều đình, nếu bị tội nặng người bảo lãnh có khi bị mất chức hoặc bị tù.

Lệ tập ấm là lệ dành cho con cái các quan lại. Đây là ân huệ của triều trình dành riêng cho những người có công, đang làm quan cho triều đại, và con em của họ được hưởng cái lộc nước ơn vua ấy.

Việc khen thưởng, thăng ngạch trật hoặc giáng chức giáng ngạch, khảo sát các quan được Bộ Lại tiến hành theo định kỳ.

Cứ hàng năm, các quan trị nhậm tại các địa phương ở mỗi vùng, mỗi tỉnh và các quan phụ trách các cơ quan tại triều đình trung ương nhận xét các quan chức làm việc dưới sự quản lý của mình rồi gởi nhận xét về cho Bộ Lại để Bộ Lại xem xét và quyết định. Phê duyệt xong, Thượng thư Bộ Lại cho người mang trình lên quan Chính đường (vị này có khi là do vị Tể tướng kiêm nhiệm), quan Chính đường xem xét, thẩm định xong rồi mới tâu trình lên vua, xin vua định đoạt việc thăng giáng thưởng phạt.

Việc khảo sát các quan do ba vị (dưới triều Trần, Hậu Lê) hoặc năm vị (dưới triều Nguyễn) lãnh đạo Bộ Lại cùng quan phụ trách Ngự sử đài thực thi, sau đó ghi nhận xét rồi đệ trình lên vua để xin thánh chỉ quyết định.

Việc phong chức tước phẩm hàm ngạch trật cho các quan thì từ đời Lê Thánh Tông (1460-1497) quy định cứ 09 năm thực hiện một lần. Nếu vị quan nào trong quá trình làm việc mà hoàn thành tốt công việc của mình, không sai phạm điều gì và qua được kỳ thông khảo của Bộ Lại thì Bộ Lại quyết định. Nếu quan mang hàm từ chánh tam phẩm trở xuống, thì Bộ Lại ra quyết định thăng thưởng, còn nếu quan mang hàm từ tòng nhị phẩm trở lên thì Thượng thư Bộ Lại viết sớ tấu trình để vua xem xét và quyết định, sau đó Bộ Lại mới thi hành. Trường hợp thăng chức tước phẩm hàm sớm hơn thời hạn chỉ khi nào vị quan ấy có những thành tích đặc biệt xuất sắc và việc này do nhà vua trực tiếp quyết định bằng khẩu dụ hoặc bằng chiếu chỉ.

Điều hành Bộ Lại, từ đời Hậu Lê về trước có ba vị, đứng đầu là Thượng thư (hàm Tòng nhất phẩm, Chánh nhị phẩm), giúp việc có hai vị Tả, Hữu Thị lang. Triều Nguyễn có năm vị, đứng đầu là Thượng thư, giúp việc có hai vị Tả, Hữu Tham tri và hai vị Tả, Hữu Thị lang.

Để lo việc chuyên môn của bộ có cơ quan chuyên trách mang tên là Thuyên khảo Thanh lại ty do một quan Lang trung Thuyên khảo Thanh lại ty (hàm Chánh lục phẩm) phụ trách và quan Viên ngoại lang Thuyên khảo Thanh lại ty (hàm Tòng lục phẩm) phụ giúp việc. Để giải quyết các công việc lặt vặt thường ngày có cơ quan thường trực là Tư vụ sảnh do quan Tư vụ (hàm Chánh bát phẩm) trông coi.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

Bộ Lễ

Bộ này có nhiệm vụ phụ trách các việc về lễ nghi, tế tự của triều đình; thiết tiệc chiêu đãi các quan, các tân khách của các phái đoàn ngoại giao; lo việc học hành thi cử; đúc các ấn tín cho vua và các cơ quan từ trung ương đến các địa phương; thu nhận lễ vật và ban phát lễ vật tại nơi hành lễ; đồng thời trực tiếp quản lý các cơ quan tại triều như Lễ nghi viện, Thái y viện, Tư thiên giám, Tăng đạo, giáo phường, đồng văn, nhã nhạc.

Trong thi cử, tại các kỳ thi Hương, Bộ Lễ chỉ duyệt danh sách các sĩ tử dự thi, cắt cử các quan trường trông coi việc thi, ra đề thi, cử các quan yết bảng, giữ cửa và sao tả các quyển thi rồi giao cho các quan trường trong Ban chấm thi. Riêng ở các kỳ thi Hội, thi Đình thì Bộ Lễ lên kế hoạch gởi giấy sang Bộ Binh để bộ này cử lính lo việc cắm lều cho các cống sĩ dự thi, dựng tường rào che chắn khu vực trường thi, coi giữ an ninh trật tự trong đợt thi. Trong mỗi kỳ thi, Bộ Lễ có nhiệm vụ cử quan lại coi thi, chấm thi và thu quyển bài thi. Khi có danh sách thi đỗ, Bộ Lễ có nhiệm vụ tuyên đọc kết quả sĩ tử trúng tuyển, yết bảng danh sách, làm lễ xướng danh, ban áo mão, ban yến, v.v…

Thái y viện là cơ quan trực thuộc Bộ Lễ, chuyên trách việc thuốc men, trị bệnh trong cung vua và lo việc y tế cho cả nước.

Tư thiên giám là cơ quan trực thuộc Bộ Lễ, chuyên lo việc suy đoán, độn số, vận khí của trời đất; làm lịch, dự báo thời tiết. Khi xem thiên văn, thấy có điềm lành hoặc điều dữ thì xem xét, suy lường rồi tấu trình lên nhà vua.

Tăng đạo là cơ quan trực thuộc Bộ Lễ, chuyên trách công việc quản lý các tăng ni, đạo sĩ trong cả nước do các vị Tăng thống, Tăng lục phụ trách cơ quan.

Triều Hậu Lê đứng đầu bộ là quan Thượng thư Bộ Lễ (thường là hàm Chánh/Tòng nhị phẩm), giúp việc có hai vị Tả, Hữu Thị lang Bộ Lễ. Triều Nguyễn có năm vị, đứng đầu là Thượng thư, giúp việc có hai vị Tả, Hữu Tham tri và hai vị Tả, Hữu Thị lang Bộ Lễ.

Cơ quan chuyên trách công việc của bộ là Nghi chế Thanh lại ty, đứng đầu là một quan Lang trung, và giúp việc có quan Viên ngoại lang.

Công việc thường nhật của bộ do Tư vụ sảnh đảm nhận mà người phụ trách sảnh này là quan Tư vụ.

Riêng dưới triều nhà Nguyễn (1802-1945), triều đình còn lập thêm một ty nữa là Tân ứng Thanh lại ty. Ty này chuyên lo việc phong tặng, cắt cử người hiền tài, lập nhà học, khen thưởng phong tặng những người có công, những người tiết nghĩa, gìn giữ phong tục văn hóa v.v... Cũng như các ty khác, người phụ trách là một quan Lang trung, giúp việc có quan Viên ngoại lang mang hàm chánh hoặc tòng lục phẩm.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

Bộ Hộ

Bộ này có nhiệm vụ trông coi việc ruộng đất, tài chính, thuế khoá, hộ khẩu, kho tàng, cấp lương cho quan lại, quân đội.

Triều Trần, triều Hậu Lê, đứng đầu bộ là quan Thượng thư Bộ Hộ (hàm Tòng nhất phẩm hoặc Chánh nhị phẩm), giúp việc có hai vị Tả, Hữu Thị lang Bộ Hộ.

Triều Nguyễn có năm vị, đứng đầu là Thượng thư, giúp việc có hai vị Tả, Hữu Tham tri và hai vị Tả, Hữu Thị lang Bộ Hộ.

Công việc chuyên môn của bộ được giao cho hai cơ quan là Độ chi Thanh lại ty và Bản tịch Thanh lại ty.

Độ chi Thanh lại ty là cơ quan có nhiệm vụ phân bổ tô thuế, định mức thuế cho từng vùng, từng khu vực, từng loại ruộng đất; định thuế muối, thuế đường thuỷ, thuế đường bộ cho hợp lý; dự toán ngân sách, thu chi, xuất nhập về thuế, kiểm nhận xem xét các loại tiền xấu, tốt; các loại kim ngân lượng v.v.. để nhập vào kho.

Bản tịch Thanh lại ty có nhiệm vụ giữ gìn sổ sách về thuế khoá, sổ công khố các trấn, ty, đạo, tỉnh, sổ biên lai thu nộp thuế về triều đình, sổ ghi chép thu đồ cống phẩm của địa phương, của các nước lân cận đưa đến, sổ ghi chép hộ tịch về nhân khẩu, dân đinh v.v..

Mỗi ty đều có một quan Lang trung (kèm theo tên cơ quan) mang hàm Chánh lục phẩm phụ trách và hai quan Viên ngoại lang kèm theo tên cơ quan) mang hàm Tòng lục phẩm phụ giúp việc.

Để giải quyết các công việc thường nhật trong nội bộ của Bộ Hộ có cơ quan Tư vụ sảnh do quan Tư vụ mang hàm Tòng bát phẩm phụ trách.

Do công việc nhiều nên Bộ Hộ còn có một văn phòng lo việc văn thư chuyên ghi chép các giấy tờ công văn vào sổ sách, đó là Chiếu ma sở do quan Chiếu ma (hàm Tòng bát phẩm) phụ trách văn phòng.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

Bộ Binh

Bộ Binh có nhiệm vụ coi giữ các công việc thuộc lĩnh vực quân đội, binh lính, đặt các quan tướng trấn giữ nơi biên thuỳ, các nơi hiểm yếu và ứng phó với những việc khẩn cấp của triều đình lúc nguy biến.

Triều Trần, triều Hậu Lê, đứng đầu Bộ Binh là quan Thượng thư (hàm Tòng nhị phẩm), giúp việc có hai vị Tả, Hữu Thị lang.

Riêng triều Nguyễn có năm vị, đứng đầu là Thượng thư, giúp việc có hai vị Tả, Hữu Tham tri và hai vị Tả, Hữu Thị lang Bộ Binh.

Công việc chuyên môn của bộ do hai Thanh lại ty lo liệu là Vũ khố Thanh lại ty và Quân vụ Thanh lại ty.

Mỗi Thanh lại ty có một quan Lang trung phụ trách và một quan Viên ngoại lang phụ giúp công việc.

Vũ khố Thanh lại ty là cơ quan có nhiệm vụ chế tạo, thu giữ, cấp phát các loại vũ khí súng đạn cho quân đội cả nước; ty này còn có nhiệm vụ hộ giá khi nhà vua đi ra ngoài kinh đô; sắp đặt nghi trượng và cắt cử binh lính dọn dẹp đường sá, đứng cầm cờ quạt trong các dịp tế lễ của triều đình.

Quân vụ Thanh lại ty trông coi việc khảo xét, kiểm tra binh lính tập luyện, tuyển quân, bổ sung quân lính cho triều đình và cho các địa phương, hoạch định kế hoạch cho các cuộc hành quân.

Tư vụ sảnh Bộ Binh là cơ quan thường trực của bộ giải quyết các công việc thường ngày của bộ, có một quan Tư vụ đứng đầu.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

Bộ Hình

Bộ Hình có nhiệm vụ trông coi về hình luật, tư pháp, xét xử lại các việc tù đày, kiện tụng và kiểm tra các việc nghiêm cấm.

Triều nhà Lý không rõ đã thành lập Bộ Hình chưa, nhưng bộ Hình luật đầu tiên của nước ta được viết ra dưới triều đại này, đó là cuốn Hình thư.

Triều Trần về sau, đứng đầu Bộ Hình là quan Thượng thư (hàm Tòng nhị phẩm), giúp việc có hai vị Tả, Hữu Thị lang Bộ Hình. Riêng triều Nguyễn có năm vị, đứng đầu là Thượng thư, giúp việc có hai vị Tả, Hữu Tham tri và hai vị Tả, Hữu Thị lang Bộ Hình.

Do Bộ Hình có nhiều công việc nên triều đình cho thành lập đến bốn ty là Thanh hình Thanh lại ty, Thận hình Thanh lại ty, Minh hình Thanh lại ty, Tường hình Thanh lại ty. Mỗi ty có nhiệm vụ chức năng khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau về công việc hình pháp.

Phụ trách mỗi ty có quan Lang trung đứng đầu và giúp việc cho Lang trung có ba vị Viên ngoại lang.

Để giải quyết các công việc thường ngày như nhận đơn từ khiếu nại, kiện cáo; các bản án, các công văn các địa phương gởi về v.v.. có cơ quan Tư vụ sảnh đảm nhiệm, do quan Tư vụ trông coi.

Để ghi chép các giấy tờ sổ sách ở Bộ Hình có cơ quan văn phòng tên là Chiếu ma sở Bộ Hình mà người phụ trách văn phòng này là quan Chiếu ma.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

Bộ Công  

Bộ này chịu trách nhiệm về các công việc như xây cất thành trì, xây dựng cung điện đền đài của triều đình, sửa chữa các công trình thuộc về đường sá cầu cống, quản lý và đôn đốc các đội thợ thuyền.

Đứng đầu Bộ Công là một quan Thượng thư (hàm Tòng nhị phẩm), giúp việc có hai vị Tả, Hữu Thị lang Bộ Công. Riêng triều Nguyễn có năm vị, đứng đầu là Thượng thư, giúp việc có hai vị Tả, Hữu Tham tri và hai vị Tả, Hữu Thị lang Bộ Công.

Công việc chuyên môn của bộ do hai Thanh lại ty đảm nhận là Doanh thiện Thanh lại tyCông trình Thanh lại ty. Mỗi Thanh lại ty đều có một quan Lang trung phụ trách và một quan Viên ngoại lang phụ giúp công việc.

Còn Tư vụ sảnh của bộ thì lo giải quyết các công việc hành chính thường ngày, do quan Tư vụ đứng đầu.

Doanh thiện Thanh lại ty có nhiệm vụ thiết kế, lên dự án kế hoạch xây dựng và lo kinh phí.

Công trình Thanh lại ty có nhiệm vụ trông coi việc xây dựng, quản lý và đốc thúc thợ thuyền khi tiến hành công trình, thi hành kế hoạch, dự án xây dựng của Bộ do cơ quan Doanh thiện Thanh lại ty đề xuất.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

5. Lục Tự (Sáu Tự)

Để giải quyết các công việc chuyên môn không thuộc của Lục Bộ nhưng lại có liên quan đến Lục Bộ, từ triều Lê Thánh Tông về sau, triều đình còn đặt thêm Lục Tự. Lục Tự có nhiệm vụ thừa hành các công việc của Lục Bộ giao cho.

Lục Tự gồm: Đại lý Tự; Thái thường Tự; Quang lộc Tự; Thái bộc Tự; Thường bảo Tự; Hồng lô Tự.

Mỗi Tự đều có quan Tự khanh (hàm Chánh/Tòng ngũ phẩm) đứng đầu và quan Tự Thiếu khanh (hàm Chánh lục phẩm) đứng thứ nhì.

Giúp việc cho hai quan lãnh đạo Tự còn có quan Tự thừa (hàm Chánh thất phẩm).

Nhiệm vụ của mỗi Tự, hiện sử sách ở ta ghi chép không rõ. Theo Lịch triều Hiến chương loại chí của Phan Huy Chú và Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Sử quán triều Nguyễn thì “Hồng lô Tự giữ việc xướng danh thi Đình, Thường bảo Tự có nhiệm vụ đóng ấn quyển thi ký thi Hội, thi Đình”, còn các Tự khác sử sách xưa không ghi chép rõ chức năng nhiệm vụ cụ thể.

"Sáu Tự

Đời Trần Dụ Tông mới đặt các chức tự khanh, thiếu khanh. Đến Thuận Tông, niên hiệu Quang Thái [1388 - 1398], đặt Thượng lâm tự, có chức Phán tự sự. Đời Nhuận Hồ, Hán Thương lại đặt Đại lý tự, có chức Phán chính. Đầu nhà Lê đặt quan, các chức kể trên đều bỏ. Trong đời Quang Thuận [1460–1469, Lê Thánh Tông] bắt đầu đặt sáu viện (như Lễ nghi viện, Tư binh viện), đều có quan Thượng thư), sau mới đổi sáu viện làm sáu tự là Thượng bảo, Quang lộc, Hồng lô, Thái thường, Thái bộc, Đại lý, tự nào cũng có các chức Tự khanh, Thiếu khanh, Tự thừa, phẩm trật ở vào hàng chánh ngũ trở xuống. Các đời sau noi theo không đổi."

(Lịch triều hiến chương loại chí - Phan Huy Chú)

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Salut reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

CÁC CƠ QUAN CHUYÊN MÔN TẠI TRIỀU ĐÌNH

1. Quốc sử viện (Quốc sử quán)

Đây là cơ quan chuyên trách việc ghi chép lịch sử nước nhà một cách trung thực, chính xác, thẳng thắn và khách quan.

Đời Trần (1225-1400) đã thành lập Quốc sử viện nhưng hiện chưa rõ quan đứng đầu viện là chức vụ gì. Sang triều nhà Hậu Lê (1428-1788), vị quan chuyên trách ghi chép ở Quốc sử viện là quan Tu soạn, mang hàm chánh bát phẩm (8a), giúp việc có quan Sử quán Biên lục (hàm Tòng bát phẩm 8b). Triều Nguyễn, Quốc sử viện được đổi thành Quốc sử quán và người đứng đầu là vị Tổng tài Quốc sử quán, chức vụ này thường là do một vị đại thần kiêm nhiệm, ít ra cũng mang hàm từ nhị phẩm trở lên.

 

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

2. Thái chúc viện

Cơ quan này được thành lập từ triều Trần. Sang triều Hậu Lê sơ đổi thành Thái sử viện và đặt quan Thái sử lệnh phụ trách. Nhiệm vụ của Thái chúc viện là trông coi, xếp đặt các bài vị tổ tiên của vua trong việc cúng tế, cử người quỳ đọc văn tế ở Thái miếu và cầu đảo trời đất cho mưa thuận gió hoà, đời sống an bình hạnh phúc.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Salut reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

3. Quốc tử giám

Năm 1070, vua Lý Thánh Tông (1054-1072) cho xây dựng Văn miếu để thờ Khổng Tử, Chu Công, Tứ phối và Thất thập nhị hiền, tôn vinh Nho học. Đến năm 1076, Lý Nhân Tông (1072-1127) cho xây dựng Quốc tử giám. Đây là trường quốc lập đa cấp học đầu tiên của nước ta (đào tạo từ bậc Mông học, Tiểu học, Trung học, Đại học và trên Đại học). Ban đầu, khi mới thành lập, người học trường này là con em vua chúa, hoàng tộc, con các quan đại thần và những quan lại, người nào biết chữ nghĩa thì cho vào học. Về sau, đối tượng có mở rộng hơn, cho cả sĩ tử bình dân vào học.

Từ khi mới thành lập, ngoài các vị giảng viên trực tiếp giảng dạy mà mỗi người có một nhiệm vụ riêng thì triều đình còn cử ra một vị đại thần trực tiếp quản lý và điều hành công việc của trường, thường là do quan Thượng thư kiêm nhiệm.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Salut reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

Đăng bởi: @coco

3. Quốc tử giám

Năm 1070, vua Lý Thánh Tông (1054-1072) cho xây dựng Văn miếu để thờ Khổng Tử, Chu Công, Tứ phối và Thất thập nhị hiền, tôn vinh Nho học. Đến năm 1076, Lý Nhân Tông (1072-1127) cho xây dựng Quốc tử giám. Đây là trường quốc lập đa cấp học đầu tiên của nước ta (đào tạo từ bậc Mông học, Tiểu học, Trung học, Đại học và trên Đại học). Ban đầu, khi mới thành lập, người học trường này là con em vua chúa, hoàng tộc, con các quan đại thần và những quan lại, người nào biết chữ nghĩa thì cho vào học. Về sau, đối tượng có mở rộng hơn, cho cả sĩ tử bình dân vào học.

Từ khi mới thành lập, ngoài các vị giảng viên trực tiếp giảng dạy mà mỗi người có một nhiệm vụ riêng thì triều đình còn cử ra một vị đại thần trực tiếp quản lý và điều hành công việc của trường, thường là do quan Thượng thư kiêm nhiệm.

Đến đời Trần (1225-1400), năm 1236 dưới đời Trần Thái Tông (1225-1258) đổi tên Quốc tử giám thành Quốc học viện và sau đó lại một lần nữa đổi thành Thái học viện (Nhà Thái học). Sau đó, lần đầu tiên, triều đình mới cử quan trực tiếp chuyên trách về giáo dục cả nước và dạy học, lãnh đạo nhà trường, đó là quan Quốc tử giám Tư nghiệp. Chức vụ này được đặt ra vào các triều Trần Minh Tông (1314-1329), Trần Hiến Tông (1329-1341), Trần Dụ Tông (1341-1369).

 Như vậy, có thể xem quan Tư nghiệp lúc bấy giờ chính là Hiệu trưởng của trường và Chu Văn An (1292- 1370) là Hiệu trưởng đầu tiên. Do trước đó, các đại thần (thường là Thượng thư) kiêm nhiệm công việc quản lý nhà trường (mà phẩm hàm của họ lớn hơn phẩm hàm của quan quản lý chuyên trách nhà trường) nên sử sách của ta không ghi rõ những vị lãnh đạo của trường từ khi mới thành lập cho đến giữa đời Trần. Vì thế, lịch sử Văn miếu - Quốc tử giám mới ghi nhận quan Tư nghiệp Chu Văn An là Hiệu trưởng đầu tiên.

 

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Salut reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

Đăng bởi: @coco

Đăng bởi: @coco

3. Quốc tử giám

Năm 1070, vua Lý Thánh Tông (1054-1072) cho xây dựng Văn miếu để thờ Khổng Tử, Chu Công, Tứ phối và Thất thập nhị hiền, tôn vinh Nho học. Đến năm 1076, Lý Nhân Tông (1072-1127) cho xây dựng Quốc tử giám. Đây là trường quốc lập đa cấp học đầu tiên của nước ta (đào tạo từ bậc Mông học, Tiểu học, Trung học, Đại học và trên Đại học). Ban đầu, khi mới thành lập, người học trường này là con em vua chúa, hoàng tộc, con các quan đại thần và những quan lại, người nào biết chữ nghĩa thì cho vào học. Về sau, đối tượng có mở rộng hơn, cho cả sĩ tử bình dân vào học.

Từ khi mới thành lập, ngoài các vị giảng viên trực tiếp giảng dạy mà mỗi người có một nhiệm vụ riêng thì triều đình còn cử ra một vị đại thần trực tiếp quản lý và điều hành công việc của trường, thường là do quan Thượng thư kiêm nhiệm.

Đến đời Trần (1225-1400), năm 1236 dưới đời Trần Thái Tông (1225-1258) đổi tên Quốc tử giám thành Quốc học viện và sau đó lại một lần nữa đổi thành Thái học viện (Nhà Thái học). Sau đó, lần đầu tiên, triều đình mới cử quan trực tiếp chuyên trách về giáo dục cả nước và dạy học, lãnh đạo nhà trường, đó là quan Quốc tử giám Tư nghiệp. Chức vụ này được đặt ra vào các triều Trần Minh Tông (1314-1329), Trần Hiến Tông (1329-1341), Trần Dụ Tông (1341-1369).

 Như vậy, có thể xem quan Tư nghiệp lúc bấy giờ chính là Hiệu trưởng của trường và Chu Văn An (1292- 1370) là Hiệu trưởng đầu tiên. Do trước đó, các đại thần (thường là Thượng thư) kiêm nhiệm công việc quản lý nhà trường (mà phẩm hàm của họ lớn hơn phẩm hàm của quan quản lý chuyên trách nhà trường) nên sử sách của ta không ghi rõ những vị lãnh đạo của trường từ khi mới thành lập cho đến giữa đời Trần. Vì thế, lịch sử Văn miếu - Quốc tử giám mới ghi nhận quan Tư nghiệp Chu Văn An là Hiệu trưởng đầu tiên.

Từ triều Hậu Lê sơ (1428-1527) cho đến triều Nguyễn (1802-1945), trường lại mang tên là Quốc tử giám. Về địa điểm của trường, từ triều Lê trung hưng (1433-1788) trở về trước được đặt tại Thăng Long (Hà Nội với địa điểm như hiện nay), sang triều Nguyễn, Văn miếu và Quốc tử giám lại được các vua Nguyễn cho xây tại kinh đô Phú Xuân (Huế).

Tên chức quan lãnh đạo Quốc tử giám cũng có sự thay đổi theo triều đại. Triều Trần, người quản lý cao nhất trường học này là quan Tư nghiệp. Từ nhà Hồ (1400-1407) đến các triều đại sau, người lãnh đạo trường Quốc tử giám là quan Tế tửu Quốc tử giám. Có thể coi chức Tế tửu Quốc tử giám như là Hiệu trưởng trường Đại học (hoặc Giám đốc Đại học Quốc gia) ngày nay, mang hàm chánh tứ phẩm 4a, còn Tư nghiệp chỉ là vị đứng thứ nhì, mang hàm tòng tứ phẩm 4b, tương đương Phó Hiệu trưởng (hoặc Phó Giám đốc Đại học Quốc gia) phụ trách chuyên môn.

Riêng triều Nguyễn Gia Long (1802-1820) năm thứ ba 1804 có thay đổi chức vụ quan lãnh đạo Quốc tử giám là Đốc học (hàm chánh tứ phẩm), và Phó Đốc học (hàm tòng tứ phẩm), sang đến Minh Mệnh (1820-1847) vào năm thứ hai 1821, nhà vua đặt lại chức Tế tửu và Tư nghiệp như cũ.

 

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Salut reacted
Trả lờiTrích dẫn
Trang 5 / 9
Chia sẻ: