Notifications
Clear all

Quan chế Việt Nam thời phong kiến

123 Bài viết
8 Thành viên
181 Reactions
7,843 Lượt xem
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

Đăng bởi: @coco

Đăng bởi: @coco

Đăng bởi: @coco

3. Quốc tử giám

Năm 1070, vua Lý Thánh Tông (1054-1072) cho xây dựng Văn miếu để thờ Khổng Tử, Chu Công, Tứ phối và Thất thập nhị hiền, tôn vinh Nho học. Đến năm 1076, Lý Nhân Tông (1072-1127) cho xây dựng Quốc tử giám. Đây là trường quốc lập đa cấp học đầu tiên của nước ta (đào tạo từ bậc Mông học, Tiểu học, Trung học, Đại học và trên Đại học). Ban đầu, khi mới thành lập, người học trường này là con em vua chúa, hoàng tộc, con các quan đại thần và những quan lại, người nào biết chữ nghĩa thì cho vào học. Về sau, đối tượng có mở rộng hơn, cho cả sĩ tử bình dân vào học.

Từ khi mới thành lập, ngoài các vị giảng viên trực tiếp giảng dạy mà mỗi người có một nhiệm vụ riêng thì triều đình còn cử ra một vị đại thần trực tiếp quản lý và điều hành công việc của trường, thường là do quan Thượng thư kiêm nhiệm.

Đến đời Trần (1225-1400), năm 1236 dưới đời Trần Thái Tông (1225-1258) đổi tên Quốc tử giám thành Quốc học viện và sau đó lại một lần nữa đổi thành Thái học viện (Nhà Thái học). Sau đó, lần đầu tiên, triều đình mới cử quan trực tiếp chuyên trách về giáo dục cả nước và dạy học, lãnh đạo nhà trường, đó là quan Quốc tử giám Tư nghiệp. Chức vụ này được đặt ra vào các triều Trần Minh Tông (1314-1329), Trần Hiến Tông (1329-1341), Trần Dụ Tông (1341-1369).

 Như vậy, có thể xem quan Tư nghiệp lúc bấy giờ chính là Hiệu trưởng của trường và Chu Văn An (1292- 1370) là Hiệu trưởng đầu tiên. Do trước đó, các đại thần (thường là Thượng thư) kiêm nhiệm công việc quản lý nhà trường (mà phẩm hàm của họ lớn hơn phẩm hàm của quan quản lý chuyên trách nhà trường) nên sử sách của ta không ghi rõ những vị lãnh đạo của trường từ khi mới thành lập cho đến giữa đời Trần. Vì thế, lịch sử Văn miếu - Quốc tử giám mới ghi nhận quan Tư nghiệp Chu Văn An là Hiệu trưởng đầu tiên.

Từ triều Hậu Lê sơ (1428-1527) cho đến triều Nguyễn (1802-1945), trường lại mang tên là Quốc tử giám. Về địa điểm của trường, từ triều Lê trung hưng (1433-1788) trở về trước được đặt tại Thăng Long (Hà Nội với địa điểm như hiện nay), sang triều Nguyễn, Văn miếu và Quốc tử giám lại được các vua Nguyễn cho xây tại kinh đô Phú Xuân (Huế).

Tên chức quan lãnh đạo Quốc tử giám cũng có sự thay đổi theo triều đại. Triều Trần, người quản lý cao nhất trường học này là quan Tư nghiệp. Từ nhà Hồ (1400-1407) đến các triều đại sau, người lãnh đạo trường Quốc tử giám là quan Tế tửu Quốc tử giám. Có thể coi chức Tế tửu Quốc tử giám như là Hiệu trưởng trường Đại học (hoặc Giám đốc Đại học Quốc gia) ngày nay, mang hàm chánh tứ phẩm 4a, còn Tư nghiệp chỉ là vị đứng thứ nhì, mang hàm tòng tứ phẩm 4b, tương đương Phó Hiệu trưởng (hoặc Phó Giám đốc Đại học Quốc gia) phụ trách chuyên môn.

Riêng triều Nguyễn Gia Long (1802-1820) năm thứ ba 1804 có thay đổi chức vụ quan lãnh đạo Quốc tử giám là Đốc học (hàm chánh tứ phẩm), và Phó Đốc học (hàm tòng tứ phẩm), sang đến Minh Mệnh (1820-1847) vào năm thứ hai 1821, nhà vua đặt lại chức Tế tửu và Tư nghiệp như cũ.

Về biên chế, đội ngũ quản lý và giảng viên của Quốc tử giám dưới triều Hậu Lê gồm: Tế tửu, Tư nghiệp, Ngũ kinh Giáo thụ, Ngũ kinh Học sĩ, Giám bạ. Còn dưới triều Nguyễn gồm: Tế tửu, Tư nghiệp, Ngũ kinh Bác sĩ, Ngũ kinh Giáo thụ, Ngũ kinh Học sĩ, Trực giảng, Học chính, Giám thừa, Điển bạ, Điển tịch, Nhập lưu thư lại, v.v… mỗi người một nhiệm vụ chuyên lo việc giảng dạy và giáo dục.

Về đối tượng học, người theo học tại trường Quốc tử giám thường được gọi là Giám sinh, gồm bốn hạng:

- Tôn học sinh tức con em hoàng tộc, do Tôn nhân phủ lựa chọn cho vào học.

- Cống sinh do các quan địa phương tuyển chọn cho vào học.

- Ấm sinh là con các quan được triều đình tiến cử lựa chọn.

- Cử nhân do Bộ Lễ chọn vào học để chờ khoa thi Hội, thi Đình sau đó.

 

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

4. Các cơ quan luật pháp, hình án

Bên cạnh Bộ Hình và Đại lý Tự, tại triều đình trung ương còn có các cơ quan chuyên trách về pháp luật và hình án, đó là Đình uý ty và Ngũ hình viện.

- Đình uý ty: Cơ quan chuyên trách này được thành lập dưới triều nhà Trần. Ban đầu có tên là Đăng văn viện, đứng đầu có quan Kiểm pháp. Sau đó đổi thành Đình uý ty, có quan Đình uý đứng đầu. Từ đó, các triều đại sau không thay đổi. Nhiệm vụ của Đình uý ty là tra xét lại các án nặng, án trọng mà có điều còn nghi ngờ.  

- Ngũ hình viện: Nhà Trần thành lập Thẩm hình viện. Nhà Hậu Lê thành lập Ngũ hình viện gồm năm viện là: Thẩm hình, Tả hình, Hữu hình, Tường hình, Tự hình. Nhiệm vụ của mỗi hình viện như thế nào hiện chưa rõ, chỉ biết đây là cơ quan trông coi việc thẩm định lại hình án (đã được xét xử ở địa phương) trong cả nước cùng với Bộ Hình, Đại lý Tự và Ngự sử đài. Điều hành công việc trong mỗi viện thuộc Ngũ hình viện là quan Lang trung (hàm Chánh lục phẩm), giúp việc có quan Viên ngoại lang (hàm Tòng lục phẩm).

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

5. Thông chính ty

Cơ quan này có từ triều Hậu Lê sơ, đời Lê Thánh Tông (1460-1497). Đây là cơ quan có nhiệm vụ giữ việc chuyển đạt công văn, chỉ dụ của triều đình đến các quan địa phương, đến dân chúng và chuyển đệ đơn từ của dân chúng lên triều đình. Lãnh đạo Thông chính ty là quan Thông chính sứ (mang hàm Tòng tứ phẩm 4b) và phụ giúp việc có quan Chính tuyến Phó Thông chính (mang hàm Tong ngũ phẩm 5b).

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

6. Các cơ quan khác

Bên cạnh các cơ quan trên, dưới triều vua Lê Thánh Tông về sau, triều đình còn đặt thêm một số cơ quan giúp việc cho Bộ Hộ nhằm khuyến khích phát triển nông nghiệp trong cả nước, đó là:

- Sở Đồn điền: Sở này chuyên lo việc phân loại ruộng đất tốt xấu, kiểm tra và sửa sang các công trình thuỷ lợi. Quan đứng đầu Sở là Đồn điền sở sứ mang hàm Chánh cửu phẩm và giúp việc có quan Đồn điền phó sứ mang hàm Tòng cửu phẩm.

- Sở Tàm tang: chuyên trách công việc khuyến khích nhân dân trồng dâu nuôi tằm, có quan đứng đầu là Tàm tang sở sứ mang hàm Chánh cửu phẩm và quan Tàm tang phó sứ mang hàm Tòng cửu phẩm giúp việc.

- Sở Thực thái: chuyên lo công việc trồng rau và các loại thực phẩm khác để cung cấp cho triều đình, có quan Thái thực sở sứ mang hàm Chánh cửu phẩm đứng đầu.

- Sở Điền mục: chuyên lo việc chăn nuôi súc vật trong cả nước, có quan Điền mục sở sứ trông coi.

- Ngoài ra, triều đình còn đặt các chức quan như Khuyến nông chánh, phó sứ (hàm Chánh/Tòng cửu phẩm) để đôn đốc khuyến khích nhân dân chú trọng làm nông nghiệp; Hà đê chánh, phó sứ (hàm Chánh/Tòng cửu phẩm) lo việc kiểm tra, sửa sang và gìn giữ hệ thống đê điều.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

CÁC CƠ QUAN KIỂM SÁT

1. Ngự sử đài

Từ triều nhà Lý (1010-1225) trở về trước, chưa đặt ra cơ quan này mà đến đầu đời Trần, Ngự sử đài mới được thành lập.

Nhiệm vụ chính của Ngự sử đài là khuyến cáo, chỉ rõ những lỗi lầm của vua, can gián vua; đàn hặc hoặc buộc tội các quan; bàn bạc chính sự đương thời với các triều thần khi vua thiết triều; cùng với Bộ Hình, Đại lý Tự xem xét để duyệt lại các trọng án.

Các quan làm việc ở Ngự sử đài vào triều nhà Trần có các chức như Thị Ngự sử, Giám sát Ngự sử, Ngự sử Trung tán, Ngự sử Trung thừa, Ngự sử Đại phu, Chủ thư Thị ngự sử. Như vậy, quan đứng đầu Ngự sử đài dưới triều nhà Trần là Thị Ngự sử. Còn chức Ngự sử đài Chánh chưởng mà Nguyễn Trãi từng làm dưới triều nhà Hồ (1400-1407) sau khi vừa thi đỗ Thái học sinh thì có thể xem chức vụ này như là Chánh văn phòng của Ngự sử đài (người giữ ấn dấu của Ngự sử đài).

Sang triều Hậu Lê sơ, đời Lê Thái Tổ (1428-1433), vẫn theo lệ triều Trần, đặt các chức Thị ngự sử, Ngự sử Trung thừa, Ngự sử Phó Trung thừa, Giám sát Ngự sử, Chủ bạ. Sau đó, mới đặt chức Đô Ngự sử, Phó Đô Ngự sử, Thiêm Đô Ngự sử, Ngự sử Đại phu làm trưởng quan ở Ngự sử đài. Như vậy, đầu Hậu Lê sơ, đứng đầu Ngự sử đài là quan Đô Ngự sử, giúp việc có ba vị Phó Đô Ngự sử, Thiêm Đô Ngự sử, Ngự sử Đại phu. Đến đời Lê Thánh Tông (1460-1497), định lại quan chế, lúc này các vị trưởng quan tại Ngự sử đài gồm: đứng đầu là Đô Ngự sử (hàm Chánh tam phẩm), tiếp theo có Phó Đô Ngự sử (hàm Chảnh tứ phẩm), Thiêm Đô Ngự sử (hàm Tòng tứ phẩm hoặc Chánh ngũ phẩm), Ngự sử Đại phu (hàm Chánh ngũ phẩm). Ngoài ra, còn có quan Đề hình Giám sát Ngự sử chuyên coi việc hình án mà những án này Ngự sử đài đã kiểm tra lại và buộc tội khi Bộ Hình đã xét án đó xong.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

Đăng bởi: @coco

CÁC CƠ QUAN KIỂM SÁT

1. Ngự sử đài

Từ triều nhà Lý (1010-1225) trở về trước, chưa đặt ra cơ quan này mà đến đầu đời Trần, Ngự sử đài mới được thành lập.

Nhiệm vụ chính của Ngự sử đài là khuyến cáo, chỉ rõ những lỗi lầm của vua, can gián vua; đàn hặc hoặc buộc tội các quan; bàn bạc chính sự đương thời với các triều thần khi vua thiết triều; cùng với Bộ Hình, Đại lý Tự xem xét để duyệt lại các trọng án.

Các quan làm việc ở Ngự sử đài vào triều nhà Trần có các chức như Thị Ngự sử, Giám sát Ngự sử, Ngự sử Trung tán, Ngự sử Trung thừa, Ngự sử Đại phu, Chủ thư Thị ngự sử. Như vậy, quan đứng đầu Ngự sử đài dưới triều nhà Trần là Thị Ngự sử. Còn chức Ngự sử đài Chánh chưởng mà Nguyễn Trãi từng làm dưới triều nhà Hồ (1400-1407) sau khi vừa thi đỗ Thái học sinh thì có thể xem chức vụ này như là Chánh văn phòng của Ngự sử đài (người giữ ấn dấu của Ngự sử đài).

Sang triều Hậu Lê sơ, đời Lê Thái Tổ (1428-1433), vẫn theo lệ triều Trần, đặt các chức Thị ngự sử, Ngự sử Trung thừa, Ngự sử Phó Trung thừa, Giám sát Ngự sử, Chủ bạ. Sau đó, mới đặt chức Đô Ngự sử, Phó Đô Ngự sử, Thiêm Đô Ngự sử, Ngự sử Đại phu làm trưởng quan ở Ngự sử đài. Như vậy, đầu Hậu Lê sơ, đứng đầu Ngự sử đài là quan Đô Ngự sử, giúp việc có ba vị Phó Đô Ngự sử, Thiêm Đô Ngự sử, Ngự sử Đại phu. Đến đời Lê Thánh Tông (1460-1497), định lại quan chế, lúc này các vị trưởng quan tại Ngự sử đài gồm: đứng đầu là Đô Ngự sử (hàm Chánh tam phẩm), tiếp theo có Phó Đô Ngự sử (hàm Chảnh tứ phẩm), Thiêm Đô Ngự sử (hàm Tòng tứ phẩm hoặc Chánh ngũ phẩm), Ngự sử Đại phu (hàm Chánh ngũ phẩm). Ngoài ra, còn có quan Đề hình Giám sát Ngự sử chuyên coi việc hình án mà những án này Ngự sử đài đã kiểm tra lại và buộc tội khi Bộ Hình đã xét án đó xong.

Ngự sử đài tại triều đình trung ương có bốn cơ quan trực thuộc là:

- Kinh lịch ty: Chuyên coi việc đăng lục, sao chép các án, có quan Kinh lịch (hàm Tòng bát phẩm) đứng đầu.

- Tư vụ sảnh: Chuyên trách tổng quát các việc lặt vặt thường ngày của Ngự sử đài, có quan Tư vụ (hàm Tòng bát phẩm) đứng đầu.

- Chiếu ma sở: chuyên lo việc ghi chép giấy tờ, công văn, văn thư, sổ sách, có quan Chiếu ma (hàm Tòng bát phẩm) phụ trách.

- Án ngục ty: Chuyên coi về hình ngục, có quan Ngục thừa đứng đầu. Bên cạnh Ngự sử đài tại triều đình như trên, vua Lê Thánh Tông còn cho đặt Ngự sử đài ở 13 đạo (thừa tuyên) do quan Giám sát Ngự sử các Đạo phụ trách lo việc trong Đạo được phân công.

 

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

2. Lục Khoa (Sáu Khoa)

Lê Nghi Dân sau khi giành được ngôi vua, tuy chỉ ở ngôi trong tám tháng (1459-1460) nhưng cũng đã có một số cải cách về hành chính, như đặt ra đủ Lục Bộ mà trước đó các triều đại nhà Hậu Lê sơ mới chỉ đặt ra ba Bộ. Sau khi lập đủ sáu Bộ, Lê Nghi Dân còn đặt ra Lục Khoa. Cơ quan này có nhiệm vụ kiểm sát và thanh tra các công việc đã làm của Lục Bộ. Dưới triều Lê Nghi Dân, Lục Khoa bao gồm: Trung thư Khoa, Hải Khoa, Đông Khoa, Tây Khoa, Nam Khoa, Bắc Khoa mà sau này Lê Thánh Tông (1460-1497) đổi thành các Khoa tương ứng như sau: Lại Khoa, Hộ Khoa, Lễ Khoa, Hình Khoa, Binh Khoa, Công Khoa.

Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, nhiệm vụ mỗi Khoa được phân định cụ thể như sau:

Lại Khoa: Bên cạnh việc kiểm sát và thanh tra việc làm của Bộ Lại, Khoa này còn có chức năng được phép bác bỏ cho có sức thuyết phục về việc cất nhắc, ban thưởng không đúng quy định của triều đình mà Bộ Lại đã làm.

Hộ Khoa: Kiểm sát, thanh tra và giúp đỡ Bộ Hộ trong việc thu vào và xuất ra những vật dụng, tiền bạc, kiểm tra sổ sách ghi chép các loại thuế.

Lễ Khoa: Có nhiệm vụ được phép đàn hặc những việc sai sót của Bộ Lễ trong nhiệm vụ thực thi lễ nghi để tấu trình cho nhà vua rõ.

Hình Khoa: Có nhiệm vụ luận bàn về công việc của Bộ Hình, xét xem và thẩm tra Bộ Hình có thực hiện đúng theo nội dung phán quyết về các hình án mà các cơ quan Bộ Hình, Đại lý Tự, Ngự sử đài đã phối hợp chuẩn y hay không.

Binh Khoa: Giám sát và kiểm tra công việc của Bộ Binh.

Công Khoa: Có nhiệm vụ kiểm tra công việc làm của Bộ Công, xét xem thời hạn thi công các công trình có đúng với tiến độ theo kế hoạch dự án hay không, có đúng với thiết kế hay không.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Hà Tam reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

TỔ CHỨC NHÀ NƯỚC TẠI CÁC ĐỊA PHƯƠNG QUA CÁC TRIỀU ĐẠI

1. CẤP VÙNG, CẤP TỈNH

Cấp địa phương tại kinh đô qua các triều đại, triều đình đều có đặt cấp Phủ và quan đứng đầu là Phủ doãn, bên dưới có Phủ thừa, Đề lãnh.

Tại các địa phương, tên gọi đơn vị hành chính cấp này mỗi thời mỗi khác. Thời Lý - Trần là Trấn, sang triều Hậu Lê là Thừa tuyên, Đạo và triều Nguyễn ban đầu dưới đời Gia Long đặt Doanh Trấn, từ Minh Mệnh trở đi đặt Tỉnh cho đến nay.

Thời Lý - Trần, đứng đầu Trấn là Tổng trấn, cấp dưới có Hiệp trấn, Tham hiệp trấn.

Thời Hậu Lê, đứng đầu Thừa tuyên hoặc Đạo có quan Hiến sát sứ, Thừa ty và Hiến ty, về sau đổi thành Tham trấn, Hiệp trấn, Tham hiệp trấn, rồi bãi bỏ chức Tham trấn thay vào đó là chức Lưu thủ. Sau đặt thêm chức Đốc đồng để trông coi mọi việc trong Trấn.

Thời các chúa Nguyễn và đời Gia Long, đứng đầu Doanh, Trấn có Trấn thủ, Hiệp trấn, Tham hiệp trấn.

Từ đời Minh Mệnh trở đi, đặt cấp Tỉnh để thay các cấp địa phương trên.

Tại các Tỉnh lớn (như Sơn Hưng Tuyên gồm Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang hay Định Biên gồm Gia Định, Biên Hòa) đứng đầu là Tổng đốc với nhiệm vụ quản lý chung; Người chuyên lo nội vụ, điền thổ, thuế khoá, hộ tịch là quan Bố chánh (trước là Cai bạ); Người chuyên lo việc tư pháp hình án là quan Án sát; Người chuyên lo về giáo dục và trực tiếp dạy cho học sinh tại trường tỉnh là Đốc học; Người coi về quân đội là quan Đề đốc.

Tại các Tỉnh nhỏ, quan đầu Tỉnh là Tuần phủ, tiếp theo thứ tự là Bố chánh hoc Cai bạ, Án sát, Đốc học, Lãnh binh.

Tại tỉnh miền núi, đứng đầu là Quản đạo và Phó Quản đạo.

Riêng tại Bắc thành và Gia Định thành dưới đời Gia Long có đặt chức Tổng trấn để thay mặt nhà vua chăm lo toàn bộ công việc ở Bắc kỳ và Nam kỳ (chc vụ này bị bãi bỏ dưới triều Minh Mệnh vào năm 1831, 1832).

Về phẩm hàm ngạch trật, tuỳ theo thâm niên của vị quan đương nhiệm và tuỳ theo tỉnh lớn tỉnh nhỏ mà vị quan quản lý cấp này có khi mang hàm cao nhất là tòng nhị phẩm (2b), chánh tam phẩm (3a), và thường là tòng tam phẩm (3b). Riêng ti tnh (ph) kinh đô dưới thi nhà Nguyn, vquan đứng đầu là Phủ doãn, giúp vic có Phủ thừa. Uy vin Tướng công Nguyn Công Trtrước khi vhưu đã tng gichc Phủ doãn Tha Thiên.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Hà Tam reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

2. CẤP PHỦ, HUYỆN

Đơn vị hành chính cấp này dưới thời Lý - Trần là Lộ, Phủ và quan đứng đầu là Lộ phủ sứ, An phủ sứ.

Thời Hậu Lê, thời Nguyễn là Phủ, có quan Tri phủ quản lý tất cả công việc của phủ, kể cả hình án tư pháp. Phụ giúp công việc cho quan Tri phủ có các quan khác mà mỗi chức danh đảm niệm các công việc riêng, như quản lý giáo dục và trực tiếp dạy học cho học sinh tại trường Phủ thì có quan Giáo thụ.

Dưới Phủ là cấp Huyện, đứng đầu là Tri huyện lo công việc chung, kể cả hình án tư pháp; tiếp đến là Huyện thừa, Huyện lệnh chuyên lo việc sổ sách giấy tờ hộ tịch; Huyện úy lo về việc binh bị, trật tự trị an; Huấn đạo lo quản lý giáo dục và trực tiếp giảng dạy cho học sinh tại trường Huyện. Cấp này tại miền núi gọi là Châu mà quan đứng đầu là Tri châu. Về phẩm hàm, quan Tri phủ thường là chánh, tòng ngũ phẩm (5a, 5b) và quan Tri huyện thường là chánh, tòng lục phẩm, có khi là chánh thất phẩm (6a, 6b, 7a); Tri châu thì thp hơn cp huyn mt bc.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Hà Tam reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

CẤP LÀNG XÃ

Thời Lý - Trần thì gọi là Hương Tổng, các thời sau gọi theo thứ tự là Tổng, Xã, Làng, Thôn.

Mỗi thời, các chức danh quản lý các cấp này có tên gọi khác nhau. Đại để, đứng đầu Tổng là Chánh tổng, Phó tổng, bên cạnh có Hội đồng Kỳ hào (Hội đồng Kỳ mục) với tư cách là ban tư vấn đề ra các chủ trương, các công việc cần làm trong Tổng để các chức dịch thi hành. Đứng đầu cấp Xã là Lý trưởng, Phó lý; đứng đầu Thôn có vị Hương trưởng. Bên cạnh có một Hội đồng Hương hào với tư cách là ban tư vấn đề ra những chủ trương, công việc chung để các chức dịch cấp xã, hương thi hành. Ở Hội đồng Kỳ hào, Hội đồng Hương hào đều cử từng thành viên Hội đồng mỗi người chuyên phụ trách mỗi việc với chức danh, tên gọi riêng. Chẳng hạn, Hương sư lo về công tác giáo dục như mở trường, mời thầy dạy học, vận động con em đến lớp, theo dõi đôn đốc vic hc; Hương kiểm lo về trật tự trị an, quản lý các Trương tuần và đội dân phòng; Hương bộ lo về sổ sách giấy tờ, hộ tịch; Hương mục trông coi việc ruộng đất, đàn trâu bò, hệ thống nước tưới tiêu; Hương bản chuyên thu giữ tài chính công, tổ chức tế lễ nơi đình miếu đền chùa tại làng xã v.v… Cấp Tổng, Xã, Thôn thường là do đại diện nhân dân trong địa bàn bầu ra, có nhiệm kỳ, được quan Tri phủ, Tri huyện công nhận và cấp dấu triện đồng để làm việc.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Hà Tam reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

TỔ CHỨC QUÂN ĐỘI

- Nhà Ngô (938-965) vì sử xưa không chép nên hiện chưa rõ các tổ chức quân đội và người chỉ huy tối cao là chức vụ gì. Từ lời dụ Dự đại phá Hoằng Thao chi kế (Bày kế đánh tan quân Hoằng Thao) của Ngô Quyền, tạm suy đoán người chỉ huy tối cao quân đội cũng chính là nhà vua (Ngô Quyền), trực tiếp lãnh đạo, bày mưu kế, hoạch định chiến lược chiến thuật trong các trận đánh.

- Nhà Đinh (968-980), theo Đại Việt sử ký toàn thư, Đinh Tiên Hoàng chia nước làm 10 đạo và tại mỗi đạo trong nước, triều đình tổ chức các đơn vị quân đội địa phương như sau:

1 đạo = 10 quân;

1 quân = 10 lữ;

1 lữ = 10 tốt;

1 tốt = 10 ngũ;

1 ngũ = 10 lính

Tổng chỉ huy quân đội được gọi là Thập đạo tướng quân (tướng đứng đầu 10 đạo quân), Lê Hoàn từng giữ chức này. Ngoài Lê Hoàn, sử sách ghi chép rất ít về các chức danh quân đội khác, có thêm Phạm Cự Lượng làm Đại tướng quân vào thời điểm năm 980. Ngoài ra còn có Cấm binh (quân Điện tiền), lực lượng này có khoảng 2.000 người, là những binh lính được lựa chọn từ những người ưu tú trong toàn quân, nhiệm vụ canh giữ triều đình, bảo vệ nhà vua, hoàng tộc và gìn giữ trật tự an ninh nơi kinh đô.

Theo cách tổ chức này, tổng số quân đội nhà Đinh là 1 triệu người. Lịch triều Hiến chương loại chí: “Lúc bấy giờ binh và nông chưa chia, khi có việc thì gọi ra, xong việc thì về làm ruộng”, nên con số quân thường trực chắc thấp hơn nhiều.

Quân đội được tổ chức thành các binh chủng bộ binh và thủy binh. Việc thành lập quân đội nhà Đinh được các sử gia ghi nhận là sự ra đời của quân đội được tổ chức chính quy đầu tiên trong lịch sử Việt Nam

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Hà Tam reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

- Nhà Tiền Lê (981-1009), năm Thiên Phúc thứ 7 (986), Lê Đại Hành đặt binh Túc vệ, gọi là Thân quân, cho khắc trên trán ba chữ “Thiên tử quân”. Đến năm Thiên Phúc thứ 8 (988), vua lại định quân ngũ, chia tướng hiệu làm hai ban. Người đứng đầu chỉ huy tối cao quân đội dưới triều nhà Tiền Lê là Đô Chỉ huy sứ. Tiếp đến là Điện tiền Chỉ huy sứ gồm hai vị tướng Tả Điện tiền và Hữu điện tiền (Lý Công Uẩn trước khi được triều thần tôn lên làm vua đã từng giữ chức Tả Thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ dưới triều đại này).

Quân đội Tiền Lê được tổ chức thành hai lực lượng chính là quân Cấm vệ và quân Vương hầu.

Quân Cấm vệ (còn gọi là quân Điện tiền hay quân Túc vệ): là lực lượng thường trực của Quân đội Tiền Lê và của triều đình. Lực lượng này được biên chế, tổ chức khá hoàn chỉnh, trên cơ sở đổi mới quân Điện tiền của nhà Đinh. Quân Cấm vệ có khoảng 3.000 người, được lựa chọn trong các đơn vị quân đội, hàng năm được bổ sung từ những đinh tráng khỏe mạnh nhất trong cả nước. Quân Cấm vệ gồm có hai bộ phận chính, quân Tùy long làm nhiệm vụ canh gác, bảo vệ nơi vua ở và làm việc, quân Tứ sương làm nhiệm vụ canh gác bên ngoài các vòng thành ở kinh đô Hoa Lư.

Đứng đầu lực lượng quân Cấm vệ là một viên tướng có chức danh Điện tiền chỉ huy sứ, giúp việc cho Điện tiền chỉ huy sứ có Phó Điện tiền chỉ huy sứ, đồng thời trực tiếp chỉ huy bộ phận quân Tứ sương.

Các binh sỹ trong lực lượng Cấm quân đều phải thích trên trán ba chữ “Thiên tử quân” để phân biệt với các lực lượng khác trong quân đội.

Quân Vương hầu (còn gọi là quân Vương phủ), đây là những đội quân riêng của những người được nhà vua phong tước vương. Lực lượng này được hình thành từ khoảng năm 981 - 995, khi Lê Hoàn (Lê Đại Hành) phong tước cho một số thái tử, con nuôi của vua và được cử trấn trị ở các địa phương.

Quân Vương hầu là lực lượng nòng cốt ở các đạo (đơn vị hành chính được tổ chức dưới thời nhà Đinh vẫn được duy trì dưới thời Tiền Lê). Lực lượng này tuy là quân riêng của các vương hầu, song về nguyên tắc vấn thuộc quyền điều khiển của nhà vua.

Khi có việc chinh chiến, triều đình sẽ hạ chiếu gọi thanh niên đinh tráng bổ sung cho quân đội.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

Nhà Lý (1009-1225),

Quân đội nhà Lý được chuyển thuộc tự nhiên từ quân đội nhà Tiền Lê sang, về cơ bản, tổ chức biên chế không có sự thay đổi lớn. Lực lượng vũ trang của nhà Lý được tổ chức theo nguyên tắc Thân quân với lực lượng thường trực chuyên nghiệp và Sương quân với lực lượng bán chuyên nghiệp.

Năm Thuận Thiên thứ 2 (1011), Lý Thái Tổ (1009-1028) đặt quân Túc xa gồm hai ban Tả Túc xa và Hữu Túc xa, mỗi ban 500 người, là đội quân chuyên theo hầu xe vua (theo Đại Việt sử ký toàn thư). Bên cạnh, nhà Lý còn đặt quân Túc vệ gồm Tả quân và Hữu quân là thân binh, cấm quân chuyên lo bảo vệ nhà vua, hoàng tộc và kinh đô. Các quân này đều cho thích ở trán, bụng và ở vế ba chữ “Thiên tử quân”.

Lực lượng thường trực chuyên nghiệp được tổ chức thành hai bộ phận: quân Cấm vệ của triều đình và quân Vương hầu của các hoàng tử, thân vương, đại thần ở các lộ, châu, phủ.

Dưới thời Lý, quân Cấm vệ được tổ chức biên chế không thống nhất, tùy theo từng đời vua. Quân Cấm vệ có các quân (vệ) biên chế mỗi quân (vệ) có 500 người hay 200 người. Triều vua Lý Thái Tổ (1010 - 1028), trong lực lượng quân Cấm vệ có 6 vệ, mỗi vệ biên chế 500 người, Lý Thái Tông (1028 - 1054), quân Cấm vệ có 10 vệ, mỗi vệ biên chế 200 người, Lý Thánh Tông (1054 - 1072), quân Cấm vệ có 16 vệ, mỗi vệ biên chế 200 người…

Đứng đầu quân Cấm vệ là Điện tiền chỉ huy sứ. Căn cứ vào độ tin cậy và sự tài nghệ, quân Cấm vệ được chia làm hai loại: quân Ngự tiền và quân Điện tiền. Quân Ngự tiền làm nhiệm vụ bảo vệ nơi ở của vua, còn quân Điện tiền bảo vệ cấm thành. Các đơn vị quân Ngự tiền dưới quân được tổ chức thành các đô, hỏa, còn các quân (vệ) của lực lượng khác (các phủ, lộ) được tổ chức thành các giáp, mỗi giáp biên chế 15 người.

Quân Vương hầu (quân địa phương) theo quy định của triều đình, mỗi nơi chỉ được tổ chức một lực lượng khoảng 500 người, khi có sự biến chiến tranh, lực lượng này được phát triển nhanh chóng về số lượng và đặt dưới sự điều hành thống nhất của nhà vua.

Chỉ huy tối cao toàn quân là Đô thống. Dưới có các chức như Nguyên suý, Tổng quản Khu mật sứ, Tả Hữu Kim ngô, Thượng tướng, Đại tướng, Đô tướng, Vệ tướng quân, Chỉ huy sứ.

Lý Thái Tông (1028-1054), vào năm Thiên Thành thứ nhất (1028), nhà vua cho đặt 10 vệ Điện tiền cấm quân, gồm Tả Điện tiền cấm quân và Hữu Điện tiền cấm quân, chia ra đóng trại vòng quanh trong Cấm thành, gọi chung là Thập vệ. Năm 1051 niên hiệu Sùng hưng Đại bảo thứ ba, vua còn đặt thêm Tuỳ xa long quân (quân theo xe vua) ở trong và ở ngoài. “Tân Mão, [Sùng Hưng Đại Bảo] năm thứ 3 [1051], mùa xuân, tháng giêng, đặt quân tùy xa long, nội ngoại, sai Tả kiều vệ tướng quân Trần Nẫm trông coi” - ĐVSKTT.

Sau đó, vua Lý Thánh Tông (1054-1072) cho đặt tên các quân hiệu của quân Cấm vệ và cho thích chữ ở trán như đời Tiền Lê. Đặt thêm Sương quân gồm 9 đội thay phiên nhau canh giữ cổng thành kinh đô, 1-2 tháng một phiên, hết phiên trở về cày cấy, đến lượt thì trở lại canh gác. Chính sách này dưới thời Lý được gọi là “ngụ binh ư nông” (lính gửi trong dân).

Vào năm 1119, vua Lý Nhân Tông (1072-1127) còn chia quân lính làm hai hạng, người nào có sức khoẻ thì sung vào sáu binh tào và cho làm Hỏa đầu ở các vệ; còn người nào sức khoẻ yếu hơn thì cho làm lính ở các vệ khác.

Thời bình, nhà Lý chỉ duy trì một lực lượng vũ tang thường trực cần thiết, chú trọng phân hạng dân đinh trong cả nước. Với chính sách này, nhà Lý có thể huy động một lực lượng lớn đinh tráng vào quân đội trong một thời gian ngắn khi có chiến tranh xảy ra.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Salut reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

Đăng bởi: @coco

Nhà Lý

Quan chế triều Lý đại lược văn võ đều có 9 phẩm. Lấy 3 chức thái (Thái sư, Thái phó, Thái bảo), ba chức thiếu (Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo) cùng Thái úy, Thiếu úy và nội ngoại hành điện đô tri sự, kiểm hiệu bình chương sự, đều làm chức trọng yếu của văn võ đại thần.

Người thay mặt vua điều hành công việc (Tể tướng, đứng đầu triều đình) là Phụ quốc Thái uý hoc Phụ quốc Thái sư , vị này được vua gia phong danh hiệu Kiểm hiệu Bình chương Quân quốc trọng sự.

Ban văn thì có bộ thượng thư, tả hữu tham tri, tả hữu gián nghị và trung thư thị lang (thuộc quan thì có các chức trung thư thừa, trung thư xá nhân), bộ thị lang, tả hữu ty lang trung, thượng thư sảnh viên ngoại lang, đông tây cáp môn sứ, tả hữu phúc tâm, nội thường thị, phủ sĩ sư, điện học sĩ, hàn lâm học sĩ, vệ đại phu, thư gia các hỏa, thừa trực lang, thừa tin lang. Các chức kể trên đều là các chức quan trọng làm việc ở trong triều.

Chức quan đứng thứ 2 trong triều (Á tướng) có Tả Tham tri Chính sự và Hữu Tham tri Chính sự.

Các chức làm việc bên ngoài thì có những chức tri phủ, phán phủ và tri châu.

Võ ban thì có đô thống, nguyên soái, tổng quản, khu mật sứ, khu mật tả hữu sứ, tả hữu kim ngô, thượng tướng, đại tướng, đô tướng, tướng quân các vệ (có các hiệu Uy vệ, Kiêu vệ, Định thắng), chỉ huy sứ, vũ vệ hỏa đầu, cùng là sáu binh tào Vũ tiệp, Vũ lâm. Các chức kể trên đều là tướng hiệu, lĩnh binh chức ở trong. Còn ở ngoài thì các lộ, trấn, trại đều đặt quan và binh đóng giữ, về thứ bậc phẩm cấp thì chưa biết rõ.

Chức hành khiển, bắt đầu đặt từ đời Lý, chuyên lấy trung quan (hoạn quan) làm chức ấy, gia thêm danh hiệu "Nhập nội Hành khiển đồng trung thư môn hạ bình chương sự", cũng là chức đứng sau Tể tướng.

Quan chế nhà Trần

Quan chế đời Trần đại khái như nhà Tống, về danh hiệu các quan có phần hay hơn đời Lý nhưng về chức sự đại lược theo đời trước mà châm chước ít nhiều.

- Tôn thất: Hoàng trưởng tử phong tước Ðại vương, con thứ phong Vương, thứ nữa là Thượng vị hầu, con trưởng của Vương được phong Vương, con thứ phong Thượng vị hầu.

Từ trên xuống dưới: Vương, Thượng hầu, Tiếp hầu, Minh tự (các quan hầu cận thêm chữ “nội”), Tiếp Minh tự, Ðại liêu ban, Thân vương ban, Thái sư, Thái phó, Thái bảo, Tể tướng hoặc Tư đồ Tả Hữu Tướng quốc

Theo Ngô Thì Sỹ thì Vương hầu ở nhà riêng ở làng, khi làm Tể tướng mới giữ việc nước nhưng chỉ cầm đại cương, quyền hành ở Hành khiển, để bảo toàn danh dự cho tôn thất. Lệ cũ người cầm quyền đều là tôn thất, đến vua Anh Tông mới không kể thân sơ, dùng người ngoài.

Ngoài các đại thần văn ban, võ ban còn có Tăng quan (Quốc sư, Tăng thống…), Ðạo quan (Ðạo lục, Uy nghi…). Công việc chia cho các Quán, Các, Sảnh, Cục, Ðài, Viện.

 

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Salut reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4986.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1133
Topic starter  

Ðại yếu quan chế đời Trần:

A- Quan trong, ở trung ương:

a- Văn ban:

3 chức Thái, 3 chức Thiếu (sư, phó, bảo) coi cả việc quân việc dân, không phải như xưa chỉ có trách nhiệm bàn về trị đạo.

Tam Tư: Tư đồ, Tư mã, Tư không (thời Lý chưa có).

Thượng tể, Thái tể (Tể tướng) thì thêm danh hiệu tả hữu Tướng quốc Bình chương sự dành cho Thân vương thôi.

Ðại hành khiển (trước chỉ dùng hoạn quan, từ 1267 dùng người có văn học).

Thứ tướng thêm danh hiệu Tham tri chính sự, Nhập nội Hành khiển hoặc thêm tả phù hữu bật, tham dự triều chính.

Trung thư sảnh (Trung thư lệnh, Thị lang, Gián nghị đại phu, Tham nghị…) giữ việc đề nghị lên vua, vâng truyền mệnh lệnh).

Khu mật viện (Tham tri chính sự, Ðại sứ, Phó sứ…).

Môn hạ sảnh (Hành khiển, Lang trung, Viên ngoại lang…) giữ việc vâng theo lệnh chỉ của vua.

Thượng thư sảnh (Hành khiển, Bộc xạ, bộ Thượng thư, Lang trung, Viên ngoại…) vâng lệnh chỉ của Thượng hoàng.

Tuyên huy viện (Ðại sứ, Phó sứ…) giữ sổ sách các Ty, các ban trong cung, việc tế tự triều hội).
Thẩm hình viện (Ðại lý chính) định tội khi tụng án đã thành.

Bí thư sảnh (Bí thư giám, Hiệu thư…) giữ việc kinh tích đồ thư, quốc sử thực lục, thiên văn nhật lịch).

Quốc sử viện (Ðề điệu, Giám tu quốc sử…).

Tập hiền viện (Học sĩ…), giảng sách, bàn đạo trị nước với vua.

Thái sử cục vốn là Tư thiên giám (Thái sử lệnh, Thì hậu nghi lang…).

Tam quán học sinh: Thái học sinh, Thị thần học sinh, Tướng phủ học sinh.

Nội thị sảnh (Nội thị, Thiên chương các Học sĩ…) hầu vua tuyên chế lệnh.

Hàn lâm viện (Học sĩ, Thừa chỉ…) phụng ngự.

Sáu cục chi hậu (lấy vương hầu, tôn thất).

Mười thư gia (Nội hỏa thư gia, Ngự khố thư gia, Chi hạ thư gia, Lệnh thư gia…) là quan trong nội điện.

Ngự sử đài (Ngự sử đại phu, Ngự sử trung tán, Trung thừa, Trung tướng…).

Tam Ty viện (trước là Ðô vệ phủ) xét các án ngờ.

Ðình úy viện (vốn là Ðăng văn viện) tra xét hình án.

Thái y ty chữa bệnh trong cung.

Thái chúc ty coi lễ nhạc.

Tôn chính phủ giữ công việc họ hàng vua.

Quốc tử giám (Tư nghiệp dậy Hoàng tử).

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Salut reacted
Trả lờiTrích dẫn
Trang 6 / 9
Chia sẻ: