Notifications
Clear all

Tản mạn Truyện Kiều

114 Bài viết
13 Thành viên
254 Reactions
6,914 Lượt xem
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Thân thế, sự nghiệp Nguyễn Du

Theo gia phả của dòng họ Nguyễn Tiên Điền ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh, Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu (tức ngày 03/01/1766) tại phường Bích Câu, Thăng Long. Cha là Nguyễn Nghiễm, người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh), đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng), tước Xuân Quận công, triều Lê Trung hưng. Mẹ là bà Trần Thị Tần/Tấn (1740 – 1778), quê làng Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc (nay là thuộc Từ Sơn, Bắc Ninh). Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm (kém chồng 32 tuổi, sinh được năm con, bốn trai và một gái). Tổ tiên của Nguyễn Du có nguồn gốc từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội), sau di cư vào Hà Tĩnh, có truyền thống khoa hoạn nổi danh ở làng Tiên Điền.

 

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Cuộc đời Nguyễn Du trải qua nhiều sóng gió. Năm 1775, anh trai cùng mẹ là Nguyễn Trụ qua đời. Năm 1776 (có sách chép 1775), cha Nguyễn Du qua đời. Năm 1778, mẹ Nguyễn Du qua đời. Cũng trong năm này, anh thứ hai của Nguyễn Du là Nguyễn Điều được bổ làm Trấn thủ Hưng Hóa. Mới 13 tuổi, Nguyễn Du mồ côi cả cha lẫn mẹ nên ông phải ở với người anh khác mẹ là Nguyễn Khản (hơn ông 31 tuổi).

Năm Quý Mão (1783), Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam, đậu Tam trường (Tú tài). Ông lấy vợ, là con gái Đoàn Nguyễn Thục và ông được tập ấm chức Chánh thủ hiệu quân hùng hậu của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên.

Mùa đông năm Bính Thìn (1796), Nguyễn Du toan trốn vào Gia Định theo Nguyễn Ánh nhưng bị lộ và bị Quận công Nguyễn Thận bắt giam ba tháng ở Nghệ An, sau khi được tha ông về sống ẩn dật ở Tiên Điền.

Mùa thu năm Nhâm Tuất (1802), Gia Long diệt nhà Tây Sơn, Nguyễn Du ra làm quan Tri huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Mấy tháng sau thăng Tri phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc Hà Nội).

Năm 1805, ông được thăng Đông các học sĩ (hàm Ngũ phẩm) và vào nhậm chức ở kinh đô Phú Xuân. Năm 1807 được cử làm giám khảo kì thi Hương ở Hải Dương. Mùa thu năm 1808 ông xin về quê nghỉ.

Năm 1809, ông được bổ chức Cai bạ (hàm Tứ phẩm) ở Quảng Bình. Năm Quý Dậu 1813, ông được thăng Cần chánh điện học sĩ và được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh. Năm 1814, ông đi sứ về, đến tháng 5/1815, được đặc cách thăng Hữu tham tri bộ Lễ (hàm Tam phẩm), tước Du Đức hầu.

Năm 1820, Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi. Lúc này Nguyễn Du được cử đi làm Chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong nhưng ông bị bệnh dịch, mất ngày mồng 10 tháng 8 âm lịch (16/09/1820), lúc 54 tuổi.

Năm Giáp Thân 1824, di cốt của ông được cải táng về quê nhà làng Tiên Điền, Hà Tĩnh.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Tác phẩm

Nguyễn Du sáng tác cả chữ Hán lẫn chữ Nôm.

Sáng tác bằng chữ Hán: hiện nay giới nghiên cứu đã sưu tầm được 249 bài thơ chữ Hán do Nguyễn Du sáng tác vào các thời kì khác nhau:

  • Thanh Hiên tiền hậu tập gồm 78 bài, chủ yếu trong những năm tháng trước khi ra làm quan nhà Nguyễn.
  • Nam trung tạp ngâm có 40 bài viết thời gian làm quan ở Huế và Quảng Bình, những địa phương ở phía Nam Hà Tĩnh - quê hương ông.
  • Bắc hành tạp lục gồm 131 bài thơ sáng tác trong chuyến đi sứ Trung Quốc.

Thơ quốc âm của ông có:

  • Đoạn trường tân thanh, tức Truyện Kiều.
  • Văn tế thập loại chúng sinh.
  • Văn tế Trường Lưu nhị nữ.
  • Thác lời trai phường nón.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Hóng hớt and flash001 reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Về danh hiệu Danh nhân Văn hóa Thế giới. Thực tế không có danh hiệu này, mà hằng năm, UNESCO vẫn xét các hồ sơ để vinh danh các nhân vật có tầm ảnh hưởng quốc tế do các nước thành viên đệ trình. Danh nhân được vinh danh theo bước tuổi 50 năm của năm sinh hoặc năm mất (100, 150, 200, 250, 300...). Đề xuất vinh danh Danh nhân của mỗi nước phải có hồ sơ khoa học, đơn đề nghị cùng Công hàm của Chính phủ của nước ấy. Hồ sơ được phê chuẩn phải đáp ứng tiêu chí: Nhân vật có tầm ảnh hưởng ở khu vực và quốc tế trong 5 lĩnh vực: văn hóa, giáo dục, khoa học tự nhiên-xã hội và thông tin (trừ liên quan đến chiến tranh). 

Năm 1965, vào dịp năm sinh thứ 200, Nguyễn Du đã được Hội đồng hòa bình thế giới tổ chức kỷ niệm long trọng cùng với 8 nhà văn hóa của các nước khác như nhà thơ Horace của La Mã, nhà thơ Dante của Ý, nhà bác học Lômônôxốp của Nga...

Và tại kỳ họp thứ 37 Đại hội đồng UNESCO ở Paris (Pháp) ngày 25/10/2013, Nguyễn Du đã được chọn là nhân vật văn hóa do thế giới vinh danh, nhân kỷ niệm 250 năm ngày sinh Đại thi hào vào năm 2015.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Hóng hớt reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Về thời điểm Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều, hiện có 3 ức thuyết khác nhau:

1- Trong những năm ông còn ẩn dật ở quê nhà (1796-1802).

2- Trong những năm ông ra làm quan triều Nguyễn (từ 1803).

3- Sau khi đi sứ nhà Thanh về (năm 1814)

Tuy nhiên, phân tích các điều kiện, hoàn cảnh, đối chiếu với vốn sống, sự từng trải, những quan điểm, cái nhìn nhân văn về số phận con người, cùng với cách sử dụng ngôn ngữ dân gian tự nhiên, chính xác và biểu cảm trong tác phẩm, giả thuyết Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều sau khi đi sứ về là hợp lý hơn cả.

Đại Nam chính biên liệt truyện ghi: Nguyễn Du sở trường về thơ chữ Hán, lại giỏi về thơ quốc âm. Khi đi sứ nhà Thanh về có “Bắc hành tạp lục” và “Truyện Thúy Kiều” ra đời.

 

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Hóng hớt and flash001 reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

''Truyện Kiều'' (chữ Nôm: 傳翹) hay "Đoạn trường tân thanh" (chữ Hán: 斷腸新聲 – Tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột) được Nguyễn Du sáng tác dựa theo cốt truyện "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân, một tiểu thuyết chương hồi bằng văn xuôi của Trung Quốc, lấy bối cảnh Trung Quốc thời vua Gia Tĩnh nhà Minh (từ năm 1521 tới năm 1567). Có một số nhân vật như tổng đốc Hồ Tôn Hiến, kỹ nữ Vương Thúy Kiều, nhân vật Từ Hải là có thật trong lịch sử.

Tác phẩm được viết dưới hình thức truyện Nôm với 3254 câu thơ lục bát - một thể loại văn học thuần túy dân tộc có nguồn gốc sâu xa từ truyện thơ dân gian đã được bác học hóa.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Hóng hớt reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Các văn bản Truyện Kiều

Phạm Quý Thích (1760-1825), tự Dữ Đạo, hiệu Lập Trai, biệt hiệu Thảo Đường cư sĩ, là danh sĩ cuối đời Lê Trung hưng - đầu đời Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Phạm Quý Thích là bạn thân của Nguyễn Du. Đoạn trường tân thanh lần đầu tiên được Phạm Quý Thích cho phổ biến ở Thăng Long, ông đã đem Truyện Kiều ra bình phẩm với học trò, làm bài thơ Đoạn trường tân thanh đề từ (hay Thính Đoạn trường tân thanh hữu cảm, thường gọi là Tổng vịnh Truyện Kiều), rồi còn lo ấn hành tác phẩm này. Bản Kiều này thường được gọi là bản Hoa Đường. Ông mất năm 1825, nên bản Hoa Đường sẽ phải trước năm đó. Nhưng hiện chưa có bằng chứng nào khẳng định Đoạn trường tân thanh đã được Phạm Quý Thích xuất bản hay chỉ truyền bản chép tay.

Đoạn trường tân thanh đề từ

Giai nhân bất thị đáo Tiền Đường,

Bán thế yên hoa trái vị thường.

Ngọc diện khởi ưng mai Thuỷ quốc,

Băng tâm tự khả đối Kim lang.

Đoạn trường mộng lý căn duyên liễu,

“Bạc mệnh” cầm chung oán hận trường.

Nhất phiến tài tình thiên cổ luỵ,

“Tân thanh” đáo để vị thuỳ thương.

Dịch Nôm của chính tác giả

Giọt nước Tiền Đường chẳng rửa oan,
Phong ba chưa trắng nợ hồng nhan.
Lòng tơ còn vướng chàng Kim Trọng,
Vẻ ngọc chưa phai chốn thuỷ quan.
Nửa giấc Đoạn trường tan gối điệp,
Một dây Bạc mệnh dứt cầm loan.
Cho hay những kẻ tài tình lắm,
Trời bắt làm gương để thế gian.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
flash001 and Hóng hớt reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Truyện Kiều từ khi ra đời đã sớm được truyền tụng trong giới sĩ phu và nhân dân cả nước. Nhiều nhà khoa bảng, học giả đã rất cẩn trọng trong khi sưu tầm, khảo đính, chú thích để xuất bản, tái bản Truyện Kiều. Nhiều nhà nho lại tự mình chép và chú thích, dẫn giải Truyện Kiều để vừa bày tỏ quan điểm và sự cảm nhận của mình, vừa như một thứ gia bảo để dành cho con cháu trong nhà sau này.

Hiện đã sưu tầm được khoảng 100 bản Kiều Nôm và Quốc ngữ khác nhau, bao gồm bản in và bản chép tay. Trong số những bản Kiều đó, không có hai bản nào hoàn toàn giống nhau, có khi sự khác nhau lên tới hàng trăm chỗ, mỗi chỗ khác ít nhất là một chữ, có khi khác cả một đoạn gồm chục câu lục bát. Việc có những khác biệt ở các dị bản trên có nhiều nguyên nhân, căn bản gồm có:

Đầu tiên, dễ thấy nhất là dị bản do phiên âm chữ Nôm. Chữ Nôm là chữ tượng hình, một chữ có thể có nhiều cách đọc khác nhau tùy theo văn cảnh, thậm chí cả tiếng địa phương. Do đó việc phiên âm sai khác giữa nhiều người, cho dù là người sành chữ Nôm đến đâu, cũng là dễ hiểu.

Kỵ húy cũng là một nguyên nhân dẫn đến dị bản. Thời phong kiến, dân gian phải kiêng kỵ tên húy của vua, thậm chí cả người thân thích của vua, theo đó không được phép dùng để đặt tên cho con cái trong gia đình cũng như không được phép dùng trong văn tự hay trong lời nói hàng ngày. Dưới thời Nguyễn, việc húy kỵ này càng khắt khe. Trong lời nói, nhiều từ phải nói trại đi, như Ánh thành Yếng, Cảnh thành Kiểng, Hoàng - Huỳnh, Vũ - Võ, Thì - Thời, Tông - Tôn,... Việc viết chữ càng phải tránh, đổi từ khác, nếu không thể tránh từ húy thì bắt buộc phải thêm vào một vài nét.

Dị bản do người biên soạn, hiệu đính. Với những câu thơ có nghĩa thông suốt, đúng cốt truyện, hợp với văn cảnh, nói chung các nhà biên soạn không động tới. Khi gặp câu chữ khó hiểu, các nhà biên soạn thường tham khảo những sách đã xuất bản, nếu không thấy có chữ nào hợp ý thì có khi họ đề xuất một chữ, một từ mới mà họ cho là hợp lý nhất. Đó là một lý do làm cho Truyện Kiều sau mỗi lần xuất bản lại có thêm dị bản.

Một nguyên nhân nữa gây ra dị bản là ỗi in ấn. Nước ta xưa nghề in rất kém phát triển, hầu như các bản in đều nhờ thợ Trung Quốc khắc in ở Quảng Châu. Mà Truyện Kiều lại là chữ Nôm, vốn thợ TQ đều không biết chữ Nôm, nên việc in nhầm, in sai... là điều dễ hiểu.

Và có thể là dị bản từ chính tác giả. Một tác phẩm lớn, có thể được nghiền ngẫm, viết trong thời gian dài, thì việc chỉnh sửa, tham khảo ý kiến bạn bè, rồi lại chỉnh sửa nhiều lần. Như vậy chính bản thân tác giả cũng đã tạo ra các dị bản qua các lần chỉnh sửa,

 

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
flash001 and Hóng hớt reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Đến nay, bản Kiều này được xem là bản Kiều nôm cổ nhất không chỉ trong nước mà còn trên cả thế giới là bản Kiều Liễu Văn Đường (1866), được Ban Quản lý di tích Nguyễn Du phát hiện tại và sưu tầm vào năm 2004 tại gia đình thầy Nguyễn Thế Quang - hậu duệ của Cử nhân Nguyễn Thế Cát ở xã Thanh Tường, Thanh Chương, Nghệ An. Hiện bản Kiều Liễu Văn Đường 1866 đang được trưng bày tại Khu di tích Đại thi hào Nguyễn Du

Bản Kiều Liễu Văn Đường 1866 khổ 13 x 19cm, gồm 100 trang, bị mất 36 trang (864 câu) và có 2390 câu. Riêng trang cuối cùng có 14 câu, còn 99 trang còn lại mỗi trang là 24 câu.Trang bìa bản Kiều ghi: Tự Đức thập cửu niên trọng xuân tân san (đời Tự Đức thứ 19 - 1866) - Tiên Điền Lễ tham Nguyễn Hầu soạn - “Kim Vân Kiều tân truyện” - Liễu Văn Đường tàng bản.

image

 

Bên cạnh nội dung truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du, bản Liễu Văn Đường còn có Bài tựa Đoạn trường tân thanh đề từ của Phạm Qúy Thích. Việc phát hiện, sưu tầm bản Kiều Liễu Văn Đường (1866) giúp cho các nhà nghiên cứu tiến gần hơn đến nguyên tác truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du.

 

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
flash001 and Hóng hớt reacted
Trả lờiTrích dẫn
Hóng hớt
(@toidihong)
Trung niên
Được ưa thích
Ngồi lê đôi mách hóng hớt
Trung lưu rank 2
Tài sản: 28328.44
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 4518
 

Thánh, thánh thế chứ lị. Đọc cứ thun thút kkk. Mai em like bù nhá, chứ chờ nó vòng vòng lâu quá :D


   
flash001 and Cô Cô reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Chữ Hán, chữ Nho và chữ Nôm

Chữ Hán (Hán tự) là thứ chữ trong văn tự của người Hán, được người Hán sử dụng và đọc theo âm tiếng Hán. Khi người phương Bắc xâm chiếm và đô hộ nước Nam, chữ Hán cũng theo đó du nhập vào nước ta. Tuy nhiên, thay vì học viết chữ Hán và phát âm theo người Hán, tổ tiên ta đã lợi dụng tính biểu ý của chữ Hán để đọc nó bằng tiếng Việt, như cách người Trung Quốc các địa phương đọc bằng phương ngữ của họ. Vì thế chính quyền chiếm đóng không thể cấm dân ta đọc chữ Hán theo cách của ta.

Người Việt gọi thứ chữ Hán đã Việt hóa phần ngữ âm ấy là chữ Nho, tức chữ của người có học (Nho 儒 - Học giả, người có học thức). Khi ấy, mỗi chữ Hán được đọc bằng một âm (từ) Hán-Việt gần giống âm Hán của nó.

Việc dùng chữ Hán mà không nói tiếng Hán đã giúp dân ta giữ gìn và phát triển được tiếng mẹ đẻ, nhờ thế dù có học và dùng chữ Hán bao lâu thì vẫn tránh được thảm họa bị người Hán đồng hóa. Sau hơn 1.000 năm Bắc thuộc, dân tộc ta vẫn giữ được nguyên vẹn tiếng mẹ đẻ cùng nền văn hóa của mình.

Tuy nhiên, chữ Nho vốn là chữ Hán nên không ghi được lời nói tiếng Việt, do đó không thể làm chữ viết của tiếng Việt. Trên thực tế chữ Nho hoàn toàn xa lạ với ngôn ngữ của tầng lớp bình dân, chỉ một số ít người thuộc giới quan lại hoặc giới tinh hoa ở ta biết dùng chữ Nho, và chỉ dùng để viết (bút đàm) trong một số lĩnh vực hẹp, không dùng để nói. Văn thơ chữ Nho làm theo kiểu văn thơ của người Hán không được coi là văn thơ tiếng Việt.

Và chữ Nôm ra đời.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
flash001 reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Nôm, chính là Nam. Chữ Nôm là chữ của người Nam, tức người Việt, phân biệt với người Hán ở phương Bắc.

Chữ Nôm (𡨸喃), còn được gọi là Chữ Hán Nôm (𡨸漢喃), Quốc âm (國音) hay Quốc ngữ (國語) là loại văn tự ngữ tố - âm tiết dùng để viết tiếng Việt. Đây là bộ chữ được người Việt tạo ra dựa trên chữ Hán, các bộ thủ, âm đọc và nghĩa từ vựng trong tiếng Việt.

Chữ Nôm được xây dựng trên cơ sở chữ Hán đọc theo âm Hán-Việt, kết hợp cả hai yếu tố biểu ý và biểu âm. Ban đầu chữ Nôm mượn dạng chữ Hán để ghi âm tiếng Việt, dần dần dùng cách ghép hai chữ Hán để tạo ra một chữ mới, một phần gợi âm, một phần gợi ý –– về sau loại chữ tự tạo này được dùng ngày một nhiều. Nhưng vì các ký tự vuông gốc chữ Hán không phải là chữ cái ghép vần, cho nên mức chính xác ghi âm tiếng Việt còn thấp, chưa tiêu chuẩn hóa, nhiều chữ phải đoán âm đọc, có trường hợp một âm có nhiều chữ v.v…

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
flash001 reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Chữ Nôm bắt đầu hình thành và phát triển từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 20. Sơ khởi, chữ Nôm thường dùng ghi chép tên người, địa danh, sau đó được dần dần phổ cập, tiến vào sinh hoạt văn hóa của quốc gia. Vào thời Nhà Hồ ở thế kỷ 14 và Nhà Tây Sơn ở thế kỷ 18, xuất hiện khuynh hướng dùng chữ Nôm trong văn thư hành chính. Quang Trung sau khi lên ngôi đã cho lập Sùng Chính viện mà một trong các nhiệm vụ là thu thập, tàng trữ sách vở của cả nước, tổ chức dịch các sách "Tiểu học" và "Tứ thư" và các kinh thư khác của Trung Quốc ra Quốc ngữ "Chữ Nôm" để dạy học. Đối với văn học Việt Nam, chữ Nôm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi là công cụ xây dựng nền văn học cổ truyền kéo dài nhiều thế kỷ.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
flash001 reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Chữ Nôm từng được gọi là Quốc ngữ hoặc Quốc âm, tức chữ của tiếng nói nước ta (chữ Nho chưa bao giờ được gọi như vậy). Nhưng do cấu tạo trên nền tảng chữ Hán nên chữ Nôm phụ thuộc vào chữ Hán, khó học (biết chữ Nho mới học được chữ Nôm), khó phổ cập. Hơn nữa, do nhà nước phong kiến và tầng lớp tinh hoa ở ta mù quáng sùng bái chữ Hán cho nên chữ Nôm chưa được thừa nhận là chữ viết chính thức, bị coi là thấp kém dưới chữ Hán. Vì thế chữ Nôm khó được phát triển và hoàn thiện, chưa tiêu chuẩn hóa.

Tuy vậy văn thơ chữ Nôm, tức văn thơ tiếng Việt, do nói lên được tiếng nói và nỗi lòng của người bình dân nên đã tỏ ra trội hơn hẳn văn thơ chữ Nho. Nền văn học chữ Nôm từng đạt tới cực thịnh từ thời Hậu Lê đến thời kỳ đầu nhà Nguyễn (thế kỷ 17-19), với các kiệt tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm (có Bạch Vân quốc ngữ thi tập), Đoàn Thị Điểm (bản diễn Nôm Chinh phụ ngâm), Nguyễn Gia Thiều (Cung oán ngâm khúc), Nguyễn Du (Truyện Kiều), Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương, Phạm Thái (Sơ kính tân trang), Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, v.v. Sách Thiên Nam ngữ lục (cuối thế kỷ 17), một dạng sử ký bằng văn vần, gồm 8.136 câu thơ lục bát, dùng tới 58.212 chữ Nôm.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
flash001 reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Phiên bản năm 1870, đây là bản chép tay của Lâm Nọa Phu khi ông đang làm quan ở Bộ Công thời vua Tự Đức, còn gọi là Bản kinh thời Tự Đức. 

Bản này vốn được lưu giữ ở Sài Gòn trong một tủ sách tư gia, sau 1975, tình cờ lại được bày bán ở chợ sách cũ mà may mắn con trai ông Đàm Quang Hưng đã mua được và gửi sang cho ông ở Hoa Kỳ. Đến khi có dịp sang thăm Hoa Kỳ – ở Houston (Texas) – ngày 08/9/2000 – ông Nguyễn Quảng Tuân, một trong những học giả hàng đầu về chữ Nôm và Truyện Kiều, đã được ông Hưng kính tặng cho một bản sao quyển Đoạn trường tân thanh.

Nhận thấy bản Kiều nôm ấy là một bản Kinh có giá trị, ông Tuân đã có bài viết trên tạp chí Kiến thức Ngày nay (số 368 ra ngày 1-11-2000) để giới thiệu văn bản cổ ấy với các nhà nghiên cứu và các độc giả trong nước.

Lâm Nọa Phu 1870

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Trả lờiTrích dẫn
Trang 7 / 8
Chia sẻ: