Truyện Kiều năm 1872 là bản in khắc gỗ của Duy Minh Thị dưới thời vua Tự Đức.
Hiện bản Kiều 1872 được lưu giữ một bản tại Thư viện Leiden, Hà Lan (Leiden Library, Holland, index 5803-6) và một bản tại thư viện riêng của gia đình cụ Hoàng
Xuân Hãn ở Paris.
Phiên bản 1872 có 3259 câu, nhiều hơn 5 câu so với các phiên bản khác:
Nguyên bản truyện Kiều chữ Nôm này là bản in khắc Đoạn trường tân thanh, Giá Sơn Kiều Oánh Mậu chú giải, Thành Thái Nhâm Dần trung thu vọng (1902), được chụp ảnh in lại trong Tổng tập Văn học Việt Nam tập 12 (TTVH 12), bản này thường được gọi ngắn gọn là bản Kiều Oánh Mậu (KOM). Đây là bản in khắc đẹp nhất, chữ Nôm viết khá quy phạm và có ý thức chuẩn hoá, phần giới thiệu và chú giải công phu, những người chấp bút tham dự đề từ, bình giải đều là các bậc khoa bảng danh tiếng đương thời. Được TTVH 12 đánh giá là một trong hai bản có giá trị khoa học cao nhất (bản kia là bản Kim Vân Kiều tân tập do nhóm Thời Hiền Thi Tự của Chu Mạnh Trinh khắc in năm 1906, thường gọi là bản Quan Văn Đường (viết tắt là QVĐ). Bản KOM đã được TTVH 12 chọn lựa để chụp in lại, và làm cơ sở để khảo chú. Bản này do Giá Sơn Kiều Oánh mậu (1853-1912), đậu Phó bảng đời Tự Đức (Canh Thìn - 1880), dựa trên bản Kinh của Đình nguyên Đào Nguyên Phổ đem từ Huế ra tặng cùng tham chiếu các bản Phường (các bản khắc in dân gian ở phường Hàng Gai, Hà Nội) và các bản sao tư gia mà soạn lại.
Phiên bản 1902 có 3256 câu, nhiều hơn 2 câu so với các phiên bản khác, cụ thể:
- Thay nội dung của 4 câu 531, 532, 533, 534 (có ở các bản 1866, 1871, 1872)
Vì cho rằng bản Kiều Oánh Mậu 1902 dựa theo bản Kinh, đã xuyên tạc nguyên tác Truyện Kiêu, nên nhóm nho sĩ tham dự cuộc vịnh Kiều năm Ất Tị (1905) ở Hưng Yên, do tuần phủ Hưng Yên là Lê Hoan tô chức, đã xuất bản cả một bản Kiều mới để chống lại (tức là bản Kim Vân Kiều tân tập — Thời hiền thi tự, Thành Thái, Bính Ngọ (1906), Quan Văn dường tàng bản, trước đây tục gọi là bản Kiều Chu Mạnh Trinh).
Note: Về tên gọi "bản Kinh", "bản Phường" Truyện Kiều, em sẽ up cụ thể sau.
Vì cho rằng bản Kiều Oánh Mậu 1902 dựa theo bản Kinh, đã xuyên tạc nguyên tác Truyện Kiêu, nên nhóm nho sĩ tham dự cuộc vịnh Kiều năm Ất Tị (1905) ở Hưng Yên, do tuần phủ Hưng Yên là Lê Hoan tô chức, đã xuất bản cả một bản Kiều mới để chống lại (tức là bản Kim Vân Kiều tân tập — Thời hiền thi tự, Thành Thái, Bính Ngọ (1906), Quan Văn dường tàng bản, trước đây tục gọi là bản Kiều Chu Mạnh Trinh).
Note: Về tên gọi "bản Kinh", "bản Phường" Truyện Kiều, em sẽ up cụ thể sau.
Bản chép tay Truyện Kiều của hoàng gia triều Nguyễn
Bản này hiện lưu tại Thư viện Anh quốc với mã số Or 14844, và lời giới thiệu:
"second half of 19th century, The Tale of Kieu (Truyện Kiều) in Sino-Vietnamese by Nguyễn Du, with annotations of Paul Pelliot, a French Sinologist (1898-1945), on some pages.Illustrations: incidents from the story depicted on each folio"
nửa sau thế kỷ 19,Truyện Kiều bản Hán Việt của Nguyễn Du, có chú giải của Paul Pelliot, nhà Hán học người Pháp (1898-1945), trên một số trang. Minh họa: các tình tiết trong truyện được miêu tả trên mỗi trang
Paul Pelliot, nhà Hán học người Pháp (1898-1945), mua bản thảo này vào năm 1929. [Bảo tàng] mua lại từ Sam Fogg, tháng 2 năm 1994.
Đây là bản của Hoàng gia triều Nguyễn với đặc điểm nổi bật đầu tiên là bìa sách. Bìa là hình rồng dệt, mặt rồng ngang, thân uốn khúc, chân năm móng bấu vào mây ngũ sắc, trang trí xung quanh nền là bát bửu. Tính chất của họa tiết rồng năm móng, chứng tỏ đây là bản của nhà vua “ngự lãm”. Có lẽ cuốn cổ thư này đã bị thất tán sau sự kiện thất thủ Huế 1885 khi mà quân Pháp đã tràn vào xâm chiếm Kinh đô, vào Hoàng thành và lấy đi không ít của cải cùng nhiều báu vật của triều đình Huế.
Về hình thức, bản Kiều chép tay này có tên gọi làKim Vân Kiều tân truyện, gồm 150 mặt giấy dó. Ngoài 04 mặt giấy phụ bìa vẽ nhũ hình long vân màu vàng trên nền đỏ, sách có 146 mặt giấy dó, tương ứng với 146 trang nội dung. Nội dung từng trang được trình bày rất thống nhất: trích yếu nội dung, chữ châu phê (chữ phê bằng mực đỏ, chỉ có Vua được dùng, gọi là châu phê), số trang, phần thơ chữ Nôm, phần phụ chú bằng chữ Hán. Đặc biệt là mỗi trang ngoài phần chữ, còn có phần tranh minh họa cho nội dung gồm 146 bức tranh vẽ bằng mực nho cực kỳ chi tiết.
Bản này có 3254 câu, toàn truyện được ngắt ra làm 143 đoạn dài ngắn khác nhau, có nội dung độc lập hoàn chỉnh ứng với nội dung một tranh. Về châu phê, nhiều ý kiến cho rằng chính là thủ bút của Tự Đức, một ông vua cũng mê Kiều, tuy nhiên có ý kiến cho rằng bản thảo được chép vào thời Thành Thái (1889- 1907).