Khởi nghĩa Nam Kỳ
Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra ngày 23 tháng 11 năm 1940 là cuộc nổi dậy rộng lớn nhất trong sự nghiệp đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược sau khởi nghĩa Trương Định năm 1859. Nội thành Sài Gòn không nổ súng nhưng Chợ Lớn, Gia Định và các tỉnh khác của Nam Kỳ đã nổi dậy như triều dâng thác đổ.
Tháng 3 năm 1940, Ban thường vụ Xứ ủy do đồng chí Võ Văn Tần, ủy viên Trung ương Đảng làm bí thư đã vạch ra "Đề cương chuẩn bị bạo động" để hướng tất cả các cuộc đấu tranh lẻ tẻ vào phong trào đấu tranh chống chiến tranh đế quốc, chống đế quốc Pháp và tay sai, chuẩn bị điểu kiện tiến tới khởi nghĩa vũ trang làm cách mạng giải phóng dân tộc.
Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế được tổ chức từ làng đến tỉnh và đang đi đến thống nhất toàn xứ. Trong Mặt trận, Nông hội phát triển sâu rộng hơn cả. Nhân lúc đế quốc Pháp đầu hàng phát-xít Đức, bọn tay sai dao động, phong trào đấu tranh của quần chúng càng phát triển mạnh. Mít-tinh, biểu tình nổ ra ở khắp nơi, lúc đầu mỗi cuộc có năm, bảy chục người tổ chức vào ban đêm, về sau lên tới năm, bảy trăm, một nghìn người tiến hành giữa ban ngày. Nhiều nơi, khi bọn cò, mật thám kéo đến bắt cán bộ cách mạng, nhân dân nổi trống mõ, kéo ra uy hiếp địch, đánh tháo cho cán bộ.
Phong trào chống chiến tranh, chống bắt lính với khẩu hiệu "Không một người lính, không một đồng xu cho đế quốc chiến tranh" diễn ra sôi nổi trong nhân dân và binh lính. Ở các thành phố, thị xã, nhiều cuộc đấu tranh của hàng trăm, hàng nghìn binh lính liên tiếp nổ ra. Cơ sở binh vận của ta đã có trong nhiều đơn vị lính người Việt, cả trong trường hạ sĩ quan, sĩ quan dự bị và cả trong một vài đơn vị lính Pháp.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Trước phong trào quần chúng đấu tranh sôi sục, và trước tình hình quân Nhật sắp kéo vào Đông Dương, cuộc chiến tranh Pháp - Thái Lan sắp nổ ra, các đồng chí Trung ương ở Nam Kỳ và Xứ ủy Nam Kỳ có ý định lãnh đạo nhân dân Nam Kỳ khởi nghĩa để chuyển cuộc chiến tranh Pháp - Thái Lan thành chiến tranh cách mạng. Tháng 7 năm 1940, Hội nghị Xứ ủy Nam Kỳ mở rộng có đồng chí Phan Đăng Lưu đại diện Trung ương Đảng tham dự đã thông qua đề cương chuẩn bị khởi nghĩa, giải quyết một số vấn đề về tổ chức, về thời cơ khởi nghĩa và cử đồng chí Phan Đăng Lưu ra Bắc họp Hội nghị lần thứ bảy của Trung ương để bàn vấn đề khởi nghĩa.
Hội nghị lần thứ bảy của Trung ương nhận định điều kiện khởi nghĩa ở Nam Kỳ và trong cả nước đều chưa chín muồi, vì vậy chưa nên khởi nghĩa. Lúc này chỉ nên dùng những hình thức đấu tranh chính trị và kinh tế chống thực dân Pháp và phát-xít Nhật, phản đối chiến tranh Pháp - Thái Lan, chuẩn bị lực lượng, chờ thời cơ tốt, sẽ khởi nghĩa vũ trang đánh đuổi Pháp - Nhật.
Sau Hội nghị lần thứ bảy của Trung ương, ngày 22 tháng 11 năm 1940, đồng chí Phan Đăng Lưu về đến Nam Bộ thì lệnh khởi nghĩa đã phát đi, các nơi đều đã sẵn sàng, không thể thu hồi lệnh được nữa.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ diễn ra theo đúng kế hoạch vào đêm 22 rạng 23-11-1940. Khởi nghĩa nổ ra ở hầu khắp các tỉnh từ miền Đông đến miền Tây Nam Bộ, ở Biên Hoà, Gia Định, Chợ Lớn, Tân An, Bến Tre, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá, đặc biệt quyết liệt ở Hóc Môn (Bà Điểm, Gia Định), Cai Lậy (Mỹ Tho), Vũng Liêm (Vĩnh Long). Cả vùng nông thôn rung chuyển trước sức mạnh tiến công của quần chúng cách mạng. Nhiều đồn bốt, công sở, đường giao thông... của địch bị phá. Tại một số xã, quận, chính quyền địch hoang mang, tan rã, chính quyền cách mạng được thành lập tịch thu ruộng đất của địa chủ và phản động chia cho dân cày nghèo, trừng trị bọn phản cách mạng... Cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên xuất hiện trong nhiều cuộc biểu tình và những nơi đã thành lập chính quyền cách mạng.
Do kế hoạch khởi nghĩa bị lộ thực dân Pháp kịp thời đối phó. Chúng lập tức huy động các lực lượng tiến hành một chiến dịch khủng bố trắng cực kỳ tàn khốc. Hàng chục xe chở đầy lính được tung đi săn lùng quân du kích, càn quét các vùng khởi nghĩa. Hai mươi máy bay được huy động đi ném bom các vùng có quần chúng nổi dậy như Năm Thôn, Cai Lậy, Chợ Giữa, Càng Long (Mỹ Tho). Chúng còn dùng dây thép xuyên qua bàn tay hoặc bắp chân người, câu thành từng chuỗi rồi quẳng xuống biển. Trong thời gian từ ngày 23-11-1940 đến ngày 31- 12-1940, ở các tỉnh Gia Định, Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên, thực dân Pháp bắt 5.848 người. Hàng ngàn người bị xử tử, bị đày ra Côn Đảo, đi các trại tập trung Tà Lài, Bà Rá.
Lực lượng nghĩa quân ít ỏi còn lại rút về Truông Mít (Thủ Dầu Một), Bình Hoà, Bình Thành trong vùng Đồng Tháp và rừng U Minh để củng cố lực lượng.
Những ngày đầu kháng chiến ở Bến Tre năm 1940 (Ảnh: Tư liệu TTXVN).
Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ bị dập tắt. Thực dân Pháp nhân cơ hội này xử bắn nhiều đồng chí cán bộ kiên trung của Ðảng bị bắt từ trước khởi nghĩa, như: Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, Nguyễn Hữu Tiến,...
Do thời cơ chưa xuất hiện, khởi nghĩa Nam Kỳ đã thất bại. Song, cuộc khởi nghĩa biểu lộ lòng căm thù sâu sắc của nhân dân với đế quốc, tinh thần anh dũng quật khởi của quần chúng cách mạng. Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ cùng với cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn "là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng vũ lực của các dân tộc Đông Dương”.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Câu chuyện về LÁ CỜ ĐỎ SAO VÀNG
Lá cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên xuất hiện trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (23-11-1940), phấp phới tung bay trước trụ sở cách mạng ở Mỹ Tho, Vĩnh Long. Tác giả của lá cờ là Nguyễn Hữu Tiến, nguyên là thầy giáo, sinh ngày 5-3-1901 tại xã Yên Bắc, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam ngày nay.
Năm 1927, Nguyễn Hữu Tiến tham gia tổ chức Thanh niên cách mạng đồng chí hội, được cử làm phó bí thư tỉnh Đảng bộ năm 1930. Năm 1931 ông bị bắt và bị địch đưa ra nhà tù Côn Đảo. Năm 1935, Nguyễn Hữu Tiến cùng một số tù chính trị vượt ngục Côn Đảo, trở về đất liền, ông hoạt động cách mạng tại Cần Thơ, sau đó được phân công phụ trách công tác tuyên truyền, in ấn tài liệu cách mạng. Buổi tối ngày 30/7/1940, ông cùng Nguyễn Thị Minh Khai - Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Gia Định đến làm việc tại một cơ sở cách mạng ở làng Chà Và giáp nội thị Sài Gòn, 2 đồng chí bị mật thám Pháp vây bắt. Khi bị bắt, đồng chí định cắn lưỡi tự tử để bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng. Địch đã dùng nhiều cực hình tra tấn hết sức dã man, nhưng đồng chí vẫn kiên cường chịu đựng, giữ trọn khí tiết người cộng sản. Không khai thác được gì, chúng đã chuyển đồng chí sang Khám Lớn Sài Gòn. Nguyễn Hữu Tiến cùng một số đồng chí lãnh đạo khác của Đảng bị thực dân Pháp kết tội “có trách nhiệm tinh thần đối với cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ" và kết án tử hình.
Đêm 22 rạng 23-11-1940, cuộc khởi nghĩa Nam kỳ bùng nổ mãnh liệt. Ở tỉnh Mỹ Tho, cuộc khởi nghĩa nổ ra quyết liệt nhất là tại xã Long Hưng (nay thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang). Từ trong cao trào khởi nghĩa, chính quyền cách mạng tỉnh Mỹ Tho được thành lập và lần đầu tiên, lá cờ đỏ sao vàng đã xuất hiện ở tại đây. Viết về sự kiện này, quyển "Mỹ Tho - Gò Công trong cuộc khởi nghĩa Nam kì (1940)" do Ban Tuyên giáo Tiền Giang xuất bản năm 2001 cho biết: "Ngay trong ngày 23-11-1940, chính quyền cách mạng tỉnh Mỹ Tho được thành lập và tổ chức cuộc mít tinh có hơn 3.000 người tham dự tại đình Long Hưng để ra mắt nhân dân. Lần đầu tiên, lá cờ đỏ sao vàng năm cánh xuất hiện trên ngọn cây bàng, trước đình Long Hưng". Từ Long Hưng - Mỹ Tho, lá cờ đỏ sao vàng đã tung bay khắp Nam kỳ trong những ngày cuối tháng 11-1940 lịch sử. Cuộc khởi nghĩa Nam kỳ bị thực dân Pháp đàn áp, khủng bố dã man; nhưng lá cờ đỏ sao vàng luôn hiện hữu trong trái tim nhiệt tình cách mạng của mỗi người, động viên nhân dân ta vững bước trên con đường đấu tranh giải phóng dân tộc.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Vào đầu năm 1941, tình hình thế giới và trong nước ngày một khẩn trương. Tháng 2 năm 1941, đồng chí Hồ Chí Minh về nước triệu tập Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng. Hội nghị họp từ ngày 10 đến 19 tháng 5 năm 1941 ở Pác Bó (Cao Bằng), sát biên giới Trung Quốc.
Để tập hợp lực lượng đông đảo của nhân dân, chĩa mũi nhọn của cách mạng vào kẻ thù chính của dân tộc là đế quốc, phát-xít Pháp, Nhật, Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam chống đế quốc, phát-xít Pháp, Nhật lấy tên là Việt Nam độc lập đồng minh hội gọi tắt là Mặt trận Việt Minh và đổi tên các tổ chức quần chúng cách mạng là Hội Cứu quốc.
Hội nghị đã chọn miền rừng núi Việt Bắc để xây dựng căn cứ vũ trang, lấy Bắc Sơn - Vũ Nhai và Cao Bằng làm hai điểm trung tâm và làm bàn đạp phát động đấu tranh vũ trang thúc đẩy phong trào cách mạng trong cả nước.
Trung ương Đảng vạch rõ: "Chiến thuật khởi nghĩa trong tình thế này phải là chiến thuật du kích", ta tiến hành khởi nghĩa từng phần bằng "mở rộng du kích chiến tranh" và "chính quyền cách mạng có thể thành lập ở địa phương quân du kích của ta làm chủ”.
Về xây dựng lực lượng vũ trang, Hội nghị định ra "Điểu lệ của Việt Nam tiểu tổ du kích cứu quốc", một tổ chức quân sự rộng rãi của quần chúng có khả năng tiến hành chiến tranh du kích. Hội nghị đã phân biệt rõ nhiệm vụ và vị trí của tiểu tổ du kích so với đội tự vệ và đội du kích như sau: "Tự vệ cứu quốc là tổ chức để bảo vệ các tổ chức quần chúng trong khi tranh đấu và bảo vệ cách mạng. Còn tiểu tổ du kích cứu quốc là một tổ chức cao hơn tự vệ đội mà thấp hơn đội du kích chính thức". Điều lệ của Việt Nam tiểu tổ du kích cứu quốc xác định trách nhiệm của tiểu tổ du kích cứu quốc là: "bảo vệ các cơ quan cách mạng và các chiến sĩ cách mạng", "giúp đỡ và phụ lực với đội du kích chính thức” khi đội này hoạt động và chiến đấu với quân thù tại địa phương mình. "Trong nhưng tình thế tiện lợi có thể phát động cuộc du kích chiến tranh đánh đuổi Pháp - Nhật thì biến chuyển thành đội du kích chính thức để hành động". Về tổ chức, từ 2 tiểu tổ du kích trở lên thì tổ chức thành liên tiểu tổ có ban chỉ huy, trong đó có ủy viên chính trị.
Hội nghị dự kiến, khi đánh đuổi được đế quốc, phát-xít Pháp, Nhật, sẽ thành lập một "chính phủ nhân dân của V.N.D.C.C.H.” và "Tổ chức Việt Nam nhân dân cách mạng quân và võ trang dân chúng".
Hội nghị đã bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng bí thư của Đảng.
Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng có tầm quan trọng đặc biệt. Hội nghị đã hoàn chính sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng và sự chuyển hướng hình thức đấu tranh từ đấu tranh chính trị tiến lên đấu tranh vũ trang và cách chuẩn bị lực lượng cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang, đưa phong trào cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.
Sau Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng, ngày 19 tháng 5 năm 1941, Mặt trận Việt Minh thành lập. Các tổ chức trong Mặt trận đều tổ chức thành hội cứu quốc, trong đó có Đội tự vệ cứu quốc Việt Nam.
Nhân dân Việt Nam bước vào một thời kỳ đấu tranh mới: Thời kỳ chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang.
Sáng tai họ, điếc tai cày
CÁC CĂN CỨ DU KÍCH BẮC SƠN - VŨ NHAI VÀ CAO BẰNG. CỨU QUỐC QUÂN VÀ VIỆT NAM TUYÊN TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN
Thực hiện các nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy và lần thứ tám của Trung ương Đảng, việc xây dựng các căn cứ Bắc Sơn - Vũ Nhai và Cao Bằng và việc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng được đẩy mạnh. Tại căn cứ Bắc Sơn - Vũ Nhai, mặc dầu bị địch khủng bố, đàn áp, tiếng súng của cuộc Khởi nghĩa Bắc Sơn không hề bị dập tắt, Đội du kích Bắc Sơn vẫn tồn tại.
Tháng 1 năm 1941, Trung ương Đảng quyết định tổ chức những lớp quân sự, chính trị ngắn ngày ở khu căn cứ để kịp thời nâng cao kiến thức quân sự, trình độ chính trị và ý thức kỷ luật cho quân du kích, đồng thời chuẩn bị lực lượng cho các cơ sở khắp Bắc Kỳ.
Sau một thời gian củng cố, ngày 14 tháng 2 năm 1941, tại khu rửng Khuổi Nọi thuộc xã Vũ Lễ, châu Bắc Sơn (Lạng Sơn), đồng chí Hoàng Văn Thụ thay mặt Trung ương Đảng công nhận, trao nhiệm vụ cứu nước và cờ đỏ sao vàng cho Bộ đội du kích Bắc Sơn.
Đội có 32 người chia làm ba tiểu đội do hai đồng chí Lương Văn Tri và Chu Văn Tấn chỉ huy. Cán bộ tiểu đội được chọn trong các đảng viên dũng cảm, tháo vát và khỏe mạnh nhất. Còn các đội viên đều là đảng viên hoặc quần chúng cách mạng hăng hái đã từng chiến đấu trong cuộc Khởi nghĩa Bắc Sơn, một số là nhưng cán bộ, đảng viên ở xuôi lên. Vũ khí của đội có 5 súng trường, còn toàn súng kíp và dao găm. Lực lượng tuy ít ỏi, nhưng bao gồm đủ thành phần miền ngược và miền xuôi, con em các dân tộc: Tày, Nùng, Dao, Kinh... Đó là một đội ngũ vững vàng, kiên quyết, có chất lượng cao. Tinh thần của đội được thể hiện rõ trong năm lời thề: "Không phản Đảng. Tuyệt đối trung thành với Đảng. Kiên quyết chiến đấu và trả thù cho các đồng chí bị hy sinh. Không hàng giặc. Không hại dân".
Trung ương Đảng cử đồng chí Phùng Chí Kiên, ủy viên Trung ương Đảng, về trực tiếp chỉ đạo khu căn cứ Bắc Sơn - Vũ Nhai. Một số cán bộ cùng một số vũ khí được bổ sung cho Bộ đội du kích Bắc Sơn. Đồng chí Trường Chinh, Tổng bí thư của Đảng, thay mặt Trung ương phổ biến tinh thần nghị quyết Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng cho toàn thể cán bộ và chiến sĩ Bộ đội du kích Bắc Sơn làm cho lực lượng vũ trang của Đảng thông suốt đường lối, chính sách mới của Đảng. Đây là cuộc học tập đầu tiên về đường lối, chính sách của Đảng trong lực lượng vũ trang cách mạng. Ngay sau đó, Bộ đội du kích Bắc Sơn được mang tên mới: Cứu quốc quân, cho phù hợp với nhiệm vụ cứu nước.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Cuối tháng 6 năm 1941, thực dân Pháp mở một cuộc càn quét lớn vào khu căn cứ, một lúc thực hiện hai mục đích: tiêu diệt cơ quan đầu não của phong trào cộng sản Đông Dương, đồng thời tiêu diệt Cứu quốc quân, trấn áp bằng được phong trào cách mạng ở Bắc Sơn - Vũ Nhai, chấm dứt mối lo lắng thường xuyên của chúng. Các cơ sở bí mật của Trung ương Đảng và Cứu quốc quán bị uy hiếp, có tuần phải chuyển địa điểm tới năm, sáu lần. Tình thế rất nghiêm trọng. Ban chỉ huy Cứu quốc quân phái ngay một bộ phận về Vũ Nhai tìm đường đưa một số đồng chí ủy viên Trung ương Đảng về xuôi an toàn; còn toàn đội chuẩn bị chống khủng bố. Cứu quốc quân chủ trương thoát khỏi vòng vây uy hiếp của giặc. Phần lớn lực lượng (2 tiểu đội) tiến lên phía biên giới để xây dựng căn cứ mới và nếu có điều kiện sẽ chuyển một số cán bộ ra nước ngoài học quân sự để làm vốn dự trữ cho tương lai. Còn một tiểu đội bí mật ở lại Bắc Sơn hoạt động.
Trung tuần tháng 7 năm 1941, Cứu quốc quân chia làm hai cánh rút về phía Cao Bằng và Lạng Sơn. Ngày 27 tháng 7 năm 1941, cánh quân rút về phía Cao Bằng, khi qua vùng Ngân Sơn (Bắc Cạn), bị địch phục kích. Hai đồng chí Phùng Chí Kiên và Lương Văn Tri đều bị địch giết hại. Các đồng chí còn lại phải chạy ra lánh ở một số cơ sở miền biên giới. Tiểu đội ở lại Bắc Sơn cũng bị quân địch truy lùng ráo riết.
Được sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Hoàng Quốc Việt, ủy viên Trung ương Đảng, các chiến sĩ Cứu quốc quân còn lại một lần nữa gây dựng lại lực lượng.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Ngay giữa vòng vây uy hiếp của hàng nghìn quân địch, ngày 15 tháng 9 năm 1941, trung đội Cứu quốc quân thứ hai được thành lập tại rừng Khuôn Mánh, thôn Ngọc Mỹ, xã Tràng Xá (Vũ Nhai). Đồng chí Hoàng Quốc Việt thay mặt Trung ương Đảng công nhận Cứu quốc quân 2. Toàn đội có 47 người (trong đó có 3 nữ) được chia làm 5 tiểu đội, có chi bộ Đảng lãnh đạo do đồng chí Chu Văn Tấn, Xứ ủy viên, làm bí thư chi bộ và trực tiếp chỉ huy. Tất cả các chiến sĩ đều là đội viên tự vệ được chọn trong phong trào đấu tranh ở địa phương. Hầu hết cán bộ và đảng viên thuộc chi bộ Vũ Nhai đều vào Cứu quốc quân. Vũ khí của đội có 3 súng khai hậu lấy được của Pháp trước đây, còn toàn dao găm và một ít súng kíp.
Việc thành lập Cứu quốc quân 2 nói lên tinh thần quật cường, bất khuất của nhân dân Bắc Sơn - Vũ Nhai, đồng thời cũng chứng tỏ: trước kẻ thủ mạnh gấp trăm nghìn lần, một đội quân cách mạng mới ra đời, mặc dù còn rất nhỏ bé vẫn có thể tồn tại và phát triển khi có Đảng lãnh đạo và có phong trào quần chúng làm cơ sở.
Sau ngày thành lập, Cứu quốc quân 2 luân phiên nhau vừa hoạt động vừa vào sâu trong rừng để chấn chỉnh, học tập. Cứu quốc quân còn ra một tờ báo lấy tên là "Bác Sơn" gồm nhưng bài bằng chữ quốc ngữ, chữ Tày và chữ nho để kịp thời giáo dục nội bộ và làm tài liệu cho cán bộ, chiến sĩ khi đi làm công tác quần chúng. Do đó, trình độ chính trị và quân sự của Cứu quốc quân ngày một tiến bộ. Nhiều chiến sĩ Cứu quốc quân trở thành cán bộ có khả năng hoạt động độc lập. Dưới sự lãnh đạo và giáo dục của Đảng, tinh thần đoàn kết nhất trí, tình thương yêu giai cấp trong Cứu quốc quân không ngừng được nâng cao. Trong hoàn cảnh hoạt động vô cùng gay go, ác liệt, cán bộ và chiến sĩ Cứu quốc quân luôn luôn đùm bọc lẫn nhau, chia sẻ cho nhau từng quả rừng, nhường nhau từng manh áo vá.
Đế quốc Pháp tiếp tục càn quét, dồn dân vào các trại tập trung (ở Nà Pheo, Đỉnh Cả, Làng Giữa, Đồng En), phá hoại hoa màu làm cho Cứu quốc quân tuyệt đường nương tựa, thực hiện âm mưu "tát cạn nước để bắt cá".
Hoàn cảnh lúc này rất khó khăn. Nhiệm vụ bảo vệ nhân dân, giữ vững lực lượng chiến đấu, duy trì tiếng súng đấu tranh rất nặng nề. Nhưng Cứu quốc quân không hề sờn lòng, nản chí mà càng nung nấu thêm chí căm thù giặc, quyết sống mái với chúng.
Trong suốt tám tháng (từ tháng 7 năm 1941 đến tháng 2 năm 1942) phát động chiến tranh du kích và tác chiến trong những điều kiện vô cùng khó khăn gian khổ, Cứu quốc quân đã gìn giữ, bồi dưỡng được lực lượng của mình, tiêu hao được lực lượng địch.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Với tám tháng đánh du kích, Cứu quốc quân đã nêu một tấm gương sáng chói về tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất, tinh thần tự lực cánh sinh, vượt mọi khó khăn, gian khổ của một đội quân cách mạng.
Tám tháng đánh du kích ở Bắc Sơn - Vũ Nhai chứng tỏ dưới ách thống trị của đế quốc, phát-xít Pháp, Nhật, nhân dân ta do Đảng lãnh đạo, có thể lập được căn cứ cách mạng ở vùng nông thôn rừng núi và đánh du kích lâu dài để tiêu hao và tiêu diệt quân đội của đế quốc có ưu thế tuyệt đối về số lượng và trang bị. Muốn như vậy:
- Quân du kích phải có tinh thần triệt để cách mạng, chiến đấu anh dũng, khắc phục khó khăn, gian khổ.
- Quân du kích phải có cơ sở quần chúng rộng rãi để hoạt động và phát triển.
- Quân du kích phải nắm được quy luật của chiến tranh du kích là dựa vào quần chúng, là sinh sôi nảy nở, là cơ động, linh hoạt, biến hóa không cùng, lúc tập trung khi phân tán, luôn luôn giữ thế chủ động.
- Quân du kích phải khéo kết hợp quân sự và chính trị, tác chiến và tuyên truyền, tổ chức quần chúng, diệt tề trừ gian, làm công tác địch vận, ngụy vận.
Từ trong phong trào chống đế quốc, phát-xít Pháp, Nhật, cách mạng Việt Nam đã có một hình thức đấu tranh mới: chiến tranh du kích.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Cao Bằng, một tỉnh ở miền biên giới là nơi có phong trào cách mạng rất sớm. Ở đây, ngay sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương mới thành lập, đồng chí Hoàng Đình Rong cùng một số đảng viên dân tộc ít người ở địa phương đã tổ chức chi bộ Đảng đầu tiên. Thời kỳ Mặt trận dân chủ, phong trào cách mạng ở đây cũng phát triển khá rộng rãi.
Đầu tháng 12 năm 1940, tại vùng biên giới này, đồng chí Hồ Chí Minh và đồng chí Phùng Chí Kiên, ủy viên Trung ương Đảng, cùng với các đồng chí khác đã mở một lớp học ngắn ngày cho 40 đảng viên và quần chúng trung kiên của Đảng (đây là số đồng chí ở Cao Bằng bị đế quốc Pháp khủng bố phải vượt biên giới chạy ra nước ngoài). Sau lớp học, anh em trở về củng cố, mở rộng phong trào Cao Bằng và tổ chức đường liên lạc về nước. Phong trào Cao Bằng được hồi phục. Đồng chí Hồ Chí Minh về nước ở hang Pác Bó (Cao Bằng). Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng cũng đã họp ở đây.
Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng cũng mở lớp đào tạo cán bộ quân sự ngắn ngày do các đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp tổ chức và huấn luyện. Cuối năm 1941, đồng chí Hồ Chí Minh chỉ thị tổ chức Đội vũ trang ở Cao Bằng. Đội gồm có 12 người, do đồng chí Lê Quảng Ba chỉ huy. Đội có nhiệm vụ bảo vệ cơ quan lãnh đạo của Đảng, củng cố và giữ vững đường giao thông, đồng thời làm công tác tuyên truyền và giúp việc huấn luyện tự vệ và tự vệ chiến đấu.
Sang năm 1942, ở Cao Bằng đã có những châu "hoàn toàn" Việt Minh. Đây là một hiện tượng mới trong lịch sử cách mạng của ta. Phong trào lan sang cả Lạng Sơn, Bắc Cạn và tiếp tục phát triển mạnh mẽ.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Năm 1943, ở Đông Dương, bọn quân phiệt Nhật áp dụng chính sách lấn dần từng bước đối với thực dân Pháp, chuẩn bị hất cẳng Pháp. Trong lúc bị hai tầng áp bức, bóc lột của đế quốc, phát-xít Nhật, Pháp, được tình hình quốc tế cổ vũ, nhân dân ta càng oán Nhật, ghét Pháp, tinh thần cách mạng càng sôi sục. Nhiều cuộc đấu tranh đã nổ ra dưới nhiều hình thức từ thấp đến cao.
Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp từ ngày 25 đến ngày 27 tháng 2 năm 1943, quyết định củng cố và phát triển Mặt trận Việt Minh, đồng thời ra sức chuẩn bị khởi nghĩa. Đồng chí Chu Văn Tấn trở lại Bắc Sơn - Vũ Nhai củng cố phong trào, mở đường liên lạc với Cao Bằng và tìm cách nối liên lạc với Trung ương Đảng ở dưới xuôi; đồng chí Võ Nguyên Giáp cùng một tiểu đội vũ trang - tiếp tục nhiệm vụ Nam tiến. Mở đường Nam tiến (1941-1945) là nhiệm vụ chiến lược quan trọng mà Trung ương Đảng và đồng chí Hồ Chí Minh đã sớm vạch ra để mở rộng phong trào Việt Minh từ căn cứ địa Cao Bằng phát triển xuống Thái Nguyên nối liền với cả nước, chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân...
Sau cuộc họp, bộ phận Cứu quốc quân ở vùng biên giới Việt - Trung về nước. Trên đường về, Cứu quốc quân tuyên truyền, huấn luyện, tổ chức quần chúng theo Chương trình và Điều lệ Việt Minh, mở lớp đào tạo cán bộ cho địa phương và gây dựng các đội tự vệ. Bộ phận mới về cùng với bộ phận phân tán ở lại trong nước, tay tiếp tay làm cho phong trào cách mạng ở Bắc Sơn - Vũ Nhai được khôi phục và mở rộng.
Cũng sau cuộc họp, phong trào xung phong tham gia các đội Nam tiến diễn ra rầm rộ khắp nơi ở Cao Bằng. Hàng trăm cán bộ, thanh niên gái, trai tình nguyện thoát ly gia đình vào các đội Nam tiến. Mười chín đội xung phong Nam tiến được tổ chức. Vũ khí do từng người tự sắm. Mỗi đội xung phong được phân công đi một địa phương. Các tổ xung phong đi trước bắt mối, điều tra, tuyên truyền gây cơ sở. Các tổ xung phong tiếp sau đến củng cố, chọn cốt cán trong quần chúng, mở lớp huấn luyện ngắn kỳ, rồi dựa vào cán bộ địa phương mới được đào tạo mà phát triển phong trào.
Sau 7, 8 tháng hoạt động, con đường Nam tiến đã kéo dài trên nhiều triển núi và cánh đồng, qua các làng bản của đồng bào Tày, Dao...
Tháng 8 năm 1943, con đường Nam tiến và con đường liên lạc của Cứu quốc quân về phía Cao Bằng cũng được đánh thông và hợp lại thành "con đường quần chúng cách mạng" ôm vòng lấy Cao - Bắc - Lạng xuống Thái Nguyên về xuôi. Con đường được vạch ra sau Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng đến nay đã hình thành.
Hai khu căn cứ Cao Bằng và Bắc Sơn - Vũ Nhai được mở rộng, dựa vào nhau tạo thành thế liên hoàn chiến đấu, tiến có thể đánh, lui có thể giữ.
Sự hình thành hai khu căn cứ có những "con đường quần chúng cách mạng" nối liền nhau đã mở ra một triển vọng lớn, tạo điều kiện cho việc ra đời của Khu giải phóng sau này.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Phong trào cách mạng ở Việt Bắc ngày càng phát triển mạnh làm cho thực dân Pháp hết sức lo lắng. Mặt khác, mâu thuẫn giữa thực dân Pháp với phát-xít Nhật ngày càng tăng, khiến thực dân Pháp phải lo chuẩn bị một hậu phương an toàn để khi biến có thể lui quân. Vì vậy, vào cuối năm 1943, khi thấy phong trào Cao - Bắc - Lạng như một kho thuốc súng sắp bùng nổ, thực dân Pháp quyết định phải đàn áp ngay.
Tháng 12 năm 1943, theo kinh nghiệm khủng bố khu căn cứ Bắc Sơn - Vũ Nhai trước đây, chúng tiến hành khủng bố trắng khu căn cứ Cao - Bắc - Lạng.
Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng quyết định động viên quần chúng đấu tranh chống khủng bố. Các làng, bản đều tổ chức ban xung phong chống khủng bố. Mỗi lần lính đế quốc về bắn phá, thanh niên gái, trai trong nhưng ban xung phong chống khủng bố chia nhau đi khắp nơi giải thích, tuyên truyền, giữ vững tinh thần của nhân dân. Thấy có một sợi dây vô hình nối liền nhân dân trong các làng, bản với những cán bộ bí mật ở bên ngoài, địch ra lệnh dồn làng và ra sức lùng sục, càn quét.
Cuộc khủng bố của đế quốc tuy có làm cơ sở cách mạng bị rút hẹp đôi chút, nhưng qua đấu tranh, cơ sở cách mạng vẫn tồn tại và vững chắc thêm nhiều. Trải qua khủng bố, phong trào càng được thử thách, tuyển lựa thêm được những người thực sự trung thành đối với cách mạng. Tại khắp các địa phương, hội viên trung kiên tìm cách bắt liên lạc với đoàn thể để tiếp tục hoạt động hoặc xin gia nhập lực lượng vũ trang. Các lớp huấn luyện chính trị, quân sự mở hết khóa này đến khóa khác. Trước cuộc khủng bố khốc liệt kéo dài của địch, phong trào ở Cao - Bắc - Lạng vẫn vững chắc. Điều đó chứng tỏ ảnh hưởng của Đảng đã ăn sâu bám rễ rất chặt trong quần chúng và kinh nghiệm của Đảng về vận động, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống khủng bố rất phong phú.
Đồng thời, ở Tuyên Quang, Thái Nguyên, Cứu quốc quân vẫn không ngừng củng cố và phát triển cơ sở chính trị, giữ vững và mở rộng địa bàn hoạt động, coi đó là hành động thiết thực nhất để hỗ trợ cho Cao - Bắc - Lạng.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Tháng 2 năm 1944, Trung ương Đảng cử đồng chí Hoàng Quốc Việt lên kiểm tra tình hình. Thay mặt Trung ương Đảng, đồng chí Hoàng Quốc Việt quyết định chia khu căn cứ Bắc Sơn - Vũ Nhai mở rộng (lúc này gọi là chiến khu Hoàng Hoa Thám) thành hai phân khu: Phân khu A tức Phân khu Quang Trung và Phân khu B tức Phân khu Nguyễn Huệ và chủ trương phát triển thêm lực lượng vũ trang cách mạng ở đây.
Ngày 25 tháng 2 năm 1944, trung đội Cứu quốc quân thứ 3 được thành lập ở Khuổi Kịch, châu Sơn Dương (Tuyên Quang). Đội gồm các chiến sĩ Cứu quốc quân hoạt động ở Nam Đại Từ, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Vĩnh Yên.
Phong trào cách mạng quần chúng mở rộng, lực lượng vũ trang cách mạng phát triển, vấn đề cán bộ càng trở nên cấp bách. Trung ương Đảng quyết định lấy thêm cán bộ của Đảng bị đế quốc Pháp giam giữ vừa trong tù ra, và giao nhiệm vụ cho Cứu quốc quân liên hệ với chi bộ trong nhà tù Chợ Chu để tổ chức một cuộc vượt ngục.
Tháng 10 năm 1944, 12 đồng chí trong số cán bộ bị đế quốc giam cầm ở nhà lao Chợ Chu được Cứu quốc quân giúp đỡ đã khôn khéo, mưu trí, anh dũng vượt ngục thành công. Trong đó có các đồng chí Song Hào, Lê Hiến Mai, Tạ Xuân Thu....
Có thêm cán bộ, phong trào quần chúng và các trung đội Cứu quốc quân càng được củng cố vững chắc. Việc mở rộng mạng lưới tuyên truyền, biên soạn tài liệu, tổ chức ấn loát đến việc sửa chữa vũ khí, làm lựu đạn đều được những cán bộ có năng lực chuyên trách. Mọi hoạt động của Cứu quốc quân được đẩy mạnh, phong trào ở hai Phân khu phát triển rất nhanh.
Sáng tai họ, điếc tai cày