Trong khi ở Việt Bắc phong trào cách mạng ngày càng phát triển thì ở dưới xuôi, sau Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng (2-1943), Đảng đã tăng cường hoạt động để mở rộng Mặt trận Việt Minh. Uy tín của Mặt trận Việt Minh ngày càng lớn, ảnh hướng của cách mạng ngày càng tăng, phong trào ngày càng phát triển.
Giữa năm 1944, tình hình thế giới biến đổi rất nhanh. Quân đội Xô-viết phản công thắng lợi trên nhiều mặt trận. Việc tiêu diệt bọn phát xít chỉ còn là vấn đề thời gian. Ngày 7 tháng 5 năm 1944, dựa vào chủ trương của Trung ương Đảng, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị về sửa soạn khởi nghĩa để đẩy mạnh phong trào lên một bước mới.
Ngày 10 tháng 8 năm 1944, Trung ương Đảng kêu gọi "sắm vũ khí, đuôi thù chung". Các tổ chức quần chúng trong Mặt trận Việt Minh nhiệt liệt hưởng ứng tà góp tiền vào quỹ mua súng. Tổng bộ Việt Minh phát hành "tín phiếu" để lấy tiền chi tiêu vào việc sửa soạn khởi nghĩa. Không khí cách mạng sôi sục và lan rộng khắp các tỉnh.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Cuối năm 1944, thấy phong trào cách mạng ở Bắc Sơn - Vũ Nhai lan rộng, đế quốc Pháp vô cùng hoảng hốt. Chúng mở một cuộc càn quét lớn vào Vũ Nhai. Đây là cuộc khủng bố trắng lần thứ ba đầy tội ác của chúng ở khu căn cứ này. Quần chúng cách mạng và Cứu quốc quân ở đây đều muốn vùng dậy quyết sống mái với quân thù. Đêm 13 tháng 11 năm 1944, ở Vũ Nhai, Ban lãnh đạo Phân khu A tổ chức một cuộc mít-tinh, tuần hành, thị uy lớn. Tinh thần chiến đấu của quần chúng lên rất cao. Đồng bào hết sức căm thù bọn đế quốc, quyết đổ máu để bênh vực quyền sống, bảo vệ cách mạng. Những tên Việt gian rắp tâm chỉ điểm cho giặc bị trừng trị, chính quyền của giặc Pháp trong vùng bị tan rã, tên đồn trưởng ở Đình Cả hoảng sợ, bỏ chạy. Hưởng ứng lời kêu gọi của Ban lãnh đạo Phân khu, nhân dân khắp vùng Lâu Thượng, Phú Thượng, Tràng Xá triệt để thực hiện "vườn không nhà trống". Nhiều người tự tay đốt nhà mình và đưa cả gia đỉnh lên núi theo Cứu quốc quân đánh giặc. Các chiến sĩ tự vệ và tự vệ chiến đấu nô nức xin vào Cứu quốc quân.
Chiến tranh du kích một lần nữa lại được phát động. Cứu quốc quân và nhân dân chiến đấu rất anh dũng, càng đánh càng già dặn, thành thạo hơn. Lực lượng Cứu quốc quân phát triển lên tới 400 người. Trong gần ba tháng chiến đấu liên tục, Cứu quốc quân không bị thương vong mà còn tiêu hao, tiêu diệt địch và thu được súng đạn của địch. Tuy vậy, vì cả nước chưa có tình thế trực tiếp cách mạng, nên cuộc chiến đấu ở Vũ Nhai bị cô độc. Đáng lẽ trong tình hình đó chỉ nên vận động quần chúng đấu tranh chống dồn làng và bắt người, chống khủng bố theo nhưng hình thức thông thường. Đã thế, lại còn triệt để thực hiện "vườn không nhà trống", đưa một số quần chúng không thể chiến đấu lên núi, làm cho bộ đội du kích thêm nặng nề. Vì những lẽ đó, các chiến sĩ Vũ Nhai đã ở vào tình thế bất lợi, mất dần thế chủ động tiến công.
Được tin cuộc khởi nghĩa Vũ Nhai nổ ra ngoài kế hoạch, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã khẳng định những ưu điểm, đồng thời phê phán những khuyết điểm, sai lầm và rút ra nhứng bài học bổ ích. Ban Thường vụ Trung ương quyết định chuyển cuộc đấu tranh vũ trang thành cuộc chống khủng bố theo những hình thức thông thường để phá kế hoạch càn quét của địch và bảo toàn lực lượng của ta. Nhân dân dần dần được tổ chức trở về làng bản làm ăn và đấu tranh với địch. Một bộ phận nhỏ Cứu quốc quân và lực lượng tự vệ được bí mật phân tán bám sát cơ sở và duy trì tinh thần đấu tranh của quần chúng. Còn phần lớn lực lượng rút sang vùng Yên Thế (Bắc Giang) tiếp tục chấn chỉnh, xây dựng, chờ đón thời cơ. Nhờ vậy, lực lượng được bảo toàn, phong trào được nuôi dưỡng, chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa sau này.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Cũng như nhân dân Vũ Nhai, mùa đông năm 1944, với lòng căm thù đế quốc cao độ, nhân dân Cao - Bắc - Lạng sẵn sàng phát động khởi nghĩa vũ trang. Kế hoạch chuẩn bị khởi nghĩa đã thực hiện được một phần lớn. Tiếng súng nổ ở nhiều nơi. Nhân dân Cao - Bắc - Lạng ở trong tình trạng chờ đợi căng thẳng. Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng chuẩn bị cuộc hội nghị cuối cùng để quyết định ngày giờ phát động chiến tranh du kích.
Giữa lúc đó, đồng chí Hồ Chí Minh từ Trung Quốc về Cao Bằng sau khi thoát khỏi nhà tù Tưởng Giới Thạch. Sau khi kiểm tra tình hình, đồng chí Hồ Chí Minh chỉ thị hoãn cuộc khởi nghĩa, vì: "Chủ trương phát động chiến tranh du kích ở Cao - Bắc - Lạng là mới chỉ căn cứ vào tình hình địa phương mà chưa căn cứ vào tình hình cụ thể trong toàn quốc, mới chỉ thấy bộ phận mà chưa thấy toàn cụ”. "Bây giờ thời kỳ cách mạng hòa bình phát triển đã qua, nhưng thời kỳ toàn dân khởi nghĩa chưa tới. Nếu bây giờ chúng ta vẫn chỉ hoạt động bằng hình thức chính trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào đi tới. Nhưng phát động vũ trang khởi nghĩa ngay thì quân địch sẽ tập trung đối phó. Cuộc đấu tranh bây giờ phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. Song hiện nay chính trị còn trọng hơn quân sự. Phải tìm ra một hình thức thích hợp thì mới có thể đẩy phong trào tiến lên. Nếu phát động đấu tranh mà mỗi khi địch đến, nhân dân lại phải tản cư cả vào rừng núi, thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Phải làm sao, cứ hoạt động vũ trang mà dân ở đâu cứ ở đấy sản xuất, chỉ cần tăng cường canh gác đề phòng không để địch bắt, hại những người hoạt động"!
Chủ trương sáng suốt và đúng đắn của đồng chí Hồ Chí Minh đã tránh cho Cao - Bắc - Lạng những tổn thất lớn.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Để thực hiện phương châm hoạt động mới, đồng chí Hồ Chí Minh chỉ thị cho đồng chí Võ Nguyên Giáp cùng các đồng chí Vũ Anh, Lê Quảng Ba nghiên cứu thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân.
Chỉ thị như sau:
"1. Tên, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền. Vì muốn hành động có kết quả thì về quân sự, nguyên tắc chính là nguyên tắc tập trung lực lượng, cho nên, theo chỉ thị mới của Đoàn thể sẽ chọn lọc trong hàng ngũ những đội du kích Cao - Bắc - Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực.
Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân, cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, cho nên trong khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên cần phải duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương diện. Đội quân chủ lực trái lại có nhiệm vụ dìu dắt các đội vũ trang của các địa phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm cho các đội này trưởng thành mãi lên.
2. Đối với các đội vũ trang địa phương: đưa các cán bộ địa phương về huấn luyện, tung các cán bộ đã huấn luyện đi các địa phương, trao đổi kinh nghiệm, liên lạc thông suốt, phối hợp tác chiến.
3. Về chiến thuật: vận dụng lối đánh du kích, bí mật, nhanh chóng, tích cực, nay đông mai tây, lai vô ảnh, khứ vô tung. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là đội quân đàn anh, mong cho chóng có những đội đàn em khác. Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của Giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam chúng ta"!
Sáng tai họ, điếc tai cày
Sau một thời gian gấp rút chuẩn bị, ngày 22 tháng 12 năm 1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập. Tại một khu rừng giữa hai tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, đồng chí Võ Nguyên Giáp được Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh ủy nhiệm tổ chức lãnh đạo và chỉ huy, đã tuyên bố thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và vạch rõ nhiệm vụ của Đội đối với Tổ quốc. Dưới lá cờ đỏ sao vàng năm cánh, toàn Đội đã long trọng tuyên đọc Mười lời thề danh dự:
“Chúng tôi, đội viên Đội giải phóng quân Việt Nam xin lấy danh dự một người chiến sĩ cứu quốc mà thề dưới lá cờ đỏ sao vàng năm cánh:
- Xin thề: Hy sinh tất cả vì Tổ quốc Việt Nam, chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để chống xâm lược và bọn Việt gian phản quốc để giải phóng cho toàn dân Việt Nam, làm cho nước Việt Nam trở nên một nước độc lập, dân chủ, tự do, ngang hàng với các nước dân chủ trên thế giới.
- Xin thề: Tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của cấp trên, khi nhận được một nhiệm vụ gì sẽ tận tâm, tận lực thi hành cho nhanh chóng và chính xác.
- Xin thề: Bao giờ cũng kiên quyết phấn đấu, dù gian lao khổ hạnh cũng không phàn nàn, vào sống ra chết cũng không sờn chí, khi ra trận mạc quyết chí xung phong, dù đầu rơi máu chảy cũng không lùi bước.
- Xin thề: Lúc nào cũng khẩn trương, hoạt bát, hết sức học tập, chiến đấu để tự rèn luyện thành một quân nhân cách mạng, xứng đáng là một người chiến sĩ tiên phong giết giặc, cứu nước.
- Xin thề: Tuyệt đối giữ bí mật cho mọi việc của đội như nội dung, tổ chức, kế hoạch hành động, cùng những người chỉ huy trong đội và giữ bí mật cho tất cả các đoàn thể cứu quốc.
- Xin thề: Nếu trong lúc chiến đấu bị quân địch bắt được, dù bị cực hình tàn khốc thế nào cũng quyết một lòng trung thành với sự nghiệp cứu quốc, không bao giờ phản bội xưng khai.
- Xin thề: Hết sức ái hộ các bạn chiến đấu trong đội cũng như ái hộ bản thân, hết lòng giúp nhau trong lúc thường cũng như lúc ra trận.
- Xin thề: Bao giờ cũng chủ trương giữ gìn vũ khí của đội, quyết không để cho vũ khí hư hỏng hoặc rơi vào tay quân thù.
- Xin thề: Khi tiếp xúc với dân chúng sẽ làm đúng với ba điều nên: kính trọng dân, cứu giúp dân, bảo vệ dân; và ba điều răn: không dọa nạt dân, không lấy của dân, không quấy nhiễu dân để gây lòng tin cậy ái đới của dân chúng, thực hiện quân dân nhất trị, cứu nước diệt gian.
- Xin thề: Bao giờ cũng nêu cao tinh thần tự phê bình và sửa chữa giữ tư cách cá nhân mô phạm, không làm điều gì hại đến thanh danh của Đội quân Giải phóng và hại đến quốc thể Việt Nam.”
Mười lời thể nói lên lòng trung thành vô hạn đối với Tổ quốc, với Đảng, tinh thần hy sinh chiến đấu đến giọt máu cuối cùng vì sự nghiệp cách mạng, kiên quyết tiêu diệt quân thù cướp nước, hết lòng hết dạ phục vụ nhân dân, tinh thần đoàn kết và ý thức tổ chức, kỷ luật rất cao của một quân đội cách mạng. Mười lời thề của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã trở thành lời thề của quân đội ta sau này.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân gồm 34 người, có 31 nam và 3 nữ, biên chế thành 3 tiểu đội do đồng chí Hoàng Sâm làm đội trưởng và đồng chí Xích Thắng làm chính trị viên. Đội có chi bộ Đảng lãnh đạo. Chỉ có 34 người với 34 khẩu súng các loại, nhưng đó là những chiến sĩ kiên quyết, dũng cảm đã được chọn lựa kỹ càng trong các đội du kích Cao - Bắc - Lạng và trong số người đi học quân sự ở nước ngoài về, hầu hết đã trải qua chiến đấu và ít nhiều đều có hiểu biết về kỹ thuật và kinh nghiệm quân sự.
Theo yêu cầu của anh em, sau lễ thành lập, đội tổ chức một bữa cơm nhạt không rau không muối để nêu cao tinh thần gian khổ của các chiến sĩ cách mạng. Và ngay tối hôm đó, đội tổ chức "đêm du kích" liên hoan với đồng bào địa phương để thắt chặt thêm tình đoàn kết quân dân.
Với sự ra đời cua Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tại Cao - Bác - Lạng đã xuất hiện ba hình thức tổ chức của lực lượng vũ trang nhân dân: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là đội chủ lực, các đội vũ trang ở châu, và các đội tự vệ nửa vũ trang ở xã.
Chấp hành chỉ thị "phải đánh thắng trận đầu", ngay sau ngày thành lập, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã mưu trí, táo bạo, giả làm quân địch, bất ngờ đột nhập vào đồn Phai Khắt (17 giờ chiều ngày 25 tháng 12 năm 1944), và liền ngay sáng hôm sau (7 giờ sáng 26 tháng 12 năm 1944) đột nhập đồn Nà Ngần cách đó 15km, tiêu diệt gọn hai đồn địch, giết chết hai tên đồn trưởng, bắt sống toàn bộ binh lính địch trong hai đồn, thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Mở đầu truyền thống quyết chiến, quyết thắng của Quân đội ta
Cách đây 80 năm, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập, đánh dấu sự ra đời của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Đó là Quân đội kiểu mới, quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, là lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục và rèn luyện. Ngay sau thành lập, Đội đã giành thắng lợi trong những trận đánh đầu tiên, mở đầu truyền thống: “Đánh thắng trận đầu”, “Đã ra quân là đánh thắng”, “Quyết chiến, quyết thắng” của Quân đội ta.
Dấu ấn lịch sử
Ngày 22-12-1944, theo Chỉ thị của Lãnh tụ Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập tại một khu rừng giữa hai tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng (nay là xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng). Đồng chí Võ Nguyên Giáp được Trung ương Đảng và Lãnh tụ Hồ Chí Minh ủy nhiệm tổ chức, lãnh đạo, chỉ huy, tuyên bố thành lập Đội. Phương châm và nhiệm vụ hoạt động của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân là chính trị trọng hơn quân sự, tuyên truyền trọng hơn tác chiến. Đó là “đội quân đàn anh”, đội quân vũ trang chủ lực đầu tiên của cách mạng cả nước. “Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam”[1].
Dưới lá cờ đỏ sao vàng, toàn Đội đã đọc 10 lời thề danh dự[2]. Mười lời thề danh dự do Đại tướng Võ Nguyên Giáp soạn thảo giữa ngày đông, khí trời lạnh buốt trong khu rừng đại ngàn thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, được đọc trang trọng trong Lễ thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân ngày 22-12-1944 gồm: (1) Hy sinh tất cả vì Tổ quốc Việt Nam, chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để tiêu diệt bọn phát xít Nhật và bọn Việt gian phản quốc, làm cho nước Việt Nam trở nên một nước độc lập và dân chủ, ngang hàng với các nước dân chủ trên thế giới. (2) Tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của cấp chỉ huy, khi nhận được mệnh lệnh gì, sẽ tận tâm, tận lực thi hành cho nhanh chóng và chính xác. (3) Bao giờ cũng kiên quyết chiến đấu, dù gian lao khổ sở cũng không phàn nàn, vào sống ra chết cũng không sờn chí, khi ra trận quyết chí xung phong, dù đầu rơi máu chảy cũng không lùi bước.
(4) Lúc nào cũng khẩn trương, hoạt bát, hết sức học tập để tự rèn luyện thành một quân nhân cách mạng, xứng đáng là một người chiến sĩ tiên phong giết giặc, cứu nước. (5) Tuyệt đối giữ bí mật cho bộ đội về nội dung tổ chức, về các cấp chỉ huy, tuyệt đối giữ bí mật cho tất cả các đoàn thể cứu quốc. (6) Khi ra trận, nếu bị quân địch bắt được, thì dù cực hình tàn khốc thế nào cũng cương quyết một lòng trung thành với sự nghiệp giải phóng của toàn dân, không bao giờ cung khai phản bội. (7) Hết sức ái mộ bạn chiến đấu cũng như bản thân, hết lòng giúp đỡ nhau lúc thường cũng như lúc ra trận. (8) Hết sức giữ gìn vũ khí, không bao giờ để vũ khí hư hỏng hay rơi vào tay quân thù. (9) Khi tiếp xúc với dân chúng sẽ làm đúng ba điều răn: không lấy của dân, không dọa nạt dân, không quấy nhiễu dân và ba điều nên: kính trọng dân, giúp đỡ dân, bảo vệ dân để gây lòng tin cậy đối với dân chúng, thực hiện quân dân nhất trí, giết giặc cứu nước. (10) Bao giờ cũng nêu cao tinh thần tự phê bình, giữ tư cách cá nhân mô phạm, không làm điều gì hại đến thanh danh Giải phóng quân và Quốc thể của Việt Nam[3].
Về sự kiện lịch sử trang nghiêm, trọng đại này, đồng chí Võ Nguyên Giáp cho biết: “Tâm tư của chúng tôi trong những giờ phút thiêng liêng (tuyên thệ Mười lời thề) đó thực khó tả. Bao nhiêu chiến công oanh liệt của ông cha đời trước, của các chiến sĩ cách mạng, của nhân dân ta, phút chốc hiện ra rực rỡ trong ký ức. Nợ nước, thù nhà, oán hờn dân tộc, căm thù giai cấp, làm cho máu nóng trong người như sắp sôi lên. Chúng tôi quên đi chúng tôi là 34 con người với những súng ống thô sơ, mà thấy đây là cả một đoàn quân gang thép, rắn chắc, không sức mạnh nào khuất phục nổi, sẵn sàng quật nát kẻ thù. Tin tưởng, náo nức, cảm động”[4].
Quang cảnh ngày thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân tại khu rừng Trần Hưng Đạo. Ảnh tư liệu |
Về nội dung cơ bản của mười lời thề danh dự, sau này, khi trả lời phỏng vấn một nhà báo Pháp, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho biết: “Tôi đã soạn lời thề danh dự gồm mười điểm, dựa theo lời thề danh dự của FFI (Forces Francaises de L'interieur, nhóm kháng chiến Pháp chống lại quân chiếm đóng Đức trong Thế chiến hai) và của quân giải phóng Nam Tư”[5].
Nội dung Mười lời thề của Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân toát lên mục tiêu làm cho nước Việt Nam được độc lập, dân chủ, có thể sánh ngang hàng với các nước dân chủ trên thế giới, dù có phải chiến đấu đến giọt máu cuối cùng, cũng sẵn sàng hy sinh tất cả vì Tổ quốc Việt Nam. Ở vào thời điểm lúc đó, hoàn cảnh lúc đó, đối với những đội viên hầu như chưa được học hành, huấn luyện nhiều, chỉ có lòng yêu nước thương nòi, quyết tâm chiến đấu vì nhân dân, vì đất nước, tuy còn khá mới mẻ, lạ lẫm về câu chữ, song lại hết sức gần gũi, thân quen, bởi những nội dung trong các lời thề chính là những tâm niệm, hành động hằng ngày của mỗi đội viên của đội quân cách mạng do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, tổ chức, giáo dục và rèn luyện.
Việc tổ chức tuyên thệ Mười lời thề danh dự ngay trong buổi đầu đã thể hiện rõ yêu cầu của một đội quân cách mạng đối với những người muốn được đứng vào hàng ngũ còn non trẻ đó. Đó là yêu cầu về sự kiên định mục đích, lý tưởng chiến đấu, về ý thức tổ chức kỷ luật, phục tùng mệnh lệnh cấp trên; về phẩm chất, năng lực công tác, lòng trung thành với Tổ quốc; đồng thời, giúp cho mỗi đội viên tăng thêm lòng tin tưởng, sự hăng hái quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao phó, bởi họ thấy đây là một tổ chức, một đội quân cách mạng có kỷ luật chặt chẽ, nghiêm minh, có mục tiêu chiến đấu rõ ràng vì độc lập của Tổ quốc, vì cơm no, áo ấm cho nhân dân.
Chiến thắng vẻ vang
Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân gồm 34 cán bộ, chiến sĩ do đồng chí Hoàng Sâm làm Đội trưởng. Tuy chỉ có 34 người với vũ khí thô sơ các loại, nhưng đó là những chiến sĩ kiên quyết, dũng cảm đã được chọn lựa trong các đội du kích Cao - Bắc - Lạng, Cứu quốc quân và trong số người đi học quân sự ở nước ngoài về, hầu hết đã trải qua chiến đấu và ít nhiều đều có hiểu biết về kỹ thuật và kinh nghiệm quân sự. Là con em của các tầng lớp nhân dân bị áp bức, họ có lòng yêu nước, chí căm thù địch rất cao. Không một người nào trong đội không mang mối hận thù với đế quốc, hoặc nhà cửa bị đốt, của cải bị tịch thu, hoặc cha, anh, chị, em bị bắt, bị bắn, còn bản thân nếu chưa trải qua lao tù thì cũng là những người đang bị truy nã, đầu bị treo giải hàng vạn đồng, hàng trăm đấu muối. Nợ nước, thù nhà, oán hờn dân tộc, căm thù giai cấp đã siết chặt họ lại thành một khối vững chắc, không kẻ thù nào phá vỡ nổi.
Theo yêu cầu của anh em, sau Lễ thành lập, Đội tổ chức một bữa cơm nhạt không rau, không muối để nêu cao tinh thần gian khổ của các chiến sĩ cách mạng. Và ngay tối hôm đó, Đội tổ chức “đêm du kích” liên hoan với đồng bào địa phương để thắt chặt thêm tình đoàn kết quân dân.
Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân là đội quân chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 22 tháng 12 năm 1944 được xác định là Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, đánh dấu sự ra đời của một tổ chức quân sự mới của dân tộc ta. Với sự ra đời của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tại Cao - Bắc - Lạng đã xuất hiện ba hình thức tổ chức của lực lượng vũ trang nhân dân: Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân là đội chủ lực, các đội vũ trang ở châu và các đội tự vệ nửa vũ trang ở xã.
Chấp hành Chỉ thị “phải đánh thắng trận đầu”, ngay sau ngày thành lập, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã mưu trí, táo bạo, giả làm quân địch, bất ngờ đột nhập vào đồn Phai Khắt (17 giờ chiều ngày 25 tháng 12 năm 1944), và liền ngay sáng hôm sau (7 giờ sáng 26 tháng 12 năm 1944) đột nhập đồn Nà Ngần cách đó 15km, tiêu diệt gọn hai đồn địch, giết hai tên đồn trưởng, bắt sống toàn bộ binh lính địch trong hai đồn, thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng. Hai trận đánh đồn Phai Khắt và Nà Ngần thắng lợi đã mở đầu truyền thống đánh tiêu diệt, đánh chắc thắng, đã ra quân là đánh thắng, quyết chiến, quyết thắng của Quân đội ta.
Dấu ấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Xuất phát từ thực tiễn đất nước và yêu cầu của sự nghiệp giải phóng dân tộc, sau gần 15 năm Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời[6], dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng chính trị đã phát triển mạnh mẽ, nhưng lực lượng vũ trang còn nhỏ, lẻ và phân tán. Trước thực trạng đó, cuối tháng 12-1944, Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã ra Chỉ thị thành lập “Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân”[7]. Bản Chỉ thị đã chỉ rõ: Ý nghĩa tên gọi của Đội; mục tiêu và lý do thành lập Đội; phương thức xây dựng lực lượng của Đội; chức năng, nhiệm vụ của Đội; phương thức tác chiến phù hợp với tình hình thực tiễn và phương hướng phát triển của Đội. Do vậy, Bản Chỉ thị này của Hồ Chí Minh có vai trò như một “Cương lĩnh quân sự lịch” của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới. 80 năm đã qua, Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân của Hồ Chí Minh còn vẹn nguyên giá trị cho các hoạt động quân sự của cách mạng Việt Nam.
Là học trò xuất sắc và gần gũi của Lãnh tụ Hồ Chí Minh, việc thành lập đội chủ lực đầu tiên mang dấu ấn sâu sắc vai trò của đồng chí Võ Nguyên Giáp. Nói về công lao của người đứng ra thành lập, chỉ đạo hoạt động của đội quân chủ lực đầu tiên của cách mạng Việt Nam, trong “Thư gửi bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích nhân kỷ niệm Ngày thành lập Quân Giải phóng Việt Nam” ngày 22-12-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Quân đội ta quen gọi Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp là Anh Cả. Cách gọi thân ái ấy rất đúng với tinh thần và lịch sử của quân đội ta: vì từ ngày thành lập đội Nam tiến đến nay Đảng và Chính phủ đã ủy cho đồng chí Giáp và một số cán bộ phụ trách tổ chức, huấn luyện và lãnh đạo quân đội ta”[8]. Với tên gọi “Người Anh Cả của Quân đội”, đã chính thức ghi nhận vai trò, công lao của Đại tướng Võ Nguyên Giáp với sự nghiệp xây dựng và chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam, đặc biệt là dấu ấn đối với đội quân chủ lực đầu tiên và cũng là bước khởi đầu binh nghiệp của “Đại tướng của nhân dân” Võ Nguyên Giáp.
Đại tá, PGS, TS NGUYỄN VĂN SÁU, Viện Lịch sử Quân sự
[1] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 540.
[2] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 717.
[3] Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Phát huy truyền thống Bộ đội Cụ Hồ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Hà Nội, 2000, tr. 591.
[4] Võ Nguyên Giáp, Tổng tập hồi ký, Nxb QĐND, Hà Nội, 2006, tr. 91.
[5] Báo Quân đội nhân dân, số 17478, ngày 13/12/2009.
[6] Tên Đảng thời kỳ này là Đảng Cộng sản Đông Dương.
[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 3, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 539.
[8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 6, tr. 264.
Đọc bài gốc tại đây.
Dấu ấn trong chặng đường 80 năm của Quân đội ta.
Quân đội ta do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện. Trải qua 80 năm xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự nuôi dưỡng, đùm bọc, chở che của nhân dân, sự phối hợp của các cơ quan, đoàn thể, sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, Quân đội ta luôn tỏ rõ bản lĩnh của một đội quân cách mạng, cùng toàn Đảng, toàn dân làm nên những chiến thắng vĩ đại trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn hòa bình khu vực và thế giới.
Làm nòng cốt cùng toàn dân giành chính quyền khi chưa đầy “một tuổi”
Tháng Tám năm 1945, mặc dù ra đời chưa đầy một năm, nhưng Quân đội đã phát huy vai trò nóng cốt, hỗ trợ, thúc đẩy quần chúng cách mạng tiến hành Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.
Từ những chiến thắng đầu tiên...
Khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam không có sẵn một đơn vị vũ trang nào làm vốn quân sự cho mình, mà phải bắt tay từ đầu xây dựng cơ sở chính trị, tổ chức lực lượng vũ trang từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, từ chưa hoàn chỉnh đến hoàn chỉnh.
Qua thực tiễn phong trào cách mạng 1930 - 1931, mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ-Tĩnh các Đội tự vệ Đỏ - mầm mống của lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam đã xuất hiện và tỏ rõ sức mạnh là lực lượng nòng cốt trong việc thực hiện chức năng bảo vệ các cuộc đấu tranh cách mạng của quần chúng. Tháng 5-1941, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định thành lập các đội tự vệ cứu quốc và những tiểu tổ du kích cứu quốc làm lực lượng xung kích trong phong trào cách mạng ở địa phương.
Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập ngày 22-12-1944 tại khu rừng Trần Hưng Đạo (Cao Bằng). Ảnh tư liệu |
Ngày 22-12-1944, tại huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân đã được thành lập với lực lượng ban đầu gồm 34 cán bộ, chiến sĩ. Ngay sau khi thành lập, Đội đã giành hai thắng lợi liên tiếp Phai Khắt (25-12-1944) và Nà Ngần (26-12-1944).
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), Đảng đã phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước, toàn quốc bước vào thời kỳ tiền tổng khởi nghĩa, nhiều địa phương đã khởi nghĩa từng phần.
Ngày 15-5-1945, tại huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, thực hiện chủ trương của Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ (4-1945), Việt Nam Giải phóng quân được thành lập, trên cơ sở thống nhất các đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, Cứu Quốc quân và các đơn vị vũ trang trong cả nước, gồm 13 đại đội và các đội vũ trang tập trung ở các tỉnh, huyện. Trước khi Tổng khởi nghĩa, đã có hàng chục đại đội Giải phóng quân là bộ đội chủ lực hoặc bộ đội địa phương ở các tỉnh, huyện thuộc Khu giải phóng Việt Bắc (khoảng 5.000 chiến sĩ); nhiều đội du kích tập trung ở các chiến khu và căn cứ vũ trang khác; hàng vạn tự vệ, du kích chiến đấu ở các làng, xã, xí nghiệp, đường phố.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phối hợp với lực lượng chính trị quần chúng tập hợp đông đảo trong Mặt trận Việt Minh, các lực lượng vũ trang đã tích cực, chủ động tuyên truyền, đấu tranh, tiêu diệt địch, thu vũ khí. Chỉ trong gần hai tuần lễ nửa cuối tháng Tám năm 1945, bằng sức mạnh như vũ bão, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các ủy ban khởi nghĩa trực tiếp chỉ huy, các lực lượng vũ trang - mà nòng cốt là Việt Nam Giải phóng quân, các đơn vị vũ trang của các chiến khu, đã cùng nhân dân cả nước nổi dậy, thiết lập chính quyền mới của nhân dân trên phạm vi cả nước.
...đến vai trò nòng cốt, dẫn dắt, hỗ trợ quần chúng Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
Trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, các đội quân cách mạng đóng vai trò nòng cốt, tiên phong, dẫn dắt, hỗ trợ đắc lực cho quần chúng cách mạng tiến hành giành chính quyền về tay nhân dân:
Thứ nhất, lực lượng vũ trang cách mạng, nhất là Việt Nam Giải phóng quân và các đơn vị vũ trang các chiến khu, thực sự là nòng cốt trong tuyên truyền, vận động nhân dân, tạo động lực mạnh mẽ cho quần chúng nổi dậy giành chính quyền.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, cuộc khởi nghĩa từng phần đã diễn ra ở nhiều địa phương có phong trào cách mạng phát triển mạnh, lập các khu giải phóng để tiếp tục phát triển phong trào cách mạng, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang các địa phương. Khi biết tin Nhật đầu hàng Đồng minh, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã phát động Tổng khởi nghĩa trên phạm vi cả nước. Các đơn vị Giải phóng quân đã nhanh chóng tỏa về các địa phương, phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang tại chỗ, các đội du kích, đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân dân nổi dậy giành chính quyền. Tại các địa bàn trọng yếu, lực lượng vũ trang thực sự là các mũi xung kích tuyên truyền để toàn thể nhân dân nhận rõ thời cơ lịch sử, tiến hành các biện pháp đấu tranh phù hợp với tình hình và với các đối tượng để giành chính quyền.
Cuộc mít tinh tại quảng trường Nhà hát Lớn ngày 19-8-1945. Ảnh tư liệu |
Quá trình vận động, tuyên truyền, lực lượng vũ trang cách mạng luôn sát cánh với quần chúng, kiên quyết đấu tranh, vô hiệu hóa các tổ chức phản động, chống phá cách mạng... Từ đó, quần chúng nhân dân thấy rõ kẻ thù, phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng tiêu diệt hoặc bao vây, cô lập, khi cần thì thương lượng để quân Nhật nằm im, tạo điều kiện cho quần chúng cách mạng lật đổ chính quyền cũ, thành lập chính quyền của nhân dân.
Thứ hai, các đơn vị Việt Nam Giải phóng quân nói riêng và các lực lượng vũ trang cách mạng nói chung thực sự đóng vai trò xung kích, chủ lực trong đấu tranh vũ trang, trực tiếp xóa bỏ chính quyền địch, góp phần đưa cách mạng đến thành công.
Thời điểm tháng 8 năm 1945, dù đã đầu hàng Đồng minh, nhưng quân đội Nhật ở Đông Dương vẫn còn trên 6 vạn tên. Ở nhiều nơi, lấy cớ chưa nhận được lệnh cấp trên, chúng không những không buông vũ khí mà còn thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng. Trước tình hình đó, Tổng bộ Việt Minh và các ủy ban khởi nghĩa đã chỉ đạo các đơn vị Giải phóng quân và du kích từ căn cứ địa, các chiến khu và căn cứ vũ trang nhanh chóng tỏa về các địa phương, phối hợp chặt chẽ với lực lượng tại chỗ, các tổ (đội) bán vũ trang tổ chức trấn áp, tiêu diệt địch ở các mục tiêu trọng yếu, tạo điều kiện và cùng với lực lượng quần chúng nhân dân xóa bỏ chính quyền địch, tổ chức chính quyền cách mạng.
Các đơn vị Giải phóng quân đã tập trung lực lượng tiến công giải phóng các tỉnh lỵ, tạo khí thế, thúc đẩy phong trào ở các địa phương khác. Đặc biệt, tại tỉnh Quảng Ngãi, từ chiến khu Vĩnh Sơn, Núi Lớn, hai đại đội du kích: Phan Đình Phùng và Hoàng Hoa Thám, với quân số hạn chế, vũ khí thô sơ, nhưng với quyết tâm cao đã lần lượt tiến đánh và giải phóng các huyện lỵ, các đồn: Ba Tơ, Minh Long, tiến tới làm chủ tỉnh lỵ Quảng Ngãi. Như vậy, hoạt động của Việt Nam Giải phóng quân, các đội quân cách mạng ở các chiến khu nói riêng và các lực lượng vũ trang cách mạng nói chung không những đã cổ vũ toàn dân vùng lên, mà còn chiến đấu, đập tan sự kháng cự ngoan cố, khiến kẻ địch khiếp sợ, đầu hàng và nhanh chóng thất bại, thúc đẩy các cuộc mít tinh, biểu tình giành chính quyền trên toàn quốc diễn ra mạnh mẽ và nhanh chóng giành thắng lợi.
Thứ ba, Việt Nam Giải phóng quân, các đội quân cách mạng ở các chiến khu nói riêng và các lực lượng vũ trang cách mạng nói chung còn đóng vai trò hỗ trợ, bảo vệ, là chỗ dựa vững chắc cho lực lượng chính trị quần chúng nổi dậy giành chính quyền.
Ở nhiều địa phương, mặc dù Giải phóng quân chưa đến kịp, nhưng với lực lượng chính trị mạnh mẽ của nhân dân, có lực lượng vũ trang và bán vũ trang tại chỗ trợ lực, các cấp đảng bộ và các ủy ban khởi nghĩa đã vận dụng linh hoạt sách lược đấu tranh, đưa khởi nghĩa đến thắng lợi hoàn toàn. Chính từ sự hỗ trợ đắc lực của lực lượng vũ trang mà lực lượng quần chúng dù vũ khí thô sơ vẫn vùng lên, tổ chức các cuộc mít tinh, biểu tình, tuần hành thị uy, biểu tình vũ trang, rồi phát triển chiếm các cơ quan chính quyền của địch, thiết lập chính quyền của nhân dân.
Đây là một trong những phương thức đấu tranh chủ yếu, quyết định đến thắng lợi nhanh gọn, đồng loạt của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám. Tiêu biểu cho phương thức này là cuộc nổi dậy của nhân dân các thành phố: Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Đặc biệt, tại Hà Nội - nơi đặt trụ sở của Thống sứ Pháp ở Bắc Kỳ, đại diện triều đình nhà Nguyễn, Chính phủ Trần Trọng Kim và Bộ Chỉ huy quân Nhật (với quy mô khoảng 10.000 tên), nhưng ta chỉ có 3 chi đội tự vệ chiến đấu cùng đông đảo quần chúng đối phó với địch. Trước tình hình đó, Đảng bộ Hà Nội đã tổ chức các đội tự vệ, xung kích đi đầu, dẫn dắt hàng chục vạn quần chúng nhân dân mít tinh, biểu tình, tuần hành thị uy, biểu tình vũ trang. Trước khí thế tiến công như vũ bão của quần chúng cách mạng, dưới sự chỉ huy của Ủy ban Quân sự cách mạng, tự vệ và quần chúng cách mạng nhanh chóng chiếm phủ Khâm Sai, tòa Thị chính, Kho bạc, Bưu điện, trại Bảo an binh… đưa cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội giành thắng lợi to lớn, thúc đẩy nhiều địa phương trên cả nước tiến hành khởi nghĩa và giành chính quyền về tay nhân dân.
Như vậy, trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng nhân dân là lực lượng đông đảo nhất và giữ vị trí quyết định thắng lợi của cuộc cách mạng. Trong đó, vừa mới ra đời chưa đầy 1 năm, Việt Nam Giải phóng quân, các đội quân của các chiến khu và lực lượng vũ trang cách mạng nói chung, tuy số lượng chưa nhiều, trang bị, vũ khí và trình độ tác chiến còn hạn chế, đã đóng vai trò rất quan trọng. Các đơn vị vũ trang vừa tuyên truyền, vận động, hỗ trợ quần chúng nổi dậy, vừa tiến hành các trận đánh vào các vị trí quan trọng của chính quyền địch, thực sự là lực lượng chủ lực, xung kích, tạo thế, tạo xung lực mạnh mẽ cho lực lượng chính trị của quần chúng cách mạng nổi dậy giành chính quyền một cách nhanh chóng và ít đổ máu.
Đóng góp vô cùng quan trọng đó góp phần làm nên thành công của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, dẫn đến sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tạo bước ngoặt vĩ đại, đưa dân tộc Việt Nam vào thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh; nhân dân Việt Nam thực sự làm chủ vận mệnh của mình - là nền tảng tạo nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam.
Đọc bài gốc tại đây.
Dấu ấn trong chặng đường 80 năm của Quân đội ta. Làm nòng cốt cùng toàn dân giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc.
Vừa cùng toàn dân tiến hành thắng lợi Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, Việt Nam giải phóng quân và các đội quân cách mạng đã phải bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Căn cứ tình hình thực tiễn, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định đường lối chiến lược kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh; trong đó, hết sức coi trọng xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.
Cuối năm 1945, Việt Nam giải phóng quân đổi tên thành Vệ quốc đoàn và phát triển lực lượng lên tới 50.000 bộ đội chủ lực, tổ chức thành 40 chi đội cùng hàng chục vạn người thuộc các đội tự vệ, tự vệ chiến đấu, du kích không thoát ly sản xuất, trực tiếp bảo vệ chính quyền cách mạng ở cơ sở[1]. Vận dụng kinh nghiệm của Chiến dịch Việt Bắc về thực hiện phương châm “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung”, từ năm 1948, Bộ Tổng Chỉ huy thực hiện phân tán một phần ba lực lượng chủ lực về hoạt động ở các địa bàn quan trọng, phối hợp cùng các lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương gây dựng lại cơ sở, bảo vệ chính quyền, bảo vệ nhân dân.
Đầu năm 1949, một số tiểu đoàn ở các liên khu được điều động về để tổ chức các trung đoàn 77, 102; tiếp đó Trung đoàn Sông Lô, Trung đoàn Cao - Bắc - Lạng được điều về xây dựng thành các trung đoàn chủ lực 209, 174 của Bộ Tổng tư lệnh. Thực hiện quyết định của Bộ Quốc phòng, ngày 28-8-1949, Đại đoàn 308 - Quân Tiên phong, đại đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam chính thức thành lập[2].
Trên cơ sở sự phát triển nhanh chóng của lực lượng vũ trang ba thứ quân, Ban Thường vụ Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở Chiến dịch Biên giới (1950) nhằm đập tan mưu đồ phong tỏa biên giới của thực dân Pháp, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Phát huy sức mạnh tiến công của đại đoàn bộ binh và các trung đoàn chủ lực, Quân đội nhân dân Việt Nam đã vận dụng hiệu quả nghệ thuật “đánh điểm, diệt viện”, làm nên thắng lợi to lớn của Chiến dịch Biên giới.
Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng và chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh được trang hoàng trên chiếc xe tăng thu được của địch diễu hành mừng chiến thắng tại Điện Biên Phủ, năm 1954. Ảnh tư liệu |
Trước yêu cầu tác chiến tập trung, mở những chiến dịch lớn, từ cuối năm 1950 đến cuối năm 1952, Quân đội nhân dân Việt Nam đã xây dựng thêm 5 đại đoàn bộ binh, 1 đại đoàn binh chủng[3] và liên tiếp mở các chiến dịch quy mô ngày càng lớn cả về phạm vi địa bàn và lực lượng sử dụng, vận dụng nhiều chiến thuật sáng tạo, hiệu quả, đưa kháng chiến phát triển vững chắc. Trong Chiến cục Đông Xuân 1953 - 1954, lực lượng vũ trang ba thứ quân đã phát huy vai trò của từng thứ quân trong hoạt động tác chiến, kết hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang cách mạng Lào và Campuchia, thực hiện căng kéo, buộc địch phải phân tán lực lượng trên các chiến trường Tây Bắc, Trung Lào, Hạ Lào - Đông Bắc Campuchia, Bắc Tây Nguyên, Thượng Lào....
Bước vào trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, Quân đội nhân dân Việt Nam đã hình thành khối chủ lực lớn, kết hợp vận dụng nghệ thuật chiến dịch đặc sắc, tiêu diệt tập đoàn phòng ngự mạnh nhất của quân Pháp ở chiến trường Đông Dương lúc bấy giờ.
Sau năm 1954, ở miền Bắc, Quân đội nhân dân Việt Nam chuyển sang thực hiện chức năng, nhiệm vụ mới là bảo vệ công cuộc xây dựng đất nước, tích cực tham gia sản xuất, công tác, góp phần khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, tiếp quản vùng mới giải phóng.
Đối với miền Nam, Nghị quyết Trung ương 15 ra đời đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam, tạo điều kiện để lực lượng vũ trang chuẩn bị và làm nòng cốt cho phong trào Đồng khởi giành thắng lợi. Cùng với việc tổ chức lại lực lượng vũ trang miền Nam, tháng 5-1959, Tổng Quân ủy chỉ đạo mở tuyến vận tải chi viện chiến lược Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh, cung ứng ngày càng lớn nguồn nhân lực, vật lực cần thiết cho chiến trường miền Nam đánh Mỹ.
Quán triệt đường lối chung của cách mạng Việt Nam đề ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (9-1960) của Đảng, tháng 1-1961, Tổng Quân ủy ra Chỉ thị Thành lập Quân giải phóng miền Nam Việt Nam - một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp chiến đấu trên chiến trường miền Nam. Đến năm 1963, Quân giải phóng miền Nam đã phát triển lên đến 70.000 quân, đồng thời đẩy mạnh tác chiến với nhiều trận đánh quy mô nhỏ và vừa, tiêu biểu là chiến thắng Ấp Bắc (1-1963), mở ra phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công” trên toàn chiến trường miền Nam. Từ đánh tập trung quy mô cấp đại đội, tiểu đoàn, Quân giải phóng miền Nam phát triển lên tác chiến quy mô trung đoàn trong Chiến dịch Bình Giã (12-1964 – 1-1965), tiến lên giành thắng lợi trong các chiến dịch Đồng Xoài, Ba Gia (1965), góp phần làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.
Khi đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh Mỹ và quân đồng minh vào tham chiến ở miền Nam, đối tượng tác chiến mới được trang bị vũ khí, phương tiện hiện đại đã làm xuất hiện tâm lý “ngại Mỹ, sợ Mỹ” trong một bộ phận quân và dân miền Nam. Cùng với việc xây dựng quyết tâm chiến đấu, Quân giải phóng miền Nam phát triển lực lượng lên tới 5 sư đoàn (1, 2, 3, 5 và 9) bố trí thành ba khối chủ lực cơ động ở Đông Nam Bộ, Khu 5 và Tây Nguyên; đồng thời, đẩy mạnh tác chiến tập trung của bộ đội chủ lực kết hợp tác chiến rộng khắp của bộ đội địa phương, dân quân du kích, giành được những chiến thắng liên tiếp trong cuộc đối đầu trực tiếp với quân Mỹ ở Núi Thành, Vạn Tường, Plei Me... góp phần củng cố quyết tâm “đánh Mỹ” và khả năng “thắng Mỹ”. Qua đó, Quân giải phóng miền Nam không ngừng nâng cao khả năng chiến đấu, tìm ra cách đánh hiệu quả và đẩy mạnh thế tiến công, liên tiếp đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô năm 1965 - 1966 và 1966 - 1967 của địch, mở ra thời cơ để thực hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, đẩy chiến lược “Chiến tranh cục bộ” đến bờ vực phá sản.
Triển khai chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn đẩy mạnh thủ đoạn “quét và giữ”, làm suy giảm thế trận và lực lượng của cách mạng miền Nam. Trên cơ sở tiếp nhận nhiều đơn vị với đủ quân số, vũ khí, trang bị từ miền Bắc, năm 1972, Quân giải phóng miền Nam nhanh chóng xây dựng, củng cố lực lượng, đẩy mạnh tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn và giành thắng lợi to lớn trong cuộc tiến công chiến lược. Trong lúc đó, quân và dân miền Bắc đập tan cuộc tập kích đường không chiến lược của Mỹ vào cuối năm 1972, làm nên chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”, buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris, chấp nhận rút hết quân Mỹ và quân đồng minh, hoàn thành mục tiêu “đánh cho Mỹ cút”.
Xe tăng Quân Giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập. Ảnh: Điện ảnh Quân đội nhân dân |
Thực hiện chủ trương “Đông Đương là một chiến trường thống nhất”, Quân đội nhân dân Việt Nam phối hợp tác chiến hiệu quả cùng lực lượng cách mạng Lào trong hàng loạt trận chiến đấu và chiến dịch như Nậm Thà (1962), Đường số 8, Đường số 12 (1963), Cánh Đồng Chum (1964, 1969, 1970 và 1972), Đường 9 - Nam Lào 1971, góp phần làm thất bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh đặc biệt tăng cường” của Mỹ ở Lào. Đồng thời, Quân đội nhân dân Việt Nam phối hợp cùng nhân dân Campuchia làm thất bại cuộc tiến công xâm lược Campchia của quân Mỹ và ngụy quân Sài Gòn (4-1970), đập tan các cuộc hành quân lớn như Chen La I (6-1970), Toàn thắng (2-1971), Chen La II (8-1971), góp phần giúp cho cách mạng Campuchia từng bước vượt qua thử thách để giành được thắng lợi quyết định.
Khi thời cơ thực hiện mục tiêu “đánh cho ngụy nhào” chín muồi, đầu năm 1975, Quân đội nhân dân Việt Nam đã phát huy sức mạnh tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, “châm ngòi”, thúc đẩy quần chúng vùng dậy đấu tranh. Ngược lại, lực lượng quần chúng nhân dân với hình thức đấu tranh đa dạng, phong phú đã hỗ trợ tích cực cho Quân đội nhân dân Việt Nam thực hiện thành công các chiến dịch Phước Long, Tây Nguyên, Trị Thiên - Huế, Đà Nẵng và giành thắng lợi trọn vẹn trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Xuất phát từ thực tiễn cuộc đấu tranh chiến tranh giải phóng dân tộc, ngay từ sớm, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổ chức, rèn luyện những đội quân tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn dựa chắc vào nhân dân, vừa xây dựng, vừa chiến đấu và trưởng thành nhanh chóng về quy mô, tổ chức, lực lượng, không ngừng hoàn thiện về chiến thuật, nghệ thuật chiến dịch; cùng toàn dân từng bước làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn các kế hoạch và chiến lược chiến tranh của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược của Đảng, đưa cả nước bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do, thống nhất, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đọc bài gốc tại đây.
Dấu ấn trong chặng đường 80 năm của Quân đội ta. Chiến đấu bảo vệ biên giới, chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc và hoàn thành nhiệm vụ quốc tế.
Miền Nam được giải phóng, đất nước được độc lập, thống nhất, toàn quân và toàn dân bước vào thời kỳ khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong lúc quân và dân ta đang nỗ lực giải quyết nhiều công việc trọng đại sau chiến tranh, từ đầu tháng 5-1975 đến cuối năm 1978, tập đoàn phản động Pol Pot - Ieng Sary đã mở nhiều cuộc tấn công xâm lấn vào sâu lãnh thổ nước Việt Nam, đưa quân chiếm một số đảo ở vùng biển Tây Nam, thảm sát dân thường dọc biên giới Tây Nam, xâm phạm thô bạo độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, gây tổn hại cho mối quan hệ giữa hai nước Việt Nam-Campuchia.
Để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, Đảng, Nhà nước ta một mặt chỉ đạo các quân khu, địa phương, đơn vị tăng cường chuẩn bị lực lượng và thế trận, kiên quyết đập tan các cuộc tiến công xâm lược của địch; mặt khác, kiên trì chủ trương xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, tìm cách cứu vãn hòa bình, nhiều lần đề nghị đàm phán với Chính phủ Campuchia Dân chủ nhằm giải quyết những bất đồng. Song, tập đoàn phản động Pol Pot - Ieng Sary không những cự tuyệt, khước từ mọi thiện chí của ta mà còn đẩy mạnh hoạt động chống phá, xâm lược Việt Nam. Đỉnh điểm là ngày 23-12-1978, quân Pol Pot huy động 10/19 sư đoàn đang bố trí ở biên giới mở cuộc tiến công trên toàn tuyến biên giới Campuchia - Việt Nam.
Bộ đội C5 lực lượng vũ trang tỉnh An Giang đánh trả quân Pol Pot xâm lược năm 1978. Ảnh tư liệu
|
Thực hiện quyền tự vệ chính đáng, Quân đội nhân dân Việt Nam liên tục mở các cuộc phản công, tiến công quân địch trên tuyến biên giới Tây Nam, hoàn thành nhiệm vụ đánh đuổi quân Pol Pot ra khỏi lãnh thổ của Tổ quốc. Tiếp đó, theo đề nghị của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, với tinh thần quốc tế trong sáng, Quân tình nguyện Việt Nam đã phối hợp với lực lượng vũ trang Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia đập tan chính quyền Pol Pot phản động, giải phóng Thủ đô Phnôm Pênh (7-1-1979) và toàn bộ đất nước Campuchia. Sau bao năm phải sống trong cảnh đọa đày đen tối của chế độ diệt chủng nên khi Quân tình nguyện Việt Nam tiến vào Campuchia, nhân dân Campuchia đã đón tiếp bằng sự vui mừng khôn xiết, cho đó là một sự kỳ diệu đưa họ từ cõi chết trở về. Kết quả đó góp phần chặn đứng âm mưu chia rẽ truyền thống đoàn kết lâu đời của ba nước Đông Dương, góp phần giữ vững hòa bình, ổn định ở khu vực Đông Nam Á và trên thế giới; tạo điều kiện khôi phục lại tình hữu nghị và tình đoàn kết chiến đấu giữa hai Đảng và nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia.
Trong khi đó, ở biên giới phía Bắc, tháng 2-1979, quân và dân ta đã tiến hành cuộc chiến đấu chính nghĩa, bảo vệ biên cương của Tổ quốc. Được sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân yêu chuộng hoà bình, công lý trên thế giới, Quân đội nhân dân Việt Nam dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, phát huy vai trò nòng cốt, giáng trả mạnh mẽ, quyết liệt, buộc đối phương phải rút quân về nước.
Cùng với chiến đấu bảo vệ biên giới ở phía Tây Nam và phía Bắc, năm 1988, Hải quân nhân dân Việt đã tiến hành cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam, với tinh thần yêu nước, ý chí quyết tâm cao, nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh của cấp trên, kiên trì, kiềm chế giữ vững nguyên tắc không dùng vũ lực để giải quyết các tranh chấp; tuân thủ nghiêm túc Công ước về Luật biển 1982 và tập quán quốc tế đã chiến đấu kiên cường, anh dũng hy sinh để bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Giữa bộn bề công việc, quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tiếp tục nhiệm vụ quốc tế giúp nhân dân Campuchia bảo vệ và xây dựng chính quyền cách mạng non trẻ; đồng thời cùng với quân đội và nhân dân các bộ tộc Lào đập tan âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng Lào.
Ngày 18-2-1979, Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Campuchia đã ký Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác. Theo đó, một bộ phận Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tiếp tục giúp các lực lượng vũ trang và nhân dân Campuchia truy quét tàn quân Pol Pot, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, khôi phục sản xuất, xây dựng cuộc sống mới. Phát huy tinh thần quốc tế cao cả, Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam luôn kề vai sát cánh cùng các lực lượng vũ trang và nhân dân Campuchia chiến đấu bảo vệ chính quyền cách mạng, giúp đỡ nhân dân khôi phục sản xuất, ổn định đời sống. Trong mọi lĩnh vực và công việc, các cán bộ, chiến sĩ Việt Nam đều nêu cao tinh thần đoàn kết tôn trọng bạn, hết lòng giúp đỡ để bạn nhanh chóng trưởng thành và đảm đương được mọi mặt công tác. Năm 1989, toàn bộ quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam rút về nước, kết thúc chặng đường 10 năm (1979 - 1989) làm nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia.
Người dân thủ đô Phnom Penh lưu luyến tiễn Quân tình nguyện Việt Nam hoàn thành nghĩa vụ quốc tế trở về nước. Ảnh tư liệu |
Cùng với nhiệm vụ giúp nhân dân Campuchia hồi sinh đất nước, những năm sau chiến tranh, theo thoả thuận của hai Đảng, hai Nhà nước Việt Nam và Lào, quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tích cực giúp cách mạng Lào xây dựng lực lượng vũ trang, bảo vệ thành quả cách mạng. Trong các năm 1976 và 1977, quân tình nguyện Việt Nam đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và có nhiều cố gắng tham gia xây dựng cơ sở chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa ở các địa bàn phụ trách. Sau nhiều năm phối hợp hoạt động với quân tình nguyện Việt Nam, lực lượng vũ trang nhân dân Lào có bước phát triển nhanh chóng, từng bước đảm nhiệm được yêu cầu nhiệm vụ phòng thủ đất nước, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch. Theo sự thỏa thuận giữa Trung ương Đảng, Chính phủ hai nước Lào và Việt Nam, từ cuối năm 1987 đến năm 1990, đại bộ phận quân tình nguyện Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ quốc tế ở Lào và lần lượt rút quân về nước.
Tháng 3-1985, thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng và Hiệp định hợp tác về quân sự giữa hai Chính phủ Việt Nam và Cuba, Bộ Quốc phòng Việt Nam tổ chức Đoàn Chuyên gia quân sự Việt Nam tại Cộng hòa Cuba, lấy phiên hiệu Đoàn 385 (khi đến Cuba, đổi thành Đoàn 001). Quán triệt đường lối đối ngoại, quan điểm chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân của Đảng và Quân ủy Trung ương, với quyết tâm cao, Đoàn 385 đã giúp Bạn về: Công tác quân sự địa phương; xây dựng các khu phòng thủ; kiện toàn, bồi dưỡng nâng cao trình độ lãnh đạo; chỉ huy, tham mưu cho Hội đồng phòng thủ và cơ quan tham mưu cấp tỉnh, huyện; xây dựng trường và đào tạo cán bộ; huấn luyện, diễn tập, nghiên cứu, biên soạn hệ thống tài liệu về chiến tranh nhân dân; bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ, chiến thuật cho lực lượng vũ trang địa phương; xây dựng lực lượng binh chủng địa phương, nhà trường, quân y (y học dân tộc) và lực lượng đặc công. Tháng 12-1992, Đoàn 385 rút về nước. Qua gần 8 năm, với tinh thần “giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”, giúp đỡ nhân dân Cuba là “Mệnh lệnh của trái tim”, các Chuyên gia quân sự Việt Nam đã cố gắng vươn lên, từng bước khắc khó khăn hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc tế được giao, góp phần hoàn thiện đường lối chiến tranh toàn dân và phòng thủ lãnh thổ của Cuba; góp phần tăng cường sức mạnh chiến đấu của Các Lực lượng vũ trang cách mạng Cuba; nâng cao khả năng phòng thủ đất nước Cuba xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, sau ngày đất nước thống nhất, Quân đội nhân dân Việt Nam lại phải chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, vừa thực hiện nhiệm vụ quốc tế với cách mạng Lào, Campuchia, giúp cách mạng Cuba. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội nhân dân Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ cùng các lực lượng vũ trang, nhân dân các địa phương, cùng Đảng Cách mạng, lực lượng vũ trang và nhân dân nước bạn, vượt qua mọi thử thách, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc, giúp cách mạng các nước bạn ngày một phát triển; góp phần củng cố, phát triển mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị truyền thống với các nước này, nêu cao chính nghĩa và tinh thần quốc tế trong sáng của Việt Nam trên trường quốc tế; xứng đáng là Quân đội anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng.
Đọc bài gốc tại đây.
Dấu ấn trong chặng đường 80 năm của Quân đội ta. Hoàn thành xuất sắc chức năng “Đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất”.
Qua 80 năm xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành, dù trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, cùng với thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của một “đội quân chiến đấu, đội quân công tác”, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn phát huy tinh thần tự lực, tự cường, chủ động, tích cực tham gia lao động sản xuất, xây dựng và phát triển kinh tế bằng các hình thức, biện pháp sáng tạo, phù hợp, góp phần quan trọng vào những thành tựu chung của dân tộc.
Đất nước thống nhất, Quân đội thực sự là lực lượng xung kích, tham gia đắc lực vào hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển kinh tế - xã hội trên nhiều vùng, miền của cả nước, nhất là trên các địa bàn xung yếu, chiến lược. Thời kỳ đổi mới, hội nhập, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, toàn quân đã quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về thực hiện chức năng quan trọng này. Công tác tham gia sản xuất, xây dựng phát triển kinh tế kết hợp với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế được lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ trong toàn quân, có bước phát triển toàn diện, đi vào chiều sâu, phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh của Đảng trong giai đoạn mới và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Quân đội đã thành lập một số đoàn kinh tế - quốc phòng và xây dựng hàng chục khu kinh tế - quốc phòng trên các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển và hải đảo. Các đoàn kinh tế - quốc phòng đã phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương tổ chức quy hoạch, bố trí lại dân cư, xóa đói, giảm nghèo, tạo việc làm, sinh kế bền vững cho hàng trăm nghìn hộ dân, hình thành hàng trăm điểm, cụm dân cư tập trung trên vành đai biên giới, các địa bàn xung yếu; kết hợp thực hiện công tác dân vận, xây dựng cơ sở chính trị, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, tích cực tham gia xây dựng “thế trận lòng dân”, khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc và tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị trên các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo. Hoạt động của các đoàn kinh tế - quốc phòng đã khẳng định được vị trí, vai trò quan trọng của mình và của Quân đội nói chung trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Suốt 80 năm xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành, các cơ quan, đơn vị toàn quân luôn quán triệt sâu sắc và thực hiện tốt chức năng “đội quân công tác”, đẩy mạnh công tác dân vận, gắn bó mật thiết với nhân dân, phát huy sức mạnh của nhân dân hoàn thành mọi nhiệm vụ. Trong các cuộc kháng chiến, trước các nhiệm vụ tác chiến rất nặng nề, đầy gian khổ, hy sinh, cán bộ, chiến sĩ đã “cùng ăn, cùng ở, cùng làm”, gắn bó máu thịt với nhân dân, tích cực vận động nhân dân ủng hộ, giúp đỡ và tham gia kháng chiến, kiến quốc dưới nhiều hình thức theo điều kiện và yêu cầu nhiệm vụ của từng thời kỳ, từng vùng miền, từng đơn vị. Quá trình đó đã tạo nên mối quan hệ mật thiết quân - dân như cá với nước. “Đội quân công tác” đã phát huy hiệu quả, trở thành một động lực to lớn cả về tinh thần và vật chất để Quân đội trưởng thành nhanh chóng và chiến thắng vẻ vang, hoàn thành mọi sứ mệnh mà Đảng, Nhà nước, nhân dân giao phó.
Vùng Cảnh sát biển 3 trao cờ Tổ quốc tặng ngư dân. Ảnh minh họa |
Trong giai đoạn cách mạng mới, thực hiện chức năng “đội quân chiến đấu, đội quân công tác”, các cơ quan đơn vị trong toàn quân đã triển khai nhiều chương trình, mô hình hay, cách làm sáng tạo, hiệu quả, để lại ấn tượng tốt đẹp, có sức lan tỏa sâu rộng, có ý nghĩa chính trị - xã hội và nhân văn sâu sắc, được cấp ủy, chính quyền các địa phương ghi nhận, đánh giá cao. Tiêu biểu có thể kể đến như: Giúp dân hoàn thiện các tiêu chí nông thôn mới; Bộ đội Hải quân làm điểm tựa cho ngư dân vươn khơi, bám biển; Cảnh sát biển đồng hành với ngư dân; Điểm dân cư liền kề chốt biên phòng, chốt dân quân biên giới; Tăng cường gắn kết, thân thiện, hỗ trợ, giúp đỡ đồng bào dân tộc, tôn giáo; Hũ gạo gắn kết; Nhà đại đoàn kết, nhà tình nghĩa quân dân, nhà cho người nghèo khu vực biên giới; Tết quân dân; Bệnh xá quân - dân y; Con nuôi đồn Biên phòng, nâng bước em tới trường; Tuổi trẻ với biển, đảo quê hương; Phụ nữ Quân đội đồng hành cùng phụ nữ biên cương…
Quân đội còn tích cực tham gia và đóng vai trò quan trọng trong công tác cứu hộ - cứu nạn, ứng phó, khắc phục hậu quả sự cố, thiên tai, dịch bệnh cùng các mối đe dọa an ninh phi truyền thống khác. Công tác này được xác định là nhiệm vụ “chiến đấu giữa thời bình” của những người lính, có tầm quan trọng đặc biệt được các cơ quan đơn vị trong toàn quân triển khai thường xuyên, liên tục, xuyên suốt, từ Bắc chí Nam, từ thành thị tới vùng sâu vùng xa, từ biên giới tới hải đảo. Giai đoạn 2004-2023, Bộ Quốc phòng tham mưu cho Chính phủ chỉ đạo các ban, bộ, ngành, địa phương ứng phó khắc phục trên 300 cơn bão và áp thấp nhiệt đới, hơn 63.000 sự cố, thiên tai, dịch bệnh; điều động trên 4 triệu lượt người và hơn 170.000 lượt phương tiện, cứu được 73.865 người và trên 6.000 phương tiện, trong đó Quân đội tham gia chiếm 83%, cứu được 56.788 người và gần 5.000 phương tiện... Sự cố phát tán thủy ngân do cháy nhà máy bóng đèn, phích nước Rạng Đông (8-2019), Quân đội đã điều động 1.353 lượt cán bộ, chiến sĩ của Binh chủng Hóa học cùng các trang thiết bị chuyên dụng, thu gom được 111 tấn hóa chất độc; khắc phục, xử lý, bảo đảm cho khu vực phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội trở lại hoạt động bình thường...
Bộ đội Hóa học phun hóa chất tiêu tẩy khu vực phố Trúc Bạch, quận Ba Đình, nơi có nhà của bệnh nhân mắc Covid-19. |
Đặc biệt, trong những ngày đại dịch Covid-19 hoàn hành, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã điều động hơn 192.000 lượt cán bộ, chiến sĩ, triển khai đồng bộ các biện pháp phòng, chống dịch, trong đó triển khai 18 bệnh viện dã chiến và cơ sở thu dung, điều trị bệnh nhân với gần 23.000 cán bộ, chiến sĩ tham gia khám chữa bệnh và gần 7.000 cán bộ, chiến sĩ tham gia công tác tiêm chủng. Quân đội còn điều động 116.515 cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ cách ly công dân nhập cảnh và hơn 46.000 cán bộ, chiến sĩ tuần tra biên giới, đảm bảo an sinh xã hội, hỏa táng, vận chuyển tử thi, chăm sóc, bảo vệ tính mạng, sức khỏe và cuộc sống bình yên của nhân dân[1].
Hoạt động “chiến đấu giữa thời bình” của các đơn vị quân đội, tiếp tục khẳng định vai trò, vị thế và tiếp tục tỏa sáng truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, phẩm chất cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ trong giai đoạn mới. Bên cạnh đó, tích cực tham gia vào các sứ mệnh gìn giữ hoàn bình của Liên hợp quốc, hoạt động các quân nhân Việt Nam tại các phái bộ không những chứng minh tinh thần trách nhiệm của Việt Nam với các hoạt động của Liên hợp quốc mà còn thể hiện tinh thần, ý chí, phẩm chất của con người Việt Nam, góp phần lan tỏa hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ trên trường quốc tế.
Dù gặp không ít khó khăn, cạnh tranh khốc liệt trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp Quân đội không ngừng đổi mới, nâng tầm quản trị doanh nghiệp, hội nhập, xung kích thực hiện nhiều dự án phát triển kinh tế - xã hội kết hợp với quốc phòng, an ninh, nhất là ở địa bàn khó khăn, phức tạp. Năng lực và hiệu quả sản xuất, kinh doanh kết hợp với thực hiện nhiệm vụ quốc phòng của các doanh nghiệp Quốc phòng ngày càng được nâng cao, khẳng định uy tín, vị thế trong nền kinh tế, đóng góp tích cực vào ổn định, phát triển kinh tế vĩ mô, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo đảm an sinh xã hội, tăng cường nguồn lực cho đất nước.
Nhiều doanh nghiệp Quân đội năng động, sáng tạo, vượt khó vươn lên, mở rộng thị trường đầu tư, trở thành đối tác kinh tế có uy tín cả ở trong và ngoài nước. Đáng chú ý, một số doanh nghiệp Quân đội đã tiên phong tham gia phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo, làm chỗ dựa tin cậy cho ngư dân và các lực lượng hoạt động trên biển, nhất là ở các vùng biển, đảo xa bờ. Các doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng hòa nhập sâu hơn vào công nghiệp quốc gia; nhận chuyển giao công nghệ, vươn lên nắm bắt, làm chủ nhiều công nghệ lưỡng dụng, tiên tiến, hiện đại; nghiên cứu thiết kế, chế tạo, sản xuất được nhiều sản phẩm tiên tiến, chất lượng cao phục vụ quốc phòng và đời sống dân sinh, kết hợp hiệu quả giữa kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trên từng địa bàn và cả nước. Một số doanh nghiệp quân đội đã tham gia phát triển vào các lĩnh vực mũi nhọn của đất nước như dịch vụ viễn thông, công nghệ thông tin, đóng tàu, xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình trọng điểm của đất nước, vừa tạo ra các sản phẩm phục vụ quốc phòng, an ninh, vừa tạo ra những sản phẩm kinh tế, góp phần đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao đời sống của người lao động, đồng thời đóng góp tích cực cho ngân sách Nhà nước.
Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội kỷ niệm 30 năm thành lập và đón nhận Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất. |
Có thể kể một số doanh nghiệp Quân đội tiêu biểu trên các lĩnh vực khác nhau, như: Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel), Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn, Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội (MB), Tổng Công ty Trực thăng Việt Nam, Tổng Công ty Sông Thu, Tổng công ty Hồng Hà, Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn, một số nhà máy thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng, Tổng cục Kỹ thuật... đang khẳng định là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân, góp phần tăng cường tiềm lực quốc phòng.
Những thành quả nêu trên đã khẳng định vai trò của Quân đội trên mặt trận lao động sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng; được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao; đồng thời, là thực tiễn sinh động khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước trong việc huy động Quân đội tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng đất nước, và thực sự đi đầu trong công cuộc chuyển đổi số, đi đầu trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư của đất nước, góp phần đưa đất nước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Đọc bài gốc tại đây.
Dấu ấn trong chặng đường 80 năm của Quân đội ta. Hợp tác, liên minh chiến đấu, tăng cường đối ngoại quốc phòng và tham gia gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội nhân dân Việt Nam đã thực hiện liên minh chiến đấu với Quân đội cách mạng các nước Lào, Campuchia, hợp tác chi viện lẫn nhau với Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc vì sự phát triển cách mạng của mỗi nước.
Đồng thời, Quân đội nhân dân Việt Nam đã tăng cường hợp tác, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ nhiều mặt của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, bạn bè quốc tế để xây dựng, phát triển thực lực Quân đội, phục vụ cho công cuộc kháng chiến thắng lợi và củng cố quốc phòng trong thời kỳ mới.
Với Lào và Campuchia, xuất phát từ vị trí địa chiến lược của bán đảo Đông Dương, trước kẻ thù chung, phát huy truyền thống liên minh chiến đấu trong lịch sử, quân và dân ba nước đã tiếp tục liên minh cùng chiến đấu chống thực dân, đế quốc xâm lược.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, các chuyên gia và các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam đã sang giúp Lào, Campuchia xây dựng cơ sở cách mạng, các đơn vị vũ trang, mở rộng vùng giải phóng. Quá trình liên minh chiến đấu, Quân đội cách mạng ba nước đã phối hợp tiến hành nhiều đợt hoạt động, nhiều chiến dịch diệt lực lực lượng kẻ thù, đưa sự nghiệp cách mạng của mỗi nước ngày càng phát triển. Những năm 1953-1954, lực lượng vũ trang cách mạng ba nước phối hợp hoạt động ở cả ba chiến trường, tạo sức mạnh tổng hợp khiến quân Pháp chịu nhiều tổn thất, nhất là Chiến dịch Điện Biên Phủ, phải ký kết Hiệp định Geneva, chấm dứt chiến tranh, cam kết lập lại hòa bình ở ba nước Đông Dương.
Đại hội Liên minh Việt-Miên-Lào tại Việt Bắc năm 1951. Ảnh tư liệu |
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), liên minh chiến đấu giữa Quân đội nhân dân Việt Nam và các lực lượng vũ trang cách mạng Lào và Campuchia càng chặt chẽ, hiệu quả, đóng góp quan trọng vào công cuộc kháng chiến của mỗi nước. Quá trình kháng chiến, Quân đội nhân dân Việt Nam - Quân giải phóng miền Nam Việt Nam còn phối hợp với các lực lượng Quân đội cách mạng Lào và Campuchia tiến hành nhiều chiến dịch tiêu diệt quân địch, phát triển kháng chiến ở các nước này. Thành quả tiêu biểu nhất của sự phối hợp, liên minh chiến đấu này là hoạt động của tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh. Các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam phối hợp với quân và dân Lào, Campuchia giải phóng nhiều vùng rộng lớn, tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho việc mở tuyến chi viện chiến lược mở rộng, lấy vận tải cơ giới là chính, “lật cánh” sang phía Tây Trường Sơn trên đất Lào, rồi vươn tới vùng ba biên giới ở Đông Nam tỉnh Attapeu và vùng Đông Bắc Campuchia, xuống Nam Tây Nguyên nối với Khu 6, miền Đông Nam Bộ.
Từ năm 1970, với việc Mỹ mở rộng chiến tranh sang Campuchia, Trường Sơn trở thành chiến trường chung của quân và dân ba nước Đông Dương. Quân đội nhân dân Việt Nam giúp đỡ và phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng hai nước đánh bại các cuộc hành quân của Mỹ và tay sai, phát triển thực lực kháng chiến. Trong hai năm 1973 - 1974, tuyến vận tải chiến lược đã vận chuyển chi viện cho chiến trường Lào, Campuchia và miền Nam Việt Nam một khối lượng vật chất gấp 3,8 lần giai đoạn 1969 - 1972 và bằng 65,5% tổng khối lượng vận chuyển chi viện trong 17 năm trước đó (1955 - 1972), tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc cách mạng ở mỗi nước giành thắng lợi.
Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn (Trung Quốc). Ảnh tư liệu |
Với cách mạng Trung Quốc, vốn có sự gắn bó từ những ngày các nhà cách mạng Việt Nam hoạt động tại đây. Năm 1949, dù cuộc kháng chiến ở Việt Nam còn rất khó khăn, lực lượng và trang bị còn hạn chế, song khi cách mạng Trung Quốc yêu cầu, Quân đội nhân dân Việt Nam đã cử lực lượng sang phối hợp tiến hành Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn thắng lợi. Bộ đội Việt Nam chiến đấu, anh dũng hy sinh để lại trong lòng quân và dân Trung Quốc những tình cảm tốt đẹp. Nghĩa trang liệt sĩ nơi an táng các chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam được nhân dân Trung Quốc xây dựng và chăm sóc chu đáo, ghi nhớ công lao ấy. Sau khi Cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời, từ năm 1950, với tinh thần quốc tế vô sản và phương châm giúp đỡ cuộc kháng chiến của Việt Nam cũng là giữ yên miền Nam Trung Quốc, Đảng, Chính phủ Trung Quốc đã cử cố vấn quân sự sang giúp đỡ, đồng thời viện trợ, chi viện nhiều vũ khí, trang bị, vật chất. Sự giúp đỡ về vũ khí trang bị, huấn luyện của Trung Quốc đã góp phần tăng cường sức mạnh cho Quân đội nhân dân Việt Nam. Các cố vấn Trung Quốc đề xuất, phối hợp tham mưu, góp phần vào thắng lợi của một số chiến dịch, tiêu biểu nhất là Chiến dịch Biên Giới (1950) và Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954). Trong kháng chiến chống Mỹ, Trung Quốc tiếp tục chi viện cho Quân đội nhân dân Việt Nam nhiều vật chất, vũ khí trang bị quan trọng. Một số đơn vị công binh sang giúp đỡ xây dựng đường sá và một số chuyên gia giúp huấn luyện sử dụng các vũ khí trang bị, góp phần vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Đồng thời, đối ngoại, hợp tác quốc phòng đã trở thành kênh quan trọng để tiếp nhận sự ủng hộ, giúp đỡ của một số nước bạn bè, anh em trên thế giới (Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa...) từ trang bị vũ khí, khí tài, hậu cần, quân y... đến cử cán bộ sang các nước học tập khoa học kỹ thuật và nâng cao trình độ lý luận chính trị quân sự, góp phần quan trọng vào xây dựng và phát triển Quân đội, kịp thời đáp ứng những đòi hỏi cấp thiết của cuộc kháng chiến, cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thời kỳ đổi mới, với đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại, xác định rõ đối tác, đối tượng, hợp tác quốc tế và đối ngoại quốc phòng ngày càng mở rộng và phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu, trở thành một nội dung quan trọng trong đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân; phục vụ đắc lực xây dựng nền quốc phòng toàn dân, phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp - nền tảng vững chắc để thực hiện kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Thực hiện quan điểm của Đảng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, đối ngoại quốc phòng chủ động mở rộng quan hệ song phương với các nước trên thế giới.
Đến năm 2024, Quân đội nhân dân Việt Nam thiết lập quan hệ quốc phòng với quân đội hơn 100 nước, trong đó có 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Về cơ bản, Việt Nam đã thiết lập quan hệ quốc phòng với tất cả đối tác chủ chốt; đã có 31 nước đặt Phòng Tùy viên quốc phòng thường trú tại Việt Nam và 20 nước kiêm nhiệm; Việt Nam đặt Phòng Tùy viên quốc phòng tại 32 nước, Liên hợp quốc và Liên minh châu Âu[1].
Các nữ quân nhân Đội Công binh Việt Nam với các em nhỏ ở khu vực Abyei. |
Hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam với các nước ngày càng đi vào chiều sâu với các nội dung, lĩnh vực hợp tác thiết thực, phù hợp với điều kiện, nhu cầu, lợi ích của Việt Nam và các nước đối tác, tập trung vào các lĩnh vực như trao đổi đoàn, các cơ chế tham vấn, đối thoại, đào tạo, hợp tác quân binh chủng, công nghiệp quốc phòng, quân y, cứu hộ - cứu nạn, tuần tra chung biên giới trên bộ, trên biển, giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới; chủ động tham gia và tổ chức đăng cai các hội thao quân sự quốc tế, như, Hội thao Quân sự ASEAN; đạt hiệu quả cao trong hợp tác khắc phục hậu quả chiến tranh; xử lý ô nhiễm bom, mìn và chất độc da cam/dioxin, góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở nhiều địa bàn trọng điểm trên cả nước.
Quân đội nhân dân Việt Nam từng bước tham gia vào các sứ mệnh gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Năm 2014, Trung tâm Gìn giữ hòa bình Việt Nam được thành lập. Từ 2 sĩ quan đầu tiên được triển khai vào năm 2014 tới Nam Sudan, đến nay, Quân đội nhân dân Việt Nam đã cử hơn 800 lượt sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp theo hình thức cá nhân và đơn vị tại các phái bộ ở Nam Sudan, Cộng hòa Trung Phi, khu vực Abyei và trụ sở Liên hợp quốc.
Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực tiềm ẩn nhiều nguy cơ, thực hiện chính sách “ngoại giao cây tre” của Đảng, đối ngoại quốc phòng Việt Nam mềm dẻo, mang tính chất hòa bình và tự vệ, luôn kiên trì giải quyết các bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế; chủ động, quyết liệt ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh. Việt Nam nhất quán và kiên quyết thực hiện nguyên tắc “bốn không”: Không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Việc kiên định thực hiện nguyên tắc “bốn không” trong đối ngoại quốc phòng thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong duy trì và giữ gìn môi trường hòa bình; đóng góp tích cực vào hòa bình, ổn định chung của khu vực và trên thế giới, được các nước tin tưởng, đánh giá cao. Qua đó, khẳng định vai trò, vị thế và uy tín của Việt Nam nói chung, của Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng trên trường quốc tế.
Đọc bài gốc tại đây.
Dấu ấn trong chặng đường 80 năm của Quân đội ta. Bộ đội Cụ Hồ-kết tinh truyền thống, phẩm chất tốt đẹp và giá trị văn hóa độc đáo.
Thành tựu và giá trị to lớn của quá trình xây dựng, chiến đấu và chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam là danh hiệu, phẩm chất cao quý Bộ đội Cụ Hồ - vinh dự to lớn đối với các thế hệ cán bộ, chiến sĩ.
Phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ là giá trị văn hóa quân sự tiêu biểu, được xây đắp từ truyền thống yêu nước của dân tộc, từ sự giáo dục, rèn luyện của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự tin tưởng, giúp đỡ của Nhân dân và những cống hiến, hy sinh của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ. Giá trị đó được kế thừa, phát triển qua đấu tranh cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, có sức lan tỏa cả bình diện khu vực và trên trường quốc tế.
Tên gọi Bộ đội Cụ Hồ xuất hiện từ những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Khi về chiến khu Việt Bắc kháng chiến, bộ đội trú quân trong các bản làng, thôn xóm, cùng ăn, cùng ở với Nhân dân, dựa vào Nhân dân và hết lòng giúp đỡ nhân dân. Chính những hành động, việc làm, ứng xử, quan hệ của cán bộ, chiến sĩ trong những năm tháng này đã thuyết phục, làm nảy nở và phát triển những tình cảm, niềm tin yêu của nhân dân với bộ đội. Đồng bào các dân tộc trìu mến gọi bộ đội là “Bộ đội Ông Ké” hay “Bộ đội Ông Cụ” một cách thân thương, chân chất như tấm lòng của đồng bào đối với lãnh tụ của mình. Khi biết “Ông Ké”, “Ông Cụ” chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh, mọi người gọi “Bộ đội Ông Ké” là Bộ đội Cụ Hồ. Tên gọi yêu quý đó truyền đi khắp nơi và trở thành quen thuộc[1].
Bác Hồ với Đại đoàn quân tiên phong tại Đền Hùng, Phú Thọ. Ảnh tư liệu |
Tháng 11-1955, trong một bài báo, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Nghe nói bộ đội ta rất trong sạch, một ông Hoa kiều muốn thử xem có thật như thế chăng. Mỗi khi các chiến sĩ đến mua gì, ông ta cứ thoái thừa tiền. Mấy lần như vậy, lần nào các chiến sĩ cũng đưa trả số tiền thừa lại cho ông ta. Sau đó, tự ông ta đi tuyên truyền khắp phố: “Bộ đội Cụ Hồ liêm chính thật”[2].
Hiếm có ở đâu trên thế giới, nhân dân lấy tên vị lãnh tụ tối cao của mình để đặt cho quân đội như Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhân dân gọi bộ đội là Bộ đội Cụ Hồ vì các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội trải qua 80 năm đã luôn luôn xứng đáng với niềm tin của Người, hình ảnh người chiến sĩ trở thành một mẫu hình cao đẹp, bình dị của con người mới với lý tưởng, đạo đức cao thượng, trong sáng, thực hiện xuất sắc chỉ thị, niềm tin và những lời căn dặn đầy yêu thương của Bác Hồ. Sâu xa hơn, nhân dân gọi Bộ đội Cụ Hồ vì “Cụ Hồ” còn thể hiện sự kính trọng mà nhân dân dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, người tiêu biểu cho ý chí đấu tranh bất khuất của dân tộc, là hiện thân của niềm tin và sức mạnh, người tổ chức và dẫn dắt Nhân dân Việt Nam đứng lên tự giải phóng, giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Nhân dân gọi Bộ đội Cụ Hồ còn là từ quan hệ đặc biệt, hiếm có giữa Người với Quân đội, với cán bộ, chiến sĩ. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Cha thân yêu của Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, người khai sinh ra Quân đội. Mỗi bước tiến bộ, trưởng thành, mỗi chiến công của Quân đội nhân dân đều gắn liền với sự giáo dục, rèn luyện của Người... Nét đẹp hiếm có trong tình cảm, đạo đức của Người là sự gần gũi, yêu thương, tin tưởng vào bộ đội; thấu hiểu, cảm thông và xúc động trước sức chịu đựng gian khổ, khó khăn, hy sinh của chiến sĩ... Người đã để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn thể cán bộ chiến sĩ quân đội. Hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ đã trở thành một mẫu hình về con người Việt Nam mới, người quân nhân cách mạng của một quân đội anh hùng, của dân tộc anh hùng.
Mô hình tôn vinh biểu tượng Quyết chiến Quyết thắng gắn liền với những chiến công hiển hách của Bộ đội Cụ Hồ (Ảnh chụp tại Lễ mít tinh, diễu binh, diễu hành kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954/ 7-5-2024). Ảnh: TUẤN HUY |
Danh hiệu, phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ là sự hòa quyện giữa các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam với bản chất cách mạng ở quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân do Đảng lãnh đạo; là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, được hình thành, phát triển trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội. Bộ đội Cụ Hồ còn là sự hòa quyện truyền thống và hiện đại, là sự phát triển bản sắc, tâm hồn, cốt cách văn hóa Việt Nam.
Qua các thời kỳ cách mạng khác nhau, những phẩm chất cao quý của Bộ đội Cụ Hồ tiếp tục được bồi đắp, củng cố, tỏa sáng với những đặc trưng cơ bản sau: Một là, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Luôn có ý chí, quyết tâm chiến đấu cao, chấp nhận hy sinh, vượt qua khó khăn, gian khổ, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Hai là, đạo đức cách mạng trong sáng, trung thực, khiêm tốn, giản dị, chân thành, lạc quan; nói đi đôi với làm, luôn đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích của cá nhân; không thỏa mãn với thành tích, không chùn bước trước khó khăn, hiểm nguy. Ba là, tích cực huấn luyện, học tập nâng cao trình độ mọi mặt và kiến thức chuyên môn; có phương pháp, tác phong công tác khoa học, nghiêm túc, trách nhiệm cao; gương mẫu trong công tác, sinh hoạt; kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện suy thoái, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và mọi biểu hiện sai trái, thói hư, tật xấu. Bốn là, có tinh thần đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; giữ vững nguyên tắc, phát huy dân chủ, tôn trọng và lắng nghe ý kiến góp ý. Kỷ luật tự giác, nghiêm minh, chấp hành nghiêm điều lệnh, điều lệ, kỷ luật của quân đội. Năm là, chăm lo xây dựng, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ, hết lòng thương yêu đồng chí, đồng đội như anh em ruột thịt; gắn bó máu thịt với nhân dân, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân. Có tinh thần đoàn kết quốc tế, mở rộng và tăng cường đối ngoại quốc phòng góp phần tích cực bảo vệ nền hòa bình thế giới[3].
Văn hóa Bộ đội Cụ Hồ ra đời, được tôi luyện và khẳng định giá trị qua các cuộc kháng chiến, trong thực hiện nhiệm vụ quốc tế cao cả, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội đã kế thừa, phát huy giá trị, truyền thống, bản sắc văn hóa con người Việt Nam và những biểu tượng cao đẹp, giá trị văn hóa độc đáo Bộ đội Cụ Hồ trong bối cảnh mới. Giá trị văn hóa Bộ đội Cụ Hồ là nguồn sức mạnh nội sinh to lớn, niềm vinh dự, tự hào, là động lực mạnh mẽ, thôi thúc cán bộ, chiến sĩ quân đội không ngừng phấn đấu, rèn luyện, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước, nhân dân.
Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 98, Sư đoàn 316 (Quân khu 2) tìm kiếm nạn nhân trong vụ sạt lở tại Làng Nủ (xã Phúc Khánh, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai). |
Trước yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, việc phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ luôn được Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và các cấp ủy, chỉ huy cơ quan, đơn vị trong toàn quân quan tâm, chú trọng. Ngày 12-8-2019, Quân ủy Trung ương ra Chỉ thị số 855-CT/QUTW “Về phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ trong tình hình mới”. Tháng 9-2020, Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 - 2025 nhấn mạnh triển khai đồng bộ các giải pháp giữ vững và phát huy phẩm chất cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ với các chuẩn mực mới[4]. Ngày 28-12-2021, Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết số 847-NQ/QUTW “Về phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới”.
Phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ tiếp tục thực hiện tốt chức năng đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, tích cực đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; tích cực tham gia các phong trào đền ơn, đáp nghĩa, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, xây dựng địa bàn an toàn, xây dựng hệ thống chính trị và đời sống văn hóa ở cơ sở, nhất là ở các địa bàn trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và biên giới, hải đảo, góp phần quan trọng vào sự nghiệp củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường “thế trận lòng dân”, tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân. Phát huy vai trò lực lượng nòng cốt, xung kích đi đầu trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, bảo vệ môi trường và thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, đối ngoại quốc phòng, tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Đọc bài gốc tại đây.
Dấu ấn trong chặng đường 80 năm của Quân đội ta. Phát triển nền nghệ thuật quân sự Việt Nam lên tầm cao mới.
Quân đội nhân dân Việt Nam đã phát triển nghệ thuật tác chiến đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của chiến tranh và nghệ thuật chiến dịch, tạo nên sự phát triển phong phú của nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Chỉ 3 ngày sau lễ thành lập, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đã xuất quân đánh thắng hai trận Phai Khắt và Nà Ngần, mở ra truyền thống “đánh thắng trận đầu” và “đã ra quân là chiến thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Trong hai trận đó, Đội đã vận dụng cách đánh hóa trang kỳ tập, mở đầu cho việc vận dụng sáng tạo các hình thức chiến thuật độc đáo và hiệu quả. Kế thừa những tinh hoa nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc, qua 80 năm chiến đấu và chiến thắng, Quân đội nhân dân Việt Nam đã phát triển nền nghệ thuật quân sự Việt Nam độc đáo, sáng tạo lên tầm cao mới ở cả ba cấp độ: Chiến lược quân sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật.
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Đỉnh cao nghệ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Ảnh: nhandan.vn |
Về chiến lược quân sự, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân đội nhân dân Việt Nam cùng toàn dân biết mở đầu chiến tranh và cũng chủ động kết thúc chiến tranh đúng thời cơ. Cuối năm 1946, trước tình thế không thể nhân nhượng được nữa, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân Hà Nội và một số tỉnh phía Bắc đã giam chân địch gần 2 tháng để chuyển đất nước vào chiến tranh, chuẩn bị các điều kiện để kháng chiến lâu dài. Năm 1953, khi thế và lực đã mạnh hơn, Trung ương Đảng chủ trương sử dụng các “quả đấm chủ lực”, phối hợp các mặt trận, các chiến trường, tiến hành chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, giành thắng lợi quyết định cho cuộc kháng chiến. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trước kẻ thù vượt trội về tiềm lực kinh tế, quân sự, dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà trực tiếp là Tổng Quân ủy (sau là Quân ủy Trung ương), Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh đã chủ trương từ đồng khởi tiến lên chiến tranh cách mạng. Quá trình kháng chiến, Quân đội ta đã vận dụng nghệ thuật giành thắng lợi từng bước, thay đổi dần thế và lực. Ta mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, đánh vào ý chí xâm lược của Mỹ, tổ chức cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam, phối hợp với các chiến trường Lào, Campuchia, tổ chức đánh bại cuộc tập kích chiến lược bằng không quân của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng (12-1972), buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris, rút quân khỏi miền Nam. Sau khi “Mỹ cút”, tương quan lực lượng thay đổi, quân và dân cả nước tạo thế, tạo lực, nắm thời cơ, đầu năm 1975 chủ động kết thúc chiến tranh với cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Quân đội nhân dân Việt Nam đã vận dụng nhiều chiến lược quân sự độc đáo, sáng tạo, như: Nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, đánh địch bằng tất cả vũ khí, trang bị hiện có... Trong chiến tranh nhân dân, quân và dân ta lại phát triển thêm nhiều nét đặc sắc như: Chiến tranh nhân dân trên chiến trường sông biển, trên chiến trường đồng bằng sông Cửu Long, trên mặt trận phòng không nhân dân... Đó còn là nghệ thuật kết hợp giữa chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, giữa chiến trường chính với các chiến trường phối hợp, giữa bộ đội chủ lực với bộ đội địa phương, dân quân, du kích. Nghệ thuật vận dụng linh hoạt “thế, lực, thời, mưu”; dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế tạo sức mạnh tổng hợp giành chiến thắng…
Bộ đội bao vây đánh địch trong Chiến dịch Hòa Bình năm 1952. Ảnh tư liệu |
Nghệ thuật chiến dịch có phát triển rõ nét trong hai cuộc kháng chiến. Năm 1947, Quân đội ta đã tiến hành thành công chiến dịch phản công Việt Bắc, đánh bại âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh” của địch. Các loại hình chiến dịch phát triển từ thấp đến cao, cùng với sự phát triển về tổ chức, biên chế, vũ khí trang bị và trình độ tác chiến của Quân đội. Nghệ thuật sử dụng, điều hành chiến dịch ngày càng hoàn thiện. Quy mô các chiến dịch ngày càng phong phú, có nhỏ, vừa và lớn; có chiến dịch mang ý nghĩa chiến lược (chiến dịch chiến lược). Loại hình, địa bàn tiến hành chiến dịch ngày càng đa dạng. Trong hai cuộc kháng chiến, Quân đội nhân dân Việt Nam đã tiến hành nhiều loại hình chiến dịch như: Tiến công, phản công, phòng ngự, tiến công tổng hợp, phòng không…, trong đó “có gần 98% tổng số các chiến dịch là chiến dịch tiến công và chiến dịch phản công”[1].
Sự phát triển về nghệ thuật tác chiến chiến dịch trong hai cuộc kháng chiến thể hiện ở những nội dung sau:
Một là, chọn hướng (khu vực), mục tiêu, đối tượng tác chiến đúng, phù hợp với khả năng của ta. Trong Chiến dịch Biên giới 1950, ta chọn nơi địch phòng ngự mỏng yếu, kéo địch ra khỏi công sự để tiêu diệt. Khu vực rừng núi biên giới phù hợp với lối đánh sở trường của ta và đã giành thắng lợi to lớn. Các chiến dịch Trị Thiên - 1972, Tây Nguyên - 1975, Hồ Chí Minh - 1975, ta đã đột kích vào nơi phòng ngự mạnh, làm rung chuyển toàn bộ thế trận phòng ngự của địch, tạo phản ứng dây chuyền dẫn đến sụp đổ.
Hai là, cách đánh chiến dịch của Quân đội ta là cách đánh của chiến tranh nhân dân phát triển cao, vận dụng tổng hợp cách đánh của nhiều lực lượng; kết hợp nhiều phương thức và quy mô tác chiến (đánh du kích, đánh vận động, đánh trận địa; đánh phân tán, đánh tập trung hiệp đồng binh chủng; đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn…); tạo ưu thế hơn hẳn địch ở những thời điểm, địa bàn, những trận then chốt, then chốt quyết định để giành thắng lợi.
Ba là, tạo lập thế trận tác chiến chiến dịch của ta đi đôi với phá thế trận của địch. Đặc biệt, nét nổi bật của nghệ thuật chiến dịch Việt Nam là nghi binh lừa địch, giữ bí mật bất ngờ trong chuẩn bị và thực hành chiến dịch; bảo toàn được lực lượng ta, có điều kiện thời cơ để tạo lập và chuyển hoá thế trận linh hoạt, vững chắc, nhanh chóng giành thắng lợi. Chiến dịch Tây Nguyên - 1975 là điển hình về nghệ thuật nghi binh, tạo lập thế trận ta, phá thế trận địch.
Bốn là, tổ chức, sử dụng lực lượng chiến dịch phát triển từ nhỏ đến lớn; từ đơn giản đến phức tạp, mang tính tổng hợp ngày càng cao, gắn với quá trình phát triển, trưởng thành của lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị, đặc biệt là bộ đội chủ lực, cả về tổ chức biên chế, trang bị, trình độ, khả năng tác chiến. Nhìn chung, ta luôn chú trọng sử dụng đúng vị trí, chức năng, sở trường của từng lực lượng, từng thứ quân, từng đơn vị, từng loại vũ khí, có sự phối hợp chặt chẽ tạo sức mạnh tổng hợp, giành thắng lợi.
Năm là, trình độ tổ chức chỉ huy tác chiến chiến dịch phát triển ngày càng hoàn thiện. Những chiến dịch quy mô lớn, mang ý nghĩa chiến lược hoặc những chiến dịch chiến lược thường do cấp chiến lược tổ chức chỉ huy. Những chiến dịch quy mô nhỏ, quy mô vừa thường do cấp chiến trường, quân khu tổ chức. Song dù cấp nào tổ chức, chỉ huy điều hành cũng đều tuân thủ nguyên tắc lãnh đạo của Đảng trong các chiến dịch: Thành lập Đảng ủy chiến dịch, tổ chức Bộ Tư lệnh chiến dịch và các cơ quan chỉ huy, chỉ đạo chiến dịch. Trong Bộ Tư lệnh chiến dịch luôn có thành phần cán bộ chính trị, quân sự, quân, binh chủng và lãnh đạo địa phương trên địa bàn chiến dịch, để phát huy cao nhất khả năng chỉ huy, phối hợp, hiệp đồng, phát huy sức mạnh giành thắng lợi.
Bộ đội ta hành quân trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Ảnh tư liệu |
Về chiến thuật, Quân đội ta đã kế thừa và phát triển nghệ thuật quân sự độc đáo của tổ tiên lên tầm cao mới với các hình thức: Tiến công, phòng ngự, tập kích, phục kích, vận động tiến công, truy kích, tiến công trong hành tiến... Cùng với sự phát triển của các binh chủng, quân chủng, Quân đội ta đã sáng tạo, vận dụng nhiều hình thức chiến thuật mới phù hợp với điều kiện tác chiến của chiến tranh hiện đại, điều kiện thực tế chiến trường và từng binh, quân chủng. Trong mỗi hình thức chiến thuật cũng đều có sự phát triển, biến hóa và kết hợp nhịp nhàng các hình thức chiến thuật để tạo hiệu quả cao trong chiến đấu. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ - 1954, Quân đội ta đã sử dụng kết hợp rất nhiều hình thức chiến thuật: Tiến công, đánh lấn, bao vây, chiến tranh hầm hào…, với tổng kết “vây, lấn, tấn, phá, triệt, diệt” độc đáo.
Trong kháng chiến chống Mỹ, để đối phó với các cuộc đổ bộ đường không của địch, ta đã tìm ra cách đánh phù hợp, hiệu quả và phát triển chiến thuật đánh địch đổ bộ đường không lên đỉnh cao, giăng sẵn trận địa, dụ địch, tạo thế, buộc địch nhảy dù, đổ bộ vào trận địa ta bố trí sẵn. Tiêu biểu là các trận đánh trong Chiến dịch Plây Me - 1965 và trận đánh địch phản kích trong Chiến dịch Tây Nguyên - 1975. Trong chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng - 1972, ta đã vận dụng hình thức chiến thuật đầy sáng tạo - phòng ngự tích cực, góp phần giành thắng lợi cho chiến dịch.
Chiến thuật của Quân đội ta phát triển từ thấp đến cao, từ du kích lên chính quy; từ quy mô trung đội, đại đội lên quy mô trung đoàn, sư đoàn; từ các trận chiến đấu của bộ binh tiến lên chiến đấu hiệp đồng quân, binh chủng; từ những trận đánh tiêu hao, tiêu diệt nhỏ tiến lên đánh những trận tiêu diệt lớn từng trung đoàn, sư đoàn địch; từ những trận đánh nhỏ lẻ, độc lập tiến lên đánh nhiều trận theo một kế hoạch, ý định thống nhất của chiến dịch, đợt hoạt động; từ đánh đêm là chính tiến lên đánh cả ban ngày và đánh liên tục dài ngày; từ chủ yếu đánh ở rừng núi tiến lên đánh địch ở mọi loại địa hình; từ chỗ chỉ có một số hình thức như phục kích, tập kích, phòng ngự bằng điểm chốt tiến tới sử dụng nhiều hình thức chiến thuật phong phú, đánh được nhiều đối tượng tác chiến dù chúng phòng ngự trong công sự vững chắc, hành quân càn quét, đổ bộ đường không, tạm dừng khi hành quân, hay trú quân trong sào huyệt...
Quán triệt sâu sắc đường lối, tư tưởng quân sự của Đảng, kế thừa tinh hoa truyền thống đánh giặc của dân tộc; học tập và vận dụng có chọn lọc những kinh nghiệm quân sự tiên tiến của các nước anh em, của thế giới vào điều kiện Việt Nam; Quân đội nhân dân Việt Nam đã phát triển nền nghệ thuật quân sự độc đáo, sáng tạo, thể hiện tính cách mạng và tính khoa học, tính dân tộc và tính hiện đại, vừa phản ánh những quy luật của chiến tranh và đấu tranh vũ trang cách mạng; vừa mang những nét độc đáo Việt Nam, góp phần hình thành một nền nghệ thuật quân sự Việt Nam tiên tiến và hiện đại.
Đọc bài gốc tại đây.