Em vào ủng hộ cụ Thỏ roti, à quên, tiếp tục.
“ Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.”
Một sự kiện gây căng thẳng khiến khó hàn gắn được mối bang giao Tống – Lý, đó là việc Thẩm Khởi cho người móc nối chiêu dụ Tù trưởng Nùng Thiện Mỹ tại châu Ân Tình.[17] Vị trí châu này theo Đồng Khánh Dư Địa Chí thuộc huyện Cảm Hóa tỉnh Thái Nguyên; nhưng theo văn bản Trường Biên[18] thì châu Ân Tình tại Thất Nguyên, tức Thất Khê, Lạng Sơn ngày nay; phải chăng lúc này lãnh thổ châu Ân Tình kéo dài ra đến tận Thất Khê gần biên giới. Vì cách hành xử thiếu khéo léo của Khởi, nên y bị mất chức; Vua Tống cho Lưu Di thay thế:
“Trường Biên, quyển 251.Tống Thần Tông ngày Canh Tý tháng 3 năm Hy Ninh thứ 7 [1/4/1074], mệnh Tri Kiền châu [Giang Tây] Đô quản viên ngoại lang Lưu Di Trực sứ quán Tri Quế châu. Tri Quế châu Lang trung bộ Hình Thiên chương các đãi chế Tập hiền điện tu soạn Thẩm Khởi lệnh đến Đàm châu [Hồ Nam] đợi nghe chiếu chỉ. Trước đó Chuyển vận sứ Quảng Tây Trương Cận tâu Đô tuần kiểm Tiết Cử tự tiện thu nhận Nùng Thiện Mỹ vào đất tỉnh, nhưng Thẩm Khởi không cấm; Thiên tử phê:
‘Hy Hà dùng binh chưa xong, mà Thẩm Khởi tại phương nam còn làm việc thưởng sai, sinh sự với dân man; nếu không sớm làm việc bình trị, thì gây cho Trung Quốc mối hoạn lớn, thực không thể sơ hốt. Cần cấp tốc nghị bàn việc bãi Khởi, trị việc tự tiện chiêu nạp, để yên trong ngoài.’
Do đó Trung thư tỉnh xin cho Tôn Cấu hoặc Khang Vệ thay Khởi. Bấy giờ Cấu làm Chuyển vận sứ Kinh Hồ Bắc Lộ [Hồ Bắc], Vệ giữ chức Tri Đàm châu [Hồ Nam]. Thiên tử phê:
“Chương Đôn chẳng mấy lâu sẽ tới kinh khuyết, việc tại Hồ Bắc cần Tôn Cấu lo liệu; còn Khang Vệ là người như thế nào? Nếu Hùng Bản có thể dừng việc, để đi thì rất tốt.”
Nhưng bọn Vương An Thạch, Trần Thăng Chi đều tâu Bản mới giữ chức Kinh lược về dân di tại Lô châu [Tứ Xuyên]; Lô châu, Quế châu cách nhau xa, mà Quảng Tây thì cần người gấp. Phát vận phó sứ Giang Hoài Trương Hiệt, Tri Kiền châu Lưu Di có thể dùng thay Khởi, nhưng Di tiện đường, đến Quế châu gần hơn. Bèn ban chiếu sai Di đi, vẫn ra lệnh ước thúc giống như trước kia đã sai Khởi; lại bảo Di bao dung việc Khởi dung nạp Nùng Thiện Mỹ. Sau đó Di tâu việc dung nạp Thiện Mỹ; triều đình vẫn ra lệnh cho Thẩm Khởi giữ chức Tri Đàm châu.”[19]
Sự việc châu Ân Tình triều Tống biết là sai, nội bộ thì cách chức Thẩm Khởi; nhưng với lòng tham lam bành trướng, nên khi Vua Lý Nhân Tông đòi trả lại Vua Tống vẫn khăng khăng từ chối, hành động này châm ngòi cho cuộc chiến tiếp đó xảy ra:
“Trường Biên, quyển 259. Tống Thần Tông ngày Kỷ Vị tháng giêng năm Hy Ninh thứ 8 [14/2/1075], Giao Chỉ Quận vương Lý Càn Đức [Lý Nhân Tông] dâng biểu tâu rằng:
‘Thủ lãnh châu Ân Tình Ma Thái Dật là người châu Định Biên của bản đạo, rời chỗ ở đến châu Ân Tình; nay đổi tên xưng là Nùng Thiện Mỹ, cùng thuộc hạ hơn 700 người chạy qua đất của tỉnh [Quảng Tây], xin điều tra tận gốc.’
Trước đó, Kinh lược sứ Quảng Nam Tây Lộ Thẩm Khởi tâu:
‘Tri châu Ân Tình Nùng Thiện Mỹ cùng gia thuộc hơn 600 người qui minh đến châu Thất Nguyên. Thần khám xét về bọn Nùng Thiện Mỹ trước kia thuộc châu Thất Nguyên là nơi thôn động của tỉnh nội địa quản hạt; mấy năm trước do Giao Chỉ xâm chiếm, đổi là châu Ân Tình. Do sự đòi hỏi thuế má phục dịch phiền khổ, nên đưa người đến qui phụ; nếu không nhận, tức sẽ bị Giao Chỉ giết.’
Chiếu ban cho phép qui thuận, cấp tuất nhiều. Đến nay, Càn Đức lại đem lời yêu cầu, bèn ban chiếu cho lộ Quảng Tây điều tra rồi gửi điệp văn lên; cuối cùng gửi chiếu cho Càn Đức không chấp nhận lời xin. (Căn cứ Giao Chỉ vương truyện)”[20]
Chú thích:
[1] 六年正月注罷桂州。上問注攻取之策,注辭曰:「臣昔者意嘗在此。方是時,溪洞之兵一可當十,器甲犀利,其親信之人皆可指手役使。今兵甲無當時之備,腹心之人死亡大半,而交人生聚教訓之又十五年矣。謂其眾不滿萬,恐傳者之妄也。
[2] 辛丑,權度支副使、刑部郎中、集賢殿修撰沈起為天章閣待制、知桂州,代蕭注也。注在桂州,自特磨至田凍州酋長遠近狎至,注問其山川曲折、老幼存亡,甚得其懽心,故李乾德動息必知之。然有獻策平交州者,輒火其書。會起言交州小醜無不可取之理,乃罷注歸。此據注本傳。十一月甲子,用注遺表推恩,當并此【一七】。其後起更為征討計,卒以此敗。
初,議用起,馮京言起前為陝西轉運使,慶州兵亂,起閉長安城不敢出,人疑其怯。上曰:「賊到城下,城中又無人守備,安可不閉城?此非起過也。」王安石曰:「起在陝西誠無大過。去江寧時,臣嘗奏以為可留,眾論所以攻起尤切者,蓋以起嘗辨正王韶、李師中曲直,故為人所惡,陛下牽於眾毀,故不欲留起耳。
[3] 新知桂州沈起,乞自今本路有邊事,依陝西四路止申經略司專委處置及具以聞,從之。起又乞差人出外界勾當,上顧王安石曰:「如何指揮?」安石請依所乞,劄與監司,上曰:「可。」安石私記又云:「上令起密經制交趾事,諸公皆不與聞,凡所奏請皆報聽。
[4] Hy Hà: năm Hy Ninh thứ 8 [1075] mở biên giới chiếm được Hy Châu [Lâm Thao, Cam Túc], Hà Châu [Lâm Hạ, Cam Túc] của Tây Hạ.
[5] Trung Thư: cơ quan trực tiếp phụ giúp Vua.
[6] Một người: ý chỉ Vua Thần Tông.
[7] Lữ Hối [1014-1071], thời Tống Thần Tông giữ chức Ngự sử trung thừa; kịch liệt phản đối biến pháp của Vương An Thạch.
[8] 陳瓘論曰:安石入告之言曰:「兵無時不可用。」神考曰:「用兵安可無名?」安石曰:「陛下若果欲用兵,何患無名?」於是七年執政而四作邊事,神考垂拱仰成,任其所為,事成則歸功於安石,事不成則引咎於己。韓絳西事既敗,神考降詔罪己,未嘗責安石也。熙河奏功,則解玉帶以賜安石曰:「非卿主謀於內,無以成此。」梅山用兵,章惇受旨於安石,及其奏功,則神考擢惇而驟用之。廣西之事,沈起亦受旨於安石,及其敗也,神考掩護中書生事之過,曲從安石,貸起之死,而亦未嘗責安石也。神考之於安石,可謂厚矣,安石之所以報上者,宜如何哉?臣今考日錄,安石於熙河、梅山先書李若愚妄沮王韶,而神考崇長若愚;又先書經制成算已付章惇,而神考為人游說,即欲改授蔡燁,然後言王韶、章惇必可任使之意,以謂能知王韶者安石也,非神考也。矜主謀之功,返復張大,至于數十萬言,自謂有天地以來無此功矣。至于韓絳敗事,則曰:「陛下于一切小事勞心,于一大事獨誤。」又曰:「若陛下詳慮熟計,則必無可悔之事。」夫安石自作可悔之事,而恣為誣誕歸過之言,神考愛民之志,孚於天下,此等誣辭可累天德【三】,但臣子之心不能平耳。沈起引惹蠻事,致令交趾犯邊,圍陷邕州,欽、廉失守,生事者起,人皆知之,造謀者安石,人不盡知也。邊事未作之時,神考有罷起之詔,曰:「熙河用兵,未有息期,沈起又於南方造作引惹。」欲治起罪,以安中外,安石不肯奉詔,明年果有事宜,三州之民,肝腦塗地,數路騷動,一人焦勞。當時詔語以謂一路生靈,橫遭屠戮,職在致寇,罪悉在起。然起之所以得不死者,良以安石護起,神考重違其請,不欲盡行耳。安石退而著書,追記其事,則謂沈起經制,皆上密謀,諸公皆不與聞,起所奏乞,上皆許之。嗚呼!四作邊事,二敗二勝,二勝則掠美於己,二敗則歛怨於君,呂誨之言,辨之早矣。
[9] Qui minh 歸明: có nghĩa là theo con đường sáng; từ ngữ mang nặng tính tự cao, dùng để chỉ dân các nước lân bang bỏ theo Trung Quốc.
[10] 新知桂州沈起乞以邕州五十一溪洞洞丁排成保甲,遣官教閱,從之。
[11] Dịch nguyên văn, có lẽ các con số chép sai.
[12] 廣南東路駐泊都監楊從先言:「本路槍手萬四千,今排保甲,若兩丁取一,得丁二十五萬八千,若三丁取一,得丁十三萬四千。自少計之,猶十倍於槍手。願委路分都監二員,分提舉教閱。」詔司農寺詳定條約以聞。其後,戶自第四等以上,有丁三者以一為之,每百人為一都,五都為一指揮。自十一月至次年二月,每月輪一番閱習,每三日一比試,事藝高者先次放歸。」本志同此。
[13] 知桂州沈起言:「邕州左、右江溪洞,前此職司未嘗巡歷。今轉運判官杜璞獨往,慮諸蠻以故驚疑。」詔璞依故例出巡,其入洞點檢教閱兵甲,即令經略司差官。
[14] 廣南西路經略司勾當公事溫杲言:「詔補儂宗旦、儂智會等為將軍,以夷人不知此官,欲乞一近上班行或副使。」詔宗旦、智會並為供備庫副使,宗旦桂州都監,智會知歸化州。
[15] Khương: dân tộc thiểu số tại tây nam Trung Quốc.
[16] 沈起言:「交趾劉紀欲歸明,不納,必恐如儂智高。」上問執政交趾事,僉以為未可許劉紀【二四】,許劉紀,交趾必爭。王安石曰:「聞溫杲已來,乞候溫杲到,商量取旨。」上曰:「交趾可了,但恐沈起了不得。」安石曰:「起自以為易了,然兵事至難,誠恐起未易了。」馮京曰:「交趾安能一心,但恐其人相與之固,不如羌人爾。」安石曰:「交趾所任,乃多是閩人,必其土人無足倚仗故也。」二十七日事。
[17] Châu Ân Tình: Theo Đồng Khánh Dư Địa Chí xã Ân Tình, thuộc tổng Lương Thượng, huyện Cảm Hóa tỉnh Thái Nguyên; huyện Cảm Hóa nay thuộc huyện Bạch Thông tỉnh Bắc Cạn và huyện Ngân Sơn tỉnh Cao Bằng.
[18] Trường Biên, quyển 259. Năm Hy Ninh thứ 8 [1075].
[19] 知虔州、都官員外郎劉彞【一】直史館、知桂州。知桂州、刑部郎中、天章閣待制、集賢殿修撰沈起令於潭州聽旨。初,廣西轉運使張覲言都巡檢薛舉擅納儂善美於省地而起不之禁,上批:「熙河方用兵未息,而沈起又於南方干賞妄作,引惹蠻事,若不早為平治,則必滋長為中國巨患,實不可忽。宜速議罷起,治其擅招納之罪,以安中外。」於是中書請以孫構【二】或康衛代起。
時構為荊湖北路轉運使,衛知潭州。上批:「章惇不久赴闕,湖北事恐且須孫構照管,康衛不知其為人如何?若熊本可輟以往甚善。」而王安石、陳升之等皆言,本方經畫瀘州夷事,瀘、桂相去絕遠,而廣西即今須人應接;江淮發運副使張頡、知虔州劉彞恐可使代起,而彞便道趨桂尤近。乃詔遣彞,而又令以前日付起約束付之,且使彞體量起納善美事。後彞體量奏至,仍命起知潭州。沈起知潭州。
[20] 交趾郡王李乾德表言,恩情州首領麻泰溢是本道定邊州人,移住恩情,今改稱儂善美,與其屬七百餘人逃過省地,乞根問。先是,廣南西路經略使沈起言:「知恩情州儂善美與其家屬等六百餘人歸明至七源州。臣勘會儂善美等,舊係省地七源州管下村峒,往年為交趾侵取,改為恩情州。以賦役誅求煩苦來歸,不納,必為交趾所戮。」詔聽歸明,厚加存恤。至是,乾德以為言,乃詔廣西路經略司勘會牒報,賜乾德詔不許。賜詔語不許,據交趾王傳。
Giờ ta ngược lại chút thời gian khi Vua Lý Nhân Tông lên ngôi được 1 năm [1072], Vua Tống phong tước Giao Chỉ quận vương:
“Lý Nhân Tông năm Thái Ninh thứ 2 [1073] Nhà Tống phong Vua tước Giao Chỉ Quận Vương.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 3.
Năm sau nhà vua sai Sứ sang Trung Quốc tiến cống:
“Trường Biên, quyển 243. Tống Thần Tông ngày Giáp Tý tháng 3 năm Hy Ninh thứ 6 [30/4/1073], Lý Càn Đức [Vua Lý Nhân Tông] đất Giao Châu sai Sứ cống sản vật địa phương.”
Trong sứ đoàn có một viên quan bị bệnh rồi bị mất tích, do phía Đại Việt khiếu nại, nên nhà cầm quyền Tống cho mở cuộc điều tra:
“Trường biên, quyển 246. Tống Thần Tông ngày Ất Tỵ tháng 7 năm Hy Ninh thứ 6 [9/8/1073], bọn Lý Hoài Tác, Tiến phụng sứ Giao Chi xin tìm từ gốc viên Nha quan Đặng Am. Khởi đầu Am trên đường bị bệnh, cõng đến Trương Tam Quán, y bảo rằng bệnh đã lành, không muốn cõng nữa; rồi thất tung, không biết ở đâu. Chiếu ban cho Ung Châu trình bày đầy đủ người Giao Chỉ từ khi vào biên giới và khởi trình; cùng gửi văn thư cho Tĩnh hải quân An Nam và ra lệnh phủ Khai Phong [kinh đô Bắc Tống] trình bày đầy đủ về việc Đặng Am; cấp bằng cứ công cho bọn Hoài Tố.”[1]
Ngoài sự việc Sứ thần Đại Việt mất tích; lúc này viên quan phụ trách vùng Quảng Nam Tây Lộ [Quảng Tây] Thẩm Khởi cho thi hành phép bảo giáp, thường xuyên tổ chức hành quân tuần thám, mưu đồ chiêu dụ uy hiếp các khe động tại biên giới; triều đình nước ta gián tiếp cảnh cáo bằng cách đem việc đánh bắt Vua Chiêm Thành Chế Củ vào năm 1069 báo cho nhà Tống hay; nói rằng Vua Chiêm Thành mang người đến hàng:
“Trường Biên, quyển 252. Tống Thần Tông ngày Canh Dần tháng 4 năm Hy Ninh thứ 7 [21/5/1074]. Giao Chỉ Quận vương Càn Đức dâng biểu tâu:
‘Tháng 10 mùa đông năm ngoái, trại Định Phiên tại biên giới phía nam báo rằng Quốc vương Chiêm Thành mang hơn 3.000 người cùng vợ đáp thuyền đến hàng; vào tháng Giêng năm nay đến bản đạo rập đầu xin thần phục.’
Chiếu chỉ phúc đáp.”[2]
Do Kinh lược sứ Quảng Nam Tây Lộ Thẩm Khởi tạo rắc rối tại vùng biên giới Hoa Việt, lại nhân nước Liêu phương Bắc gây áp lực, nên triều đình nhà Tống muốn tạm thời hòa hoãn với Đại Việt, bèn đổi Thẩm Khởi cho Lưu Di đến thay thế:
“Trường Biên, quyển 272. Tống Thần Tông ngày Bính Dần tháng giêng năm Hy Ninh thứ 9 [6/2/1076], chiếu ban Chiêu thảo ty An nam Đồng Thạch Giám, Chu Ốc cân nhắc việc Thẩm Khởi, Lưu Di làm điều quấy sinh sự nơi biên giới; rồi tâu đầy đủ sự thực. Trước đó Thiên tử ban chiếu cầm tay cho Trung thư như sau:
‘Thẩm Khởi trước kia tại Quảng Tây nói xàm rằng đã nhận triều đình mật chỉ, kinh lược đánh dẹp Giao Chỉ. Lại không đợi chiếu chỉ, tự tiện sai quan lại tại biên giới chiêu dụ Nùng Thiện Mỹ tại châu Ân Tình,[3] cùng cưỡng đặt các doanh, trại tại Dung Châu [Dung Thủy Miêu Tộc Tự Trị Khu, Quảng Tây], Nghi Châu [Nghi Châu thị, Quảng Tây]; hư tấu dân man đã qui phụ. Rồi bắt xây tường đất, gây nên phản loạn; giết thổ đinh, quân lính, quan lại có đến hàng ngàn. Nay giặc Giao Chỉ xâm phạm, dân Liêu tại Nghi Châu gây biến trong nước; khiến cho sinh linh trong một đạo[4] bị hoành hành giết chóc; biết rằng gây ra loạn lạc tội do tại Khởi, không nghi ngờ gì nữa. Trẫm là cha mẹ của dân, thấy dân vô tội tại nơi xa xôi bị vướng vào tai họa, cảm thấy thương xót vô cùng. Thẩm Khởi tha cho tội chết, tước đoạt mọi chức tước, quản thúc tại châu xa xôi hiểm ác.”[5]
Thật là may mắn cho lịch sử nước Việt chúng ta nói chung và nhà Lý nói riêng là giai đoạn này bên TQ có triều đại nhà Tống . Đây là 1 triều đại kém cỏi nhất trong lịch sử Trung Hoa . Xuyên suốt , cả triều đại này luôn bị các dân tộc phía Bắc và phía Tây lấn chiếm , gây hấn . Hết nhà Kim , Thổ Phồn .... rồi cuối cùng là bị nhà Nguyên thôn tính . Chính bởi gian đoạn từ cuối đời nhà Đường đến hết nhà Tống , mà dân tộc ta đã thực sự giành dc độc lập thoát khỏi gần 1000 năm đô hộ . Khởi đầu Dương Đình Nghệ mà đỉnh cao là chiến thắng của Vua Ngô Quyền đến triều đại các đời vua Lý . Chúng ta đã tranh thủ giành dc độc lập khẳng định chủ quyền , mở mang bờ cõi . Đặt nền móng vững chắc cho những chiến công và sự trường tồn của Dân Tộc , Đất nước cho đến ngày nay .
Qua mật tâu từ các nguồn do thám triều đình nhà Tống biết rằng nước Đại Việt sắp tấn công lớn, bèn ra lệnh cho Tô Giam án binh cố thủ, không tham công điều binh ra ngoài biên giới:
“Trường Biên quyển 251. Ngày Mậu Ngọ tháng 3 năm Hy Ninh thứ 7 [19/4/1074], chiếu gửi tay:
“Căn cứ vào mấy lần ty Kinh lược Quảng Tây tâu rằng thám báo cho biết Giao Chỉ tụ binh, muốn xâm phạm đất tỉnh. Thâm lự rằng các quan tại biên giới không lượng được lực lượng phía ta và phía địch, khinh suất điều quân xa rời thành trại nghênh địch; cần chỉ huy gấp Tô Giam nếu như người man trực tiếp xâm phạm Ung châu, thì án binh cố thủ, không được tham công khinh địch.”[6]
Cho tăng cường việc phòng thủ nên việc tổ chức huấn luyện lực lượng bảo giáp vẫn duy trì như cũ, giữ quân số tối đa:
“Trường Biên, quyển 254. Tống Thần Tông ngày Quí Tỵ tháng 6 năm Hy Ninh thứ 7 [23/7/1074], Tri Quế Châu Lưu Di tâu:
‘Theo qui chế cũ 5 quận dân đinh thổ [dân thiểu số] Nghi [Nghi Châu thị, Quảng Tây], Dung [Dung Thủy Miêu Tộc Tự Trị huyện], Quế [Quế Lâm], Ung [Nam Ninh], Khâm [Khâm Châu], lúc đến tuổi thành đinh đều ghi vào sổ. Những chỗ tiếp xúc với man [chỉ Đại Việt] sợ bị cướp phá, việc phòng ngự, tiếp ứng, tăng viện, không đợi lệnh có thể hành động. Nhưng qui chế mới đây cho chủ hộ loại đệ tứ trở lên, thì cứ 3 đinh lấy 1 người làm thổ đinh. Nếu 3 đinh lấy tên vào sổ 1 người, tức giảm số đinh so với trước còn 7/10; dư ra 3 phần làm bảo đinh; bảo đinh phần đông ở trong nội địa, lại phải đợi huấn luyện thêm việc võ bị, như vậy thiếu thổ đinh, sợ phòng bị nơi biên giới bị khuyết, xin y theo cựu chế tiện hơn.’
Lời tâu được chấp nhận.”[7]
Lúc này Lưu Kỷ Tri châu Quảng Nguyên [Cao Bằng] mang quân đánh Ung châu để yểm trợ cho đường di chuyển ngựa mua từ phía tây bắc, Nùng Trí Hội bèn sai con mang binh đánh chặn; Vua Thần Tông và Tể tướng Vương An Thạch đều chủ trương củng cố lòng tin, yểm trợ cho Trí Hội:
“Trường Biên, quyển 263. Tống Thần Tông ngày Ất Vị tháng 4 nhuần năm Hy Ninh thứ 8 [21/5/1075], Tri Quế Châu [Quế Lâm] Lưu Di tâu rằng: Lưu Kỷ tại châu Quảng Nguyên [bắc Cao Bằng] dùng 3.000 quân xâm lược Ung Châu, Nùng Trí Hội tại châu Qui Hóa [Ung Châu] sai người con Tiến An, đánh chặn lập công. Chiếu cấp Trí Hội bổng tiền, cho Tiến An chức Tây đầu cung phụng quan; còn ra lệnh ty kinh lược sai quan mộ đinh trong động, lập trại nơi gần thuận tiện để thanh viện; ngày cấp lương ăn; như gặp giặc bắt một tên hoặc chém một thủ cấp, được thưởng riêng 10 tấm quyên. Lưu Di từng tâu rằng:
‘Trí Hội có thể đoạn tuyệt đường mua ngựa của Giao Chỉ làm phên dậu cho Ung Châu; Lưu Kỷ lo lắng về việc cách tuyệt đường mua ngựa nên đánh.’
Lại tâu:
‘Trí Hội cũng không thể tin được; để cho hai bên đánh nhau, thắng hay bại đều có lợi cho triều đình.’
Thiên tử phán:
‘ Lưu Di bảo Trí Hội có thể triệt đường mua ngựa của Giao Chỉ, làm phên dậu cho ta; nhưng lại bảo thắng, hay thua đều có lợi cho triều đình, tại sao vậy? Phàm người ta đã qui thuận, bị giặc đánh, có 2 đường thắng bại, kẻ theo ta không được giúp, kẻ phản ta thì đắc chí; có thể nói rằng thi thố trái phương lược.’
Vương An Thạch tâu:
‘Đúng như lời Thánh dụ, giả sử Trí Hội theo sự giáo hóa chưa thuần nhất, cần nhân lúc này giúp đỡ kết nạp, để nội phụ trở nên kiến định. Vả lại Càn Đức ấu nhược, nếu Lưu Kỷ phá được Trí Hội, thừa thắng đánh Giao Chỉ, tất gây mối hoạn cho Trung Quốc trong tương lai [giống như Nùng Trí Cao]; bởi vậy lúc này nên giúp Trí Hội, để khiên chế Lưu Kỷ, khiến không rảnh mưu Giao Chỉ, đó là điều lợi cho Trung Quốc.’
Thiên tử cho là đúng nên ban mệnh như vậy.”[8]