[20] 辛酉,廣南西路都監張守節為交賊所敗於崑崙關。先是,蘇緘遣使詣桂州請救【一】,劉彞遣守節往援,守節聞賊眾十倍,逗留不即行,復迂取貴州路,駐兵康和驛以觀勝負。緘又遣使持蠟書告急於提點刑獄宋球,球得書驚且泣,以便宜督守節進兵。守節惶遽不知所為,移屯火夾嶺,回保崑崙關,猝遇賊,不及陣,一軍皆覆,守節死之。
[21] 又詔邕州有馬雄略員僚趙秀妻、男,送湖北配本路軍營充奴婢。秀常為賊定砲打邕州城也。
[22] 是日,二十三日。交賊陷邕州,蘇緘死之。張守節敗,生獲於賊者數百人。賊知北軍善攻城,啗以厚利,使為雲梯,既成,為緘所焚。又為攻濠洞,蒙以生皮。緘俟其既度,縱火焚於穴中。賊計盡,稍欲引去,而知外援不至。會有能土攻者,教賊囊土數萬,向城山積,頃刻高數丈,賊眾登土囊以入,城遂陷。緘猶領傷卒馳騎苦戰,力不敵,緘曰:「吾義不死賊手。」乃還州廨,闔門,命其家三十六人皆先死,藏尸於坎,縱火自焚。賊至,求緘及其家遺骸,皆不能得。殺吏卒、土丁、居民五萬餘人,以百首為一積,凡五百八十餘積。并欽、廉州所殺,無慮十萬餘人,並毀其城以填江。邕州被圍凡四十二日,緘率厲將士固守,糧儲既竭,又歲旱,井泉皆涸,人饑渴,汲漚麻汗水以飲,多病下痢,死者相枕,而人無叛者。緘憤沈起、劉彞致寇,彞又坐視城覆不救,欲盡疏以聞,屬道梗不通,乃列起、彞罪牓於市,冀達朝廷。
初,緘子子元為桂州司戶參軍,挈家往省父,將還,適聞有交賊。緘以郡守家屬出城,見者必以為避賊,則人有去心,獨遣子元還桂州【一○】而留其妻孥,至是俱死。
緘既死,交賊復謀寇桂州,前鋒行數舍,或見大兵自北南行【一一】,呼曰:「蘇皇城領兵來報交趾之怨。」賊師懼,遂引歸。其後邕人為緘立祠,歲時禱之。司馬記聞云:正月二十一日賊破邕州,二十三日遂回本峒。按實錄乃二十三日破邕州,今從實錄。獨不記賊用何日回本峒,當考。案交趾陷邕州之日,宋史作戊辰,東都事略與此合.
[23] 贈莊宅副使、廣南西路都監張守節為成州團練使,供備庫副使、邕州左江提舉兵馬賊盜溫元裕為皇城使、海州團練使,內殿承旨、湖南都監張卞為皇城使,橫山寨主林茂昇為皇城使、恩州刺史,東頭供奉官權邕賓州同巡檢許譽、永平寨同管轄兵甲蘇佐並為左藏庫使,西頭供奉官邕州監押儂日新、柳象賓州同巡檢王鎮、宜州監稅權太平寨監押郭永元並為文思使,左班殿直、太平寨同管轄兵甲伍舉為左藏庫副使,右班殿直、欽州抵掉寨主張首為文思副使,三班差使欽州如昔峒巡防伍環、前經略司指揮劉昇並為內殿承制,三班借差都鈐轄司指使康明、殿侍柴齊、經略司指使封嗣元並為內殿崇班。皆以廣西與交賊戰死事故也。
又贈供備庫使、廣西都監于辛為耀州觀察使,西京左藏庫副使、經略司準備差使張渙為皇城使、懷州防禦使,供備庫副使、知廉州路慶孫為皇城使、舒州團練使,內殿承制、知欽州陳永齡為皇城使、忠州刺史,欽、橫州同巡檢梁奇為皇城使、德州刺史,容、白州都巡檢潘若谷為皇城使、恩州刺史,東頭供奉官、廉州沿海巡檢李仲荀為左藏庫使,西頭供奉官廉州監押周宗奭、權欽州監押文良並為文思使,三班奉職欽州監押吴福、經略司指使李安並為西京左藏庫副使,借職欽州沿海巡檢蔣瑾、權廉白州同巡檢沈宗古並為供備庫副使,殿侍欽州指使宋道丁遂、廉州指使吴宗立並為內殿崇班,欽州簽書軍事判官、大理寺丞梁克輔為司農少卿,軍事推官李完為比部郎中,司戶參軍錢世京為駕部員外郎,司理參軍劉昌宗、前鬱林州司理參軍曹可、廉州合浦縣主簿梁楚並為比部員外郎,欽州監稅攝州歐陽戭、廉州司戶參軍蔡接、司理參軍陳諫並為虞部員外郎。皆為交賊殺害故也。
Trước khi thành Ung [Nam Ninh] thất thủ, nhà Tống đã chuẩn bị phục thù; chủ trương xâm lăng Đại Việt. Tiến trình chuẩn bị ngót một năm trời, sự việc khá phức tạp; để tiện tìm hiểu, có thể chia ra thành các tiểu mục: chỉ huy, thành phần lực lượng, lương thảo vận chuyển, cùng các khó khăn khác.
Chỉ huy
Khởi thủy lúc Vua Tống sai Triệu Tiết làm Đô tổng quản toàn quân, Hoạn quan Lý Hiến làm Phó tổng quản, Yên Đạt thống suất kỵ binh, Tể tướng Vương An Thạch đích thân soạn chiếu thư. An Thạch rất căm giận quân Đại Việt trưng bản Lộ Bố[1] đả kích chính sách cải cách của ông ta; nên dùng mưu thâm cố tình đem lời chia rẽ Vua Lý Nhân Tông và Lý Thường Kiệt:
“Trường Biên, quyển 271. Tống Thần Tông ngày Quí Sửu tháng chạp năm Hy Ninh thứ 8 [1075] [3/2/1076], chiếu ban:
‘Nghĩ về An Nam, đời đời nhận tước Vương, sau khi được chiêu phủ bởi triều trước; bao dung xá tội cho đến ngày hôm nay. Rồi đánh phá thành ấp, sát thương quan dân, phạm vào luật nước, tội hình không thể tha, nay thay trời thảo phạt, việc binh có danh nghĩa.
Sai Triệu Tiết làm Đô tổng quản An Nam đạo hành doanh quân kỵ và bộ, Kinh lược chiêu thảo sứ kiêm Quảng Nam Tây Lộ; An phủ sứ Lý Hiến làm Phó sứ; Yên Đạt thống suất Mã bộ quân Đô tổng quản, mang quân thủy lục cùng tiến.
Thiên thời trợ thuận, vừa giáng điềm lành; người người biết kẻ gây ác sắp tiêu vong, ôm lòng giận kẻ địch. Nhưng khi quân lính nhà vua đến, lo sợ bôn đào, kẻ sĩ thứ dân, trầm luân vào chốn nước sâu lửa bỏng. Nếu có thể bảo Vương ngươi nội phụ, mang dân chúng qui thuận, bắt giặc hiến công, đem thân ra sức thuận thảo; thì tước lộc ban thưởng, gấp bội hơn bình thường; tội cũ trên mình, đều được rửa sạch. Càn Đức [Vua Lý Nhân Tông] còn nhỏ tuổi, việc chính trị không phải tự mình đưa ra, hãy đến với triều đình, sẽ được đãi ngộ như cũ; lời Trẫm kiên định không thay đổi, thiên hạ hãy tuân theo, không sợ bị mê lầm.
Nghe rằng dân chúng các người, khốn khổ vì sự sách nhiễu; đã răn đe quan quân, tuyên cáo rõ ràng ân chỉ, thuế má vơ vét, lập tức diệt trừ; khiến cho một phương của ta, vinh viễn là đất hoan lạc.’...
Đây là lời do Vương An Thạch soạn.
Lúc bấy giờ những thành ấp bị Giao Chỉ đánh phá đều trưng bản lộ bố yết thị tại các nơi giao lộ nói rằng:
‘Những dân phản chạy trốn vào Trung Quốc, bị quan lại dung chứa dấu diếm; ta đã sai Sứ đến Quế Lâm tố cáo nhưng không trả lời; lại sai Sứ vượt biển đến Quảng Châu trình bày, cũng không phúc đáp; bởi vậy ta mang quân truy bắt những kẻ phản loạn.’
Lại bảo rằng:
‘Quế quản điểm binh tập luyện tráng đinh trong động, tuyên bố trắng muốn thảo phạt ta.’
Rồi đả kích:
‘Trung Quốc dùng phép thanh miêu trợ dịch[2] làm cùng khốn dân chúng, nên chúng ta mang quân đến cứu vớt.’
Vương An Thạch giận, nên thảo chiếu đánh dẹp….”[3]
Nhưng rồi việc sắp đặt tổng chỉ huy bị trục trặc; Triệu Tiết, viên Đô tổng quản không muốn hoạn quan Lý Hiến[4] giữ chức phó, vì Hoạn quan thường hay tâu cáo riêng với Vua, cản trở công việc, nên đề nghị Quách Quì làm Đô tổng quản, Tiết chịu nhận làm phó. Riêng Vương An Thạch không bằng lòng Quì, bấy giờ Ngô Sung làm Thừa tướng lại ủng hộ Quì, nên cuối cùng Quì được chấp thuận:
“Trường Biên, quyển 273. Tống Thần Tông ngày Mậu Tý tháng 2 năm Hy Ninh thứ 9 [9/3/1076], trước đó Triệu Tiết dâng lời tâu:
‘Triều đình đặt Chiêu thảo sứ phó, việc quân sự đáng bàn chung; nhưng khi tiết chế ra lệnh, xin qui vào một người.’
Do vậy Lý Hiến ấm ức; rồi nói với Tiết rằng việc quân tại biên giới chỉ tâu bẩm cho Ngự tiền chỉ huy, không cần kinh qua Trung thư và Khu mật viện. Tiết đáp rằng triều đình hưng binh đại sự, nếu không qua 2 viện, sự việc thi hành có điều bất tiện…..Hai người do đó bất hòa, mấy lần trình bày lên Thiên tử. Vương An Thạch tâu:
‘Hoạn quan coi quân, Đường Thúc Thế tệ trạng, không nên theo.’
Thiên tử bèn hỏi Tiết:
‘Nếu Hiến không đi, thì ai sẽ thay Hiến.’
Tiết tâu:
‘Quách Quì lão luyện về việc biên giới.’
Thiên tử nói:
‘Khanh thống soái, lệnh y làm phó, được không?’
Tiết nói:
‘Vì nước làm việc, không đòi hỏi chức chánh phó, thần nguyện làm người phụ tá.’
Thiên tử chấp nhận.
Lúc đầu Ngô Sung[5] và An Thạch tránh luận lợi hại về việc đánh Giao Chỉ, An Thạch nói có thể lấy được; Ngô Sung bảo được cũng vô ích. Thiên tử đã dùng lời An Thạch; bãi Hiến, và sai Quì cùng Tiết. An Thạch vốn không thích Quì, khi có mệnh này cũng là nhờ Sung tiến cử thêm.
Thần Tông sử, Giao Chỉ truyện chép rằng: Vương An Thạch tiến Triệu Tiết làm chủ soái; Ngô Sung nhân việc Tiết tâu bãi Lý Hiến, bèn tiến Quách Quì là kẻ từng gây hại việc Hy Hà bị An Thạch trách, nên tiến Quì thay Tiết; An Thạch bèn từ chức, Sung làm Thừa tướng. Sau đó Quì chần chừ đóng quân lâu không tiến, Tiết muốn xuất sư sớm, Quì không nghe.”[6]
Nhắm ủy lạo Quách Quì trước khi xuất quân, nhà Vua cho ban yến tại điện Thùy Củng để tỏ sự ân sủng:
“Trường Biên, quyển 273, Ngày Canh Thân tháng 3 năm Hy Ninh thứ 9 [10/4/1076], Quách Quì được ban yến tại điện Thùy Củng; cho Trung quân cờ, kiếm, áo giáp, để tỏ lòng sủng ái.”[7]
Rồi Quì và Tiết lại tranh giành quyền lực; nên vua Tống Thần tông đành phải phân chia Phó tổng quản Triệu Tiết đặc trách chiêu phủ; riêng Tổng quản Quách Quì đặc trách đánh dẹp chiêu thảo:
“Trường Biên, quyển 277. Ngày Ất Sửu 12 tháng 9 năm Hy Ninh thứ 9 [12/10/1076]; lại ban chiếu cho các ty An nam Tuyên phủ, Chiêu thảo, Tổng quản:
“Cần tuyên bố đức trạch 4 lộ, an phủ quân dân thuộc ty Tuyên phủ; mưu kế sách lược thuộc ty Chiêu thảo kinh lược; hành doanh tướng hiệu quân mã, cùng văn tự thông điệp qua lại thuộc Tổng quản ty.”
Thiên tử nghe tin giữa Quách Quì và Triệu Tiết không hòa mục, nên có chiếu chỉ này. Thực Lục chép rằng: Vì chức phận không định rõ, hoặc có tương xâm, nên có chiếu chỉ này.”[8]
Tuy nhiên hai viên Chánh, Phó tổng quản vẫn không hợp tác với nhau; mọi việc Quách Quì chỉ bàn riêng với Yên Đạt, coi Đạt như nhân vật số 2; nên vua Thần Tông cảm thấy lo lắng:
“Trường Biên, quyển 278. Ngày Ất Tỵ tháng 10 [21/11/1076], Thiên tử phê:
“Chiến dịch An nam quan hệ không nhỏ; triều đình chọn tướng soái giỏi, giao cho nhiệm vụ nặng. Nghe rằng bàn luận giữa các tướng không hòa hợp; lệnh Quách Quì, Triệu Tiết nhận thức sự ký thác của triều đình, mỗi người tuân theo chức phận, phàm công việc thương nghị theo sở trường, không được khư khư thiên kiến, rồi đi đến chổ bị lừa, lỡ việc nước.”
Quì và Tiết vốn quen biết cũ, Tiết tự xin làm phụ tá Quì; lúc Quì đến, hai bên nghị luận phần nhiều không hợp. Bọn Hoạn quan Lý Thuấn Cử hận Tiết bãi Lý Hiến [Hoạn quan], nên xúi giục sự tranh chấp; Quì bèn chia Đô tổng quản ty, coi Yên Đạt như chức thứ hai; việc tiến dừng tiết chế, Tuyên phủ phó sứ Triệu Tiết không được tham gia. Tiết hàng ngày biểu đạt chân tình, mong Quì sửa đổi, nhưng vô ích; mấy lần tâu xin bãi chức, nhưng không được chấp nhận. Ngày 12 tháng 9 do chức phận bất định, hoặc có tương xâm, Vua đã giảng chiếu phân định.”[9]
Thành phần lực lượng
Về phạm vi cuộc hành quân; lúc đầu triều Tống có ý định dùng binh lấy lại 2 châu Khâm Liêm, nhưng quân nước ta đã tự ý rút lui; nên thay đổi ý định, cho mở cuộc hành quân lớn sang xâm lăng nước ta. Do đó quân số cũng thay đổi; trước kia ra lệnh chuẩn bị 2 vạn quân, 3 ngàn ngựa; lúc này đổi lệnh, từ kinh sư đến Ung châu các nơi chuẩn bị 10 vạn quân; từ kinh sư đến Quảng châu chuẩn bị 2 vạn quân:
“ Trường Biên, quyển 271.Ngày Giáp Dần tháng chạp năm Hy Ninh thứ 8, [4/2/1076]… Vua lại ban chiếu:
‘Từ kinh sư đến ty Chuyển vận Quảng Tây, đã ra lệnh các chỉ huy lần lượt chuẩn bị 2 vạn quân, 3 ngàn ngựa, 1 tháng lương thực và cỏ. Nay đổi lệnh từ kinh sư đến Ung châu [Quảng Tây], lần lượt các nơi chuẩn bị 10 vạn quân. Từ kinh sư đến Quảng Châu [Quảng Đông] chỉ chuẩn bị lần lượt 2 vạn quân 1 tháng lương. Hẹn tháng giêng năm sau đầy đủ, cho phép mượn kho Thường bình, tiền và ngũ cốc để ứng phó, rồi dần dần trả lại.”[10]
Theo Chuyển vận sứ Quảng Tây Lý Bình Nhất, số quân 10 vạn di chuyển theo hướng Quảng Tây, cần 40 vạn dân công; khiến Vua Thần Tông lo lắng số lượng dân công quá nhiều, sợ cung cấp không xuể, nên yêu cầu Quách Quì tính lại. Quì ước tính với số quân 10 vạn, cộng 1 vạn ngựa cho kỵ binh, cần 40 vạn dân công là phải. Tuy nhiên sẽ tìm cách giảm thiểu, bằng cách mua trâu bò giết thịt dần, tạm để những đồ vật nặng tại hậu cứ, vận chuyển lúc cần, nên chỉ sử dụng 20 vạn dân công:
“Trường Biên, quyển 274. Tống Thần Tông ngày Bính Tuất mồng một tháng 4 năm Hy Ninh thứ 9 [6/5/1076], Thiên tử phê rồi giao cho bọn Quách Quì:
‘Căn cứ lời tâu của Chuyển vận sứ Quảng Tây Lý Bình Nhất: ‘Tương lai đại quân tiến đánh, hợp dùng dân phu 40 vạn mang lương thực, điều động từ Lưỡng Hồ [Hồ Bắc, Hồ Nam] trở về nam, thi hành theo lệ phu dịch.’ Rõ ràng là quá lớn, kinh động nhân tình, truyền tin xa gần, trên đạt đến triều đình, thực là bất tiện. Các khanh hãy ước tính nhiều cách về vấn đề số lượng vận tải, lương thực lính, dân phu, rồi cấp tốc trình lên.’
Quách Quì tâu:
‘Tra khám kỹ lời tâu của Bình Nhất, ước tính quân lính 10 vạn người, ngựa 1 vạn con; kế toán cần 40 vạn dân phu mang lương ăn trong tháng và cỏ cho ngựa. Huống vào biên giới, dẹp sạch giặc Giao tại các sào huyệt, khó có thể chỉ huy lấy 1 tháng làm kỳ hạn, nếu ước tính lâu hơn, thì sợ số tiêu phí phải nhiều hơn. Nay tính toán tương lai vào biên giới, lương thực mang theo quân, khi đến những nơi sản xuất được mua trâu giết thịt để ăn thêm, nếu như lương thực quân không thiếu, đưa vào đồn điền sử dụng vào việc canh nông; như vậy sẽ giảm bớt gạo và số người khiêng. Ngoài ra để những đồ nặng nhẹ chưa cần dùng của các quân, tạm thời lưu lại; cân nhắc dùng cấm quân[11] kiêm hỏa đầu quân,[12] cũng không phương hại cho sự chiến đấu. Dùng lính chuyên vận, xe nhỏ, lừa đi lại vận tải; riêng kỵ binh thì không sử dụng ngựa bất lực. Cứ như vậy hoạch định, có thể từ số lượng Lý Bình Nhất ước tính giảm đi hơn một nửa; chỉ dùng 20 vạn người lo việc vận tải lo cho quân ăn và dùng. Chờ lúc đến nơi, có thể còn có cách tài giảm hơn, sẽ có lời tâu riêng.
Đây là lời văn lưu trữ trong nhà Quách Quì, chiếu ban ngày mồng 1 tháng 4, lời tâu vào tháng 11; nay đưa ra xem, thấy được cuộc hành quân trù hoạch cực kỳ tổn phí.”[13]
Tiện thể ở đây, xin lỗi các bác và Mod vì lạc đề, riêng phần vừa post đã nói rõ về quân số chiến đấu và dân phu mà nhà Tống huy động để chuẩn bị xâm lược nước ta. Đó là 700 năm trước khi nhà Thanh đem quân sang xâm lược theo lời cầu cứu của Lê Chiêu Thống cõng rắn cắn gà nhà. Ấy vậy mà do phong trào " phục Nguyễn" do 1 số " xử ra" cầm đầu cùng hậu duệ nhà Nguyễn kèm theo là 1 loạt bọn mất dạy bẻ sử đã cố tình cãi bay biến về con số 20 vạn quân Thanh nhằm hạ uy tín của Quang Trung Hoàng Đế và khốn nạn hơn là bôi nhọ tinh thàn chiến đấu của nhân dân ta.
Trên OF cũng như trên này có @atlas02 , một loại bẻ sử tẩy trắng vẫn leo lẻo phủ nhận chiến công năm Kỷ Dậu 1798 của quán và dân ta đánh tan quân Thanh xâm lược
Về số quân 12 vạn, đại bộ phận chủ lực và kỵ binh do Quách Quì đưa từ phương bắc xuống, quân này thuộc loại tinh nhuệ. Tại miền nam, các lộ Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến; ngoài số quân cơ hữu, còn được lệnh mộ thêm, cứ 500 người biên chế thành 1 chỉ huy; riêng lộ Quảng Tây, chấp nhận dùng lại quân bại trận tại 3 châu Ung, Khâm, Liêm:
“Trường Biên, quyển 273. Ngày Canh Thân tháng 3 [10/4/1076], chiếu triệu tập quân bại tan tại 3 châu Ung, Khâm, Liêm; đều được tha tội.
Thiên tử phê:
“Chiếu cho Quảng Đông, Giang Tây, Phúc Kiến mộ người để dùng. Lo kẻ gian trà trộn, lệnh Tướng quan tại Chiêu thảo chỉ huy gia tăng giác sát.[14]
Lại ban chiếu rằng trong lộ Quảng Đông có nhiều nhân tài trẻ khỏe bị đày; lệnh ty Kinh lược sai quan tuyển chọn đưa đến Quảng Châu, cứ 500 trăm người tổ chức thành 1 chỉ huy, đặt tên là Tân Trừng Hải, phương pháp y như Quảng Tây.”[15]
Số lượng dân công 20 vạn, nhà Vua chấp điều động theo phương sách của lộ Quảng Tây, cho lấy từ lực lượng Bảo giáp tại các thôn, làng; loại bảo đinh khỏe mạnh phải đi 2 phiên, loại phụ bảo đi 1 phiên:
“Trường Biên, quyển 273, Tống Thần Tông ngày mồng 1 Đinh Hợi tháng 2 năm Hy Ninh thứ 9 [8/3/1076], Quảng Nam Tây lộ Chuyển vận ty tâu:
“Đánh dẹp Giao Chỉ cần rất nhiều phu sai phái; trong 9 huyện tại Quế châu sổ hộ tịch định 8.500 bảo đinh; phụ bảo, cùng đơn đinh [nhà 1 con], khách hộ [ngụ cư] cộng 9 vạn 1 ngàn 200 có dư. Nay sai mỗi bảo đinh đi 2 phiên, số phụ bảo sai 1 phiên; mỗi người được cấp tiền gạo; cùng bản ty sẽ lấy người ra điều khiển, mong ban cho tiền công khao thưởng.”
Chấp nhận; đặc cách chi công sử tiền 500 ngàn.”[16]
Tuy bố trí như vậy, nhưng khi đại binh đã đến biên giới, số dân công vận chuyển vẫn chưa đủ; khiến các quan chỉ huy tại ty Chuyển vận Quảng Nam Tây Lộ đều bị trách phạt:
“Trường Biên, quyển 279. Tống Thần Tông ngày Quí Dậu tháng 11 năm Hy Ninh thứ 9 [19/12/1076], chiếu:
‘Chiến dịch An Nam về phu vận lương, ty Chuyển vận Quảng Tây dự trù tập hợp, chuẩn bị điều phát. Nay đại binh đã đến biên giới, dân phu tại 2 châu Quế, Nghi vẫn chưa đủ, mới đây lại tâu quan lại các châu tiếp tục chậm trễ; do ty Chuyển vận xử trí sai phương cách. Lệnh ty Tuyên phủ đàn hạch; Đô đại đề cử Triệu Tiết phân tích đầy đủ tâu lên.’
Ngày Ất Hợi tháng 7 năm sau, giáng xuống Đãi chế; ngày Mậu Dần tháng 8, Lý Bình Nhất, Thái Hoa, Chu Ốc đều bị trách”[17]
Ngoài ra triều đình Tống còn đặt kế hoạch dùng thủy quân đánh mặt biển; cùng liên lạc với các nước Chiêm Thành, Chân Lạp quấy phá tại phương nam nước ta:
“Trường Biên, quyển 271. Ngày Quí Sửu tháng chạp năm Hy Ninh thứ 8 [3/2/1076], chiếu ban:
‘Giao Chỉ cướp phá, triều đình đã bàn mang quân thủy lục đến đánh dẹp. Các nước Chiêm Thành, Chân Lạp đối với giặc đều có mối thù nợ máu. Nay ủy Hứa Ngạn Tiên, Lưu Sơ cùng chiêu mộ dăm ba người buôn biển do ty kinh lược ủy nhiệm thuyết dụ Quân trưởng các nước này sắp đặt kế hoạch, đợi quân lính nhà vua xuất chinh, hợp lực cùng đánh dẹp; ngày bình định sẽ ban thêm tưởng thưởng.”[18]
Viên Tây kinh tả tàng khố phó sứ Dương Tòng Tiên được giao chức Chiến trạo đô giám An nam đạo hành doanh, chỉ huy thủy quân, đánh kẹp từ cửa biển; cùng liên lạc với Chiêm Thành, Chân Lạp quấy phá nước ta tại phương nam:
“Trường Biên, quyển 273 ngày Quí Vị tháng 3 năm Hy Ninh thứ 9 [3/5/1076], cho Tây kinh tả tàng khố phó sứ Dương Tòng Tiên làm Chiến trạo đô giám An nam đạo hành doanh. Trước đó Tòng Tiên tâu ra quân đường biển thuận tiện, muốn vượt đại dương xâm nhập góc tây nam, đi vòng sau lưng giặc, đánh vào chỗ không hư; nhân mang quân hội với Chiêm Thành, Chân Lạp cùng ra sức đánh. Thiên tử cho là đúng, bèn ban cho chức này, mệnh mộ binh thi hành. Điều này căn cứ Quách Quì nhận chiếu, tu soạn thêm.”[19]