Lương thảo vận chuyển
Với số quân 10 vạn, ngựa chiến 1 vạn, dân công 20 vạn; cần số lượng lớn lương thực, cỏ, công cụ cho cuộc hành quân dài ngày, đó là điều quan trọng hàng đầu; nên Vua Tống giao cho viên Phó tổng quản Triệu Tiết đặc trách ty Chiêu thảo:
“Trường Biên, quyển 273, ngày Đinh Vị tháng 2 năm Hy Ninh thứ 9 [28/3/1076], chiếu ban An nam tuyên phủ ty phó sứ Triệu Tiết làm Đô đại đề cử kế trí lương thảo.”[20]
Ty Chiêu thảo ước tính nếu số quân 8 vạn, hành quân trong 8 tháng, phải cần đến 8.000 vạn cân lương khô; như vậy với quân số nhiều hơn, nhu cầu ắt phải lớn hơn:
“Trường Biên, quyển 272. Ngày Quí Vị, tháng giêng năm Hy Ninh thứ 9 [4/3/1076], ty Chiêu thảo An nam tâu phát binh 8 vạn, đáng chuẩn bị 8 tháng lương khô 8.000 vạn cân; chiếu ban cho ty Chuyển vận cùng cân nhắc, như có thể bảo lưu, y số tập trung tại huyện Toàn Châu, Quế Lâm.”[21]
Đến gần nữa năm sau còn phải xin mua thêm 36 vạn thạch lương, mỗi thạch tương đường 150 cân, tức 4320 vạn cân; như vậy số lượng cần mua thêm khoảng một nửa:
“Trường Biên, quyển 277, Ngày Quí Hợi, tháng 7 [11/8/1076], ty chuyển vận Quảng Nam Tây Lộ tâu:
“Xin chiếu chuẩn cấp hơn 46 vạn quan tiền để mua 36 vạn thạch lương, hơn 4 vạn 4 ngàn 800 thạch đậu, hơn 36 vạn bó cỏ; cùng trâu, dê, heo, rượu; theo sự yêu cầu của Tuyên phủ ty.”
Chiếu gửi cho Lý Bình Nhất cùng Chu Ốc, Thái Hoa; ghi đầy đủ thực số rồi tâu lên.”[22]
Ngoài nhu dụng gạo, cỏ; ty chiêu thảo còn xin mang mấy chục vạn công cụ thiết tật lê, tức chông sắt, để làm chướng ngại vật và hàng rào phòng thủ:
“Trường Biên quyển 273. Ngày Ất Vị tháng 2 năm Hy Ninh thứ 9 [16/3/1076], Ty Chiêu thảo An Nam tâu 9 quân[23] dùng 32 vạn 4 ngàn thiết tật lê,[24] vì đất [An Nam] nhiều núi non nên giảm một nữa. Chấp nhận lời xin của ty Tuyên phủ.”[25]
Với số lượng tiêu dùng lớn, chiến dịch cần đến 6.000 lượng vàng cùng 50 vạn quan tiền để thu mua:
“Trường Biên, quyển 274. Ngày Canh Dần tháng 4 năm Hy Ninh thứ 9 [10/5/1076], ty Đô đề cử thị dịch tâu:
‘Chi 6.000 lượng vàng tiêu dùng cho chiến dịch An nam; lại chi tiền mua đồ vật hàng hóa 50 vạn quan, dùng tiền mua lúa cho công trình thủy lợi, nhưng chưa giao hoàn, nay khuyết nên xin chi tiền mậu dịch muối 50 vạn quan.’
Chấp thuận.”[26]
Lại lo số lượng lương thảo mang đi chưa đủ, nên triều đình căn dặn ty chuyển vận mang theo nhiều tiền, dọc đường mua thêm theo giá cao:
“Trường Biên, quyển 274. Ngày Quí Tỵ tháng 4 năm Hy Ninh thứ 9 [13/5/1076], chiếu ban cho ty chiêu thảo An nam, Tuyên phủ sứ ty Kinh Hồ Quảng Nam, lệnh ty chuyển vận theo quân mang nhiều tiền, qua các châu, động theo chính sách bác dịch[27] mua giá cao lương thực.”[28]
Kế hoạch vận chuyển trong nước, chủ yếu dùng đường thủy, sử dụng 1.000 thuyền đáy bằng; xuất phát từ Hồ Nam và Quảng Đông, tập trung tại hạ lưu sông Minh Giang, trại Thái Bình hoặc Vĩnh Bình gần biên giới. Tuyến Hồ Nam, thuyền ngược dòng sông Tương, vượt Linh Cừ, qua Quế Giang, rồi ngược dòng sông Uất qua Nam Ninh, ngược sông Tả Giang đến sông Minh Giang. Nếu xuất phát từ Quảng Đông, thuyền ngược dòng Bắc Giang, rồi qua sông Uất, ngược Tả Giang đến Minh Giang:
“ Trường Biên, quyển 274, ngày Bính Ngọ tháng 4 năm Hy Ninh thứ 9 [26/5/1076]], Chuyển vận sứ Quảng Nam Tây Lộ Lý Bình Nhất tâu:
“Điệp thần ty tuyên phủ An nam đi theo quân lương, dùng 1.000 chiếc thuyền bằng đáy từ Hồ Nam, Quảng Đông, mướn thủy thủ vận tải tiền và lương thực. Cùng sai mang quân trước khống chế các trại Thái Bình [Sùng Tả thị, Quảng Tây], Vĩnh Bình [Bằng Tường thị Quảng Tây]; điều cần thiết là không gây sự lầm lỡ.”
Chấp nhận; việc phát binh lệnh ty kinh lược cùng đắn đo thi hành.”[29]
Về đường bộ, ngoài dân công, còn tăng cường thêm 1.000 cỗ xe 2 bánh mượn từ phủ Khai Phong tại kinh sư, để tiện việc chuyên chở:
“Trường Biên, quyển 274, ngày Kỷ Sửu tháng 4 [9/5/1076], Quảng Nam Tây Lộ chuyển vận ty tâu:
“Xin xuống chiếu cho lộ Kinh Tây Nam mượn một, hai ngàn cỗ xe hai bánh Giang Châu để chuẩn bị chở lương.”
Chiếu ban ty chuyển vận lộ Kinh Tây, ty Đề điểm phủ Khai Phong cung cấp 1.000 cỗ xe đưa đi.”[30]
Những khó khăn khác
Trong thời gian tiến hành việc chuẩn bị, tuy quân Đại Việt đã rút ra khỏi nước, nhưng tại Tả Giang và Hữu Giang vẫn còn một số châu, động không chịu theo nhà Tống, tình hình Quảng Đông và Quảng Tây vẫn chưa thực sự yên ổn, có nhiều do thám:
“Trường Biên quyển 274. Ngày Đinh Dậu tháng 4 năm Hy Ninh thứ 9 [17/5/1076], chiếu ban:
‘Nghe tin Giao Chỉ sử dụng nhiều kẻ gian trinh sát tại Nhị Quảng [Quảng Đông, Quảng Tây], lệnh tướng quan thuộc Tuyên phủ ty không để kẻ lạ quan sát chỗ huấn luyện duyệt binh; phòng ngừa kẻ địch tiến thoái dòm ngó.”[31]
Lại có tin gián điệp Đại Việt cải trang thành nhà sư đi dò la, nên triều đình ra lệnh tạm đình chỉ cấp bằng độ điệp cho sư đi khất thực tại Quảng Tây và Quảng Đông:
“Trường Biên quyển 277. Ngày Nhâm Tý tháng 8 [29/9/1076], lại ban chiếu: hiện tại tăng đạo Quảng Nam lộ tạm đình xét bằng đi ra ngoài; nguyên do Chuyển vận ty Quảng Đông tâu:
“Nghe tin Giao Chỉ mới đây chiếm các châu Khâm, Liêm; bắt tăng đạo hơn 100 người, đoạt bằng [độ điệp][32] rồi giết; lệnh gián điệp giả làm tăng đạo để trinh sát.”[33]
Do thời tiết mùa hạ, số quân và dân công vượt qua Ngũ Lãnh bị bệnh, chết nhiều, gây nên khó khăn trở ngại lớn:
“Trường Biên quyển 277, ngày Mậu Tý tháng 8 năm Hy Ninh thứ 9 [5/9/1076], Thiên tử phê:
“Nghe quân hành doanh An nam quá lãnh [biên giới phía bắc Quảng Đông, Quảng Tây], đông người bị bệnh tật, lệnh Tuyên phủ ty tuyên cáo các quân chớ ăn đồ ăn sống, nghiêm cấm uống rượu.”[34]
Tuy cật lực chuẩn bị cả năm, nhưng đến ngày đại quân đến biên giới nước Đại Việt, số lượng cỏ và lương thực vẫn chưa đủ, nên triều đình dọa lúc quân về phải nạp gấp đôi; chứng tỏ việc chuẩn bị còn có nhiều khuyết điểm:
“Trường Biên, quyển 278, Ngày Ất Vị tháng 10 [11/11/1076], các lộ bi sai phái nạp tiền, gao, cỏ, cho chiến dịch An nam còn; nếu đợi đến lúc quân về, sẽ bị nạp gấp đôi.”[35]
Chú thích:
[1] Lộ bố: bản tuyên bố thường dùng trong khi đánh dẹp.
[2] Thanh miêu trợ dịch: do Vương An Thạch đề ra, được Vua Tống Thần Tông chấp nhận; chủ trương cải cách, nhưng khi thực hành có nhiều tệ trạng xảy ra, nên bị nhiều người phản đối.
[3] 詔曰:「眷惟安南,世受王爵,撫納之後,實自先朝,函容厥愆,以至今日。而乃攻犯城邑,殺傷吏民,干國之紀,刑茲無赦,致天之討,師則有名。已差趙卨充安南道行營馬步軍都總管、經略招討使、兼廣南西路安撫使,李憲充副使,燕達充馬步軍副都總管,須興師水陸兼進。天示助順,既兆布新之祥;人知侮亡,咸懷敵愾之氣。然王師所至,弗迓克奔,咨爾庶士,久淪塗炭。如能諭王內附,率眾自歸,執俘獻功,拔身效順,爵祿賞賜,當倍常科,舊惡宿負,一皆原滌。乾德幼稚,政非己出,造廷之日,待遇如初。朕言不渝,眾聽毋惑。比聞編戶,極困誅求,已戒使人,具宣恩旨。暴征橫賦,到即蠲除。冀我一方,永為樂土。」王安石之辭也。 時交趾所破城邑,即為露布揭之衢路,言所部之民亡叛入中國者,官吏容受庇匿,我遣使訴於桂管,不報,又遣使泛海訴於廣州,亦不報,故我帥兵追捕亡叛者。又言桂管點閱峒丁,明言欲見討伐。又言中國作青苗、助役之法,窮困生民。我今出兵欲相拯濟。安石怒,故自草此詔。,士眾奮擊,應時授首」,蓋誤也。今削去此段。或交人露布不一,守節敗後復有之,但不應在敕榜先耳。王安石親作敕榜,當時因露布言及苗、役故也。…
[4] Lý Hiến: Hoạn quan, khởi đầu được cử làm chức phó cho Triệu Tiết, chuẩn bị đánh An Nam.
[5] Ngô Sung: quan Đại thần từng giữ chức Thừa tướng, chống lại cải cách của Vương An Thạch.
[6] 先是,趙卨上言:「朝廷置招討使副,其於軍事並須共議,至於節制號令,即乞歸一。」於是李憲銜之,已而語卨,令邊事止奏稟御前指揮,更不經中書、樞密院。卨對以朝廷興舉大事,若不經二府,恐類墨敕,於事未便。憲又言:「將來若至軍中,御前有指揮,事當何如?」卨曰:「事若未便,軍中不聞天子詔,當從便宜爾。」二人由是交惡,屢紛辨於上前。王安石白上:「中人監軍,唐叔世弊事,不可踵。」上因問卨:「若憲不行,誰可代憲?」卨言:「逵老邊事。」上曰:「卿統帥,令副之,奈何!」卨曰:「為國集事,安問正副,臣願為裨贊。」上諾之。
始,吴充與安石爭伐交趾利害,安石言必可取。充謂得之無益。上竟用安石言,罷憲而遣逵及卨。安石雅不喜逵,及有是命,亦充所薦也。神宗史交趾傳云:王安石薦趙卨為主帥,吴充因卨之奏罷李憲也,以郭逵嘗害熙河事,為安石所黜,故薦逵代卨。安石乃去位,充果相。逵逗留駐兵不進,卨欲早出師,逵不從。
[7] 是日,郭逵侍宴垂拱殿,賜中軍旗物劍甲以寵之。三月五日侍宴,據會要,餘並據墓誌。
[8] 乙丑,占城願以兵助討交賊,詔坐使人所乞,令學士院別降敕書【三】。
又詔安南宣撫、招討、總管司:「應四路宣布德澤、安撫軍民等事屬宣撫司,謀猷機策等事屬經略、招討司,行營將校軍馬等事屬都總管司,往來文字並相關牒。」上聞郭逵與趙卨不相能,故有是詔。實錄云:「以職分不定或有相侵,故有是詔。」按所稱「職分不定,或有相侵」,即郭逵與趙卨不相能也,今正言之。
[9] 上批:「安南之役,所繫不輕,朝廷精擇將帥,委寄殊重。如聞議論不務協和,令郭逵、趙卨體認朝寄,各遵職守,凡事從長商議,毋得互持偏見,更致譸張,有誤國事。」逵與卨雅故,卨初自請佐逵,及逵至,處議多駮。宦者李舜舉等憤卨沮罷李憲,因交鬥其間,逵遂分都總管司,與燕達自為長貳,進止節制,宣撫副使不與知,卨日輸情欵,冀逵開釋,然無益也。累奏乞罷,不許。九月十二日緣職分不定,或有相侵,已降詔分定,今復有此指揮,不知逵分都總管司,不令卨與,在十二日詔前或後。又御集載此指揮云,只劄下安南道經略、招討司,亦不審聖意所謂,更須考詳別修。
[10] 又詔:「自京至廣西轉運司,已指揮逐程各準備兵二萬、馬三千、一月芻糧。可更令自京至邕州,逐程各準備兵十萬。其自京至廣州,止準備兵二萬,逐程一月糧。並限來年正月齊足,許借常平錢穀應副,以漸撥還。」
[11] Cấm quân: quân dùng bảo vệ Vua, hoặc các cấp chỉ huy.
[12] Hỏa đầu quân: quân đảm nhiệm nấu ăn, ẩm thực.
[13] 夏四月丙戌朔,上批付郭逵等:「近據廣西轉運使李平一奏:『將來大軍進討,合用般糧人夫四十餘萬【一】,乞自湖已南,一例差科前去。』顯是張皇,驚動人情,傳聞遠近,上達朝廷,深為不便。卿等可多方計度,的確合運致兵食人力數目,疾速以聞。」逵言:「契勘平一所奏,約兵十萬人,馬一萬匹,月日口食、馬草料,計度般運腳夫四十餘萬。況入界討蕩交賊巢穴,難以指準一月為期,若更寬剩計度,又恐費用轉多。今計度將來入界隨軍糧草,除人馬量力自負,及於出產處買水牛〈馬犬〉米,其牛便充軍食,如軍食不闕,即充屯田耕稼使用。可減省米及腳乘,並將九軍輕重不急之物權留。量差禁軍相兼充火頭等,亦不妨戰鬥,可那廂兵或用小車、騾子往來〈馬犬〉載,及將不得力馬更不帶行。如此擘畫,可於平一所奏合用般糧人夫內減一半外,只以二十萬人節次般運,供軍食用,及候本司到彼,更有可以裁減處,別具奏聞。」此據郭逵家所有征南一宗文字,四月初一日詔下,十一月奏報,今附見,要知行軍極費經畫也。
[14] Giác sát: quan sát và phát giác.
[15] 詔招集欽、廉、邕三州敗散軍人,皆釋其罪。
上批:「詔廣東、江西、福建募人效用,慮姦細在其間,令招討司指揮將官常加覺察。」
又詔廣東路州軍雜犯配軍,其間甚有少壯人材,令經略司差官揀選赴廣州,每五百人團為一指揮,以新澄海為名,如廣西之法。
[16] 二月丁亥朔,廣南西路轉運司言:「討伐交趾,差夫極眾,桂州九縣籍定保丁止八千五百,附保及單丁客戶共九萬一千二百有畸。今欲每差保丁兩番,即於附保人內差夫一番,各量給錢米,及本司所勾抽官員差使,欲望以官錢犒設。」從之,仍特支公使錢五百千。
[17] 詔:「安南運糧夫,廣西轉運司合豫點集,準備調發,今大兵已入界,桂、宜等州夫尚未足,方奏稱逐州官吏弛慢,乃是轉運司處置乖方,令宣撫使司劾之。其都大提舉趙卨令具析以聞。」明年七月乙亥,敍落待制,八月戊寅,李平一、蔡燁、周沃皆坐責。
[18] 詔:「交趾為寇,朝廷已議水陸攻討,占城、占臘,於賊素有血讎。委許彥先、劉初同募海商三五人,作經略司委曲說諭彼君長,豫為計置,候王師前進,協力攻討,平定之日,厚加爵賞。」
[19] 癸未,西京左藏庫副使楊從先為安南道行營戰棹都監。先是,從先言從海道出兵為便,欲冒大洋深入西南隅,繞出賊後,擣其空虛,因以兵邀會占城、真臘之眾,同力攻討。上是其言,遂授此職,令募兵以往。此據郭逵所受詔劄增修。
[20] 丁未,詔安南宣撫司副使趙卨都大提舉計置糧草。
[21] 癸未,安南招討司【一三】言,發兵八萬,當備十月乾糧八千萬斤。詔轉運司相度,如所造作可存留,即依數辦集於桂、全州。
[22] 廣南西路轉運司言:「準詔給錢四十六萬餘緡付本司,已市糧三十六萬石,粟豆四萬四千八百餘石,草三十六萬餘束,并牛、羊、豬、酒,應副宣撫司須索。」詔送李平一與周沃、蔡燁同具給用實數以聞。
[23] Chín quân tức cửu quân, chỉ quân đội; do xưa Thiên tử có 6 quân, chư hầu có 3 quân, cộng là 9 quân, hay cửu quân.
[24] Thiết tật lê: chông sắt, trông giống như gai cây tật lê.
[25] 乙未,詔安南招討司陳述利害之人並隨中軍,仍毋得過十人。
安南招討司言,行營九軍合用鐵蒺藜三十二萬四千,以山險減半,從宣撫司請也。
[26] 都提舉市易司言:「支金六千兩應副安南,及支物貨五十萬緡與淤田水利司作糴本,皆無撥還指揮,今上界闕錢本,乞支末鹽鈔五十萬緡貿易為本。」從之。
[27] Bác dịch: chính sách bác dịch của nhà Tống, mùa giáp hạt bán lương thực cho dân, mua các hàng cần thiết như tơ lụa vải cất vào kho; mùa thu hoạch bán các hàng tơ, lụa vải để mua lúa gạo; nhắm mục đích điều hòa thị trường.
[28] 詔安南道招討司、荊湖廣南宣撫使司,令隨軍轉運司官多齎金帛隨軍,遇有降附州峒,即優價博糴糧草。
[29] 廣南西路轉運使李平一言:「安南宣撫司牒臣隨行餉軍,乞下湖南、廣東發平底船千隻,雇水手運載錢穀,及乞先發兵控扼太平、永平寨,所貴運糧無虞。」從之,其發兵令經略司相度施行。
[30] 廣南西路轉運司言:「乞下京西南路借江州車一二千兩,以備運糧。」詔京西路轉運司【四】、開封府界提點司共括千兩以往。
[31] 詔:「聞交賊多遣姦人偵事於二廣,令宣撫司指揮將官,所至審察教閱,無聽人縱觀,免窺覘擊敵進退之法。」
[32] Bằng độ điệp: giấy chứng nhận nhà sư xuất gia.
[33] 又詔見在廣南路僧道權停判憑出外。以廣東轉運司言「聞交阯昨陷欽、廉等州,執僧道百餘人,奪其公憑而殺之,令間牒詐為僧道以偵事」故也。
[34] 又批:「聞安南兵過嶺多疾病,其令宣撫司曉告毋食生冷,嚴立酒禁。」
[35] 又詔:「諸路應差赴安南人欠負錢斛草料,候回日作兩料輸納。」
Trong lúc Đô tổng quản Quách Quì mang đại quân trên đường di chuyển xuống phương nam, Vua Tống sai Phó tổng quản Triệu Tiết chỉ huy đạo quân tiên phong làm cuộc hành quân mở đường tại vùng đất Trung Quốc giáp giới nước Đại Việt. Cuộc hành quân này rất cần thiết, vì đại quân chọn Vĩnh Bình [Bằng Tường] làm hậu cứ, thuyền chở lương thảo tích trử tại nơi này, nên cần phải giữ an ninh. Hơn nữa lúc quân ta sang đánh Trung Quốc, trưng bản Lộ Bố đã kích chính sách bảo giáp, trợ dịch, bóc lột kềm kẹp dân; nên được dân chúng khe động tại Tả Giang, Hữu Giang hưởng ứng; bởi vậy lúc quân ta rút lui, dân chúng tại vùng này cũng chưa chịu ngã theo Trung Quốc. Để đối phó lại, Vua Tống chủ trương một mặt đưa lợi lộc ra nhử, một mặt cho cầm đao đánh giết:
“ Trường Biên quyển 273. Ngày Tân Sửu tháng 2 năm Hy Ninh thứ 9 [22/3/1076], Triệu Tiết vào triều đình từ biệt, Thiên tử căn dặn:
‘Phép dùng dân khe động trước hết đem cho chúng thực lợi, sau đó mới sai khiến; không có thể dùng lời nói ngọt suông để sai khiến. Như việc kiểm điểm giáo huấn quân phiên tại Phu Diên[1] khanh đã chế ngự được, tội nhẹ có thể tha cho, tội nặng phải giết; sai trái đối với kẻ địch Tây Hạ mối họa còn xa, nhưng sai trái trong quân ta thì mối họa đến ngay; đúng như binh pháp dạy sợ nội bộ ta, không sợ kẻ địch; nếu không có thực lợi, muốn đòi hỏi chúng đem hết sức, thực là khó.
Nay khanh tuyển mộ lính địa phương 1,2 ngàn tên tinh nhuệ khỏe mạnh, chọn một viên tướng kiêu hùng, hiếp những dân đinh trong các động, rằng khi đại binh đến, theo ta thì được thưởng, không theo ta thì giết; nếu quả không theo thì giết 2, 3 họ làm gương. Binh uy đã lập, trước hết hiếp Hữu Giang [Quảng Tây], rồi hiếp Tả Giang [Quảng Tây]; sau khi bọn chúng qui thuận, thì đánh sào huyệt Lưu Kỷ [tại Quảng Nguyên, Cao Bằng] không mấy khó khăn. Quách Quì tính keo kiệt, khanh nên bảo rằng triều đình không tiếc phí tổn; ngoài ra Quì quá nghiêm trang, không cảm thông với kẻ dưới, tướng tá không dám trình bày, khanh đến đó chuyện trò với họ, ngoài ra đừng khinh địch.”[2]
Khởi sự dùng chiến thuật Dương đông kích tây, lúc Quách Quì đến Đàm Châu [tỉnh Hồ Nam] bèn ra lệnh cho viên Tri Khâm châu mang quân đánh châu Vĩnh An. Châu này vị trí tại biên giới, một phần thuộc thị xã Móng Cái tỉnh Quảng Ninh ngày nay; phần khác như Bạch Long Vĩ, Hoàng Trúc, Giang Bình; chiếu theo hòa ước Pháp Thanh, nay thuộc Đông Hưng, Trung Quốc. Theo Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Chu Khứ Phi đời Tống, vị trí châu này sát với động Như Tích, Khâm Châu; đây là một châu nhỏ, thuận tiện giao thông, nên quân Tống mở đầu đánh chiếm không mấy khó khăn:
“Trường Biên, quyển 277. Ngày Quí Hợi, tháng 7 năm Hy Ninh thứ 9 [11/8/1076]. Trước đó quân Quách Quì đến Đàm Châu [Hồ Nam], ra lệnh Tri Khâm châu Nhiệm Khởi mang quân đánh châu Vĩnh An biên giới giặc. Ngày này [11/8/1076] Khởi đánh chiếm châu Vĩnh An.”[3]
Tuy là chiến thắng nhỏ, nhưng với dụng ý thúc đẩy tinh thần đạo quân chủ lực phía tây trên đường bước vào lãnh thổ nước ta, vua Tống ra lệnh quảng cáo một cách rầm rộ. Cũng vào thời gian này, trước áp lực của quân Tống, một số châu động tại vùng Tả, Hữu Giang, qui thuận:
“Trường Biên, quyển 277. Ngày Bính Tý tháng 9 năm Hy Ninh thứ 9, [23/10/1076], chiếu ban:
“Binh mã đánh An Nam chẳng bao lâu ra khỏi biên giới, cần biểu dương sĩ khí. Mới đây Nhiệm Khởi đánh giặc tại trại Ngọc Sơn, công tuy không lớn nhưng là cuộc phấn kích đầu tiên, những người có công hãy tâu lên để được đề cao và thưởng, lại bố cáo cho các tướng sĩ đều biết.”
Mộ Chí Quách Quì chép, khi quân đến Đàm Châu, sai Tri Khâm Châu Nhiệm Khởi đánh châu Vĩnh An lấy được. Liệt Truyện cũng chép, đốc suất binh quận và 3 đạo động đinh đánh châu Vĩnh An lấy được. Các dộng Tả, Hữu Giang qui thuận; thủ lãnh Môn Châu Hoàng Kim Mãn, Sầm Khánh Tân, trại Ngọc Sơn tại châu Vĩnh An xin hàng; sự việc vào ngày 9 tháng 7 [11/8/1076]; những việc khác cần khảo thêm.”[4]
Với tham vọng đưa nước ta vào vòng nô lệ, nên Quách Quì được lệnh nơi nào chiếm được cho đặt quận huyện ngay, giống như nội địa Trung Quốc:
“Trường Biên, quyển 273. Ngày Giáp Dần tháng 2 năm Hy Ninh thứ 9 [4/4/1076], chiếu ban bọn Quách Quì, một khi bình định Giao Châu, y như nội địa đặt quận huyện.”[5]
Lại dùng chiến tranh tâm lý để mong chiêu dụ được nhiều người, nên ra lệnh bắt được tù binh chưa vội giết, cho sử dụng làm hướng đạo:
“Trường Biên, quyển 273, ngày Đinh Tỵ tháng 3 năm Hy Ninh thứ 9 [7/4/1076], chiếu Quảng Nam Tây Lộ bắt được bọn giặc Giao, chưa được giết, cho ty chiêu thảo cân nhắc dùng làm hướng đạo.”[6]