....
Vào thời Hy Ninh [1068-1077]; triều đình sai Thẩm Khởi, Lưu Di kế tục làm Tri Quế châu nhắm mưu đồ đánh Giao Chỉ; bọn Khởi, Di cho đóng chiến thuyền, đoàn kết dân đinh trong động thành tổ chức bảo giáp, cấp cho trận đồ, y theo như vậy mà dạy chiến thuật, các động bị tao nhiễu. Người dân địa phương cầm trận đồ, bàn về chiến thuật tấn công, phòng ngự đối với Giao Chỉ nhiều không biết bao nhiêu mà kể. Bấy giờ Tiến sĩ đất Lãnh Nam Từ Bá Tường bất mãn vì thi không đậu, bèn bí mật gửi thư cho Giao Chỉ rằng:
‘Đại vương đời trước gốc tích vốn là người Phúc Kiến,[27] nghe rằng các Công, Khanh Giao Chỉ hiện nay phần lớn là người Phúc Kiến. Bá Tường tài cán không dưới người, nhưng không dùng tại Trung Quốc, nguyện được làm tay dưới phụ tá cho Quốc vương. Nay Trung Quốc muốn cử đại binh diệt Giao Chỉ; binh pháp cho rằng tiếng nói trước có thể đoạt lòng người; chi bằng hãy mang quân vào đánh trước, Bá Tường xin làm nội ứng.’
Do vậy, Giao Chỉ phát đại binh vào cướp phá; đánh chiếm 3 châu Ung, Khâm, Liêm; nhưng Bá Tường chưa có cơ hội theo. Nhân Thạch Giám quen thân với Bá Tường, tâu rằng Bá Tường lập được chiến công, cho giữ chức Thị cấm, làm Tuần kiểm các châu Khâm, Liêm, Bạch. Khi triều đình mệnh Tuyên huy sứ Quách Quì mang quân đánh Giao Chỉ, Giao Chỉ xin hàng nói rằng:
‘Tôi vốn không có ý vào đánh, người Trung Quốc hô hào tôi vào.’
Rồi đưa thư của Bá Tường cho Quì, Quì truyền hịch cho ty Chuyển vận Quảng Tây hạch hỏi. Nhân đó Bá Tường chạy trốn, rồi tự tử. Điều này do Tư mã Quang văn ghi, vào ngày Tân vị tháng 2 năm Nguyên Phong thứ nhất [11/4/1078], sự việc Bá Tường bị bại lộ.”[28]
Tổng quản Quách Quì cân nhắc kỹ, biết rằng không làm được gì hơn, bèn chấp nhận lời đề nghị giải binh, ra lệnh rút quân. Về phía ta, tuy nhất thời nhà Vua tuyên bố nhường các đất Tô, Mậu, Tư Lang, Môn Lạng, Quảng Nguyên; nhưng trải qua mấy năm kế tiếp liên tục đấu tranh cả hai mặt quân sự và ngoại giao,[29] đã lấy lại được số đất này:
“Trường Biên, quyển 279, ngày Quí Mão tháng chạp năm Hy Ninh thứ 9 [18/1/1077]. Càn Đức [Vua Lý Nhân Tông] sợ, dâng biểu đến cửa quân xin hàng, nạp đất năm châu Tô, Mậu, Tư Lang, Môn Lạng, Quảng Nguyên, và hứa trả những người bị bắt.
Lúc đó Quách Quì bàn điều động đại binh vượt sông, các tướng nói:
“ Chín quân[30] lương thực hết. Phàm quân lúc đi 10 vạn, phu 20 vạn; vượt nắng nóng lam chướng, chết quá nữa, số còn lại đều bệnh tật.”
Quì nói:
“Ta không thể lật đổ sào huyệt giặc, bắt Càn Đức để báo đáp triều đình, do trời vậy. Nguyện lấy một thân, để cứu sống chục vạn sinh mệnh.”
Bèn mang quân về, đưa tờ biểu Càn Đức hàng tâu lên, hẹn với người Giao chờ chiếu chỉ. Những lời trên căn cứ liệt truyện Khúc Trân, Yên Đạt, Triệu Tiết, Quách Quì; cùng bài minh trên mộ bia Quì, Tiết, Đạt. Mộ bia Quì ghi: “Giặc dùng kế phục kích tại Giáp Khẩu, không thi hành được, rồi đặt chiến hạm mấy trăm tại bờ sông Phú Lương. Thủy Cáo nói: “Hòa Bân, Dương Tòng Tiên đã đến.” Trong quân đều vui mừng. Lúc đến, thì người Giao mấy vạn quát tháo coi thường quan quân, tiền quân bất lợi.” Xét, mộ bia gọi là Thủy Cáo, không biết là ai; lời nói không rõ nghĩa, nên không lấy. Bài minh của Quì do Phạm Tổ Vũ làm; minh của Tiết, do Phạm Bách Lộc làm, Quì minh, Tăng Bố làm.”[31]
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư nước ta, tuy chép sự việc một cách vắn tắt, nhưng cũng tổng kết được cuộc xâm lăng của nhà Tống như sau:
“Bính Thìn, Lý Nhân Tông, Thái Ninh năm thứ 5 [1076]. Mùa xuân, tháng 3, nhà Tống sai tuyên phủ sứ Quảng Nam [Quảng Nam Tây Lộ] là Quách Quỳ làm Chiêu Thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, đem quân 9 tướng, hợp với Chiêm Thành và Chân Lạp sang xâm lấn nước ta. Vua sai Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh, đến sông Như Nguyệt đánh tan được. Quân Tống chết hơn 1 nghìn người. Quách Quỳ lui quân, lại lấy châu Quảng Nguyên của ta.”
Chú thích:
[1] Phu Diên: vùng đất thuộc Diên An tỉnh Thiểm Tây ngày nay; dưới thời Bắc Tống là vùng tranh chấp với Tây Hạ.
[2] 趙卨入辭,上諭卨:「用峒丁之法,先須得實利,然後可以使人,不可以甘言虛辭責其效命。如鄜延點教蕃兵,若非卿有以制之,使輕罪可決,重罪可誅,違西夏則其禍遠,違帥臣則其禍速,合於兵法畏我不畏敵之義。苟無實利,則欲責其效命也難矣。今卿可選募精勁土人一二千,擇梟將領之,以脅峒丁,諭以大兵將至,從我者賞,不從者殺。若果不從,即誅三兩族。兵威既立,先脅右江,然後脅左江。此等既歸順,則攻劉紀巢穴不難也。郭逵性吝嗇,卿宜諭以朝廷不惜費,兼逵好作崖岸,不通下情,將佐莫敢言,卿至彼為言之,毋得輕敵。」
[3] 先是,郭逵次潭州,遣知欽州任起領兵襲賊界永安州玉山寨。是日,起攻拔永安州。此據郭逵征南文字七月二十一日奏。
[4] 詔:「安南兵馬非久出界,宜有以鼓作士氣。昨任起等攻賊界玉山寨,功雖不大,然首能奮擊,其得功人可倍推賞訖奏,仍布告將士使聞知。」郭逵墓誌云:師次潭州,遣知欽州任起攻永安州,拔之。傳又云:率郡兵、峒丁三道進討永安州,拔之,左、右江悉效順,門州首領黃金滿、岑慶賓降永安州玉山寨。即七月九日事,其餘當考。
[5] 詔郭逵等交州平日,依內地列置州縣。
[6] 丁巳,詔廣南西路捕獲交賊生口,並未得殺,聽招討司相度,以為鄉導。
[7] 己未,詔郭逵等:「訪聞邕、欽二州溪峒及外界山獠,以所居之地寶產至厚,素所擅有,深慮一旦交賊蕩滅,朝廷列其土為郡縣,美利悉歸公上。以勢異患同之故,及交相黨與,或陰持兩端,或未決效順。須前詔外得一詳悉敕牓,赦其罪惡,與其所利,誘之以爵賞,迫之以誅戮,如此則賊勢必分,大功亟立。未知所言如何,卿等宜審議,條可否,疾速以聞。」逵等言:「看詳朝廷前降敕牓,竊慮邊人不曉,文告之辭須至畫一,直說事理,所貴人人易曉。」乃條上八事,請散牓州縣溪峒。從之。於是賊將黃金滿、岑慶賓皆來潛輸誠欵。此據郭逵征南文字所受七月五日御寶劄子并逵墓志,然墓誌云黃金滿、岑慶賓來降。彼黃金滿等未嘗來降,但潛通降欵耳。今略加刪改.
[8] 乙酉,詔:「安南軍興,文字與常日不同,委逐路轉運使、開封府界提點司,當行驛路地分闊遠,選差得替待闕使臣一兩員分巡轄催趣,仍賜自崇明門至邕州當軍行驛路馬遞急脚鋪兵士特支錢。」
[9] 丁酉,上批:「安南行營至邕州四將下諸軍,九月上旬死病近四五千人。此乃將、副全不約束,恣令飲食北人所忌之物,以致生疾,可火急嚴誡勵,仍切責醫用藥治之。」逵本傳云,逵十月次邕州。按逵征南文字,逵在潭州,凡朝廷發下詔劄,不過十日到軍前,桂州至邕州凡十四程,其他亦可遙度,此十月十四日詔云行營四將至邕州,則逵次邕州,或不在十月,當在九月未耳。或四將乃前軍耳,中軍未也。須更考詳。月末次思明州,并合參照此。
[10] 廣南西路轉運副使苗時中言:「邕州行司言運糧夫不足,見親督丁夫應副軍須,其州縣官吏弛慢,乞先戒厲。」
詔:「大軍頓峒日久,止緣丁夫不足元數,致稽軍事。其州縣當職官,令廣西轉運司案比元拋數不及七分處,州官追一官,縣官追兩官,無官可追即停其俸。各且令在任縣官枷項監督,並劾罪以聞。」
[11] Phạm Tổ Vũ: Sử gia nỗi tiếng thời Tống.
[12] 始,趙卨與郭逵言:「交賊怵於李尚吉、李繼元之謀,故叛。乾德及其母,今皆怨此兩人,而以國聽阮洙,洙每有懷服之意,劉紀據廣源州,申景福據甲峒,皆擁強兵顧望。橫山寨監押成卓故與洙、景福相好,欲使卓齎敕牓入賊招納。」逵不從,大軍駐思明州,先遣燕達【九】將兵由太平寨入廣源州,紀拒戰,達破之。紀初欲降而猶豫未決,逵移檄諭諸洞,聲言紀數以狀自陳,決背交賊歸我,約以三日出降,果如期而至。逵收眾五千餘人,又得省民被略者三千人。范祖禹墓誌云:「逵次思明州。逵以謂廣源州咽吭之地,兵甲精銳,不先取之,則有腹背之患。偽觀察使劉紀為賊謀主,不禽紀則軍聲不振,遣燕達往,一戰克之,拔其城,紀出降。」
[13] Quang Lang: theo Đồng Khánh Địa Dư Chí, Tràng Khánh, Lạng Sơn, đời Lý gọi là châu Ôn.
[14] Cổ Nông: theo Đồng Khánh Địa Dư Chí, Cổ Nông thuộc huyện Quảng Uyên, phía bắc tỉnh Cao Bằng.
[15] 癸巳,安南招討司言廣源古農八細峒頭首儂士忠、盧豹等乞降。詔內有嘗歸明反覆之人【一一】,令招討司選使臣押赴闕。
是日,郭逵等舉兵出界,賊屯決里隘,逵遣張世矩攻之。賊以象拒戰,逵使強弩射之,以巨刀斬象鼻,象卻走,自踐其軍,大兵乘之,賊潰去,乘勝拔機榔縣,別將曲珍又攻拔門州,溪峒悉降。
[16] Phú Lương: Sử Trung Quốc chép nhầm, sử nước ta chép sông Như Nguyệt, tức sông Cầu.
[17] Ba đường: ý chỉ đại quân từ Bằng Tường vào Lạng Sơn, đường thủy từ Khâm Châu, và một đường do Triệu Tiết đề nghị từ châu Quảng Nguyên.
[18] 是日,郭逵等次富良江。此據會要。初,逵遣燕達先破廣源,復還永平,與大兵會。趙卨以為廣源間道距交州十二驛,趣利掩擊,出其不意,川途並進,三路致討,勢必分潰。逵不從。廣源既降,達議還赴逵約,時下連、古弄洞敗兵猶萬餘眾。達恐去則彼必來襲,乃留曲珍將輕騎三千,揚言由二洞入交州,縱二蠻俘使歸。賊果自守不敢動。賊始設伏於夾口隘以待我師,逵知之,乃由間道兜頂嶺以進,遂抵富良江
[19] 乙未,詔:「安南道行營戰棹都監楊從先所總兵甲,既不過海洋,宜令悉取招討司處分.
[20] 上批手詔:「前安南戰棹都監楊從先等,頃以孤軍,冒犯不測,深入賊境,大小數十戰,雖無甚斬獲,然官軍亦不致傷敗。今師還繫獄,殆將逾年,原其勞於王事,實可矜愍,況昨已經郊赦,宜並釋之。其一行有功將士等,仍第賞以聞。」尋令從先赴闕。舊紀全載此詔。
[21] 西京左藏庫副使、前安南道行營戰棹都監楊從先【一四】言:「昨在交阯東涇港口,久不聞大兵消息聲勢,遂差效用樊實、黃宗慶等往占城、交阯兩界刺事,及諭占城毋援交阯,恐交阯賊遁逃,令以兵把截。今據實等狀稱:『占城遣蕃兵七千扼交賊要路,得其國主蕃書回牒,見在潭州制院。』乞取索看詳優奨之,所貴以風勸外夷。實、宗慶並與三司軍將。」詔湖南轉運判官、都官員外郎趙楊繳進蕃書牒本,其樊實、黃宗慶仍發遣赴闕。
[22] Trình Di: là thủy tổ Tống Nho, nên nơi học chữ Nho xưa gọi là “cửa Khổng sân Trình”.
[23] 深至賊巢,以栰度五百人過江,且斫且焚,破其竹寨幾重不能得。復棹其空栰,續以救兵,反為賊兵會合禽殺,吾眾無救,或死或逃,遂不成功,所爭者二十五里耳。欲再往,又無舟可度,無糧可戍,此謬算未之有也。猶得賊辭差順、遂得有詞具承當了,若使其言猶未順,如何處之?
[24] 未至交州三十里,賊艤戰艦四百餘艘於江南岸,我師不能濟,欲戰弗得
[25] Trương Tướng quân: theo Toàn Thư, Trương Tướng quân tức anh em nhà họ Trương; Trương Khiếu, Trương Hát; hai người là 2 tướng giỏi của Triệu Quang Phục, được dân lập đền thờ gần sông Cầu.
[26] 達請示弱以誘賊,賊果輕我師,數萬觽鮜噪逆戰,前軍不利,逵率親兵當之。達等繼進,賊少卻,叱騎將張世矩、王螻合鬥,諸伏盡發,賊大敗,蹙入江水者不可勝數,水為之三日不流。殺其大將洪真太子,禽左郎將阮根
[27] Việc họ Lý gốc người Phúc Kiến, không thấy ghi trong chánh sử Trung Quốc và Việt Nam.
[28] 詔以廣西進士徐伯祥為右侍禁、欽廉白州巡檢。先是,交賊自邕州驅略老小數千人,將道廣州歸。伯祥募得數十人,輒追躡其後,而所斬獲亦數十級,於是所略去老小因得乘間脫免者至七百餘人。經略司以聞,故有是命。熙寧中,朝廷遣沈起、劉彞相繼知桂州以圖交趾。起、彞作戰船,團結峒丁以為保甲,給陣圖,使依此教戰,諸峒騷然。土人執交趾圖言攻取之策者,不可勝數。嶺南進士徐伯祥屢舉不中第,陰遺交趾書曰:「大王先世本閩人,聞今交趾公卿貴人多閩人也。伯祥才略不在人後,而不用於中國,願得佐大王下風。今中國欲大舉以滅交趾,兵法先聲有奪人之心【一二】,不若先舉兵入寇,伯祥請為內應。」於是,交趾大發兵入寇,陷欽、廉、邕三州。伯祥未得間往歸之。會石鑑與伯祥有親,奏稱伯祥有戰功,除侍禁,充欽、廉、白州巡檢【一三】。朝廷命宣徽使郭逵討交趾,交趾請降曰:「我本不入寇,中國人呼我耳。
。」因以伯祥書與逵,逵檄廣西轉運司按鞫。伯祥逃去,自經死。此據司馬記聞。元豐元年二月辛未,伯祥事敗。
[30] Chín quân tức cửu quân, chỉ quân đội; do xưa Thiên tử có 6 quân, chư hầu có 3 quân, cộng là 9 quân, hay cửu quân.
[31] 未至交州三十里,賊艤戰艦四百餘艘於江南岸,我師不能濟,欲戰弗得。達請示弱以誘賊,賊果輕我師,數萬眾鮜譟逆戰,前軍不利,逵率親兵當之。達等繼進,賊少卻,叱騎將張世矩、王蝼合鬥,諸伏盡發,賊大敗,蹙入江水者不可勝數,水為之三日不流。殺其大將洪真太子,禽左郎將阮根。乾德懼,奉表詣軍門乞降,納蘇、茂、思琅、門諒、廣源五州之地,仍歸所掠子女。於是逵與諸將議帥大兵濟江,諸將曰:「九軍食盡矣。凡兵之在行者十萬,夫二十餘萬,冒暑涉瘴,死亡過半,存者皆病瘁。」逵曰:「吾不能覆賊巢,俘乾德以報朝廷,天也。願以一身活十餘萬人命。」乃班師,以乾德降表聞,約交人聽旨。此據曲珍、燕達、趙卨、郭逵傳及逵、卨、達墓銘刪修。逵墓銘云:「賊以夾口之計不及施,亟以戰艦數百艘先趨富良壁岸下。紿告曰:『和斌、楊從先且至。』軍中皆喜。既至,則交人數萬鮜譟薄官軍,前軍不利。」按墓銘所稱紿告,不知謂誰,其語殊不了了,今不取。逵銘,范祖禹作;卨銘,范百祿作;逵銘,曾布作。
Giờ ta bàn thêm chút về đường lối đối nội, đối ngoại, văn hóa và xã hội thời Lý Nhân Tông chút.
Ngược chút thời gian khi Tống Cảo, Sứ thần Trung Quốc từng viếng thăm Vua Lê Đại Hành tại Trường Châu [Ninh Bình] vào năm 990, lúc trở về nước phục trình lên Vua Tống Thái Tông, có đoạn ghi như sau:
Hoàn tính tàn nhẫn, thân cận với tiểu nhân, năm bảy tâm phúc hoạn quan chầu chực xung quanh; thích uống rượu, ra lệnh bằng tay. Phàm quan lại giỏi việc, cất nhắc ngay làm thân cận, bị lỗi nhỏ cũng giết, hoặc đánh vào lưng từ 100 đến 200 [trượng]. Bọn phụ tá không vừa lòng cũng đánh đòn từ 30 đến 50, hoặc giáng xuống cấp thấp; hết giận lại khai phục chức vị. Có cái tháp bằng gỗ, chế tạo thô lậu; một hôm Hoàn mời lên trên đó để ngắm cảnh. Đất không lạnh, tháng 11 vẫn mặc áo kép, dùng quạt.’ ”[1] Tống Sử, quyển 488, Giao Chỉ.
Lẽ dĩ nhiên ở địa vị Tống Cảo, y phải tìm lời nói xấu Vua ta; tuy nhiên trong lời dè bỉu, cũng đưa ra được một vài sự thực; đó là buổi sơ khai mới lập quốc, chưa có qui chế hẳn hoi, nên Vua Lê Đại Hành cai trị một cách tùy tiện, coi việc nước như việc nhà. Nay hãy tìm hiểu thêm, khoảng thời gian 80 năm sau, đến đời Vua Lý Nhân Tông, đất nước có được những tiến bộ gì?
Về phương diện giáo dục, trước đó chưa có thi cử, việc giáo dục do nhà chùa đảm trách; dần dần Nho học có ảnh hưởng mạnh, năm 1076, lập Quốc tử giám, chọn quan lại biết chữ cho vào học; cất nhắc người tốt có khả năng cho giữ chức tại các ban văn, võ. Năm 1077, cho sát hạch lại các viên thư lại các môn chữ viết, tính toán và hình luật:
“Năm Anh Vũ Chiêu Thắng thứ 1[1076]. Xuống chiếu cầu lời nói thẳng. Cất nhắc những người hiền lương có tài văn võ cho quản quân dân. Chọn quan viên văn chức, người nào biết chữ cho vào Quốc tử giám.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 3.
“Năm Anh Vũ Chiêu Thắng thứ 2 [1077], Tháng 2, thi các lại viên bằng phép viết chữ, phép tính và hình luật.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 3.
Về giáo dục cấp cao, năm 1075 mở khoa thi đầu tiên, tuyển Minh kinh bác học và thi Nho học tam trường, Lê Văn Thịnh ( ông cũng được nhắc tới trong topic của bác @coco cũng trong box Văn hóa này) đậu đầu; năm 1086 mở khoa thi chọn người có văn học sung vào Hàn lâm viện Mạc Hiển Tích trúng tuyển; cả hai vị đều được cử đi sứ:
“Năm Thái Ninh thứ 4 [1075]. Mùa xuân, tháng 2, xuống chiếu tuyển Minh kinh bác học và thi Nho học tam trường. Lê Văn Thịnh trúng tuyển, cho vào hầu vua học.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 3.
“Năm Quảng Hựu thứ 2 [1086]. Mùa thu, tháng 8, thi người có văn học trong nước, sung làm quan ở Hàn lâm viện, Mạc Hiển Tích trúng tuyển, bổ làm Hàn lâm học sĩ.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 3.
Đến gần cuối đời [1023], nhân vua đi xem gặt lúa về, các bậc trí thức về Nho, Đạo, Phật đều dâng thơ chúc mừng; đây là hiện tượng 3 nền văn hóa cùng chung một dòng [tam giáo đồng lưu 三教合流] lần đầu tiên xuất hiện tại nước ta:
“Tháng 11 năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 4 [1123], vua đến kinh sư. Các nhà Nho, Đạo, Thích đều dâng thơ mừng.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 3.
Xét về phương diện tổ chức chính quyền, năm 1087, lập văn phòng Bí thư tại trung ương; năm 1089 định các quan chức văn, võ, quan hầu cận vvv…:
“ Năm Quảng Hựu thứ 3 [1087]. Mùa xuân, tháng 3, dựng bí thư các.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 3.
“Năm Quảng Hựu thứ 5 [1089]. Mùa xuân, tháng 3, định các chức văn võ, quan hầu vua và các chức tạp lưu.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 3.
Về võ bị, tuy chưa từng tuyên bố, nhưng xem việc làm của các triều đại tại nước ta suốt 1.000 năm tự chủ; thủy chung cố gắng thực hiện hai nhiệm vụ chính, để mong thoát khỏi gọng kìm Trung Quốc: Thứ nhất, dùng binh lực chặn đứng quân xâm lược phương Bắc ra khỏi bờ cõi. Thứ hai, liên tục mang gươm đi mở nước; vì đất nước càng lớn mạnh, càng vơi bớt sức ép của lân bang khổng lồ.
Bàn về vua Lý Nhân Tông trị vì trên 50 năm, là vị Vua cầm quyền lâu nhất trong lịch sử dân tộc; qua những lần phạt Tống Chiêm, ắt phải hiểu nguồn nhân lực rất quan trọng, nên rất lưu ý đến lực lượng trai tráng. Năm 1083, cho kiểm tra dân số, xét duyệt dân đinh từ 18 tuổi trở lên; năm 1118, chọn hoàng nam và binh lính:
“Năm Anh Vũ Chiêu Thắng thứ 8 [1083]. Mùa xuân, vua thân duyệt các hoàng nam,[2] định làm ba bậc.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 3.
“Năm Hội Tường Đại Khánh thứ 9 [1118]. Mùa xuân, tháng Giêng, xuống chiếu chọn hoàng nam trong dân chúng và binh lính.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 3.
Coi việc xăm mình là biểu tượng sức mạnh của quân nhân; nên quân cấm vệ được khắc 3 chữ “Thiên tử quân” tại trán, hoặc xăm hình rồng trên người; kẻ nào tự tiện lạm dụng xăm mình đều bị tội:
“Năm Hội Tường Đại Khánh thứ 9 [1118], Cấm nô bộc của các nhà dân trong ngoài kinh thành không được thích mực vào ngực, vào chân như cấm quân cùng là xăm hình rồng ở mình, ai phạm thì sung làm quan nô.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 3.
Năm 1104 định quân hiệu Cấm vệ; năm 1119 duyệt 6 quân, đặt ra các đội quân tinh nhuệ như Ngọc Giai, Hưng Thánh, Bổng Nhật, Quảng Thành, Vũ Đô:
“ Tháng 3 năm Long Phù thứ 4 [1104], định lại binh hiệu của quân cấm vệ.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 3.
“Mùa đông, tháng 10 Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 10 [1119], duyệt sáu binh tào Vũ Tiệp, Vũ Lâm v.v…, người nào mạnh khỏe cho làm hỏa đầu ở các đội quân Ngọc Giai, Hưng Thánh, Bổng Nhật, Quảng Thành, Vũ Đô, còn bậc dưới thì cho làm binh ở các quân Ngọc Giai, Hưng Thánh, Bổng Nhật, Quảng Thành, Vũ Đô, Ngự Long.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 3.
Việc đánh dẹp Chiêm Thành tại phía nam, thể hiện luật nhân quả, nằm trong chuỗi dài lịch sử “ưu thắng liệt bại”.[3] Thời Tiền Tống Thái Tông Văn Hoàng đế [433], nước ta được gọi là Giao Châu, dưới ách đô hộ của Trung Quốc. Bấy giờ nước Lâm Ấp, tên cũ của Chiêm Thành hùng mạnh, mấy lần mang quân xâm lăng, rồi sai người sang nhà Tống đòi xin cai trị nước ta, triều Tống phải lựa lời đáp rằng vì đường xa nên không chấp thuận:
“Thái Tông Văn Hoàng Đế, năm Nguyên Gia thứ 10 [433]
Ngày Kỷ Hợi tháng 5 [4/6/433], Vương Lâm Ấp Phạm Dương Mại sai sứ đến cống, xin lãnh đất Giao Châu; chiếu đáp do đường xa không cho.”[4] Tư Trị Thông Giám,[5] quyển 122.