Em có thắc mắc mà chưa biết cách search ra được câu trả lời trên mạng. Không biết thời KCCM thì việc truyền tin diễn ra như thế nào? Phía US có nắm được nội dung liên lạc của bên ta không? Ta có hack được thông tin nào của US không?
VD, bác Phạm Xuân Ẩn nghe ngóng được tin tức của địch, chắc sẽ dùng máy chữ để gõ thành tài liệu; rồi tài liệu được giấu rất kín được đưa ra ngoài SG qua các đầu mối giao liên? Ở chiến khu, chắc họ sẽ không thể cứ gửi tài liệu giấy rất mất thời gian được mà sẽ dùng máy gì đó để truyền ra Bắc - em đoán là radio? Nếu vậy thì phía ta dùng mã hóa gì? Bên địch đã từng crack được lần nào chưa? Bên ta có đơn vị nghe ngóng và phá mã của địch không, họ có những chiến công gì?
Thời WW2, vì mã của cả Đức và Nhật đều bị giải thành công nên góp phần không nhỏ vào thất bại của phe trục. Cái này tài liệu nhiều & dễ kiếm, tuy nhiên em lại chưa mò ra những thứ tương tự trong KCCM. Nhờ các cụ khai sáng giúp.
Em có thắc mắc mà chưa biết cách search ra được câu trả lời trên mạng. Không biết thời KCCM thì việc truyền tin diễn ra như thế nào? Phía US có nắm được nội dung liên lạc của bên ta không? Ta có hack được thông tin nào của US không?
VD, bác Phạm Xuân Ẩn nghe ngóng được tin tức của địch, chắc sẽ dùng máy chữ để gõ thành tài liệu; rồi tài liệu được giấu rất kín được đưa ra ngoài SG qua các đầu mối giao liên? Ở chiến khu, chắc họ sẽ không thể cứ gửi tài liệu giấy rất mất thời gian được mà sẽ dùng máy gì đó để truyền ra Bắc - em đoán là radio? Nếu vậy thì phía ta dùng mã hóa gì? Bên địch đã từng crack được lần nào chưa? Bên ta có đơn vị nghe ngóng và phá mã của địch không, họ có những chiến công gì?
Thời WW2, vì mã của cả Đức và Nhật đều bị giải thành công nên góp phần không nhỏ vào thất bại của phe trục. Cái này tài liệu nhiều & dễ kiếm, tuy nhiên em lại chưa mò ra những thứ tương tự trong KCCM. Nhờ các cụ khai sáng giúp.
Thời KCCM thiết bị của mình ko hiện đại bằng của Mỹ cho nên ít dùng sóng radio trao đổi trực tiếp.
Việc thu thập thông tin và chuyển về chiến khu đa phần bằng hệ thống giao liên, còn từ chiến khu ra Bắc thì giai đoạn đầu từ 56-60 thì là dùng bộ thu phát radio qua nhiều tầng. Không nhất thiết phải phát ra Bắc mà có thể hướng Nam hoặc Cam. Ở những nơi mà ta có trạm thu và chuyển trực tiếp về Bắc nhanh và an toàn hơn (ví dụ qua hệ thống truyền tin của sứ quán ...). Sau khi mở đường 559 thì ta bắt đầu có giao liên hữu tuyến, việc truyền thông tin ra Bắc được nhanh và an toàn. Ngoài ra,với sự phong phú của tiếng Việt, các chiến sĩ của ta còn sử dụng các từ lóng trên các trang tin nhắn trên báo. Với qui cách về từ lóng và qui cách đăng bài được định trước, trong trường hợp khẩn cẩn có thể nhắn trực tiếp trên các báo bán công khai.
Việc truyền tin từ Bắc vào Nam thì tương tự và ngược lại, trên các sóng phát vào Nam thì các qui cách mật mã và từ lóng được sử dụng đan xen, đồng thời thông qua giao liên mà có thay đổi cập nhật về bộ mật mã và qui cách này, để tránh lặp đi lặp lại nhiều dễ bị giải mã. Ngoài ra, việc nhắn tin qua sóng phát thanh của VOV cũng được sử dụng như 1 dạng nhắn tin trên báo.
Quân Mỹ - ngụy cũng thu được các tín hiệu cũng như giải mã được các tín hiệu của ta. Thông qua đấy chúng cũng phá được nhiều các đơn vị tình báo của ta chứ không phải không có. Trong chiến tranh , mọi sơ sẩy đều phải trả giá bằng hy sinh. Tuy nhiên, các tuyến tình báo chiến lược của chúng ta đều được bảo vệ kỹ càng (nếu phát hiện được thì với hệ thống tuyên truyền của Mỹ-ngụy đã làm rùm beng lâu rồi).
Còn về hack với crack sóng thì có thể lấy ví dụ trận Buôn Ma Thuật, lúc đấy Mỹ theo dõi rất kỹ sư đoàn 320 của ta. Các tác chiến sư đoàn đều có hệ thống chỉ huy vô tuyến để đảm bảo chỉ huy chiến trường sát với thực tế, do vậy, Mỹ cũng rất chịu khó hack sóng của ta để nghe, thậm chí chửi nhau giữa 2 phe trên sóng vô tuyến đều có cả. Quân Mỹ xác định nếu sư 320 mà tập kết ở đâu thì sẽ đánh lớn ở đấy. Nhưng tự dưng chúng mất dấu sư 320 khi toàn bộ các sóng vô tuyến của của sư 320 đều biến mất, đấy là điều quân Mỹ do dự cho việc đánh lớn ở Kontum hay BMT. Tiếp theo, ta lấy sư 968 và sư 10 đánh nghi binh dữ dội ở Kon tum pleiku. Nhưng thực chất mỗi sư chỉ có 1 trung đoàn , nhưng giữ lại nguyên toàn bộ hệ thống liên lạc vô tuyến của cả sư đoàn. Trên toàn bộ hệ thống vẫn hoạt động bình thường hết công suất, lệnh cho trung đoàn này tiểu đoàn kia đánh chỗ này lấn chỗ kia như bình thường. Do vậy, bộ chỉ huy quân Mỹ -ngụy mới xác định là ta đánh Pleiku và rút lực lượng từ BMT về phòng thủ Pleiky và Kontum. Nhờ đấy ta có thể dễ dàng giải phóng BMT.
Đồng thời ta cũng có giải mã các sóng vô tuyến của của Mỹ. Việc này nó hơi đi sâu xa về nhiều thứ hiện vẫn đang làm, cho nên sẽ ko trình bày ở đây.
Câu hỏi của cụ hỏi chung chung vì có nhiều hệ thống, nhiều tuyến khác nhau.
Về hệ thống thông tin liên lạc trong quân đội thời kỳ KCCM và nhiều năm ở chiên trường KPC
Có nguyên một Binh chủng Thông tin liên lạc, biên chế tổ chức đến trung đoàn thông tin liên lạc ở cấp quân đoàn, quân khu
Hình thức tổ chức thì vẫn truyền thống bao gồm hữu tuyến; vô tuyến; quân bưu...
Cơ bản thì liên lạc hữu tuyến theo đường dây điện thoại quân sự, tuyên cô định, tuyến rải ngay trong mỗi chiến dịch, có tổng đài nhân công, máy thoại bàn quân sự, các loại tổng đài đường dài, chiên thuật.
Liên lạc thông tin vô tuyến:
+ cấp chiến dịch dùng máy 15W, khoảng cách vài ba trăm km đến toan cõi Đông dương, bản tin có mã hóa và gõ morse. Máy 15W trang bị đến cấp trung đoàn, sư đoàn. Máy này có 1 tổ vận hành, gồm báo vụ gõ ma nip, mật mã viên chuyên khóa/giải mã, tổ cơ công chuyên quay (tay hay đạp chân) máy phát điện cấp nguồn cho máy thông tin 15W...
+ máy cấp chiên thuật 5W, cự ly thường 5-8km, và dùng antena chuyên dung có thể lên đến 15-30km. Liên lạc theo các tần số quy ước trước, dùng bảng mật mã quy định, có thay đổi thường xuyên bảng mã hóa. Máy 5w trang bị đến cấp tiểu đoàn, trung đoàn, tổ máy này 2 người, 1 máy chính, 1 máy phụ đeo pin dự phòng, tổ hợp nghe/nói dự phòng. Các máy 5W này gồm K71/P105D của TQ/LX hay máy PRC25 Mỹ.
Máy 5W thường thoại theo bảng mã hóa, đôi khi trực tiếp luôn, thi dụ ở chiên trường KPC (1979-1989) hay dùng bảng mật mã gọi là bảng mã "Chu Văn Mùi", dùng để dịch xuôi và ngược. Thông thường sau mã hóa sẽ là đọc nhóm số: 244 345 521 (trong đó 244 nghĩa là dừng nghỉ trưa, ăn trưa) hoặc có lẫn cả địa danh vào dãy số mã quy ước: An Châu Thái nguyên (chỉ cái dây hay cần antenna), nhiều khi đọc luôn là "đâu phộng đường" nghĩa là đang bị lạc đường.
+ Hình thức liên lạc cổ điển: giao liên đưa văn thư, chạy chân, xe; quân bưu chuyển giao thư thừ công văn riêng, hay dùng bưu điện dân sự nhưng có số hòm thư mã hóa cho từng đơn vị cụ thể. Thí dự như: một dơn vị quân khu 7 đóng ở Siem riep KPC, hòm thư là 7A2977 Tây Ninh, trong nước vẫn theo bưu điện VN đến Tây Ninh, còn thư sang KPC theo đường quân bưu.
Còn một hình thức nữa là "truyền đạt", chạy bộ nói miệng, từ chỉ huy (tiều đoàn) xuống cấp dưới (đại đội).
Binh chủng thông tin liên lạc có các trung tâm thông tin thu phát tín hiệu dạng thu/phát sóng viba, như đài thu phát với các antena cực lớn, cố định, nằm trên núi ở Vũng tàu, Đà nẵng, Phú lâm là chiến lợi phẩm thu của Mỹ/Ngụy sau 1975, cho phép tải sóng thoại, fax, bản tin mã hóa khoảnh cách lớn. Nhưng giờ quá cổ lỗ chắc bỏ lâu rồi.
Chủ đề thú vị, em lót lá chuối hóng các cao nhân.
“ Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.”
E nghĩ rằng ở mỗi cấp , mỗi mạng lưới lại có mật mã , mã hóa riêng của mình Cụ ạ . Thậm chí cả 1 mạng giao liên khép kín thủ công . VD ngày xưa đã có chuyện phản gián như '' Hươu và Rùa '' với mật khẩu '' nhỉ đay = nhẩy đi '' đó Cụ . 😀 😆
Giao liên cho hoạt động tình báo đa phần là đơn tuyến, thậm chí còn dùng hộp thư chết. Người gửi ko biết người nhận, người nhận ko biết người gửi
@bich_lieu84 Đúng đó Cụ . Sự thành công của tình báo viên chính là sự bảo mật tuyệt đối .
Hay quá, càng đọc em lại càng mọc ra nhiều câu hỏi. Em cho rằng đây là dấu hiệu của việc bắt đầu vỡ ra được 1 chút 😆
giai đoạn đầu từ 56-60 thì là dùng bộ thu phát radio qua nhiều tầng. Không nhất thiết phải phát ra Bắc mà có thể hướng Nam hoặc Cam. Ở những nơi mà ta có trạm thu và chuyển trực tiếp về Bắc nhanh và an toàn hơn (ví dụ qua hệ thống truyền tin của sứ quán ...).
Qua nhiều tầng có phải là qua nhiều trạm, nhảy cóc từng bước không cụ? Hệ thống truyền tin sứ quán thì dùng cái gì ạ?
Sau khi mở đường 559 thì ta bắt đầu có giao liên hữu tuyến, việc truyền thông tin ra Bắc được nhanh và an toàn.
Theo em hiểu thì đường dây hữu tuyến này về cơ bản là 1 cái đường dây điện (thoại) cực dài... Như vậy thì nếu địch thả biệt kích mò trúng được cái cáp này, nối trộm ở chỗ nào kín kín là lộ tất tần tật. Cử người đi soi đủ hàng ngàn km dây hàng ngày để phát hiện chỗ nối trộm thì cũng khó...
lúc đấy Mỹ theo dõi rất kỹ sư đoàn 320 của ta. Các tác chiến sư đoàn đều có hệ thống chỉ huy vô tuyến để đảm bảo chỉ huy chiến trường sát với thực tế, do vậy, Mỹ cũng rất chịu khó hack sóng của ta để nghe, thậm chí chửi nhau giữa 2 phe trên sóng vô tuyến đều có cả.
Có nghĩa là bên nọ nhảy vào tần của bên kia rồi @*(ÙI@R đấy hả cụ?? Cái này lần đầu em biết đến, hài quá 🤣 Cơ mà việc ta biết M theo dõi sư 320 chứng tỏ chiến thuật này của địch cũng bị nắm tẩy rồi, từ đó ta mới đưa ra được phương án dương đông kích tây đó, đúng không ạ?
bản tin có mã hóa và gõ morse. Máy 15W trang bị đến cấp trung đoàn, sư đoàn. Máy này có 1 tổ vận hành, gồm báo vụ gõ ma nip,
Em search thử ma-nip toàn ra chỉnh sửa ảnh thôi cụ ạ! Em đoán ma-nip là cái bàn phím của máy mã hóa đúng không cụ? Với cả thắc mắc quan trọng nhất của em là bên ta dùng mã hóa gì để gửi thông tin quan trọng trong KCCM ạ? Theo kiến thức lớt phớt của em thì những loại mã ngành IT hiện nay kiểu private-public key đều là phát kiến sau năm 75, mà thời xưa có lẽ VN mình chưa đủ trình độ làm 1 máy/mã riêng nên chắc là dùng mã của LX/TQ? Nếu dùng mã của M thì nó giải trong phút mốt. Vậy cái mã LX nó tên là gì vậy cụ?
chiên trường KPC (1979-1989) hay dùng bảng mật mã gọi là bảng mã "Chu Văn Mùi", dùng để dịch xuôi và ngược. Thông thường sau mã hóa sẽ là đọc nhóm số: 244 345 521
Không biết bảng mã Chu Văn Mùi này chính là do AHLLVTND nghĩ ra, hay được làm sau này vào những năm 7x nhưng lấy tên của ông ấy ạ? Trong trường hợp đầu tiên thì chắc là đơn sơ quá, địch nó mất 1 ngày là crack được hết. Đấy cũng là lí do ở trên em đoán là cấp chiến dịch thì không dùng mã nội CVM được. Với cả em cũng không hiểu sau phần mã hóa thì còn đọc số không mã làm gì nữa, thế chẳng phải cung cấp đầu mối để hack cho địch ư?
VD ngày xưa đã có chuyện phản gián như '' Hươu và Rùa '' với mật khẩu '' nhỉ đay = nhẩy đi '' đó Cụ .
Cụ kể câu chuyện ấy giúp em thông não với 😋
Giao liên cho hoạt động tình báo đa phần là đơn tuyến, thậm chí còn dùng hộp thư chết. Người gửi ko biết người nhận, người nhận ko biết người gửi
Trong VD hộp thư chết thì ai là người quy định/thông báo về địa chỉ các hộp thư & quy cách check/lấy thư cho người nhận & người gửi hả cụ?
Em có thắc mắc mà chưa biết cách search ra được câu trả lời trên mạng. Không biết thời KCCM thì việc truyền tin diễn ra như thế nào? Phía US có nắm được nội dung liên lạc của bên ta không? Ta có hack được thông tin nào của US không?
VD, bác Phạm Xuân Ẩn nghe ngóng được tin tức của địch, chắc sẽ dùng máy chữ để gõ thành tài liệu; rồi tài liệu được giấu rất kín được đưa ra ngoài SG qua các đầu mối giao liên? Ở chiến khu, chắc họ sẽ không thể cứ gửi tài liệu giấy rất mất thời gian được mà sẽ dùng máy gì đó để truyền ra Bắc - em đoán là radio? Nếu vậy thì phía ta dùng mã hóa gì? Bên địch đã từng crack được lần nào chưa? Bên ta có đơn vị nghe ngóng và phá mã của địch không, họ có những chiến công gì?
Thời WW2, vì mã của cả Đức và Nhật đều bị giải thành công nên góp phần không nhỏ vào thất bại của phe trục. Cái này tài liệu nhiều & dễ kiếm, tuy nhiên em lại chưa mò ra những thứ tương tự trong KCCM. Nhờ các cụ khai sáng giúp.
Thời KCCM thiết bị của mình ko hiện đại bằng của Mỹ cho nên ít dùng sóng radio trao đổi trực tiếp.
Việc thu thập thông tin và chuyển về chiến khu đa phần bằng hệ thống giao liên, còn từ chiến khu ra Bắc thì giai đoạn đầu từ 56-60 thì là dùng bộ thu phát radio qua nhiều tầng. Không nhất thiết phải phát ra Bắc mà có thể hướng Nam hoặc Cam. Ở những nơi mà ta có trạm thu và chuyển trực tiếp về Bắc nhanh và an toàn hơn (ví dụ qua hệ thống truyền tin của sứ quán ...). Sau khi mở đường 559 thì ta bắt đầu có giao liên hữu tuyến, việc truyền thông tin ra Bắc được nhanh và an toàn. Ngoài ra,với sự phong phú của tiếng Việt, các chiến sĩ của ta còn sử dụng các từ lóng trên các trang tin nhắn trên báo. Với qui cách về từ lóng và qui cách đăng bài được định trước, trong trường hợp khẩn cẩn có thể nhắn trực tiếp trên các báo bán công khai.
Việc truyền tin từ Bắc vào Nam thì tương tự và ngược lại, trên các sóng phát vào Nam thì các qui cách mật mã và từ lóng được sử dụng đan xen, đồng thời thông qua giao liên mà có thay đổi cập nhật về bộ mật mã và qui cách này, để tránh lặp đi lặp lại nhiều dễ bị giải mã. Ngoài ra, việc nhắn tin qua sóng phát thanh của VOV cũng được sử dụng như 1 dạng nhắn tin trên báo.
Quân Mỹ - ngụy cũng thu được các tín hiệu cũng như giải mã được các tín hiệu của ta. Thông qua đấy chúng cũng phá được nhiều các đơn vị tình báo của ta chứ không phải không có. Trong chiến tranh , mọi sơ sẩy đều phải trả giá bằng hy sinh. Tuy nhiên, các tuyến tình báo chiến lược của chúng ta đều được bảo vệ kỹ càng (nếu phát hiện được thì với hệ thống tuyên truyền của Mỹ-ngụy đã làm rùm beng lâu rồi).
Còn về hack với crack sóng thì có thể lấy ví dụ trận Buôn Ma Thuật, lúc đấy Mỹ theo dõi rất kỹ sư đoàn 320 của ta. Các tác chiến sư đoàn đều có hệ thống chỉ huy vô tuyến để đảm bảo chỉ huy chiến trường sát với thực tế, do vậy, Mỹ cũng rất chịu khó hack sóng của ta để nghe, thậm chí chửi nhau giữa 2 phe trên sóng vô tuyến đều có cả. Quân Mỹ xác định nếu sư 320 mà tập kết ở đâu thì sẽ đánh lớn ở đấy. Nhưng tự dưng chúng mất dấu sư 320 khi toàn bộ các sóng vô tuyến của của sư 320 đều biến mất, đấy là điều quân Mỹ do dự cho việc đánh lớn ở Kontum hay BMT. Tiếp theo, ta lấy sư 968 và sư 10 đánh nghi binh dữ dội ở Kon tum pleiku. Nhưng thực chất mỗi sư chỉ có 1 trung đoàn , nhưng giữ lại nguyên toàn bộ hệ thống liên lạc vô tuyến của cả sư đoàn. Trên toàn bộ hệ thống vẫn hoạt động bình thường hết công suất, lệnh cho trung đoàn này tiểu đoàn kia đánh chỗ này lấn chỗ kia như bình thường. Do vậy, bộ chỉ huy quân Mỹ -ngụy mới xác định là ta đánh Pleiku và rút lực lượng từ BMT về phòng thủ Pleiky và Kontum. Nhờ đấy ta có thể dễ dàng giải phóng BMT.
Đồng thời ta cũng có giải mã các sóng vô tuyến của của Mỹ. Việc này nó hơi đi sâu xa về nhiều thứ hiện vẫn đang làm, cho nên sẽ ko trình bày ở đây.
Em bổ sung thêm có quy định 1 số thông tin truyền qua vô tuyến, 1 số thông tin bắt buộc truyền qua hữu tuyến và 1 số bắt buộc qua giao liên. Cái này em nghe ông cụ nhà em kể lâu rồi em không nhớ. Nhưng có phân cấp thông tin truyền đi theo mức độ bảo mật mà đi theo đường nào.
Tình cảnh Ucraina và Nato giờ như "Chó lết trôn, gà gáy dở" lêu lêu
Hay quá, càng đọc em lại càng mọc ra nhiều câu hỏi. Em cho rằng đây là dấu hiệu của việc bắt đầu vỡ ra được 1 chút 😆
giai đoạn đầu từ 56-60 thì là dùng bộ thu phát radio qua nhiều tầng. Không nhất thiết phải phát ra Bắc mà có thể hướng Nam hoặc Cam. Ở những nơi mà ta có trạm thu và chuyển trực tiếp về Bắc nhanh và an toàn hơn (ví dụ qua hệ thống truyền tin của sứ quán ...).
Qua nhiều tầng có phải là qua nhiều trạm, nhảy cóc từng bước không cụ? Hệ thống truyền tin sứ quán thì dùng cái gì ạ?
Sau khi mở đường 559 thì ta bắt đầu có giao liên hữu tuyến, việc truyền thông tin ra Bắc được nhanh và an toàn.
Theo em hiểu thì đường dây hữu tuyến này về cơ bản là 1 cái đường dây điện (thoại) cực dài... Như vậy thì nếu địch thả biệt kích mò trúng được cái cáp này, nối trộm ở chỗ nào kín kín là lộ tất tần tật. Cử người đi soi đủ hàng ngàn km dây hàng ngày để phát hiện chỗ nối trộm thì cũng khó...
lúc đấy Mỹ theo dõi rất kỹ sư đoàn 320 của ta. Các tác chiến sư đoàn đều có hệ thống chỉ huy vô tuyến để đảm bảo chỉ huy chiến trường sát với thực tế, do vậy, Mỹ cũng rất chịu khó hack sóng của ta để nghe, thậm chí chửi nhau giữa 2 phe trên sóng vô tuyến đều có cả.
Có nghĩa là bên nọ nhảy vào tần của bên kia rồi @*(ÙI@R đấy hả cụ?? Cái này lần đầu em biết đến, hài quá 🤣 Cơ mà việc ta biết M theo dõi sư 320 chứng tỏ chiến thuật này của địch cũng bị nắm tẩy rồi, từ đó ta mới đưa ra được phương án dương đông kích tây đó, đúng không ạ?
bản tin có mã hóa và gõ morse. Máy 15W trang bị đến cấp trung đoàn, sư đoàn. Máy này có 1 tổ vận hành, gồm báo vụ gõ ma nip,
Em search thử ma-nip toàn ra chỉnh sửa ảnh thôi cụ ạ! Em đoán ma-nip là cái bàn phím của máy mã hóa đúng không cụ? Với cả thắc mắc quan trọng nhất của em là bên ta dùng mã hóa gì để gửi thông tin quan trọng trong KCCM ạ? Theo kiến thức lớt phớt của em thì những loại mã ngành IT hiện nay kiểu private-public key đều là phát kiến sau năm 75, mà thời xưa có lẽ VN mình chưa đủ trình độ làm 1 máy/mã riêng nên chắc là dùng mã của LX/TQ? Nếu dùng mã của M thì nó giải trong phút mốt. Vậy cái mã LX nó tên là gì vậy cụ?
chiên trường KPC (1979-1989) hay dùng bảng mật mã gọi là bảng mã "Chu Văn Mùi", dùng để dịch xuôi và ngược. Thông thường sau mã hóa sẽ là đọc nhóm số: 244 345 521
Không biết bảng mã Chu Văn Mùi này chính là do AHLLVTND nghĩ ra, hay được làm sau này vào những năm 7x nhưng lấy tên của ông ấy ạ? Trong trường hợp đầu tiên thì chắc là đơn sơ quá, địch nó mất 1 ngày là crack được hết. Đấy cũng là lí do ở trên em đoán là cấp chiến dịch thì không dùng mã nội CVM được. Với cả em cũng không hiểu sau phần mã hóa thì còn đọc số không mã làm gì nữa, thế chẳng phải cung cấp đầu mối để hack cho địch ư?
VD ngày xưa đã có chuyện phản gián như '' Hươu và Rùa '' với mật khẩu '' nhỉ đay = nhẩy đi '' đó Cụ .
Cụ kể câu chuyện ấy giúp em thông não với 😋
Giao liên cho hoạt động tình báo đa phần là đơn tuyến, thậm chí còn dùng hộp thư chết. Người gửi ko biết người nhận, người nhận ko biết người gửi
Trong VD hộp thư chết thì ai là người quy định/thông báo về địa chỉ các hộp thư & quy cách check/lấy thư cho người nhận & người gửi hả cụ?
Việc mã hóa và giải mã trong truyền tin có nhiều cách khác nhau, từ đơn giản đến phức tạp.
Những bản tin mang tính chất chiến lược không yên cầu phải xử lý tức thời thì mã hóa phức tạp.
Nhưng bản tin cần xử lý tức thời - như phục vụ trận chiến đấu trực tiếp thì mã hóa đơn giản. Vì những bản tin này đối phương có kịp giải mã thì cũng đánh xong rồi, chẳng để làm gì nữa.
Thông tin chiến đấu mã hóa đơn giản nhiều khi chỉ là những con số, ví dụ, chỉ cần đọc 123 là có địch chẳng hạn, 234 là xông lên.....đại loại thế.
Cách mã hóa thì có nhiều cách, mã hóa cố định theo bảng mã nào đó. Rồi mã hóa ngẫu nhiên, tức là bảng mã thay đổi theo ngày, giờ..... Rồi phối hợp cả cách cố đinh và ngẫu nhiên....
Về cách truyền tin thì chúng ta đều biết, truyền mồm, truyền giấy, truyền bắng ánh sáng, truyền điện.
Trong đó truyền điện có hữu tuyến và vô tuyến.
Truyền hữu tuyến thì độ bảo mật cao, tuy nhiên khâu chuẩn bị cho hạ tầng khó khăn, phức tạp. Nhất là với điều kiện chiến trường.
À nói thêm chút là có cụ nói cài thiết bị vào đường hữu tuyến để nghe trộm cũng không dễ đâu nhé. Vì các đài hữu tuyến đều có hạng mục kiểm tra đường dây, khi có bất kỳ sự thay đổi nhỏ nào trên đường dây là có thể đặt nghi ngờ bị cài cắm rồi nhé. Ko dễ nghe trộm đâu.
Truyền vô tuyến thì nhanh gọn, linh hoạt nhưng rất dễ bị nghe trộm. Nhưng nguy hiểm hơn là bị định vị nguồn phát sóng. Vì vậy khi sử dụng truyền tin vô tuyến là phải truyền thật nhanh rồi té, chứ cứ ngồi khấn tại chỗ là dễ đi gặp tổ tiên ngay và luôn.
Hay quá, càng đọc em lại càng mọc ra nhiều câu hỏi. Em cho rằng đây là dấu hiệu của việc bắt đầu vỡ ra được 1 chút 😆
giai đoạn đầu từ 56-60 thì là dùng bộ thu phát radio qua nhiều tầng. Không nhất thiết phải phát ra Bắc mà có thể hướng Nam hoặc Cam. Ở những nơi mà ta có trạm thu và chuyển trực tiếp về Bắc nhanh và an toàn hơn (ví dụ qua hệ thống truyền tin của sứ quán ...).
Qua nhiều tầng có phải là qua nhiều trạm, nhảy cóc từng bước không cụ? Hệ thống truyền tin sứ quán thì dùng cái gì ạ?
Sau khi mở đường 559 thì ta bắt đầu có giao liên hữu tuyến, việc truyền thông tin ra Bắc được nhanh và an toàn.
Theo em hiểu thì đường dây hữu tuyến này về cơ bản là 1 cái đường dây điện (thoại) cực dài... Như vậy thì nếu địch thả biệt kích mò trúng được cái cáp này, nối trộm ở chỗ nào kín kín là lộ tất tần tật. Cử người đi soi đủ hàng ngàn km dây hàng ngày để phát hiện chỗ nối trộm thì cũng khó...
lúc đấy Mỹ theo dõi rất kỹ sư đoàn 320 của ta. Các tác chiến sư đoàn đều có hệ thống chỉ huy vô tuyến để đảm bảo chỉ huy chiến trường sát với thực tế, do vậy, Mỹ cũng rất chịu khó hack sóng của ta để nghe, thậm chí chửi nhau giữa 2 phe trên sóng vô tuyến đều có cả.
Có nghĩa là bên nọ nhảy vào tần của bên kia rồi @*(ÙI@R đấy hả cụ?? Cái này lần đầu em biết đến, hài quá 🤣 Cơ mà việc ta biết M theo dõi sư 320 chứng tỏ chiến thuật này của địch cũng bị nắm tẩy rồi, từ đó ta mới đưa ra được phương án dương đông kích tây đó, đúng không ạ?
bản tin có mã hóa và gõ morse. Máy 15W trang bị đến cấp trung đoàn, sư đoàn. Máy này có 1 tổ vận hành, gồm báo vụ gõ ma nip,
Em search thử ma-nip toàn ra chỉnh sửa ảnh thôi cụ ạ! Em đoán ma-nip là cái bàn phím của máy mã hóa đúng không cụ? Với cả thắc mắc quan trọng nhất của em là bên ta dùng mã hóa gì để gửi thông tin quan trọng trong KCCM ạ? Theo kiến thức lớt phớt của em thì những loại mã ngành IT hiện nay kiểu private-public key đều là phát kiến sau năm 75, mà thời xưa có lẽ VN mình chưa đủ trình độ làm 1 máy/mã riêng nên chắc là dùng mã của LX/TQ? Nếu dùng mã của M thì nó giải trong phút mốt. Vậy cái mã LX nó tên là gì vậy cụ?
chiên trường KPC (1979-1989) hay dùng bảng mật mã gọi là bảng mã "Chu Văn Mùi", dùng để dịch xuôi và ngược. Thông thường sau mã hóa sẽ là đọc nhóm số: 244 345 521
Không biết bảng mã Chu Văn Mùi này chính là do AHLLVTND nghĩ ra, hay được làm sau này vào những năm 7x nhưng lấy tên của ông ấy ạ? Trong trường hợp đầu tiên thì chắc là đơn sơ quá, địch nó mất 1 ngày là crack được hết. Đấy cũng là lí do ở trên em đoán là cấp chiến dịch thì không dùng mã nội CVM được. Với cả em cũng không hiểu sau phần mã hóa thì còn đọc số không mã làm gì nữa, thế chẳng phải cung cấp đầu mối để hack cho địch ư?
VD ngày xưa đã có chuyện phản gián như '' Hươu và Rùa '' với mật khẩu '' nhỉ đay = nhẩy đi '' đó Cụ .
Cụ kể câu chuyện ấy giúp em thông não với 😋
Giao liên cho hoạt động tình báo đa phần là đơn tuyến, thậm chí còn dùng hộp thư chết. Người gửi ko biết người nhận, người nhận ko biết người gửi
Trong VD hộp thư chết thì ai là người quy định/thông báo về địa chỉ các hộp thư & quy cách check/lấy thư cho người nhận & người gửi hả cụ?
Việc mã hóa và giải mã trong truyền tin có nhiều cách khác nhau, từ đơn giản đến phức tạp.
Những bản tin mang tính chất chiến lược không yên cầu phải xử lý tức thời thì mã hóa phức tạp.
Nhưng bản tin cần xử lý tức thời - như phục vụ trận chiến đấu trực tiếp thì mã hóa đơn giản. Vì những bản tin này đối phương có kịp giải mã thì cũng đánh xong rồi, chẳng để làm gì nữa.
Thông tin chiến đấu mã hóa đơn giản nhiều khi chỉ là những con số, ví dụ, chỉ cần đọc 123 là có địch chẳng hạn, 234 là xông lên.....đại loại thế.
Cách mã hóa thì có nhiều cách, mã hóa cố định theo bảng mã nào đó. Rồi mã hóa ngẫu nhiên, tức là bảng mã thay đổi theo ngày, giờ..... Rồi phối hợp cả cách cố đinh và ngẫu nhiên....
Về cách truyền tin thì chúng ta đều biết, truyền mồm, truyền giấy, truyền bắng ánh sáng, truyền điện.
Trong đó truyền điện có hữu tuyến và vô tuyến.
Truyền hữu tuyến thì độ bảo mật cao, tuy nhiên khâu chuẩn bị cho hạ tầng khó khăn, phức tạp. Nhất là với điều kiện chiến trường.
À nói thêm chút là có cụ nói cài thiết bị vào đường hữu tuyến để nghe trộm cũng không dễ đâu nhé. Vì các đài hữu tuyến đều có hạng mục kiểm tra đường dây, khi có bất kỳ sự thay đổi nhỏ nào trên đường dây là có thể đặt nghi ngờ bị cài cắm rồi nhé. Ko dễ nghe trộm đâu.
Truyền vô tuyến thì nhanh gọn, linh hoạt nhưng rất dễ bị nghe trộm. Nhưng nguy hiểm hơn là bị định vị nguồn phát sóng. Vì vậy khi sử dụng truyền tin vô tuyến là phải truyền thật nhanh rồi té, chứ cứ ngồi khấn tại chỗ là dễ đi gặp tổ tiên ngay và luôn.
Với các máy truyền tin vô tuyến 5W kiểu PRC25 Mỹ hay K71/P105D TQ/LX cấp chiến thuật, cự ly liên lạc ngắn 5-10km, nên co tác dụng tức thời trong chiên đấu, còn dò tìm cũng khó vì công suất thu/phát nhỏ.
Với các máy truyền tin vô tuyến loại 15W, là cấp chiến dịch cự ly xa, gõ morse thì khả năng định vị của các thiết bị dò tìm là có, hồi các năm 1979-198x ở chiến trường KPC, các máy bay trinh sát điện tử RC47 (thu được sau 1975) vẫn bay khu vực biên giới VN-KPC để định vị máy phát 15W, bay trinh sát hàng đêm.
Trong vùng hoạt động chiến dịch, dùng bảng mã thay đổi liên tục. Nhiều khi quy định chỉ cần (số lần) bấm tổ hợp là đủ, ví dụ máy 5W: đến giờ phiên liên lạc mở máy chờ nghe tín hiệu phát lệnh hiệp đồng, nghe tiếng bấm công tắc tổ hợp nghe/nói: 1, 2 hay 3 mà không bất kỳ mã (nói) liên lạc nào. Theo quy định từ trước, có thể là 1 tiếng bấm là lệnh nổ súng.
Còn hình thức liên lạc thì bao giờ cũng có quy định tần số làm việc (kênh sóng), 1 tần số chính và 2 tần số phụ. Máy PRC25 có đến gần 200 kênh tần số liên lạc.
Qua nhiều tầng có phải là qua nhiều trạm, nhảy cóc từng bước không cụ? Hệ thống truyền tin sứ quán thì dùng cái gì ạ?
Qua nhiều tầng để không bị phát hiện trạm phát , ví dụ nếu cụ đặt ăng ten hướng sóng ra phía bắc thì sẽ có thường xuyên các trạm định vị đón lõng và phát hiện ra máy liên lạc ngay khi vừa phát sóng, nhưng nếu hướng vào nam rồi chạy sang cam thì sẽ khó phát hiện nhanh được để mà định vị truy bắt máy phát.
Các đại sứ quán đều có hệ thống liên lạc của mình và được phép công khai, ví dụ đặt máy phát vô tuyến bật thẳng hướng bắc mà ko thằng nào dám xông vào bắt.
Có nghĩa là bên nọ nhảy vào tần của bên kia rồi @*(ÙI@R đấy hả cụ?? Cái này lần đầu em biết đến, hài quá
Cơ mà việc ta biết M theo dõi sư 320 chứng tỏ chiến thuật này của địch cũng bị nắm tẩy rồi, từ đó ta mới đưa ra được phương án dương đông kích tây đó, đúng không ạ?
Nó không phải là chiến thuật của ta: nghi binh trên chiến trường và đọc vị nhau trên chiến trường là việc của các vị tướng cầm quân. Ở đây em lấy ví dụ sư 320 bởi vì sư đấy là 1 trong 6 sư chủ lực đầu tiên của VN, đc trang bị tốt nhất cho nên chỗ nào trọng điểm được phòng thủ mạnh thì đương nhiên nó phải gánh vác thôi. Theo dõi cách bố trí các đơn vị của đối phương để từ đấy phán đoán ra hướng đánh chính của kẻ thù là việc hàng ngày của BTM. Ngay bây giờ cụ cứ nhìn chiến trường U là hiểu thôi mà.
Em thắc mắc trong kháng chiến chống Pháp (trước 1950) thì chúng ta liên lạc giữa các đơn vị, khu vực như thế nào. Rõ ràng chênh lệch về trình độ thông tin liên lạc giữa ta và định rất lớn
Em thắc mắc trong kháng chiến chống Pháp (trước 1950) thì chúng ta liên lạc giữa các đơn vị, khu vực như thế nào. Rõ ràng chênh lệch về trình độ thông tin liên lạc giữa ta và định rất lớn
Đa phần là chim đi bộ và chim đi xe đạp cụ ạ.
"Mobilis in Mobile" ― Jules Verne