Thế chiến thứ I (1914-1918) là cuộc chiến để lập lại trật tự thế giới mới, làm thay đổi sâu sắc bộ mặt của châu Âu và thế giới lúc bấy giờ. Trong cuộc chiến kéo dài 52 tháng từ 1914-1918, các bên tham chiến đã huy động hơn 70 triệu người để tiến hành kiểu chiến tranh tổng lực, diễn ra ác liệt trên bộ, trên không và trên biển. 70 quốc gia trên thế giới đã bị cuốn vào vòng xoáy trong cuộc chiến. Là một bên tham chiến, nước Pháp (thành viên phe Hiệp ước) đã huy động cả các nguồn nhân lực, vật lực từ chính quốc và các vùng thuộc địa (trong đó có Đông Dương) để tham gia, hỗ trợ cho cuộc chiến trên chiến trường cũng như hậu phương.
Tại Đông Dương, chiến dịch tuyển dụng lính bắt đầu vào tháng 12/1915. Có 22 trung tâm chiêu mộ ở Nam Kỳ (Cochinchina), 27 ở Bắc Kỳ (Tonkin) và 14 ở Trung Kỳ (Annam). Các đợt tuyển quân ở Nam Kỳ không đạt chỉ tiêu nên chính quyền thuộc địa phải quay sang Bắc Kỳ và Trung Kỳ để tìm thêm quân tình nguyện. Để được chấp nhận, một tình nguyện viên phải vượt qua cuộc kiểm tra y tế và cao ít nhất 1,5 mét. Mỗi tân binh nhận được tiền thưởng 200 franc và tiền lương hàng tháng; gia đình được trợ cấp hàng tháng. Nếu chết trong chiến tranh thì vợ và con chưa đủ mười tám tuổi được hưởng lương hưu.
Cảng Lyon, lần đầu đặt chân lên đất Pháp
Cảng Marseille, 1915
Ga Saint-Raphael, những người lính An Nam thiện chiến nhất trong chế độ bảo hộ Pháp đang trên đường ra mặt trận
Sáng tai họ, điếc tai cày
Việc bổ sung nhân lực từ thuộc địa đã nằm trong kế hoạch của chính phủ Pháp ngay từ năm 1912 do lo ngại nguy cơ chiến tranh. Trong các năm 1915-1919, những chuyến tàu từ Đông Dương sang Pháp đã đưa đến Chính quốc tổng cộng 92.411 người bản xứ (theo Ban chỉ huy quân đội thuộc địa tổng hợp tại công điện số 16595 1/8 ngày 02 tháng 8 năm 1919).
Trong các năm 1915-1919, tổng cộng hơn 92 nghìn lính chiến và lính thợ Đông Dương, trong đó có 43.430 lính chiến, đã được đưa đến Chính quốc. Họ được phiên chế vào 4 tiểu đoàn thực chiến, 15 tiểu đoàn dự bị, y tá thuộc địa, công nhân hành chính thuộc địa. Các tiểu đoàn dự bị được giao nhiệm vụ bảo đảm thông tin liên lạc và vận tải ở vùng chiến sự, làm đường sắt, xây cầu, xây dựng bệnh viện sơ tán, dựng lán trại.
Chiến hào mặt trận sông Marne
Chiếc điếu cày đặc trưng
Những người lính thợ làm việc trong các nhà máy sản xuất vũ khí và lương thực, được tổ chức thành các tiểu đoàn “Thợ không chuyên” (ONS-ouvriers non spécialistes) và được giao do Văn phòng Lao động thuộc địa (Service des Travailleurs coloniaux) quản lý.
Một người công nhân đến từ Đông Dương đang vận hành hệ thống máy công nghiệp sản xuất, ảnh được đăng tải bởi The Illustrated War News số ra ngày 10.1.1917
Sau khi đình chiến, rất nhiều lính ở các tiểu đoàn dự bị và người lao động được đưa đến các vùng giải phóng, nhiệm vụ chủ yếu của họ là dọn dẹp trên những cánh đồng đã bị hào lũy, hố bom, dây kẽm gai, đất đá và những mảnh vụn đủ loại làm cho không thể trồng cấy được.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Phía bộ tham mưu Pháp có một định kiến về lính Việt Nam. Thậm chí ban đầu, họ còn không muốn đưa lính Việt Nam sang Pháp vì sợ người Việt không chịu được giá lạnh vào mùa đông, hoặc sợ họ ngại đạn lửa trên tuyến đầu, không xông pha ngoài mặt trận. Lính Đông Dương còn bị so sánh với người Sénégal, được gọi là «lực lượng đen», gồm hơn 200.000 người.
1916, xe tải chở những người lính An Nam ra mặt trận
1916, Saint-Rafael
Các tướng lĩnh Pháp tham dự buổi lễ duyệt binh của những người lính An Nam đội mũ sắt kiểu mới do Quân đội Pháp cung cấp. Ảnh chụp tạp chí The Illustrated War News số ra ngày 2.8.1916
Người lính được trang bị mũ sắt, súng trường và giày cao cổ
Sáng tai họ, điếc tai cày
Khi bắt đầu Thế chiến thứ nhất, Áo-Hungary tấn công Serbia. Trong khi Serbia cố gắng kháng cự, Đồng minh (Anh và Pháp) đã nói về việc cử một lực lượng quân sự quy mô lớn đến hỗ trợ người Serbia. Và các tiểu đoàn lính tập An Nam được gửi đến vào tháng 10 năm 1915, họ đã đến thị trấn Salonika của Hy Lạp (nay được gọi là Thessalonika).
Sáng tai họ, điếc tai cày
Hai người lính thuộc địa Pháp, một người An Nam (Việt Nam) và một người Malagasy (Madagascar), tại Zeitenlik ở Salonika, tháng 7 năm 1917
Sáng tai họ, điếc tai cày
Người lính Việt tại trại huấn luyện Saint-Rafael với chiếc nón dấu đặc trưng
Nón lá có huy hiệu mỏ neo của Bộ binh Thủy quân lục chiến Pháp và chóp nhọn bọc đồng.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Bốn tiểu đoàn lính chiến Việt Nam, gồm có:
+ Hai tiểu đoàn lính chiến Việt Nam phục vụ tại Pháp: tiểu đoàn 7 và tiểu đoàn 21.
Tiểu đoàn 7 được thành lập từ Đông Dương ở Bắc Kỳ vào ngày 16 tháng 2 năm 1916 và cập bến Marseilles vào tháng 9 và trải qua huấn luyện tại Frejus cho đến tháng 4 năm 1917. Ngày 10 tháng 4, Tiểu đoàn 7 được bổ nhiệm vào Sư đoàn 19 nhưng trực thuộc Sư đoàn 12. Lần đầu tiên họ tham chiến trong Trận sông Aisne lần thứ hai, còn gọi là Trận Chemin des Dames vào ngày 5-7 tháng 5 năm 1917.
Vào tháng 6 năm 1918, tiểu đoàn đóng quân trong chiến hào ở khu vực Anould (Vosges), ở đó cho đến ngày 22 tháng 6, trong thời gian đó họ tham gia đẩy lùi một cuộc tấn công mạnh mẽ của quân Đức. Vào thời điểm đình chiến, họ đóng quân ở Lorraine và rời Pháp tại Marseilles vào ngày 15 tháng 2 năm 1919, trở về Hải Phòng nơi đơn vị bị giải thể.
Tiểu đoàn 21 được thành lập từ những người lính Đông Dương đã phục vụ tại Pháp, vào ngày 1 tháng 12 năm 1916 tại Trại St. Raphael, quân số là 21 sĩ quan, 241 người Âu và 1.200 người bản xứ (Đông Dương).
Từ ngày 5 tháng 4 năm 1917, tiểu đoàn được sử dụng tại Dand (Aisne) để sửa đường, chăm sóc sân bay và công việc thoát nước trên chiến trường.
Từ cuối tháng 5 đến cuối tháng 7/1917, phục vụ trong các chiến hào tiền tuyến của Vosges, tháng 8 di chuyển đến khu vực Reims.
Quay trở lại Vosges, tiểu đoàn giữ các vị trí trong khu vực Montigny và bị giải thể vào ngày 18 tháng 4 năm 1919.
+ 2 Tiểu đoàn chiến đấu còn lại phục vụ tại Salonika (Hy Lạp): Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2.
Tiểu đoàn số 2 tại Korçë, Albania, 01/1917
Sáng tai họ, điếc tai cày