Khu lăng mộ Hoàng Cao Khải (còn gọi là ấp Thái Hà, hiện ở ngõ 252 phố Tây Sơn, Trung Liệt, Đống Đa, Hà Nội) được xây dựng năm 1893 bởi Tổng đốc Hoàng Cao Khải (1850 - 1933) là một quần thể di tích gồm dinh thự, đền thờ, lăng mộ... với trình độ kiến trúc tinh xảo trong nghệ thuật điêu khắc đá của người Việt.
Năm 1893, Hoàng Cao Khải cho lấp ruộng trũng, ao hồ tại các làng Nam Đồng, Thịnh Quang, Khương Thượng để lập ấp Thái Hà và xây dựng nhiều công trình kiến trúc trong khu tư dinh của dòng họ Hoàng gồm: Từ đường, đình làng, đình tế, hồ vuông, hồ bán nguyệt, gò Nghênh phong; đặc biệt là 12 lăng mộ, trong đó trung tâm là lăng Hoàng Cao Khải và lăng Hoàng Trọng Phu - con trai ông.
Lăng Hoàng Cao Khải được xây trên khu đất cao rộng, phía trước là hồ bán nguyệt lớn, hai bên sân có 8 pho tượng bằng đá. Lăng có kết cấu kiểu chữ “đinh”, gồm ba gian tiền tế, một gian hậu cung đều được xây bằng đá lấy từ phủ Quốc Oai. Các mảng chạm, hệ thống cột, xà, cửa võng, diềm, tường, gạch lát cũng được làm bằng đá, do các hiệp thợ nổi tiếng chế tác tinh xảo.
Tháp kỉ niệm sau cổng lăng. Lùm cây ở hậu cảnh là gò Đống Đa, đối diện với khu lăng mộ qua phố Đặng Tiến Đông ngày nay.
Bước qua 5 bậc đá được ghép từ những phiến đá xanh cỡ lớn sẽ lên tòa tiền tế. Vật liệu xây dựng công trình này được làm hoàn toàn bằng đá, gồm 14 cột đá tròn đường kính 25cm liên kết với 12 cột đá vuông có cạnh 40 x 40cm đỡ mái. Phần mái đồng thời là trần, được ghép bằng những phiến đá lớn. Nền nhà lát đá xanh. Gian giữa đặt án thờ, hai gian hồi đặt hai ngôi mộ của Hoàng Cao Khải cùng vợ là Phạm Thị Tố.
Đọc đến tên là em nhớ thằng cha này là tay sai thực dân Pháp, nếu không nhầm thì lịch sử có nhắc hắn là tay sai thực dân.
Hoàng Cao Khải tự nguyện theo giúp quân xâm lược, rất được Pháp tin dùng. hắn được cử làm tiễu phủ sứ, phụ trách “dẹp loạn” ở các tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương. Sau đó, hắn được thăng chức tổng đốc Hải Yên (liên tỉnh Hải Dương – Quảng Yên); đến năm 1889, hắn leo lên địa vị cao nhất xứ Bắc Kỳ: kinh lược sứ, được Pháp gọi là “phó vương Bắc Kỳ” (vice–roi du Tonkin), một chức quan không hề có trong sử sách Việt Nam. Việc này được De Lanessan (làm toàn quyền Đông Dương từ 21-4-1891 đến 29-12-1894) nhắc tới trong cuốn “Công cuộc thuộc địa hoá ở Đông Dương” (La colonisation française en Indochine):“Thấy tuyệt vọng không thể bình định được vùng đồng bằng [Bắc Kỳ] bằng những đội quân chính quy và những đội dân vệ mà lúc đó quân số cũng đã lên 8 000 người, viên toàn quyền tạm quyền [François Bideau] và viên thống sứ [Eusèbe Parreau] đã tổ chức, với những dân vệ và những lính cơ dưới quyền của vị kinh lược [Hoàng Cao Khải] và vài vị quan, những “đội quân cảnh sát” hành động trong các tỉnh bị rối loạn nhất, đặc biệt là ở Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nội...”.
Trong báo cáo ngày 27-3-1889, thống sứ Bắc Kỳ Eusèbe Parreau cũng viết : “Cần có biện pháp mới, nghĩa là phải làm sao cho dân bản xứ chống lại nhau.Tôi đã giao nhiệm vụ này cho tổng đốc Hoàng Cao Khải, viên quan rất có nghị lực và đầy tham vọng” 5 . Theo nhà sử học Pháp Philippe Devillers, thi hành chủ trương của Pháp, “Hoàng Cao Khải thành lập một lực lượng [gồm] 400 lính tình nguyện lấy trong số những lính khố đỏ cũ và 500 vệ binh dân sự do các công sứ cung cấp. Lực lượng này đi ngang dọc khắp nơi ở Bãi Sậy, có khi đụng độ với những nhóm kháng chiến chính yếu, nhưng thường là hành động theo chiều sâu, trên cơ sở những tin tức tình báo, do đó bắt được nhiều người và thường là hành quyết ngay...”
Chữ minh oan trong link là để trong ngoặc kép, nên K oan đâu.
Tuy không sánh được với lăng tẩm các vị vua triều Nguyễn ở Huế về quy mô, nhưng lăng Hoàng Cao Khải được đánh giá là công trình kiến trúc đá đặc sắc. Vì những giá trị của quần thể di tích kiến trúc này, ngày 25-11-1945, trong Sắc lệnh bảo vệ di tích cổ vật, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương giữ nguyên hiện trạng khu ấp (Thái Hà). Bộ Văn hóa Thông tin cũng đánh giá: Đây là chứng tích duy nhất của nước ta về một quần thể các công trình lăng tẩm, dinh thự của một phó vương... Nhưng trên thực tế sự lẫn lộn trong việc đánh giá một nhân vật trong quá khứ với giá trị văn hoá lịch sử của một công trình kiến trúc là nguyên nhân làm cho khu di tích này mất tích.
Sau khi được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia vào năm 1962, trong một thời gian dài, do hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, khu di tích ít được quan tâm bảo vệ. Một số cơ quan và nhiều hộ dân đã sử dụng các công trình kiến trúc, sân vườn thuộc khu di tích làm trụ sở làm việc và nhà ở.
Khu lăng mộ Hoàng Cao Khải được địa phương sử dụng làm trụ sở tuần tra của Công an phường Trung Liệt, còn sân lăng trở thành điểm trông xe đạp, xe máy và một số tượng đá ở sân lăng đã không còn nữa. Lăng Hoàng Trọng Phu (con trai cả của Hoàng Cao Khải) cũng bị gạch xây bịt kín một số cửa, rồi biến thành nhà riêng; đôi rồng đá ở cửa lăng cũng bị lợi dụng làm hàng rào để chậu cây cảnh và xe; nhiều bức tường đá đã bị ám khói bếp; mặt tiền lăng trở thành nơi bán thịt lợn và phơi quần áo…
Em biết cái Lăng Bố cái Đại vương Phùng Hưng là ở chỗ 31 Kim Mã. Em vẫn nghĩ nó là thuộc quận Ba Đình, nếu mà thuộc Đống Đa thì cho em xin lỗi cụ thớt nhé.
Em nghe nói cái Lăng đấy thiêng lắm nhưng chưa nắm được truyền thuyết về nó nên muốn hỏi thôi , một phần nó cũng gần chỗ em ở nữa
Lăng đó hồi bé đi ra Bến xe Kim Mã hàn dép em hay vào chơi. Nhưng không phải số 31 Kim Mã lão à, số nhà từ xưa (trước khi thay đổi số nhà cách đây nhiều năm) thì sô 31 là nhà em ở hồi bé, nay số nhà mới thành 125. Số mới hiện nay thì XN xe buýt nhanh BRT mặt Kim Mã là số 1 Kim Mã
Em biết cái Lăng Bố cái Đại vương Phùng Hưng là ở chỗ 31 Kim Mã. Em vẫn nghĩ nó là thuộc quận Ba Đình, nếu mà thuộc Đống Đa thì cho em xin lỗi cụ thớt nhé.
Em nghe nói cái Lăng đấy thiêng lắm nhưng chưa nắm được truyền thuyết về nó nên muốn hỏi thôi , một phần nó cũng gần chỗ em ở nữa
Lăng Bố cái Đại vương Phùng Hưng tại Ngõ 2, phố Giảng Võ, phường Cát Linh, Đống Đa, Hà Nội (được trùng tu đợt kỷ niệm 1000 năm Thăng Long).
Lăng nằm trong khuôn viên yên tĩnh, được bao bọc bởi lớp tường bao cách biệt với không gian bên ngoài. Trước lăng là một nghi môn dạng tứ trụ. Đỉnh hai trụ chính trang trí hình bốn con chim phượng chụm đuôi vào nhau, lại có các ô lồng đèn đắp hổ phù. Hai trụ bên đắp đôi nghê chầu. Thân trụ có ghi câu đối chữ Hán.
Qua nghi môn là bức bình phong đắp dạng cuốn thư đề 4 chữ Hán "Phùng Đại vương lăng". Đỉnh cuốn thư có đôi rồng chầu vào hổ phù đội mặt trời. Hai bên là hai trụ biểu, trên đỉnh có nghê chầu. Trước bình phong đặt một lư hương bằng đá cỡ lớn.
Bốn chữ Phùng Đại vương lăng (từ phải qua)
Bên trong khuôn viên là khu lăng mộ xây lộ thiên. Trước lăng có một án thờ bằng đá. Khu lăng mộ được thiết kế kiểu tay ngai bằng đá xám, hai bên thành ngai chạm rồng uốn khúc. Phần mộ xây giật cấp, trước mộ đặt hai con nghê đá đứng canh. Sau lăng là bức tường lửng đắp nề ngõa rồng chầu mặt trời, rồng lửa, vân mây.
Dòng chữ đắp khá vụng về, chữ (chữ Nôm) dùng khá cẩu thả, từ phải qua: Lăng (Năng) Bố Cái Đại vương.
Ngoài việc chữ xấu, thì chữ đầu tiên bên trái trong ảnh cuối chính xác là chữ “Năng”, mang nghĩa năng động/ khả năng. Đúng ra phải dùng chữ Lăng có bộ phụ, mang nghĩa là lăng tẩm/ lăng mộ này: 陵
Thật khó hiểu rằng ở nơi kinh kỳ đô hội, ngàn năm văn hiến mà lại dùng chữ sai tại lăng mộ 1 vị anh hùng dân tộc như thế! Sở VH ở đâu?!