Notifications
Clear all

Ông Trạng khai khoa

24 Bài viết
9 Thành viên
26 Reactions
1,057 Lượt xem
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Nhớ hồi nhỏ hay được bố mua sách truyện cho, những sách về văn hóa, văn học, lịch sử, danh nhân,..., trong đó có truyện tranh Ông Trạng khai khoa. Vẫn nhớ cái tên Lê Văn Thịnh, thuyền rồng chơi trên hồ Dâm Đàm, Mục Thận liều thân quăng lưới bắt được hổ, nỗi oan của vị Thái sư bị đi đày miền ngược và cái chết lặng lẽ giữa vòng tay bà con thôn xóm. Với công nghệ số hóa hiện nay, các nguồn tài liệu có sẵn, dễ dàng tra cứu, em muốn tổng hợp về thân thế và sự nghiệp của những nhân vật trong ký ức tuổi thơ, và xin mở đầu với Ông Trạng khai khoa.

 

Nước Việt từ thời Bắc thuộc, các triều đại Trung Quốc đã truyền bá chữ Hán, mở lớp giảng dạy, như là một công cụ cai trị và đồng hóa. Và chữ Hán đã trở thành chữ viết chính thức, nhưng số người biết chữ rất ít ỏi, thường trong giới tăng lữ, quan lại.

Sang thời Lý, thời kỳ tự chủ, cùng với sự phát triển hưng thịnh của đạo Phật, đạo Khổng, đạo Lão, năm 1070, Lý Thánh Tông đã cho xây dựng Văn Miếu, “đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối, vẽ tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế “

Tháng 02/1075, Lý Nhân Tông cho mở khoa thi Minh kinh bác học và Nho học tam trường, Lê Văn Thịnh đỗ đầu, trở thành ông Trạng khai khoa của nền giáo dục khoa cử phong kiến Việt Nam.

“Canh Tuất, Thần Vũ năm thứ 2 [1070], (Tống Hy Ninh, năm thứ 3). Mùa xuân, làm điện Tử Thần.
Mùa hạ, tháng 4 đại hạn, phát thóc, và tiền lụa trong kho để chẩn cấp cho dân nghèo.
Mùa thu, tháng 8, làm Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối, vẽ tượng Thất thập nhị hiền7, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến học ở đây.”

Ất Mão, [Thái Ninh] năm thứ 4 [1075], (Tống Hy Ninh năm thứ 8). Mùa xuân, tháng 2, xuống chiếu tuyển Minh kinh bác học và thi Nho học tam trường. Lê Văn Thịnh trúng tuyển, cho vào hầu vua học.” 

(Đại Việt sử ký toàn thư)

Lê Văn Thịnh (1050 ? – ?), người làng Đông Cứu, nay là thôn Bảo Tháp, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Cha ông vừa dạy học, vừa bốc thuốc cứu người, nên từ nhỏ ông đã được dạy dỗ cẩn thận, cùng với bản tính thông minh, chăm chỉ, ông đã sớm nổi tiếng thần đồng, lớn lên mở lớp dạy học tại quê nhà, học trò theo học rất đông.

Sau khi đỗ đạt, ông được theo hầu vua học (thực chất là dạy vua học), sau trải thăng chức Nội cấp sự, rồi Thị lang bộ Binh. Năm 1084, ông thành công trong việc bàn nghị về việc cương giới với quan nhà Tống. Khiến nước này phải trả lại 6 huyện 3 động thuộc châu Quảng Nguyên (nay là phần đất ở phía Tây Bắc tỉnh Cao Bằng) mà họ đã chiếm cho Đại Việt. Sau đó, ông được phong đến chức Thái sư (1085).

Giáp Tý, /Anh Vũ Chiêu Thắng/ năm thứ 9 [1084], (Tống Nguyên Phong năm thứ 7). Mùa hạ, tháng 6, sai Thị lang Bộ Binh Lê Văn Thịnh đến trại Vĩnh Bình cùng với người Tống bàn việc cương giới.

Xuống chiếu cho thiên hạ nung ngói lợp nhà.

Định biên giới.

Nhà Tống trả lại cho ta 6 huyện 3 động. Người Tống có thơ rằng:"Nhân tham Giao Chỉ tượng, khướt thất Quảng Nguyên kim" (vì tham voi Giao Chỉ, bỏ mất vàng Quảng Nguyên).

(Đại Việt sử ký toàn thư)

 

Vụ án hồ Dâm Đàm

(còn tiếp)

 

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
soncaxanh, Salut, Anonymous and 1 people reacted
Trích dẫn
(@Anonymous 18)
Nhi đồng
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 111
 
20200829 193346

Hay quá, rất bổ ích. Quân Y em xin một chỗ ngồi học lại lịch sử.


   
Trả lờiTrích dẫn
PING BUNNY
(@ping-bunny)
Nhi đồng
Tài sản: 121.75
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 70
 

Hay ạ! Em làm căn hóng, chỉ riêng tác phẩm điêu khắc Rồng đá tại đền thờ ông cũng là bí ẩn về ý nghĩa cũng như nghệ thuật


   
Cô Cô and Quá nhi reacted
Trả lờiTrích dẫn
PING BUNNY
(@ping-bunny)
Nhi đồng
Tài sản: 121.75
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 70
 

Em xin góp một bài trên báo ANTĐ cách đây lâu lắm lắm rồi ạ.
Em copy của một thành viên trên trang thegioivohinh

Mặc định Những chuyện lạ xung quanh pho tượng rồng kỳ bí

Cho đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi quanh câu chuyện về pho tượng kỳ bí được tìm thấy cách đây 20 năm, trong một lần tu bổ tam quan đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh, ở thôn Bảo Tháp, xã Đông Cứu, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Pho tượng này ngay từ khi xuất lộ đã khiến nhiều người giật mình bởi tư thế quái dị của nó “miệng cắn thân, chân xé mình”.
Bí ẩn tượng rồng đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh

Tượng rồng tại đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh


Khối tượng rồng phát hiện năm 1991 đang thờ tại miếu Xà Thần

Ly kỳ câu chuyện về pho tượng

Có nhiều câu chuyện được dân gian đồn thổi quanh việc tìm thấy pho tượng kỳ bí kể trên. Nào là: Khi đám trẻ chăn trâu chơi bắn bi, nghịch đất, vô tình phát hiện ra giữa đám đất có một phiến đá vảy rồng. Đám trẻ tinh nghịch vội đào bới xung quanh và phát hiện ra pho tượng to vượt sức tưởng tượng. Bấy giờ, người trong làng thấy lạ ra xem, gọi người đến khai quật. Khi đưa tượng lên, vì nôn nóng mà nửa thân sau của tượng bị gãy. Cũng bởi thế mà đám trai tráng tham gia khiêng tượng đã bị trách phạt. Tuy nhiên, đó chỉ là câu chuyện truyền miệng trong dân gian.

Theo ông Nguyễn Đức Đam, thủ từ đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh, việc phát hiện “ông rồng” đang được thờ tại miếu Xà Thần trong đền khá tình cờ. Đó là vào năm 1991, khi tiến hành dọn dẹp tu sửa lại tam quan, một người dân trong thôn đã phát hiện tượng đá lạ ẩn dưới đám cây dại, ngay phía lối lên đền. Đoán đây là tượng quý, người dân trong thôn chỉ dám bới đất xung quanh. Phải mất một tuần ròng, pho tượng mới xuất lộ hoàn toàn. Những người có mặt khi đó ai cũng ngỡ ngàng về độ lớn của tượng và kèm theo đó là cảm giác sợ hãi trước mặt mũi của ông rồng quá đau đớn và bi thương.

Pho tượng có dáng nằm quằn quại, miệng với hàm răng nhọn hoắt cắn ngập vào thân, hai chân gồm những chiếc móng sắc nhọn như muốn xé toạc thân mình. Đôi mắt rồng trợn lên, hai mang phình ra và điểm đặc biệt là tai trái được tạo tác bình thường, còn tai phải thì kín đặc. Rồng được tạc bằng đá sa thạch trong tư thế sống động, nhưng lại thể hiện một trạng thái đau đớn đến tột cùng. Khi đó, người dân trong làng đã xây một ngôi miếu nhỏ, đưa rồng vào thờ và gọi rồng đá bằng cái tên hết sức cung kính “ông rồng”. Vào những ngày tuần tiết, khi đến thắp hương ở chùa Bảo Tháp và đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh, ai cũng coi “ông rồng” như một vị thần, một bảo vật của đền. Nhiều dân làng vẫn bàn tán: “Uy lực của pho tượng mạnh đến nỗi khiến nhiều người lần đầu trông thấy đều rụt rè e sợ”. Vào năm 2009, trong một đợt khai quật khảo cổ để chuẩn bị tu bổ tôn tạo, người ta đã tìm thấy thêm hai khúc chân sau của rồng ngay tại khuôn viên của đền.

Một phần chân sau của rồng vừa phát hiện qua đợt khai quật khảo cổ học

Nguồn gốc pho tượng lạ

Nhiều câu hỏi đã được đặt ra ngay khi tìm thấy bức tượng. Về tác giả của bức tượng, và thời điểm tạc bức tượng vào thời nào? Pho tượng mô tả sự giằng xé nội tâm do nỗi oan khiên của Thái sư Lê Văn Thịnh hay sự ân hận của vua Lý Nhân Tông khi đã gây hàm oan cho một công thần, trung thần? Theo nhận định của nhiều nhà nghiên cứu, đây là pho tượng độc đáo, hình dáng tượng nửa là mình rắn, nửa mang tư thế và móng vuốt như rồng... hình ảnh này chưa từng có trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam và các nước Đông Nam Á. Và vì tượng rồng được tìm thấy trong khuôn viên nơi từng là nhà riêng của Thái sư Lê Văn Thịnh, người đỗ trạng nguyên khoa thi đầu tiên của nhà Lý năm 1075 nên nhiều người cho rằng, tượng chính là nơi gửi gắm những tâm sự về nỗi oan khiên, trái ngang mà Thái sư Lê Văn Thịnh đã phải chịu trong vụ án “Hóa hổ giết vua” trên hồ Dâm Đàm (hồ Tây) đời vua Lý Nhân Tông.

Lại có ý kiến khác cho rằng, sự quằn quại đau đớn trên pho tượng rồng là để biểu lộ sự hối hận của vua Lý Nhân Tông thông qua chi tiết một bên tai lành một bên bị bít kín - so sánh với việc nghe lời xiểm nịnh của gian thần. Bởi lâu nay, rồng chỉ để biểu thị cho đấng quân vương. Và giả thuyết cuối cùng coi pho tượng chỉ là tượng đặt dưới giếng để cầu mưa thuận gió hòa của người dân như ở chùa Phật Tích (Bắc Ninh). Một nhóm các nhà chuyên môn thì phỏng đoán bức tượng này được tạc vào thời Hậu Lê (thế kỷ 14 đến 17, khi công trạng của Lê Văn Thịnh đã được ghi nhận và vụ nghi án hồ Dâm Đàm (hồ Tây, Hà Nội) đã phần nào được soi xét). Nhưng cho dù là ý kiến nào thì người ta đều thống nhất một điều, đó là bức tượng đã lột tả tâm trạng oan khuất, bi oán của Lê Văn Thịnh.

Lật lại vụ án hồ Dâm Đàm

Lê Văn Thịnh đỗ thủ khoa (tương đương Trạng nguyên) của khoa thi Minh kinh bác học thời Lý (1075). Với nhiều công trạng, con đường quan lộ của ông đã lên đến tột đỉnh: Thái sư đầu triều. Nhưng đúng ở vào thời khắc đỉnh cao của sự nghiệp thì ông bị vu tội “hóa hổ giết vua” vào năm 1096 và phải đi đày ở Thao Giang (Phú Thọ ngày nay). Người đương thời và hậu thế đều đặt dấu hỏi về tính chân xác của sự kiện trên... Trong Đại Việt sử ký toàn thư chép có đoạn về vụ án “hóa hổ giết vua” như sau: “Bấy giờ vua ra hồ Dâm Đàm, ngự trên thuyền nhỏ xem đánh cá. Chợt có mây mù nổi lên, trong đám mù nghe có tiếng thuyền bơi đến, tiếng mái chèo rào rào, vua lấy giáo ném. Chốc lát mây mù tan, thấy trong thuyền có con hổ, mọi người sợ tái mặt, nói: “Việc nguy rồi!”. Người đánh cá là Mục Thận quăng lưới trùm lên con hổ, thì ra là Thái sư Lê Văn Thịnh. Vua nghĩ Thịnh là đại thần có công giúp đỡ, không nỡ giết, đày lên trại đầu Thao Giang. Trước đấy Lê Văn Thịnh có gia nô người nước Đại Lý (Vân Nam, Trung Quốc - PV) có phép thuật kỳ lạ, cho nên mượn thuật ấy toan làm chuyện thí nghịch”.

Có rất nhiều uẩn khúc quanh câu chuyện này. Xét về chuyện hóa hổ, điều đó có phần chỉ là sự thêm thắt hư cấu lịch sử. Việc Thái sư Lê Văn Thịnh bị vu cho tội thí nghịch, giết vua và bị đày lên Giang Thao có thể xem như là một điều lạ lùng bởi nhiều lý do. Thứ nhất, ngay từ năm 1071, nhà Lý đã có đạo luật quy định về tội Thập ác, trong đó có tội mưu phản, những kẻ phạm tội này đều chịu kết cục giống nhau là bị xử tử. Sự nhất quán này càng được khẳng định khi vào năm 1106, vua Lý đại xá thiên hạ, nhưng tội mưu phản không được xem xét. Với các sự kiện đó, nếu nói vì lòng nhân ái mà vua không giết Lê Văn Thịnh là chưa có sức thuyết phục. Bên cạnh đó, mặc dù là Thái sư đầu triều nhưng xung quanh vua Lý lúc này vẫn còn rất nhiều “bộ óc” trác việt như Thái úy Lý Thường Kiệt… nắm giữ quyền lớn trong tay. Xét về mặt logic, việc có ý định giết vua là điều thật khó có thể nghĩ đến. Vụ việc “hóa hổ” càng trở nên đáng tin hơn khi ngay thời đó trong dân gian đã lưu truyền rằng, Lê Văn Thịnh học được nhiều phép thuật, trong đó có phép thả mù, hóa hổ. Bởi thế, có thể khẳng định, Thái sư Lê Văn Thịnh bị hàm oan.
Đỗ Nguyễn ANTĐ


   
Cô Cô reacted
Trả lờiTrích dẫn
bố sói
(@duyragon)
Nhi đồng
Tài sản: 35.94
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 19
 

Đăng bởi: @ping-bunny

Em xin góp một bài trên báo ANTĐ cách đây lâu lắm lắm rồi ạ.
Em copy của một thành viên trên trang thegioivohinh

Mặc định Những chuyện lạ xung quanh pho tượng rồng kỳ bí

Cho đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi quanh câu chuyện về pho tượng kỳ bí được tìm thấy cách đây 20 năm, trong một lần tu bổ tam quan đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh, ở thôn Bảo Tháp, xã Đông Cứu, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Pho tượng này ngay từ khi xuất lộ đã khiến nhiều người giật mình bởi tư thế quái dị của nó “miệng cắn thân, chân xé mình”.
Bí ẩn tượng rồng đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh

Tượng rồng tại đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh


Khối tượng rồng phát hiện năm 1991 đang thờ tại miếu Xà Thần

Ly kỳ câu chuyện về pho tượng

Có nhiều câu chuyện được dân gian đồn thổi quanh việc tìm thấy pho tượng kỳ bí kể trên. Nào là: Khi đám trẻ chăn trâu chơi bắn bi, nghịch đất, vô tình phát hiện ra giữa đám đất có một phiến đá vảy rồng. Đám trẻ tinh nghịch vội đào bới xung quanh và phát hiện ra pho tượng to vượt sức tưởng tượng. Bấy giờ, người trong làng thấy lạ ra xem, gọi người đến khai quật. Khi đưa tượng lên, vì nôn nóng mà nửa thân sau của tượng bị gãy. Cũng bởi thế mà đám trai tráng tham gia khiêng tượng đã bị trách phạt. Tuy nhiên, đó chỉ là câu chuyện truyền miệng trong dân gian.

Theo ông Nguyễn Đức Đam, thủ từ đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh, việc phát hiện “ông rồng” đang được thờ tại miếu Xà Thần trong đền khá tình cờ. Đó là vào năm 1991, khi tiến hành dọn dẹp tu sửa lại tam quan, một người dân trong thôn đã phát hiện tượng đá lạ ẩn dưới đám cây dại, ngay phía lối lên đền. Đoán đây là tượng quý, người dân trong thôn chỉ dám bới đất xung quanh. Phải mất một tuần ròng, pho tượng mới xuất lộ hoàn toàn. Những người có mặt khi đó ai cũng ngỡ ngàng về độ lớn của tượng và kèm theo đó là cảm giác sợ hãi trước mặt mũi của ông rồng quá đau đớn và bi thương.

Pho tượng có dáng nằm quằn quại, miệng với hàm răng nhọn hoắt cắn ngập vào thân, hai chân gồm những chiếc móng sắc nhọn như muốn xé toạc thân mình. Đôi mắt rồng trợn lên, hai mang phình ra và điểm đặc biệt là tai trái được tạo tác bình thường, còn tai phải thì kín đặc. Rồng được tạc bằng đá sa thạch trong tư thế sống động, nhưng lại thể hiện một trạng thái đau đớn đến tột cùng. Khi đó, người dân trong làng đã xây một ngôi miếu nhỏ, đưa rồng vào thờ và gọi rồng đá bằng cái tên hết sức cung kính “ông rồng”. Vào những ngày tuần tiết, khi đến thắp hương ở chùa Bảo Tháp và đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh, ai cũng coi “ông rồng” như một vị thần, một bảo vật của đền. Nhiều dân làng vẫn bàn tán: “Uy lực của pho tượng mạnh đến nỗi khiến nhiều người lần đầu trông thấy đều rụt rè e sợ”. Vào năm 2009, trong một đợt khai quật khảo cổ để chuẩn bị tu bổ tôn tạo, người ta đã tìm thấy thêm hai khúc chân sau của rồng ngay tại khuôn viên của đền.

Một phần chân sau của rồng vừa phát hiện qua đợt khai quật khảo cổ học

Nguồn gốc pho tượng lạ

Nhiều câu hỏi đã được đặt ra ngay khi tìm thấy bức tượng. Về tác giả của bức tượng, và thời điểm tạc bức tượng vào thời nào? Pho tượng mô tả sự giằng xé nội tâm do nỗi oan khiên của Thái sư Lê Văn Thịnh hay sự ân hận của vua Lý Nhân Tông khi đã gây hàm oan cho một công thần, trung thần? Theo nhận định của nhiều nhà nghiên cứu, đây là pho tượng độc đáo, hình dáng tượng nửa là mình rắn, nửa mang tư thế và móng vuốt như rồng... hình ảnh này chưa từng có trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam và các nước Đông Nam Á. Và vì tượng rồng được tìm thấy trong khuôn viên nơi từng là nhà riêng của Thái sư Lê Văn Thịnh, người đỗ trạng nguyên khoa thi đầu tiên của nhà Lý năm 1075 nên nhiều người cho rằng, tượng chính là nơi gửi gắm những tâm sự về nỗi oan khiên, trái ngang mà Thái sư Lê Văn Thịnh đã phải chịu trong vụ án “Hóa hổ giết vua” trên hồ Dâm Đàm (hồ Tây) đời vua Lý Nhân Tông.

Lại có ý kiến khác cho rằng, sự quằn quại đau đớn trên pho tượng rồng là để biểu lộ sự hối hận của vua Lý Nhân Tông thông qua chi tiết một bên tai lành một bên bị bít kín - so sánh với việc nghe lời xiểm nịnh của gian thần. Bởi lâu nay, rồng chỉ để biểu thị cho đấng quân vương. Và giả thuyết cuối cùng coi pho tượng chỉ là tượng đặt dưới giếng để cầu mưa thuận gió hòa của người dân như ở chùa Phật Tích (Bắc Ninh). Một nhóm các nhà chuyên môn thì phỏng đoán bức tượng này được tạc vào thời Hậu Lê (thế kỷ 14 đến 17, khi công trạng của Lê Văn Thịnh đã được ghi nhận và vụ nghi án hồ Dâm Đàm (hồ Tây, Hà Nội) đã phần nào được soi xét). Nhưng cho dù là ý kiến nào thì người ta đều thống nhất một điều, đó là bức tượng đã lột tả tâm trạng oan khuất, bi oán của Lê Văn Thịnh.

Lật lại vụ án hồ Dâm Đàm

Lê Văn Thịnh đỗ thủ khoa (tương đương Trạng nguyên) của khoa thi Minh kinh bác học thời Lý (1075). Với nhiều công trạng, con đường quan lộ của ông đã lên đến tột đỉnh: Thái sư đầu triều. Nhưng đúng ở vào thời khắc đỉnh cao của sự nghiệp thì ông bị vu tội “hóa hổ giết vua” vào năm 1096 và phải đi đày ở Thao Giang (Phú Thọ ngày nay). Người đương thời và hậu thế đều đặt dấu hỏi về tính chân xác của sự kiện trên... Trong Đại Việt sử ký toàn thư chép có đoạn về vụ án “hóa hổ giết vua” như sau: “Bấy giờ vua ra hồ Dâm Đàm, ngự trên thuyền nhỏ xem đánh cá. Chợt có mây mù nổi lên, trong đám mù nghe có tiếng thuyền bơi đến, tiếng mái chèo rào rào, vua lấy giáo ném. Chốc lát mây mù tan, thấy trong thuyền có con hổ, mọi người sợ tái mặt, nói: “Việc nguy rồi!”. Người đánh cá là Mục Thận quăng lưới trùm lên con hổ, thì ra là Thái sư Lê Văn Thịnh. Vua nghĩ Thịnh là đại thần có công giúp đỡ, không nỡ giết, đày lên trại đầu Thao Giang. Trước đấy Lê Văn Thịnh có gia nô người nước Đại Lý (Vân Nam, Trung Quốc - PV) có phép thuật kỳ lạ, cho nên mượn thuật ấy toan làm chuyện thí nghịch”.

Có rất nhiều uẩn khúc quanh câu chuyện này. Xét về chuyện hóa hổ, điều đó có phần chỉ là sự thêm thắt hư cấu lịch sử. Việc Thái sư Lê Văn Thịnh bị vu cho tội thí nghịch, giết vua và bị đày lên Giang Thao có thể xem như là một điều lạ lùng bởi nhiều lý do. Thứ nhất, ngay từ năm 1071, nhà Lý đã có đạo luật quy định về tội Thập ác, trong đó có tội mưu phản, những kẻ phạm tội này đều chịu kết cục giống nhau là bị xử tử. Sự nhất quán này càng được khẳng định khi vào năm 1106, vua Lý đại xá thiên hạ, nhưng tội mưu phản không được xem xét. Với các sự kiện đó, nếu nói vì lòng nhân ái mà vua không giết Lê Văn Thịnh là chưa có sức thuyết phục. Bên cạnh đó, mặc dù là Thái sư đầu triều nhưng xung quanh vua Lý lúc này vẫn còn rất nhiều “bộ óc” trác việt như Thái úy Lý Thường Kiệt… nắm giữ quyền lớn trong tay. Xét về mặt logic, việc có ý định giết vua là điều thật khó có thể nghĩ đến. Vụ việc “hóa hổ” càng trở nên đáng tin hơn khi ngay thời đó trong dân gian đã lưu truyền rằng, Lê Văn Thịnh học được nhiều phép thuật, trong đó có phép thả mù, hóa hổ. Bởi thế, có thể khẳng định, Thái sư Lê Văn Thịnh bị hàm oan.
Đỗ Nguyễn ANTĐ

cho e xin 500 ảnh minh hoạ mí bác thỏ hồng

 


   
Cô Cô, PING BUNNY and HTA reacted
Trả lờiTrích dẫn
Quá nhi
(@duongqua)
Nhi đồng
Tài sản: 137
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 51
 

@cô cô : post tiếp đi. Quá Nhi ngồi hóng.


   
Cô Cô and Anonymous reacted
Trả lờiTrích dẫn
Quá nhi
(@duongqua)
Nhi đồng
Tài sản: 137
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 51
 

Đăng bởi: @duyragon

Đăng bởi: @ping-bunny

Em xin góp một bài trên báo ANTĐ cách đây lâu lắm lắm rồi ạ.
Em copy của một thành viên trên trang thegioivohinh

Mặc định Những chuyện lạ xung quanh pho tượng rồng kỳ bí

Cho đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi quanh câu chuyện về pho tượng kỳ bí được tìm thấy cách đây 20 năm, trong một lần tu bổ tam quan đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh, ở thôn Bảo Tháp, xã Đông Cứu, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Pho tượng này ngay từ khi xuất lộ đã khiến nhiều người giật mình bởi tư thế quái dị của nó “miệng cắn thân, chân xé mình”.
Bí ẩn tượng rồng đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh

Tượng rồng tại đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh


Khối tượng rồng phát hiện năm 1991 đang thờ tại miếu Xà Thần

Ly kỳ câu chuyện về pho tượng

Có nhiều câu chuyện được dân gian đồn thổi quanh việc tìm thấy pho tượng kỳ bí kể trên. Nào là: Khi đám trẻ chăn trâu chơi bắn bi, nghịch đất, vô tình phát hiện ra giữa đám đất có một phiến đá vảy rồng. Đám trẻ tinh nghịch vội đào bới xung quanh và phát hiện ra pho tượng to vượt sức tưởng tượng. Bấy giờ, người trong làng thấy lạ ra xem, gọi người đến khai quật. Khi đưa tượng lên, vì nôn nóng mà nửa thân sau của tượng bị gãy. Cũng bởi thế mà đám trai tráng tham gia khiêng tượng đã bị trách phạt. Tuy nhiên, đó chỉ là câu chuyện truyền miệng trong dân gian.

Theo ông Nguyễn Đức Đam, thủ từ đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh, việc phát hiện “ông rồng” đang được thờ tại miếu Xà Thần trong đền khá tình cờ. Đó là vào năm 1991, khi tiến hành dọn dẹp tu sửa lại tam quan, một người dân trong thôn đã phát hiện tượng đá lạ ẩn dưới đám cây dại, ngay phía lối lên đền. Đoán đây là tượng quý, người dân trong thôn chỉ dám bới đất xung quanh. Phải mất một tuần ròng, pho tượng mới xuất lộ hoàn toàn. Những người có mặt khi đó ai cũng ngỡ ngàng về độ lớn của tượng và kèm theo đó là cảm giác sợ hãi trước mặt mũi của ông rồng quá đau đớn và bi thương.

Pho tượng có dáng nằm quằn quại, miệng với hàm răng nhọn hoắt cắn ngập vào thân, hai chân gồm những chiếc móng sắc nhọn như muốn xé toạc thân mình. Đôi mắt rồng trợn lên, hai mang phình ra và điểm đặc biệt là tai trái được tạo tác bình thường, còn tai phải thì kín đặc. Rồng được tạc bằng đá sa thạch trong tư thế sống động, nhưng lại thể hiện một trạng thái đau đớn đến tột cùng. Khi đó, người dân trong làng đã xây một ngôi miếu nhỏ, đưa rồng vào thờ và gọi rồng đá bằng cái tên hết sức cung kính “ông rồng”. Vào những ngày tuần tiết, khi đến thắp hương ở chùa Bảo Tháp và đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh, ai cũng coi “ông rồng” như một vị thần, một bảo vật của đền. Nhiều dân làng vẫn bàn tán: “Uy lực của pho tượng mạnh đến nỗi khiến nhiều người lần đầu trông thấy đều rụt rè e sợ”. Vào năm 2009, trong một đợt khai quật khảo cổ để chuẩn bị tu bổ tôn tạo, người ta đã tìm thấy thêm hai khúc chân sau của rồng ngay tại khuôn viên của đền.

Một phần chân sau của rồng vừa phát hiện qua đợt khai quật khảo cổ học

Nguồn gốc pho tượng lạ

Nhiều câu hỏi đã được đặt ra ngay khi tìm thấy bức tượng. Về tác giả của bức tượng, và thời điểm tạc bức tượng vào thời nào? Pho tượng mô tả sự giằng xé nội tâm do nỗi oan khiên của Thái sư Lê Văn Thịnh hay sự ân hận của vua Lý Nhân Tông khi đã gây hàm oan cho một công thần, trung thần? Theo nhận định của nhiều nhà nghiên cứu, đây là pho tượng độc đáo, hình dáng tượng nửa là mình rắn, nửa mang tư thế và móng vuốt như rồng... hình ảnh này chưa từng có trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam và các nước Đông Nam Á. Và vì tượng rồng được tìm thấy trong khuôn viên nơi từng là nhà riêng của Thái sư Lê Văn Thịnh, người đỗ trạng nguyên khoa thi đầu tiên của nhà Lý năm 1075 nên nhiều người cho rằng, tượng chính là nơi gửi gắm những tâm sự về nỗi oan khiên, trái ngang mà Thái sư Lê Văn Thịnh đã phải chịu trong vụ án “Hóa hổ giết vua” trên hồ Dâm Đàm (hồ Tây) đời vua Lý Nhân Tông.

Lại có ý kiến khác cho rằng, sự quằn quại đau đớn trên pho tượng rồng là để biểu lộ sự hối hận của vua Lý Nhân Tông thông qua chi tiết một bên tai lành một bên bị bít kín - so sánh với việc nghe lời xiểm nịnh của gian thần. Bởi lâu nay, rồng chỉ để biểu thị cho đấng quân vương. Và giả thuyết cuối cùng coi pho tượng chỉ là tượng đặt dưới giếng để cầu mưa thuận gió hòa của người dân như ở chùa Phật Tích (Bắc Ninh). Một nhóm các nhà chuyên môn thì phỏng đoán bức tượng này được tạc vào thời Hậu Lê (thế kỷ 14 đến 17, khi công trạng của Lê Văn Thịnh đã được ghi nhận và vụ nghi án hồ Dâm Đàm (hồ Tây, Hà Nội) đã phần nào được soi xét). Nhưng cho dù là ý kiến nào thì người ta đều thống nhất một điều, đó là bức tượng đã lột tả tâm trạng oan khuất, bi oán của Lê Văn Thịnh.

Lật lại vụ án hồ Dâm Đàm

Lê Văn Thịnh đỗ thủ khoa (tương đương Trạng nguyên) của khoa thi Minh kinh bác học thời Lý (1075). Với nhiều công trạng, con đường quan lộ của ông đã lên đến tột đỉnh: Thái sư đầu triều. Nhưng đúng ở vào thời khắc đỉnh cao của sự nghiệp thì ông bị vu tội “hóa hổ giết vua” vào năm 1096 và phải đi đày ở Thao Giang (Phú Thọ ngày nay). Người đương thời và hậu thế đều đặt dấu hỏi về tính chân xác của sự kiện trên... Trong Đại Việt sử ký toàn thư chép có đoạn về vụ án “hóa hổ giết vua” như sau: “Bấy giờ vua ra hồ Dâm Đàm, ngự trên thuyền nhỏ xem đánh cá. Chợt có mây mù nổi lên, trong đám mù nghe có tiếng thuyền bơi đến, tiếng mái chèo rào rào, vua lấy giáo ném. Chốc lát mây mù tan, thấy trong thuyền có con hổ, mọi người sợ tái mặt, nói: “Việc nguy rồi!”. Người đánh cá là Mục Thận quăng lưới trùm lên con hổ, thì ra là Thái sư Lê Văn Thịnh. Vua nghĩ Thịnh là đại thần có công giúp đỡ, không nỡ giết, đày lên trại đầu Thao Giang. Trước đấy Lê Văn Thịnh có gia nô người nước Đại Lý (Vân Nam, Trung Quốc - PV) có phép thuật kỳ lạ, cho nên mượn thuật ấy toan làm chuyện thí nghịch”.

Có rất nhiều uẩn khúc quanh câu chuyện này. Xét về chuyện hóa hổ, điều đó có phần chỉ là sự thêm thắt hư cấu lịch sử. Việc Thái sư Lê Văn Thịnh bị vu cho tội thí nghịch, giết vua và bị đày lên Giang Thao có thể xem như là một điều lạ lùng bởi nhiều lý do. Thứ nhất, ngay từ năm 1071, nhà Lý đã có đạo luật quy định về tội Thập ác, trong đó có tội mưu phản, những kẻ phạm tội này đều chịu kết cục giống nhau là bị xử tử. Sự nhất quán này càng được khẳng định khi vào năm 1106, vua Lý đại xá thiên hạ, nhưng tội mưu phản không được xem xét. Với các sự kiện đó, nếu nói vì lòng nhân ái mà vua không giết Lê Văn Thịnh là chưa có sức thuyết phục. Bên cạnh đó, mặc dù là Thái sư đầu triều nhưng xung quanh vua Lý lúc này vẫn còn rất nhiều “bộ óc” trác việt như Thái úy Lý Thường Kiệt… nắm giữ quyền lớn trong tay. Xét về mặt logic, việc có ý định giết vua là điều thật khó có thể nghĩ đến. Vụ việc “hóa hổ” càng trở nên đáng tin hơn khi ngay thời đó trong dân gian đã lưu truyền rằng, Lê Văn Thịnh học được nhiều phép thuật, trong đó có phép thả mù, hóa hổ. Bởi thế, có thể khẳng định, Thái sư Lê Văn Thịnh bị hàm oan.
Đỗ Nguyễn ANTĐ

cho e xin 500 ảnh minh hoạ mí bác thỏ hồng

 

Quá nhi hộ chị Thỏ hồng giả nhời yêu cầu của bác.

Noi oan Thai su hoa ho giet vua rong da3 1535101396 width683height1024
Noi oan Thai su hoa ho giet vua rong da4 1535101396 width1024height683
ran 2362 1485514430

 


   
bố sói, Cô Cô, Ngo rung and 2 people reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Khoa thi Minh kinh bác học và Nho học tam trường 1075.

Nói thêm về khoa thi mà Lê Văn Thịnh là thủ khoa, khoa thi Minh kinh bác học và Nho học tam trường, khoa thi Nho học đầu tiên của nước Việt, lấy đỗ 10 người. Lịch triều hiến chương loại chí ghi “tuyển Minh kinh Bác học dữ Nho học tam trường” nghĩa là “tuyển Minh kinh Bác học và Nho học tam trường”. Cách ghi như này dẫn đến 2 cách hiều. Một là khoa thi gồm 2 vòng, vòng thứ nhất thi “Nho học tam trường”, lấy người đỗ vào thi vòng 2 là “Minh kinh Bác học”, hoặc hiểu theo nghĩa khoa thi chỉ có một vòng với tên như trên.

Giải thích ý nghĩa từ Minh kinh có nghĩa là Thông hiểu kinh điển. Khoa thi Minh kinh Bác học là chọn lấy bậc cao trong số những người “minh kinh”. Và khoa thi này là một chế khoa (khoa thi bất thường, mở ra theo ý vua, khác với khoa thi thường lệ), để chọn người thông hiểu kinh điển, chuẩn bị cho thày dạy Quốc tử giám mở năm 1076. Ngoài ra, trong lịch sử khoa cử TQ và VN, chỉ có khoa Minh kinh, chứ không có khoa Minh kinh Bác học nào khác, hơn nữa Minh kinh Bác học là một chức quan trong QTG. Cho nên khoa thi nhà Lý năm 1075 có thể nói là khoa thi đặc biệt để tìm người tài và thày dạy QTG, như nói ở trên.   

Về Nho học tam trường, để phân biệt với Nho học tứ trường. Tứ trường gồm có:

Trường nhất là thi kinh nghĩa (tức các sách Tứ thư, Ngũ kinh của Nho giáo), viết theo thể văn bát cổ, trường nhị thi tản văn hành chính, chiếu biểu (tức soạn thảo các văn bản hành chính như chiếu, biểu, sớ, dụ...), trường tam thi thơ phú (sáng tác theo chủ đề của đề thi), trường cuối thi văn sách (tương tự như thi tự luận). Trường nhị và trường tam có thể đổi vị trí cho nhau.

Vòng thi kinh nghĩa tương đối dễ với thí sinh, chỉ cần thuộc lòng T thư, Ngũ kinh và trình bày cho đúng ý của người xưa. Vòng thi chiếu biểu phải thuộc hàng trăm bài loại này rồi chắt lọc tinh hoa để viết thành bài thi. Dễ làm và khó đỗ nhất là kỳ thi thơ phú. Dễ vì suốt cả ngày chỉ cần sáng tác một bài thơ tối đa 16 câu và một bài phú tám câu, nhưng cái khó là phải hay, vì cái hay nó vô cùng.

Vòng bốn thi văn sách thì tự do trình bày theo kiến giải riêng của mình, tương tự như thi tự luận ngày nay. Muốn qua được vòng thi này, không những phải làu thông kinh sử mà còn phải nắm rõ thời sự quốc gia, biết vận dụng sở học của mình để trình bày những kiến giải mới lạ, đề ra được kế sách cho các vấn đề quốc gia đại sự. Đề thi thường hỏi đủ mọi lĩnh vực: thiên văn, địa lý, bói toán, y học...; đặc biệt là những câu hỏi về thời sự, đòi hỏi thí sinh phải có những kiến giải độc đáo và đưa ra giải pháp khả thi. Thi tứ trường nhưng phải học thiên kinh vạn quyển là thế!

Thời Lý, thi Nho học tam trường là phù hợp với tình hình của lịch sử khoa cử thời mở đầu.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Salut and Anonymous reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Về châu Quảng Nguyên

Nhà Lý quản lý vùng biên viễn theo hệ thống hành chính ki mi, có nghĩa là các sắc tộc hay các bộ lạc tự quản trị địa phương của mình, tuy nhiên thuế khoá hay nhân lực vẫn được kiểm soát bởi chính quyền trung ương. Các vùng đất của các bộ tộc này sinh sống được gọi là các “châu ki mi”. Các tù trưởng được ban ấn, phong chức, ban thưởng, chịu trách nhiệm trước triều đình quản lý lãnh thổ,… Việc gả công chúa cho các tù trưởng dân tộc là chính sách khôn khéo giữ nước và đoàn kết các cộng đồng dân tộc ít người ở miền núi phía Bắc dưới triều Lý.

Châu Quảng Nguyên (thời Lê đổi là châu Lộng Nguyên, nay là đất các huyện Quảng Uyên, Phúc Hòa, Thạnh An, tỉnh Cao Bằng), là vùng đất mà thời đó cả nhà Tống và Đại Việt đều tuyên bố chủ quyền, nhưng tù trưởng ở vùng này chủ yếu cống nạp cho phía Đại Việt (theo An Nam chí lược của Lê Tắc).

Châu Quảng Nguyên ở xa triều đình, vào thời Lý là vùng đất đi lại khó khăn, khí hậu khắc nghiệt nhưng nổi tiếng vì có nhiều vàng, bạc, chì, thiếc... Từ trước khi nước Đại Cồ Việt độc lập (968) đến những thế kỷ sau, vùng đất này luôn bị nhà Tống dòm ngó tìm mọi cách xâm chiếm. Mà thời kỳ đó, nhà nước Đại Việt chưa thật sự đủ sức để quản lý chặt chẽ.

Họ Nùng là thủ lĩnh vùng Quảng Uyên, thường đánh đu giữa Tống và Đại Việt, khi thực lực đủ mạnh còn manh nha tách ra độc lập, nhưng nhà Lý vẫn kiên trì chính sách thu phục, vỗ về.

Năm ấy (1041), Nùng Trí Cao cùng với mẹ là A Nùng từ động Lôi Hỏa lại về chiếm cứ châu Thảng Do, đổi châu ấy làm nước Đại Lịch. Vua (Lý Thái Tông) sai tướng đi đánh, bắt sống được Trí Cao đem về Kinh sư. Vua thương tình vì cha là Tồn Phúc và anh là Trí Thông đều đã bị giết nên tha tội, cho giữ châu Quảng Nguyên như cũ, lại phụ thêm cho bốn động Lôi Hỏa, Bình, An, Bà và châu Tư Lang nữa.

(Đại Việt sử ký toàn thư)

Khi nhà Tống xâm lược Đại Việt, đại quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy tiến vào vùng biên ải, những đạo quân của Đại Việt ở vùng biên ải đều là thổ binh, bị quân Tống dễ dàng khuất phục ngay từ đầu, nên quân tiền phong không giữ nổi các ải Quyết Lý và Giáp Khẩu (Chi Lăng). Cuối cùng nhờ phòng tuyến sông Như Nguyệt khéo đặt trận, thủy quân mạnh, nên Lý Thường Kiệt ngăn cản được sức tiến công quyết liệt của quân Tống.

Về trận chiến trên sông Như Nguyệt, sách Việt sử lược có ghi: "Hai quân giữ nhau ở sông Như Nguyệt hơn một tháng. Lý Thường Kiệt biết rằng quân Tống sức lực đã khốn, ban đêm sang sông đánh úp, đại phá được. Quân Tống 10 phần, chết đến 5, 6, bèn lui về giữ Quảng Nguyên"

Đến năm Mu Ngọ (1078) Lý Nhân Tông sai Đào Tôn Nguyên đưa voi sang cống nhà Tống và đòi lại những châu huyện ở mạn Quảng Nguyên. Vua Tống bắt phải trả những người châu Khâm, châu Liêm và châu Ung mà quân nhà Lý bắt về ngày trước, rồi mới trả châu huyện cho nhà Lý. Sang năm KMùi (1079) Nhân Tông cho những người Tàu về nước, tất cả chỉ có 221 người. Con trai thì thích ba chữ vào trán, từ 15 tuổi trở lên thì thích: Thiên tử binh; 20 tuổi trở lên thì thích: Đầu Nam triều; còn con gái thì thích vào tay trái hai chữ: Quan khách. 

Đất Quảng Nguyên từ khi bọn Quách Quì lấy được, cải tên là Thuận Châu và có 3.000 quân Tống ở lại giữ, nhưng vì đất lam chướng, mười phần chết đến năm sáu. 

Đến khi nhà Lý cho những người châu Khâm, châu Liêm và châu Ung về Tàu, vua nhà Tống trả lại châu Quảng Nguyên. Nhưng vì có người nói rằng châu ấy có nhiều vàng, người Tống tiếc của, làm hai câu thơ rằng: 

Nhân tham Giao Chỉ tượng,
khướt thất Quảng Nguyên kim

(vì tham voi Giao Chỉ, bỏ mất vàng Quảng Nguyên) 

Đến mùa hạ năm Giáp Tí (1084) Nhân Tông sai quan Binh bộ Thị lang là Lê Văn Thịnh sang nhà Tống bàn việc chia địa giới. Lê Văn Thịnh phân gii mọi lẽ, nhà Tống trả nốt cả mấy huyện mà trước còn giữ lại. Từ đó Đại Việt và nước Tàu lại thông sứ như cũ. 

Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết:

Mậu Ngọ, [Anh Vũ Chiêu Thắng] năm thứ 3 [1078], (Tống Nguyên Phong năm thứ 1). Mùa
xuân, tháng giêng, sửa lại thành Đại La, sai Đào Tống Nguyên đem biếu nhà Tống 5 con voi thuần, xin
trả lại các châu Quảng Nguyên, Tô Mậu, và những người các châu ấy bị bắt đi.

[10b] Kỷ Mùi, [Anh Vũ Chiêu Thắng] năm thứ 4 [1079], (Tống Nguyên Phong năm thứ 2).
Châu Lạng dâng voi trắng.
Mưa đá.
Được mùa to.
Nhà Tống đem Thuận Châu trả cho ta (tức là châu Quảng Nguyên, nhà Tống đổi làm Thuận
Châu).

Giáp Tý, /Anh Vũ Chiêu Thắng/ năm thứ 9 [1084], (Tống Nguyên Phong năm thứ 7). Mùa hạ,
tháng 6, sai thi lang bộ Binh Lê Văn Thịnh đến trại Vĩnh Bình cùng với người Tống bàn việc cương giới.
Xuống chiếu cho thiên hạ nung ngói lợp nhà.
Định biên giới.
Nhà Tống trả lại cho ta 6 huyện 3 động. Người Tống có thơ rằng:"Nhân tham Giao Chỉ tượng,
khướt thất Quảng Nguyên kim" (vì tham voi Giao Chỉ, bỏ mất vàng Quảng Nguyên).
[11b] Ất sửu, /Quảng Hựu/ năm thứ 1 [1085], (Tống Nguyên Phong năm thứ 8). Cho Lê Văn
Thịnh làm Thái sư. Bấy giờ thiên hạ vô sự, Hoàng hậu đi chơi khắp các nơi núi sông, ý muốn xây dựng
chùa tháp.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Salut reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Về một số cải cách thời Thái sư Lê Văn Thịnh

Trong thời gian làm Lê Văn Thịnh làm Thái sư (Thái sư là chức quan đứng đầu trong Tam thái, gồm có Thái sư, Thái phó và Thái bảo ), từ 1085 - 1096, nhà Lý đã thi hành một loạt chính sách tiến bộ: Năm 1086, đặt lệ thi tuyển người vào Hàn lâm viện. Năm ấy, Mạc Hiển Tích trúng tuyển là Hàn lâm viện học sĩ. Năm 1088, định các chùa trong nước làm ba hạng: Đại, trung và tiểu danh lam, cho quan văn chức cao kiêm làm Đề cử (để quản lý ruộng đất và tài sản của nhà chùa) vì bấy giờ, nhà chùa có điền nô và đồ vật chứa trong kho. Năm 1089, định các chức quan văn võ, quan hầu vua và các chức tạp lưu. Năm 1092, định số ruộng thu tô mỗi mâu 3 thăng để cấp lương cho quân.

Có thể thấy rằng, các thiết chế chính trị của Nho giáo đang dần được đưa vào vào một vương triều Phật giáo. Cải cách về ruộng đất cũng ảnh hưởng lớn quyền lợi của tầng lớp hữu sản, chủ yếu là quan lại, hào phú (và có thể cả giới tăng lữ đại diện cho các chùa vốn sở hữu nhiều ruộng đất), nên họ có phản ứng rất quyết liệt với ông, dẫn đến sự việc ông bị án oan.

Đại Việt sử ký toàn thư chép:

Bính Dần, /Quảng Hựu/ năm thứ 2 [1086] 
Mùa thu, tháng 8, thi người có văn học trong nước, sung làm quan ở Hàn lâm viện, Mạc Hiển Tích trúng tuyển, bổ làm Hàn lâm học sĩ.

Mậu Thìn, /Quảng Hựu/ năm thứ 4 [1088] 
Định các chùa trong nước làm ba hạng đại, trung và tiểu danh lam, cho quan văn chức cao kiêm làm Đề cử
. Bấy giờ nhà chùa có điền nô và kho chứa đồ vật, cho nên đặt chức ấy.

Kỷ Tỵ, /Quảng Hựu/ năm thứ 5 [1089]

Mùa xuân, tháng 3, định các chức văn võ, quan hầu vua và các chức tạp lưu.

Nhâm Thân, /Quảng Hựu/ năm thứ 7 [1092]
Được mùa to. Định sổ ruộng, thu tô mỗi mẫu 3 thăng
 để cấp lương cho quân.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Vụ án hồ Dâm Đàm năm 1096

Việt điện u linh, một cuốn sách chuyên của ghi chép chuyện truyền thuyết, linh dị, hoàn thành khoảng năm 1329, viết: Trong thời vua Lý Nhân Tông, quan thái sư Lê Văn Thịnh, nuôi được một tên gia nô người Đại Lý có thuật lạ: đọc thần chú xong, biến hình thành hổ báo, Văn Thịnh cố dỗ để dạy mình thuật ấy, học được thuật rồi, liền lập mưu giết tên gia nô và định dùng thuật hại vua để cướp ngôi.

Bấy giờ vua Nhân Tông ngự ra Hồ Tây xem đánh cá, thuyền vua đang bơi trong hồ, bỗng thấy mây mù nổi lên phủ kín, rồi nghe có tiếng mái chèo tới gần, trong mây mù trông thấy có con hổ nhe răng, giương vuốt chực hại người. Nhân Tông hoảng sợ bối rối. Lúc đó, Mục Công ngồi thuyền đánh cá ở gần, nhìn kỹ thấy thế, nói: “việc gấp lắm rồi”, liền quăng lưới chụp vào thuyền kia, bắt được con hổ và nhận ra là Lê Văn Thịnh.

Còn theo Việt sử lược (một bộ sử của nước ta được viết vào cuối đời Trần, nhưng không còn lưu giữ được ở trong nước, mãi về sau mới được in vào Tứ khố toàn thư đời Thanh) thì không có câu chuyện hoang đường là Lê Văn Thịnh hóa hổ: Lúc bấy giờ, vua ngự chiếc thuyền nhỏ, thị vệ rất ít. Thái sư Lê Văn Thịnh từ lâu đã chất chứa mưu gian, nhân đó dùng ảo thuật làm thành khói mù lớn. Ở giữa hồ đang ban ngày, trời tối sầm lại. Bỗng chốc vua nghe thấy tiếng mái chèo lại gần, vua nghĩ chắc có biến bèn lấy giáo phóng ra. Khói mù theo giáo mà tan đi. Thấy thuyền của Văn Thịnh đã sát tới, có sẵn đồ hung khí, vua sai người bắt. Vua xuống chiếu đày Văn Thịnh đi Lương - giang - đầu. Xưa nhà Văn Thịnh có một đầy tớ (gia nô), người Đại Lý, giỏi về ảo thuật. Văn Thịnh học phép của nó, đến lúc này bèn phản.

ĐVSKTT: Bính Tý, /Hội Phong/ năm thứ 5 [1096]. Mùa Xuân, tháng 3, Lê Văn Thịnh mưu làm phản, tha tội chết, an trí ở Thao Giang. Bấy giờ vua ra hồ Dâm Đàm, ngự trên thuyền nhỏ xem đánh cá. Chợt có mây mù nổi lên, trong đám mù nghe có tiếng thuyền bơi đến, tiếng mái chèo rào rào, vua lấy giáo ném. Chốc lát mây mù tan, thấy trong thuyền có con hổ, mọi người sợ tái mặt, nói: "Việc nguy rồi!". Người đánh cá là Mạc Thận quăng lưới trùm lên con hổ, thì ra là Thái sư Lê Văn Thịnh. Vua nghĩ Thịnh là đại thần có công giúp đỡ, không nỡ giết, đày lên trại đầu Thao Giang. Thưởng cho Mục Thận quan chức và tiền của, lại cho đất ở Tây Hồ làm thực ấp. Trước đấy Văn Thịnh có gia nô người nước Đại Lý có phép thuật kỳ lạ, cho nên mượn thuật ấy toan làm chuyện thí nghịch.

 

(Thao Giang: tên trại thời Lý, thời Trần đổi là lộ, nay là vùng huyện Tam Nông, Thanh Thủy, Sông Thao, tỉnh Phú Thọ).

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Có thể thấy các ghi chép trên đều rất sơ sài, chứa đựng những chi tiết hoang đường, và đều là từ các sách ra đời ra vụ án hàng trăm năm, dường như, đương thời, người ta đã cố tình quên đi vụ án, không ghi chép lại chi tiết (dẫn đến hậu thế, như các sách trên, không còn căn cứ hoặc chỉ có thông tin mơ hồ), để mọi chuyện lãng đãng trong lớp sương mù huyền ảo như chính màn sương nơi hồ Dâm Đàm. Ta chỉ có thể thống nhất rằng Lê Văn Thịnh bị khép tội mưu hại vua, nhưng không bị xử chết mà chỉ bị lưu đày miền ngược. Dân gian lưu truyền, lúc già yếu, ông được ân xá, trên đường tìm về quê hương, sức cùng lực kiệt, ông đã mất tại làng Điềng (xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) khi chưa kịp về quê cha đất tổ.

Các nghi vấn được đặt ra: Tại sao một vụ án kinh thiên động địa thời đó lại dường như không được được ghi chép cẩn thận, mà chỉ toàn chi tiết hoang đường? Tại sao Lê Văn Thịnh mưu phản, tội đứng đầu Thập ác, nhưng ông không bị xử tử mà chỉ bị đày? Tại sao sau đó không thấy thông tin triều đình truy tìm bè đảng và không thấy đề cập ai là bè đảng của ông và có bị xử tội hay không? Không lẽ muốn giết vua, cướp ngôi mà ông chỉ làm một mình?  

Cần lưu ý rằng, trước đó, năm 1073, Thượng Dương Thái hậu cùng 76 (72 ???) cung nữ bị nhốt vào cung Thượng Dương, bị bức chết và chôn theo Lý Thánh Tông, chỉ bởi Lý Nhân Tông muốn làm an lòng mẹ là Linh Nhân Thái hậu. Như vậy, e rằng khiên cưỡng khi giải thích rằng Lê Văn Thịnh được tha tội chết là bởi vua có lòng nhân từ do ảnh hưởng của Phật giáo.

Xét những cải cách kinh tế, chính trị, xã hội thời đó, sự lớn mạnh và gia tăng ảnh hường, xâm nhập hệ thống chính trị đương thời của Nho giáo, đe dọa đến vị trí độc tôn của Phật giáo (Quốc giáo), có thể nhận định, Lê Văn Thịnh, với vụ án hóa hổ, là nạn nhân của sự xung đột giữa giới sùng Phật (mà người đứng đầu là Thái hậu Ỷ Lan và vua Lý Nhân Tông) và hệ tư tưởng Nho giáo (mà đứng đầu là ông).

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Trả lờiTrích dẫn
(@soncaxanh)
Nhi đồng
Tài sản: 491.99
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 10
 

Khoảng năm 1993, em được tháp tùng một đoàn các cụ do cố GS Nguyễn Hoàng Phương đi Bắc Ninh điền dã hệ thống chùa chiền thuộc trung tâm Luy Lâu xưa, có lên chùa Thiên Thai và đền thờ cụ Thái sư Nguyễn Văn Thịnh. Khi đó cũng được chiêm ngưỡng pho tượng con rồng đá tự cắn đuôi xé thịt. Cụ thủ từ lúc bấy cũng giảng ý như đa số bây giờ về biểu tượng nỗi oan khiên của cụ Thái sư quá cố. Khi đó, còn có cả việc đưa đoàn khách ra giữa một khoảng ruộng nước rồi giới thiệu là mộ cụ Thái sư. Đồng thời, lại kể truyền thuyết là cụ Thái sư mất trên đường về quê rồi mối xông rồi được thờ làm Thành hoàng đại loại....

Tuy vậy, ngay khi đó, cụ Giáo  Nguyễn Hoàng Phương có nhắc đến một thuật ngữ tiếng tây mà em không nhớ được. Cụ Giáo giảng biểu tượng rồng cắn đuôi với phương Đông là biểu hiện về môn trị thủy, về những môn thiên văn tuần hoàn âm dương... Còn với bên Tây thì là biểu tượng triết học của sự tái sinh, của sống chết của hai mặt đối lập mâu thuẫn và thống nhất....

Đoàn điền dã mà hồi đó em bám càng chính là tiền thân của cái Nghiên cứu tiềm năng con người sau này. Các sáng lập viên thời đó, cụ Giáo Phương, ông nhà báo Soạn, cụ Hồng Quang, cô Bích đều đã qua đời. Nay còn mỗi bà cô em thì cũng đờ đẫn rồi. 


   
Salut and Cô Cô reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Hậu thế, tuy không có đủ tài liệu, bằng chứng để minh oan cho ông, nhưng nhân dân vẫn kính trọng tài năng và sự nghiệp của ông, chôn cất và lập đền thờ, tôn ông làm Thành hoàng ở nhiều làng. Thời nhà Lê và các triều đại phong kiến sau này đều ghi công và gia phong Thái sư Lê Văn Thịnh làm thành hoàng.

Hằng năm, nhân dân đều tổ chức lễ hội để vinh danh. Đặc biệt 4 năm một lần vào các năm có hàng chi Thân, Tý, Thìn lại tổ chức lễ hội thập đình quy mô lớn (là lễ hội của 10 làng cùng tôn Trạng Nguyên Lê Văn Thịnh làm Thành hoàng làng, gồm có: Bảo Tháp, Yên Việt, Hương Vinh, Đông Cao, Hiệp Sơn, Tri Nhị, Địch Trung, Vân Xá, Huề Đông, Cứu Sơn)

Ngày 5-2-1994, Nhà nước ta cấp Bằng công nhận di tích Lịch sử - Văn hóa đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh tại thôn Bảo Tháp, xã Đông Cứu, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Đăng bởi: @soncaxanh

Khoảng năm 1993, em được tháp tùng một đoàn các cụ do cố GS Nguyễn Hoàng Phương đi Bắc Ninh điền dã hệ thống chùa chiền thuộc trung tâm Luy Lâu xưa, có lên chùa Thiên Thai và đền thờ cụ Thái sư Nguyễn Văn Thịnh. Khi đó cũng được chiêm ngưỡng pho tượng con rồng đá tự cắn đuôi xé thịt. Cụ thủ từ lúc bấy cũng giảng ý như đa số bây giờ về biểu tượng nỗi oan khiên của cụ Thái sư quá cố. Khi đó, còn có cả việc đưa đoàn khách ra giữa một khoảng ruộng nước rồi giới thiệu là mộ cụ Thái sư. Đồng thời, lại kể truyền thuyết là cụ Thái sư mất trên đường về quê rồi mối xông rồi được thờ làm Thành hoàng đại loại....

Tuy vậy, ngay khi đó, cụ Giáo  Nguyễn Hoàng Phương có nhắc đến một thuật ngữ tiếng tây mà em không nhớ được. Cụ Giáo giảng biểu tượng rồng cắn đuôi với phương Đông là biểu hiện về môn trị thủy, về những môn thiên văn tuần hoàn âm dương... Còn với bên Tây thì là biểu tượng triết học của sự tái sinh, của sống chết của hai mặt đối lập mâu thuẫn và thống nhất....

Đoàn điền dã mà hồi đó em bám càng chính là tiền thân của cái Nghiên cứu tiềm năng con người sau này. Các sáng lập viên thời đó, cụ Giáo Phương, ông nhà báo Soạn, cụ Hồng Quang, cô Bích đều đã qua đời. Nay còn mỗi bà cô em thì cũng đờ đẫn rồi. 

Vâng, cũng có luồng ý kiến cho rằng pho tượng rồng/rắn "đầu cắn thân, chân xé mình" chỉ là một lá bùa để cầu mưa thuận gió hòa, giống như tượng rồng đặt dưới giếng ở chùa Phật Tích. Tuy nhiên, rõ ràng về tạo hình, pho tượng này giống một con mãng xà hơn là một con rồng (bất kể là hình tượng rồng thời nào).

 

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
Salut and phobach reacted
Trả lờiTrích dẫn
Trang 1 / 2
Chia sẻ: