Nước Việt, từ xa xưa, dưới thời đại Hùng vương, nhà nước tiền phong kiến đã đặt ra các quan trưởng để trông coi và chia nhau giữ gìn chính sự và phong hoá. Lúc này, theo sử sách ghi chép, chỉ biết chia làm hai ban: ban văn và ban võ. Người phụ trách ban văn là Lạc hầu; người phụ trách ban võ là Lạc tướng. Còn các chức ty, các cơ quan chuyên môn, guồng máy tổ chức như thế nào thì hiện chưa rõ.
"Đến đời Tiền Lý, Tiền Ngô, cũng đều đặt quan chia chức (Tiền Lý Nam đế lên ngôi, đặt ra các quan chức, Tiền Ngô vương dựng nước cũng đặt các quan chức), nhưng đời đã cách xa, sách vở thiếu sót, sơ lược không thể biết được. Từ nhà Đinh về sau cho đến Lý, Trần, tên các quan đặt ra mới biết được đại khái. Đến đời [Hậu] Lê, quy chế dựng đặt mới rõ ràng."
(Lịch triều hiến chương loại chí - Phan Huy Chú)
Sáng tai họ, điếc tai cày
Phân biệt tước hiệu và phẩm hàm.
Dưới các triều đại phong kiến Việt Nam, để phân biệt địa vị, chức vụ giữa các quan với nhau, vua thường ban cho các quí tộc và quan lại các tước vị. Chế độ tước vị này rất phức tạp với nhiều tước hiệu, thang bậc khác nhau. Chung qui lại có 2 loại chính là tước và phẩm.
Tước hiệu là tôn hiệu của vua ban cho người trong hoàng tộc hay những người có công với đất nước, với triều đình.
Phong tước là hình thức ban tặng danh hiệu cho tầng lớp quý tộc trong chế độ phong kiến, đi kèm với nó là việc ban tặng đất đai, tạo nên các giai cấp địa chủ và nông dân. Do đó, khái niệm về chế độ phong kiến cũng xuất phát từ đó (phong tước + kiến địa).
Sáng tai họ, điếc tai cày
Nếu Cô cô cung cấp được đầy đủ thông tin các triều thì hay quá.
“ Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.”
Tước hiệu có 2 loại: có phong địa (tức kèm theo ban tặng đất đai) và không phong địa. Cách thức đặt tên tước là lấy tên đất được phong đặt trước tên tước. Ví dụ Hải Lăng Vương: Hải Lăng là tên đất (tên một huyện), Vương là tên tước. Kiến Xương Vương: Kiến Xương là tên một phủ, Vương là tên tước. Trường hợp không phong địa thì đặt một mỹ tự được phong (từ có nghĩa đẹp) trước tên tước. Ví dụ Hưng Đạo Vương: Hưng Đạo là mỹ tự, Vương là tên tước. Khai Quốc công: Khai là mỹ tự, Quốc công là tên tước; Minh Quận công, Minh là mỹ tự, Quận công là tên tước.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Các bậc tước hiệu
Tước gồm chủ yếu các bậc sau (từ cao đến thấp): Vương, Công, Hầu, Bá, Tử, Nam.
- Tước Vương: Trong lịch sử Việt Nam, lúc đầu Vương là xưng hiệu của Thiên tử, người đứng đầu quốc gia, như Hùng Vương, An Dương Vương, Trưng Nữ Vương, Triệu Việt Vương, Ngô Vương,...
Khi thế nước mạnh, các Thiên tử Việt Nam xưng Hoàng đế để tỏ ra ngang hàng với Hoàng đế Trung Hoa thì Vương ko còn là vị trí cao nhất. Tuy nhiên trong quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, để tránh xung đột không cần thiết, các Hoàng đế Việt Nam thường áp dụng chính sách “Nội xưng Đế, ngoại xưng Vương”, tiếp nhận và sử dụng danh hiệu An Nam Quốc vương do Trung Quốc phong để quan hệ ngoại giao với họ.
Vương thành tước vị do Hoàng đế phong tặng cho Hoàng tử, cho các quí tộc cao cấp, hoặc cho những người có công lao to lớn đối với triều đình, chủ yếu là những công thần khai quốc và những trường hợp đặc biệt khác.
Những người được phong Vương có thể có thực ấp hoặc chỉ có danh vị không, tùy vào tình thế thời đại và quy chế lúc bấy giờ. Các vị Vương nhà Lý và nhà Trần đều có thực ấp, đất phong và lực lượng riêng để gây dựng cơ nghiệp. Đến khi nhà Hậu Lê phục quốc, Triều đình áp dụng chính sách bổng lộc riêng, tước Vương và các tước vị khác chỉ là danh vị.
- Tước Công cũng là một tước vị đứng hàng đầu trong hệ thống tước vị, được phong tặng cho con cháu Hoàng tộc và bậc khai quốc công thần. Tước Công có hai cấp cao thấp là: Quốc công và Quận công. Triều Nguyễn còn có bậc Thân công. Cũng như tước Vương, tước Công rất ít khi phong tặng cho người ngoài hoàng tộc, hoặc chỉ phong cho người có công trạng đặc biệt to lớn, thống lĩnh quân đội hoặc nắm giữ binh quyền quan trọng.
- Thứ tự tiếp theo là các tước vị: Hầu, Bá, Tử, Nam, phong tặng cho các hoàng thân, quý tộc và triều thần, tùy theo quan hệ trong Hoàng tộc và công trạng của mỗi người đối với Quốc gia, triều đình.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Theo Lịch triều hiến chương loại chí
"...Thánh Tông, năm Hồng Đức thứ 2 [1471], định quan chế và các tước, lấy họ nhà vua đứng đầu: thân vương thì hoàng tử được phong, lấy phủ làm hiệu (như Kiến Xương phủ, gọi là Kiến Xương vương), từ thân vương thì thế tử của thân vương được phong lấy huyện làm hiệu (như Hải Lăng huyện, gọi là Hải Lăng vương), tước công thì các con của hoàng thái tử và thân vương được phong, dùng mỹ tự (chữ hay) làm hiệu (như Triệu Khang công v.v.), tước hầu thì con trưởng của tự vương có tước công được phong, lấy mỹ tự làm hiệu (như Vĩnh Kiến hầu, v.v.), tước bá thì hoàng thái tôn, các con của tự vương có tước công và con trưởng của thân công chúa được phong, lấy mỹ tự làm hiệu (như Tĩnh Cung bá v.v...), tước tử thì các con của thân công chúa, và con trưởng của tước hầu, tước bá được phong, lấy mỹ tự làm hiệu (như Diên Xương tử), tước nam thì con trưởng của thân công chúa được truy tặng và các con của tước hầu tước bá được phong, lấy mỹ tự làm hiệu (như Quảng Trạch nam v.v...)."
Sáng tai họ, điếc tai cày
Phẩm hàm
Phẩm hay còn gọi là phẩm hàm thường được dùng để ban tước vị cho các quan lại.
Quan lại trong triều đình chia làm hai (2) ban văn võ được gọi là Văn giai, Võ giai. Mỗi ban văn võ có chín (9) bậc phẩm. Văn giai có chín (9) phẩm, Võ giai có chín (9) phẩm.
Chín (9) phẩm với Cửu phẩm là phẩm hạng thấp nhất và Nhất phẩm là phẩm hạng cao nhất (ngoại trừ trong quan chế Gia Long, còn có bậc phẩm cao hơn Nhất phẩm). Đường quan là 5 phẩm trên từ nhất phẩm đến ngũ phẩm; thuộc quan là quan cấp dưới từ lục phẩm đến cửu phẩm.
Mỗi bậc phẩm lại được chia nhỏ làm 2 trật khác nhau là Chánh (Chính) và Tòng (Tùng). Trật Chánh cao hơn trật Tòng. Vì mỗi phẩm có 2 trật (Chánh và Tòng), nên mỗi ban Văn võ có mười tám (18) trật khác nhau trong chín (9) phẩm. Văn giai có chín (9) phẩm mười tám (18) trật, Võ giai có chín (9) phẩm mười tám (18) trật.
Quan lại đứng đầu triều đình thuộc hàm Nhất phẩm. Đứng đầu các Bộ (Lại, Lễ, Hộ, Binh, Hình, Công. Sau này có thêm bộ Học) là quan Thượng thư (hàm Nhị phẩm).
Cửu phẩm là tước vị thấp nhất, thường được dùng để ban cho quan lại, không chỉ ở triều đình mà còn ở các địa phương, làng xã.
Quan thường được ban phẩm, nhưng cũng có một số quan không được ban phẩm. Ngược lại một số người không phải là quan nhưng có công đức cao vẫn được vua ban phẩm.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Nhà Đinh
Đinh Tiên Hoàng đã hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý đất nước từ hình thức “Vương quyền”, chuyển sang hình thức “Đế quyền”, với 3 cấp: Triều đình Trung ương - Đạo (trung gian) - Giáp, Xã (cơ sở).
Triều đình Trung ương tại kinh đô Hoa Lư do Đinh Tiên Hoàng đứng đầu, con trai cả là Đinh Liễn được phong làm Nam Việt vương, có quyền hành lớn chỉ sau Hoàng đế và được giao đặc trách công việc bang giao. Năm Thái Bình thứ 2 [971], bắt đầu định giai phẩm các quan văn võ, có các chức đô hộ sỹ sư, tướng quân, nha hiệu
Vua Đinh phong cho các quan văn võ:
- Nguyễn Bặc làm Định Quốc công
- Đinh Điền làm Ngoại giáp
- Lưu Cơ làm Đô hộ phủ sĩ sư (một chức quan tư pháp, coi việc hình án)
- Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân
- Giang Cự Vọng làm Nha hiệu
Lại định giai phẩm các tăng và các đạo sĩ, có các danh hiệu đại sư, tăng lục đạo sĩ, sùng chân uy nghi.
- Tăng thống Ngô Chân Lưu được ban hiệu là Khuông Việt đại sư
- Trương Ma Ni làm Tăng lục đạo sĩ
- Đặng Huyền Quang thì cho chức Sùng chân uy nghi.
Năm 975 vua Đinh ban quy định áo mũ cho các quan văn võ. Bộ máy chính quyền nhà Đinh vẫn được xem là còn đơn sơ.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Nhà Tiền Lê
Lê Đại Hành, năm đầu [980], đặt quan có các chức thái sư, thái úy, tổng quản, đô chỉ huy sứ .
- Hồng Kính người Trung Quốc làm Thái sư
- Phạm Cự Lượng làm Thái úy (quản lý quân đội)
- Từ Mục làm Đại tổng quản tri quân dân,ban cho tước Hầu (làm nhiệm vụ Tể tướng, đứng đầu bá quan)
- Đinh Thừa Chính làm Nha nội đô chỉ huy sứ.
Đại sư Ngô Chân Lưu làm Quốc sư, vừa quản lý đạo Phật, vừa làm cố vấn cho nhà vua.
Về việc quân sự, năm 986 đặt binh Túc vệ, gọi là Thân quân, trên trán đều thích chữ Thiên Tử Quân, về sau lệ cấm quân thích chữ ở trán, bụng, đùi bắt đầu từ đây.
Năm Thiên Phúc thứ 8 [988], định ngũ quân, chia tướng hiệu làm hai ban. Người đứng đầu chỉ huy tối cao quân đội dưới triều nhà Tiền Lê là Đô Chỉ huy sứ . Tiếp đến là Điện tiền Chỉ huy sứ, gồm hai vị tướng Tả điện tiền và Hữu điện tiền (Lý Công Uẩn trước khi được triều thần tôn lên làm vua đã từng giữ chức Tả Thân vệ điện tiền Chỉ huy sứ dưới triều đại này).
Lê Hoàn còn phong vương cho các con (11 hoàng tử và 1 con nuôi) ra các trấn địa phương.
"Đến năm Ứng Thiên thứ 13 [1006], Khai Minh vương (Long Đĩnh) cướp nối ngôi, sửa đổi quan chế về văn võ tăng đạo, đều theo như nhà Tống cả. " (LTHCLC)
Sáng tai họ, điếc tai cày
Nhà Lý
Quan chế triều Lý đại lược văn võ đều có 9 phẩm. Lấy 3 chức thái (Thái sư, Thái phó, Thái bảo), ba chức thiếu (Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo) cùng Thái úy, Thiếu úy và nội ngoại hành điện đô tri sự, kiểm hiệu bình chương sự, đều làm chức trọng yếu của văn võ đại thần.
Người thay mặt vua điều hành công việc (Tể tướng, đứng đầu triều đình) là Phụ quốc Thái uý hoặc Phụ quốc Thái sư , vị này được vua gia phong danh hiệu Kiểm hiệu Bình chương Quân quốc trọng sự.
Ban văn thì có bộ thượng thư, tả hữu tham tri, tả hữu gián nghị và trung thư thị lang (thuộc quan thì có các chức trung thư thừa, trung thư xá nhân), bộ thị lang, tả hữu ty lang trung, thượng thư sảnh viên ngoại lang, đông tây cáp môn sứ, tả hữu phúc tâm, nội thường thị, phủ sĩ sư, điện học sĩ, hàn lâm học sĩ, vệ đại phu, thư gia các hỏa, thừa trực lang, thừa tin lang. Các chức kể trên đều là các chức quan trọng làm việc ở trong triều.
Chức quan đứng thứ 2 trong triều (Á tướng) có Tả Tham tri Chính sự và Hữu Tham tri Chính sự.
Các chức làm việc bên ngoài thì có những chức tri phủ, phán phủ và tri châu.
Võ ban thì có đô thống, nguyên soái, tổng quản, khu mật sứ, khu mật tả hữu sứ, tả hữu kim ngô, thượng tướng, đại tướng, đô tướng, tướng quân các vệ (có các hiệu Uy vệ, Kiêu vệ, Định thắng), chỉ huy sứ, vũ vệ hỏa đầu, cùng là sáu binh tào Vũ tiệp, Vũ lâm. Các chức kể trên đều là tướng hiệu, lĩnh binh chức ở trong. Còn ở ngoài thì các lộ, trấn, trại đều đặt quan và binh đóng giữ, về thứ bậc phẩm cấp thì chưa biết rõ.
Chức hành khiển, bắt đầu đặt từ đời Lý, chuyên lấy trung quan (hoạn quan) làm chức ấy, gia thêm danh hiệu "Nhập nội Hành khiển đồng trung thư môn hạ bình chương sự", cũng là chức đứng sau Tể tướng.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Lý Thái Tổ, năm Thuận Thiên thứ 1 [1010], phong quan tước cho người thân thuộc và người có công, các danh hiệu: thái sư, thái phó, thái bảo, tổng quản, tướng công, cơ mật sứ, tả hữu kim ngô, tả hữu vũ vệ, viên ngoại lang. Còn các chức khác vẫn theo như nhà [Tiền] Lê.
Thái Tông, năm Thiên Thành thứ 1 [1028], mới đặt các chức thượng tướng tôn quan để phong cho cha hoàng hậu (như các danh hiệu an quốc, phụ quốc, khuông quốc). Lại đặt tả hữu khu mật, tả hữu tham tri chính sự, tả hữu gián nghị, trung thư thị lang, cùng các chức uy nghi thượng tướng, định thắng thượng tướng, tả hữu phúc tâm, nội thị. Lại đặt chức đô thống đại nguyên soái.
Thánh Tông, năm Long Thụy thứ 1 [1054], đặt chức Văn Minh điện Đại học sĩ. Năm thứ 2 [1055], đổi chức thư gia làm án ngục lại.
Nhân Tông, năm Quảng Hựu thứ 3 [1087], đặt Hàn lâm viện. Năm thứ 4 [1088], đặt mười hỏa thư gia (như các chức: nội hỏa thư gia, ngự khố thư gia, chi hầu thư gia, nội thư gia, lệnh thư gia. Năm sau định các chức văn võ và tụng quan (chức quan hầu cận vua), tạp lưu (các chức về tăng đạo, những người không do văn hay võ thi đỗ ra làm). Lại đặt thêm chức kiểm hiệu bình chương quân quốc trọng sự để trao cho trọng thần. Năm Hội Tường Đại Khánh thứ 9 [1118], đặt chức bộ thị lang. Năm sau lại đặt chức trung thư thừa.
Thần Tông, năm Thiên Thuận thứ 1 [1128], thăng các trật tước văn võ: Văn thì có các chức thượng thư sảnh viên ngoại lang, đông tây cáp môn sứ, tả hữu ty lang trung; võ thì có các hiệu chỉ huy sứ, nội vũ vệ, nội hỏa đầu.
(LTHCLC)
Sáng tai họ, điếc tai cày
VỀ MỘT SỐ TÊN TƯỚC VỊ, CHỨC QUAN
1. Tam công (Tam Thái, theo quan chế nhà Chu, Trung Quốc), Tam cô (Tam Thiếu)
Tam Thái, còn gọi là Tam công, là ba chức danh, gồm Thái sư, Thái phó, Thái bảo. Đây là chức và cũng là hàm mà nhà vua vinh phong cho các đại thần ban Văn có công với triều đình, thường là Chánh nhất phẩm, được phong tước Công hoặc tước Vương (nếu là hoàng thân).
Những vị này được nhà vua tin cậy, triều thần trọng vọng, có quyền hành ngang Tể tướng, tuy không có thực quyền như Tể tướng, vì đây chỉ là chức hàm vinh phong chứ không phải chức vụ công việc.
Những vị này thường có nhiệm vụ cố vấn cho nhà vua, được nhà vua lấy đó làm gương.
Nếu là đại thần ban Võ thì có chức hàm Thái uý, ngang hàng với Tam thái. Ví dụ: Lý Thường Kiệt từng là Thái uý dưới triều nhà Lý, Tổng chỉ huy tối cao quân đội lúc bấy giờ, quyền ngang Tể tướng, trong khi đó Lý Đạo Thành giữ chức Tể tướng, hàm Thái sư.
Tam Thiếu, còn gọi là Tam cô, gồm ba chức hàm vinh phong cho đại thần ban Văn là Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo, thường các vị này mang phẩm hàm Tòng nhất phẩm hoặc Chánh nhị phẩm. Đối với đại thần ban Võ là Thiếu uý. Như vậy, đứng về phẩm hàm thì Tam Thiếu và Thiếu uý đứng dưới Tam Thái (Tam công) và Thái uý một bậc.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Tam công và Tam cô bắt đầu đặt ra từ đầu nhà Lý để làm danh hiệu gia thêm cho đại thần, chưa phải là những chức làm việc.
Về sau mới giao cho chính sự, có lúc kiêm làm chức tể tướng (như đời Lý Anh Tông, Tô Hiến Thành làm Thái phó, đời Lý Cao Tông, Đỗ An Di làm Thái sư, đều kiêm chức Đồng bình chương sự, như Tể tướng). Đời Trần cũng theo như thế, lại đặt thêm các hàm Thống quốc, Tá thánh, Phụ quốc để gia thêm cho các quan tôn thất và trọng thần (như đời Kiến Trung [1225 - 1232], Trần Thủ Độ làm Thống quốc Thái sư, đời Khai Thái [1324 - 1329], Nhật Duật làm Tá thánh Thái sư, Văn Bích làm Phụ quốc Thái bảo). Về chính sự thì cho coi cả việc quân việc dân (như Thủ Độ lấy chức Thái sư làm việc cầm quân đánh giặc, Phùng Tá Chu lấy chức Thái phó quyền coi việc Nghệ An).
Đầu nhà Lê chỉ đặt các chức bảo và phó, chưa đặt đủ Tam thái, Tam thiếu. Đến đời Hồng Đức [1470 - 1498] định lại quan chế, liệt những chức ấy vào bậc chính nhất phẩm. Thời Trung hưng về sau, giai phẩm tuy theo cũ, nhưng chỉ dùng làm danh chức gia thêm cho các đại thần, không phải là chức làm việc. Như khi Nguyễn Bỉnh Khiêm làm quan cho nhà Mạc, được các vị vua nhà Mạc trọng vọng nên đã vinh phong cho thân phụ của ông là cụ Nguyễn Văn Định hàm Thái bảo Anh Quận công, dù lúc này cụ đã mất.
Sáng tai họ, điếc tai cày
2. Tam Tư
Tam Tư: gồm ba chức hàm Tư đồ, Tư mã, Tư không.
Đời nhà Lý chưa có.
Đầu nhà Trần mới đặt Tư đồ để gia thêm cho các quan tôn thất đại thần. Về sau đặt cả Tư mã, Tư không, đều là những chức gia thêm cho các đại thần thuộc hoàng tộc, mang hàm Chánh nhất phẩm, quyền ngang Tể tướng, được nhà vua và triều thần kính trọng.
Trần Quang Triều giữ chức Tư đồ (tể tướng) thời Trần Minh Tông, Phế đế buổi đầu giao cho Lê [Hồ] Quý Ly chức Tư không. Trần Nguyên Đán (ông ngoại của Đại thi hào Nguyễn Trãi) từng giữ chức hàm Tư đồ dưới triều vua Trần Nghệ Tông (1370-1372) và Trần Duệ Tông (1372-1377).
Triều Lê, Thái Tổ khi mới dựng nước bắt đầu đặt ba chức ấy (Trần Nguyên Hãn làm Tư đồ, Lê Sát làm Tư mã, Đinh Lễ làm Tư không). Về sau trao các chức ấy cho các quan thân thuộc và bầy tôi có công, đều thêm chữ "Nhập nội". Đến đời Thánh Tông định quan chế mới bãi ba chức ấy. Thời Trung hưng về sau lại theo quan chế lúc mới dựng nước, lấy ba chức ấy làm gia hàm cho các đại thần.
Sáng tai họ, điếc tai cày
3. Tể tướng
Chức quan đứng đầu triều đình, có nhiệm vụ thay mặt nhà vua điều hành công việc của Nội các Chính phủ, điều khiển các quan lại trong triều ngoài hạt, mang hàm Chánh nhất phẩm. Có thể coi như là Thủ tướng Chính phủ hiện nay.
Chức vụ này mỗi triều đại có tên gọi khác nhau.
Nhà Đinh về trước, tên gọi là gì chưa rõ.
Nhà Tiền Lê là chức Tổng quản Tri quân dân (Từ Mục giữ chức này).
Nhà Lý (từ Thái Tông) là Phụ quốc Thái uý (hay Phụ quốc Thái sư) giữ chính sự. Đời Nhân Tông gia thêm mấy chữ "Kiểm hiệu Bình chương Quân quốc trọng sự".
Đầu nhà Trần là Tả, Hữu Tướng quốc gia thêm Kiểm hiệu đặc tiến Khai phủ Nghi đồng tam ty Bình chương sự. Từ đời Kiến Trung [1225 - 1232] về sau, đều dùng thân vương trong tôn thất làm chức ấy, gia phong tước Quốc công.
Nhà Lê, Thái Tổ sau khi dẹp yên giặc Minh, mới đặt chức tướng quốc gia thêm "Kiểm hiệu Bình chương quân quốc trọng sự", tên gọi cũng theo như nhà Trần. Đến đời Thánh Tông đặt quan mới bãi chức Bình chương tướng quốc, việc cầm quyền giao riêng cho trọng thần kiêm thêm, không đặt tên quan khác.
Giúp việc cho quan Tể tướng có quan Á tướng (Phó tướng), có lúc chức vụ Á tướng này còn gọi là Hành khiển Thượng thư hay Tham tri chính sự với 2 vị: Tả Tham tri chính sự và Hữu Tham tri chính sự.
Sang triều Nguyễn với 13 đời vua (1802-1945) do lệ tứ bất lập (?), trong đó không lập chức Tể tướng đứng đầu triều, vị trí và trọng trách ấy được giao cho cả tập thể đại thần thân tín gồm Hội đồng nội các và Viện Cơ mật. Tất cả mọi việc triều chính do nhà vua trực tiếp điều hành, sau khi cùng bàn bạc với đại thần ở Hội đồng nội các và Cơ mật viện.
Sáng tai họ, điếc tai cày