4. Á tướng
Á tướng là vị quan đứng thứ nhì triều đình, chỉ sau chức vị Tể tướng, có nhiệm vụ giúp Tể tướng trong công việc nội chính, ngoại giao và điều khiển trăm quan. Chức vụ này, có thời gọi là Phó tướng.
Các triều trước chưa rõ, triều nhà Lý (1010-1225) đã đặt hai vị Á tướng là Tả Tham tri Chính sự và Hữu Tham tri Chính sự. Đời Trần (1225-1400) cũng đặt hai vị Á tướng là Tả Bộc xạ và Hữu Bộc xạ. Chức vụ này thông thường nhà vua cử quan Hành khiển Thượng thư (đời Trần) hay Nhập nội Hành khiển (các đời Hậu Lê sơ) kiêm nhiệm.
Đời Hồ (1400-1407), chức vụ này cũng y như đời Trần.
Riêng các vua thời Lê Trung hưng (1533-1788) chức Á tướng do quan Mật viện Tham tri kiêm nhiệm. Dưới thời Lê trung hưng, từ khi trở lại Thăng Long, chúa Bình An vương Trịnh Tùng (1570 -1623) lấn át vua Lê lập ra phủ chúa, ở phủ chúa đặt chức Tham tụng (đứng đầu bá quan trong phủ) và Bồi tụng (đứng thứ hai).
Sáng tai họ, điếc tai cày
5. Tham tụng và Bồi tụng
- Tham tụng: Chức quan này chỉ có ở phủ chúa Trịnh, dưới thời Lê Trung hưng. Đây là vị quan đứng đầu ở phủ chúa, thay mặt Chúa chỉ đạo các quan và giải quyết công việc ở phủ chúa. Thực tế vào thời Lê - Trịnh thì quyền hành nằm ở tay Chúa, cho nên vị Tham tụng ở phủ chúa có thực quyền nhiều hơn vị Tể tướng ở triều đình vua Lê. Hoàng giáp Bùi Huy Bích từng là Tham tụng ở phủ chúa Trịnh.
- Bồi tụng: Chức quan này chỉ có ở phủ chúa Trịnh, dưới thời Lê Trung hưng. Đây là vị quan đứng thứ nhì ở phủ chúa, phụ giúp Tham tụng chỉ đạo các quan và giải quyết công việc ở phủ chúa. Nguyễn Khản (anh trai cùng cha khác mẹ của thi hào Nguyễn Du) từng giữ chức Bồi tụng ở phủ chúa Trịnh.
Sáng tai họ, điếc tai cày
6. Hành khiển
Chức hành khiển, bắt đầu đặt từ đời Lý, chuyên lấy trung quan (hoạn quan) làm chức ấy, gia thêm danh hiệu "Nhập nội hành khiển đồng trung thư môn hạ bình chương sự", cũng là chức đứng sau Tể tướng.
Nhà Trần buổi đầu theo chế độ cũ nhà Lý, lại chia làm Hành khiển tả hữu ty ở Thánh Từ cung (Thượng hoàng ở) và Hành khiển ty ở Quan Triều cung (Hoàng đế ở) đều gọi là Mật viện. Đến đời Minh Tông, niên hiệu Khai Thái [1324 - 1329], lại đổi cả làm Môn hạ sảnh. Đầu đời Nhân Tông, Quang Khải làm tướng, không thích để cho Hành khiển với Tể tướng cùng hàm, mới tâu vua xin đổi làm Trung thư môn hạ công sự. Đến đời Minh Tông, cho Trần Khắc Chung làm Hành khiển, lại gia thêm Đồng trung thư môn hạ bình chương sự (như thời Lý).
Nhà Lê sơ cũng thiết lập quan chế như triều Trần, đặt chức Đại hành khiển và Hành khiển của năm đạo, cho chia giữ các việc sổ sách kiện tụng của quân dân, những chức này đứng đầu văn ban ngang với Tể tướng. Đến thời Lê Thánh Tông sửa lại quan chế bãi bỏ chức vụ Hành khiển.
Sáng tai họ, điếc tai cày
7. Thượng thư
Chức quan đứng đầu một Bộ trong lục Bộ (Lại, Binh, Hình, Lễ, Hộ, Công) trong triều đình, có nhiệm vụ trông coi, chỉ đạo công việc của Bộ được phụ trách, mang hàm Tòng nhị phẩm (đời Hậu Lê), Chánh nhị phẩm (đời Nguyễn). Có thể coi như là vị Bộ trưởng hiện nay.
Chức Thượng thư đặt ra bắt đầu từ đời Lý, nhưng tên các bộ chia đặt thế nào chưa rõ. (Đời Nhân Tông, Mạc Hiển Tích, Đoàn Văn Khâm đều làm Thượng thư).
Nhà Trần, theo phép nhà Lý, đặt chức Thượng thư hành khiển, Thượng thư hữu bật. Đến đời Minh Tông niên hiệu Đại Khánh [1314 - 1324] mới chia ra Thượng thư các bộ (Doãn Bang Hiến làm Thượng thư Lại bộ, Đỗ Nhân Giám làm Thượng thư Binh bộ, Trần Chiêu Ngạn làm Thượng thư Hình bộ).
Đời Lê sơ, chỉ đặt 2 bộ Lại, Lễ, còn thì chưa đặt đủ. Đến khi Nghi Dân cướp ngôi, mới đặt sáu bộ, Thánh Tông lên ngôi, chọn đặt thượng thư các bộ, đều ban cho ấn bộ, chức ở đầu Tòng nhị phẩm. Thời Trung hưng về sau, vẫn đặt theo như thế, không đổi.
Nhà Nguyễn, chức Thượng thư mang hàm Chánh nhị phẩm.
Phụ tá cho Thượng thư có Tả thị lang, Hữu thị lang (thời nhà Lý - Trần - Lê) hoặc Tham tri (thời nhà Nguyễn), có thể xem tương đương cấp Thứ trưởng ngày nay. Dưới nữa là lang trung, viên ngoại lang, tư vụ... (tương đương vụ trưởng, giám đốc các nha hoặc chánh/phó văn phòng ngày nay).
Sáng tai họ, điếc tai cày
8. Bộc xạ
Chức Bộc xạ bắt đầu đặt ra từ đời Trần Nhân Tông, có chức tả [bộc xạ] và hữu [bộc xạ], thường dùng Hành khiển thượng thư làm chức ấy (như Trần Thời Kiến, Trần Bang Cẩn đều làm Hành khiển thượng thư tả bộc xạ). Đó là chức vụ Á tướng. Đầu nhà Lê, Thái Tổ cũng đặt Thị trung bộc xạ làm chức đại thần giữ then chốt chính trị. Đến đời Hồng Đức, định lại quan chế mới bãi chức ấy.
(Lịch triều hiến chương loại chí)
Sáng tai họ, điếc tai cày
9. Ngự sử
Chức Ngự sử, đời Lý về trước chưa đặt. Nhà Trần mới đặt Ngự sử đài, có những chức Thị ngự sử (đứng đầu Ngự sử đài), phụ tá có Giám sát ngự sử, Ngự sử trung tán, Ngự sử trung thừa, Ngự sử đại phu, Chủ thư thị ngự sử.
Lê sơ, Thái Tổ theo quan chế cũ của nhà Trần, vẫn đặt Ngự sử đài có các chức Thị ngự sử, Trung thừa, Phó trung thừa, Giám sát ngự sử, Chủ bạ.
Hậu Lê và Lê trung hưng, Đô ngự sử là chức quan đứng đầu Ngự sử đài, mang hàm Chánh tam phẩm, với nhiệm vụ can gián chỉ rõ những vịêc làm sai trái của vua và có quyền đàn hặc, buộc tội các quan khi các vị này thực thi không đúng chức phận của mình; đồng thời bàn bạc chính sự và duyệt lại các bản án cùng với Bộ Hình và Đại lý tự. Phụ tá công việc cho vị Đô Ngự sử là Phó đô Ngự sử, mang hàm Chánh tứ phẩm, đây là hai vị lãnh ñạo Ngự sử đài. Giúp việc có quan Thiêm đô Ngự sử, mang hàm Chánh ngũ phẩm. Đó là Ngự sử đài tại triều đình trung ương, còn tại địa phương ở các Trấn, đạo thì có quan Giám sát Ngự sử, hàm Chánh thất phẩm.
Nhà Nguyễn thì phẩm hàm các vị quan ở Ngự sử đài có tăng hơn. Tả, Hữu đô Ngự sử mang hàm Chánh nhị phẩm; Tả, Hữu Phó đô Ngự sử mang hàm Tòng nhị phẩm; Kinh kỳ đạo Ngự sử hàm Tòng tứ phẩm; Giám sát Ngự sử hàm Chánh ngũ phẩm.
Sáng tai họ, điếc tai cày
10. Thị lang
Chức quan làm việc ở Bộ.
Nhà Lý buổi đầu đặt quan, đã có những chức Trung thư thị lang, Bộ thị lang, nhưng [các bộ] không đặt đủ. Nhà Trần theo quan chế nhà Lý, đặt đủ thị lang ở sáu bộ. Đến đầu đời Lê đặt tả hữu thị lang, thuộc các sảnh Hoàng môn, Môn hạ, mà chưa chia đặt sáu bộ. Thánh Tông, khoảng đầu đời Quang Thuận [1460 - 1470], đặt sáu bộ, có đủ tả hữu thị lang, ở vào hàng tòng tam phẩm. Đây là chức quan đứng thứ nhì ở Bộ, có nhiệm vụ trợ giúp hay thay mặt Thượng thư điều hành công việc của Bộ ở phần việc mà mỗi vị phụ trách.
Sang đời Nguyễn thì chức vụ này đứng thứ 3 trong mỗi Bộ, dưới Thượng thư và dưới Tả, Hữu Tham tri. Chức quan này, triều Nguyễn mang hàm Chánh tam phẩm.
Có thể coi chức vụ này như là Thứ trưởng Bộ hiện nay.
Sáng tai họ, điếc tai cày
11. Tự khanh
Chức quan văn đứng đầu mỗi Tự. Từ đời Lê Thánh Tông về sau, bên cạnh Lục Bộ, triều đình còn có Lục Tự, gồm: Đại lý Tự; Thái thường Tự; Quang lộc Tự; Thái bộc Tự; Hồng lô Tự; Thường bảo Tự. Mỗi Tự có nhiệm vụ riêng, thường là thừa hành công việc của Lục Bộ giao cho, đó là những việc có liên quan đến Lục Bộ nhưng không thuộc quyền hành giải quyết của Lục Bộ. Tuỳ theo nhiệm vụ của mỗi Tự mà chức Tự khanh có phẩm hàm thấp nhất là Chánh tứ phẩm và cao nhất là Chánh tam phẩm.
Nhân vật thứ nhì của mỗi Tự, đứng sau Tự khanh là quan Tự Thiếu khanh, phẩm hàm thấp nhất là Tòng tứ phẩm và cao nhất là Tòng tam phẩm.
Giúp việc cho hai vị lãnh đạo Tự, có quan Tự thừa, mang hàm Chánh ngũ phẩm.
Sáng tai họ, điếc tai cày
12. Học sĩ
Chức Học sĩ bắt đầu có từ nhà Lý. Đời Nhân Tông đã đặt học sĩ các điện (như Bùi Cảnh Hựu làm Văn Minh điện học sĩ). Nhà Trần theo quan chế nhà Lý, lại đặt thêm những chức Kinh diên đại học sĩ, Nhập thị học sĩ, Thiên chương học sĩ (như trong đời Thánh Tông, Nguyễn Sĩ Cố làm Nhập thị học sĩ, sau thiên làm Thiên chương học sĩ).
Lê Thái Tổ lúc đầu cũng đặt chức Học sĩ, nhưng còn thuộc vào Hàn lâm viện. Đến Thánh Tông định lại quan chế lại đặt học sĩ các điện (như Nguyễn Bá Ký làm Văn Minh điện Đại học sĩ, Nguyễn Cư Đạo làm Cẩn Đức điện Đại học sĩ). Lại đặt các chức Đông các đại học sĩ, và Đông Các học sĩ, ở hàng Chánh tứ phẩm. Thời Trung hưng về sau, bãi chức học sĩ các điện, nhưng về chức Đông các học sĩ vẫn theo đời Hồng Đức.
Sáng tai họ, điếc tai cày
13. Tế tửu Quốc tử giám
Tế tửu Quốc tử giám: Chức quan đứng đầu Quốc tử giám vào đời nhà Hồ (1400-1407) và các triều đại sau (nhà Hậu Lê sơ, Lê trung hưng, nhà Nguyễn), có nhiệm vụ trông coi việc nghi lễ, việc giáo dục, giáo huấn của trường. Có thể xem như là Hiệu trưởng Trường đại học hiện nay, chính xác hơn là Giám đốc Đại học Quốc gia hiện nay. Bởi ngày ấy, trường Quốc tử giám là trường học cao cấp nhất của Nhà nước. Vị quan này vào đời Hậu Lê mang hàm Tòng tứ phẩm; đời Nguyễn mang hàm Chánh tứ phẩm.
Sáng tai họ, điếc tai cày
14. Tư nghiệp Quốc tử giám
Tư nghiệp Quốc tử giám: Chức quan có nhiệm vụ trông coi việc nghi lễ, giáo dục ở trường Quốc tử giám.
Nhà Trần, đây là vị quan đứng đầu nhà trường (có thể xem như là Hiệu trưởng). Sang triều nhà Hồ, Hậu Lê, Nguyễn thì vị này là quan đứng thứ hai của trường, sau vị Tế tửu, mang hàm Tòng ngũ phẩm
(triều Lê), Tòng tứ phẩm (triều Nguyễn). Có thể xem chức vụ này như là Phó Hiệu trưởng phụ trách chuyên môn (đào tạo) của trường đại học, hoặc Phó Giám đốc phụ trách đào tạo của Đại học Quốc
gia hiện nay.
Chu Văn An (1292-1370) là vị Tư nghiệp (có thể xem như là Hiệu trưởng) đầu tiên của trường Quốc tử giám triều Trần, đời vua Trần Hiến Tông (1329-1341), Trần Dụ Tông (1341-1369).
Trước đó (từ khi trường được thành lập vào năm 1076, đời Lý Nhân Tông cho đến đời Trần Minh Tông thì chức quan trông coi trường này thường là do quan Thượng thư kiêm nhiệm (Thượng thư tri Quốc tử giám, Thượng thư tri Quốc học viện, mà sử đời Trần có ghi lại chức vụ kiêm nhiệm này), do phẩm hàm của vị Thượng thư cao hơn chức vụ kiêm nhiệm Quốc tử giám nên sử sách xưa không ghi. Chính vì thế mà sử ghi Chu Văn An là vị Hiệu trưởng đầu tiên của Quốc tử giám.
Sáng tai họ, điếc tai cày
15. Hàn lâm Học sĩ
Nhà Lý đã đặt Hàn lâm viện và đặt chức Học sĩ đứng đầu (đời Nhân Tông, Mạc Hiển Tích làm Hàn lâm học sĩ). Nhà Trần noi theo, lại đặt chức Hàn lâm phụng chỉ, là chức vụ quan trọng, thường dùng Thái sư, Mật viện kiêm chức (như đời Nhân Tông, lấy Thái sư Đinh Củng Viên làm Hàn lâm học sĩ phụng chỉ, sai kiêm coi việc Nội mật viện).
Nhiệm vụ của Hàn lâm viện (gồm các học sĩ uyên thâm Nho học, văn hay chữ tốt) là chuyên trách việc soạn thảo văn kiện triều đình như chiếu, chỉ, sắc, dụ, chế. Nhiệm vụ này, các triều sau không thay đổi.
Trong những năm tháng tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi từng được Bình Định vương Lê Lợi giao chức vụ này. Khi kháng chiến thành công, dưới triều Lê sơ, thì người đứng đầu là Hàn lâm Đại học sĩ (hàm Chánh tứ phẩm). Sau quan Thừa chỉ (hay Đại học sĩ) ở Hàn lâm viện là các chức: Thị độc (Chánh ngũ phẩm), Thị giảng (Tòng ngũ phẩm), Thị thư (Chánh lục phẩm), Đãi chế, Đãi chiếu (Tòng lục phẩm), Hiệu lý (Chánh thất phẩm), Kiểm thảo (Tòng thất phẩm).
Triều Nguyễn, người đứng đầu Hàn lâm viện là Chưởng viện Học sĩ (Tòng tam phẩm), tiếp đến là các vị Trực học sĩ (Chánh tứ phẩm); Thị độc học sĩ (Chánh tứ phẩm); Thị giảng học sĩ (Tòng tứ phẩm); Hàn lâm Thị độc (Chánh ngũ phẩm); Hàn lâm Thị giảng (Tòng ngũ phẩm); Hàn lâm Thừa chỉ (Tòng ngũ phẩm); Hàn lâm Trước tác (Chánh lục phẩm); Hàn lâm Tu soạn (Tòng lục phẩm); Hàn lâm Biên tu (Chánh thất phẩm); Hàn lâm Kiểm thảo (Tòng thất phẩm); Hàn lâm Điển tịch (Chánh bát phẩm); Hàn lâm Điển bạ/bộ (Tòng bát phẩm); Hàn lâm Cung phụng (Chánh cửu phẩm); Hàn lâm Đãi chiếu (Tòng cửu phẩm).
Sáng tai họ, điếc tai cày
16. Gián nghị Đại phu
Đầu nhà Lý, Thái Tông đặt quan, có các chức Tả, Hữu gián nghị đại phu. Nhà Trần cũng theo đặt các chức ấy, thường lấy quan Hành khiển kiêm làm (như đời Anh Tông, cho Trần Thời Kiến làm Nhập nội hành khiển, Hữu gián nghị đại phu), đó cũng là chức quan ở chính sảnh.
Nhà Lê, lúc đầu đặt Tả, Hữu gián nghị thuộc Môn hạ sảnh. Đến đời Hồng Đức định lại quan chế mới bỏ các chức ấy. Các đời sau, để khen những bề tôi nói thẳng thì đặc cách gia thêm cho hàm ấy, nhưng không liệt vào giai cấp.
Sáng tai họ, điếc tai cày
17. Đình úy
Chức quan coi việc kiểm sát án ngục trong vương triều phong kiến Việt Nam.
Nhà Trần, đặt Đăng văn viện, có Kiểm pháp quan là chức quan coi việc xét xử kiện tụng (đời Trần Nhân Tông, Chánh chưởng nội thư hỏa là Trần Hùng Thao (hoạn quan) kiêm chức Kiểm pháp quan). Năm 1344 (niên hiệu Thiệu Phong, Trần Dụ Tông), đổi Kiểm pháp quan làm Đình úy.
Thời Lê, dưới đời Hồng Đức, chức Đình úy thuộc Cấm y vệ, có nhiệm vụ tra hỏi các án tình nghi tội nặng. Đến Lê Hiến Tông (1498 - 1504), đặt riêng Đình uý ty với các chức Chỉ huy sứ, Chỉ huy đồng trị, Chỉ huy thiêm sự, chọn trong số những quan văn có chức vụ cao. Từ thời Lê Trung Hưng, bãi bỏ chức Đình úy và ty Đình úy, công việc kiểm sát, thanh tra các án ngục thuộc về Ngự sử đài.
Sáng tai họ, điếc tai cày
18. Phủ doãn
Là chức quan đứng đầu phủ ở kinh đô, nơi triều đình đóng đô, có nhiệm vụ cai quản toàn bộ công việc hành chính, trật tự, trị an, kinh tế, văn hoá, giáo dục nơi đây (tương đương chủ tịch ubnd Hà Nội bây giờ).
Chức danh tiền thân của Phủ doãn, được gọi là Kinh thành Bình Bạc ty, được đặt vào khoảng niên hiệu Kiến Trung (1225–1232) đời Trần Thái Tông. Dưới các đời vua tiếp nối, chức danh này lần lượt đổi tên thành Kinh sư Đại an phủ sứ (đời Trần Thánh Tông), Kinh sư Đại doãn (đời Trần Hiến Tông), Trung Đô doãn (đời Trần Thuận Tông).
Đầu thời Hậu Lê, kế thừa quan chế của triều Trần, chức danh này được đổi thành Trung Đô Phủ doãn, sau đó là Phụng Thiên Phủ doãn, phẩm hàm tương đương Chánh ngũ phẩm. Nhiệm vụ của Phủ doãn nhằm quản lý khu vực kinh thành, có trách nhiệm "xét hỏi những vụ kiện do huyện quan xử mà kêu lại ở bản hạt, cùng là khảo xét thành tích của quan lại, khảo luận sĩ tử trong kỳ thi Hương", hoặc chủ trì các lễ hội địa phương tổ chức tại khu vực kinh đô như lễ lập xuân, lễ tiến xuân ngưu (có nghĩa là "lễ dâng trâu mùa xuân").
Nhà Nguyễn, kinh đô chuyển về Huế, khu vực Thừa Thiên đổi dinh Quảng Đức dưới thời vua Gia Long, sau đó thành phủ Thừa Thiên vào thời Minh Mạng. Hai chức danh chịu trách nhiệm chính quản lý khu vực Thừa Thiên phủ bao gồm Đề đốc Kinh thành (người đứng đầu công vụ quân sự) và Phủ doãn (hành chính dân sự); dưới Phủ doãn có chức danh Phủ thừa. Vào giai đoạn đầu triều Nguyễn, Phủ doãn có phẩm trật Chánh tam phẩm. Người giữ chức danh Phủ doãn có trách nhiệm lớn vì phải quản lý toàn bộ phủ Thừa Thiên vốn là khu vực quan trọng nhất trong cả nước.
Sáng tai họ, điếc tai cày