Notifications
Clear all

Sau lũy tre làng

6 Bài viết
5 Thành viên
12 Reactions
959 Lượt xem
HTA
 HTA
(@hta)
Nhi đồng
Tài sản: 465.06
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 19
Topic starter  

Tình cờ hôm nay lại thấy diễn đàn này. Đọc thấy có vài bài hay hay khiến cho cảm xúc xa xưa lại ào về trong lòng. Đăng kí nick, tự dưng lại nhớ đến cái mail Yahoo! May quá vẫn nhớ được mật khẩu, truy cập vào thì thấy Yahoo! hỏi: email dự phòng của bạn thiết lập cách 20 năm vẫn còn hoạt không? Thời gian trôi đi nhanh quá. Vậy là bài viết này cũng xấp xỉ ngần ấy năm rồi.

Sau lũy tre làng

Bài này viết nhân có cảm xúc suy tư về một số tính xấu của người Việt ta

Nhân dịp đầu Xuân, tự ngẫm nghĩ một chút về những đức tính đặc thù của dân tộc mình, âu cũng là tự soi mình, đặng năm mới sẽ tốt đẹp hơn, tránh được những vết xe đổ của năm cũ.

Việt Nam ta vốn có nền văn minh lúa nước. Dân cư sống tụ tập. Và đơn vị nhỏ nhất của một cộng đồng như vậy được gọi là Làng. Bất kỳ một làng quê nào ở Việt Nam cũng có một ngôi đình. Đình là ngôi nhà công cộng của làng quê thời xưa, dùng làm nơi thờ Thành Hoàng và họp việc làng.

Đó là một ngôi nhà to, rộng được dựng bằng những cột lim tròn to thẳng tắp đặt trên những hòn đá tảng lớn. Vi, kèo, xà ngang , xà dọc của đình cũng làm toàn bằng gỗ lim. Tường đình xây bằng gạch. Mái đình lợp ngói mũi hài, bốn góc có bốn đầu đao cong. Trên nóc đình là hai con rồng chầu mặt nguyệt. Sân đình được lát gạch. Trước đình có hai cột trụ cao vút, trên đình được tạc hình con Nghê. Trong đình, gian giữa có bàn thờ, thờ một vị thần của làng gọi là Thành Hoàng. Một chiếc trống cái cũng được để trong đình để đánh vang lên theo nhịp ngũ liên thúc giục dân làng về đình tụ họp bàn tính công việc của làng.

Vào những ngày lễ, tết, dân làng đến đình thắp hương tế lễ nhộn nhịp, cầu mong Thành Hoàng và Trời Đất giúp cho mưa thuận gió hòa, cày cấy, làm ăn thuận tiện và có nhiều phúc lành. Mùa xuân đến, sân đình trở thành sân khấu hát chèo, hoặc để đấu vật, chọi gà, múa hát giao duyên. Xung quanh đình, thường có những câ đa cổ thụ vẫy gọi chim về làm tổ, ríu rít âm thanh, có giếng nước rộng trong vắt để làm nước ăn, nước uống và để các cô gái làng xinh đẹp đến soi gương làm duyên.

Trước đình thường có một hồ nước trồng sen, hương thơm ngào ngạt. Đình làng còn là nơi trai thanh nữ tú trong làng đến để hẹn hò tình yêu. Ngôi đình làng Việt Nam cổ kính, trang nghiêm, ẩn mình sau lũy tre xanh mướt là một tác phẩm nghệ thuật của con người hòa nhập trong làng quê.

Sân đình thường là nơi các chức sắc của làng tập hợp dân chúng tới để thông báo một vấn đề gì đó. Và đình cũng là nơi diễn ra những hội hè, tiệc tùng của làng. Chính vì vậy, nó đã trở thành biểu tượng của quyền lực hành chính, đại diện của làng.

Ngoài ra, mỗi ngôi làng đều có một giếng nước lớn. Đây cũng là nơi cung cấp nước sinh hoạt cho toàn làng. Song song, nó cũng là nơi tụ tập, trao đổi thông tin lý tưởng của các bà các cô đi gánh nước. Đây cũng là nơi nam thanh nữ tú có dịp gặp gỡ trêu đùa.

Bên cạnh đó, tại đầu làng bao giờ cũng có một quán nước, đây là nơi nghỉ ngơi của lữ khách. Có thể coi đây là trung tâm thu thập tin tức của làng, và là nơi duy nhất của làng có sự tiếp xúc với thế giới bên ngoài.

Qua đoạn viết trên, ta có thể thấy, làng là một mô hình khép kín, với biểu tượng quyền lực là mái đình, nơi tụ tập giao lưu là bến nước, và được bao quanh bởi những luỹ tre xanh mướt.

Do đặc điểm của nghề nông, tự cung tự cấp, không cần đi đâu xa, nên dân trong làng đều an phận trong cái phạm vi luỹ tre của làng mình, và cửa ngõ duy nhất để giao tiếp với thế giới bên ngoài chính là cái quán nước đầu làng.

Đây chính là đặc điểm chính của nền văn minh lúa nước, của làng quê VN.

Cái nếp sống này, trải qua mấy nghìn năm lịch sử, đã hằn sâu vào trong tâm khảm của mỗi người dân VN chúng ta, tạo nên một nếp văn hoá mà ta tạm gọi là nếp sống Sau luỹ tre làng. Văn hoá Sau luỹ tre làng có một số đặc điểm chính như:

_ Phạm vi sinh hoạt rất hẹp

_ Vì phạm vi sinh hoạt hẹp, nên tầm hiểu biết của mỗi người cũng khá hạn chế. Họ thường chỉ biết có làng mình, do đó, họ cũng luôn coi làng mình là nhất, mình là nhất

_ Phạm vi sinh sống của họ là bất khả xâm phạm, do tính chất ở trên, nên họ thường đánh giá thấp, và khó có thể chấp nhận những thực thể ngoại lai

Ngày nay là thời đại của thông tin, của phương tiện truyền thông. Mặc dù vậy, cái văn hóa Sau luỹ tre làng vẫn còn tồn tại, và ta có thể nhận thấy khắp nơi nơi. Có một “định lý” về nếp sống văn hoá như sau: “Nếu điều gì đã tồn tại một ngàn năm, thì chỉ có thể thay đổi nó trong vòng một trăm năm.” Nhận xét này đã chỉ ra rất rõ ràng tại sao cái nếp sống khép mình, có một tầm nhìn hẹp lại vẫn tồn tại trong thời đại này.

Ngay cả đối với thế giới mạng, một thế giới bản chất vốn là mở, thoáng đãng, không phân biệt biên giới, giới tính, chính trị, trình độ, thì người VN vẫn cứ thể hiện nét văn hoá đậm đà Sau luỹ tre làng trên đó.

Berlin, 2002

image

   
Tiêu Tương, bố sói, Ngo rung and 3 people reacted
Trích dẫn
Thẻ chủ đề
HoangCuong Optic
(@hoangcuong-optic)
Nhi đồng
Tài sản: 23
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 5
 

À, bài viết từ 2002. 

20 năm rồi, giờ thay đổi nhiều 


   
Trả lờiTrích dẫn
bố sói
(@duyragon)
Nhi đồng
Tài sản: 35.94
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 19
 

làng giờ lên phố hết cả, về quê cũng không còn thấy yên bình như xưa, không biết có phải do đã lớn rồi nên không còn cảm xúc như hồi nhỏ


   
HTA reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cadjc
(@cadjc)
Công dân
Được ưa thích
Tài sản: 311.37
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1099
 
Những ký ức xưa vẫn luôn còn đọng lại trong em, khung cảnh làng quê với cây đa, bến nước sân đình và những rặng tre. Và trong các tác phẩm văn học về làng quê Việt mà em đã đọc thì Tùy bút Tre Việt Nam của nhà văn Thép Mới luôn để lại trong em những cảm xúc khó phai mờ, hôm nay đọc bài viết của cụ @HTA làm em muốn được chia sẻ lại cho mọi người về văn hóa Việt Nam xưa dưới bóng tre.
 
Tùy bút : Tre Việt Nam của nhà văn Thép Mới

Dưới bóng tre xanh của ngàn xưa thấp thoáng những ngôi chùa cổ. Dưới bóng tre xanh, Việt Nam gìn giữ một nền văn hoá lâu đời, tre xanh giúp người dân làm nhà dựng cửa, vỡ ruộng khai hoang, tre ăn ở với người đời đời kiếp kiếp. Họ nhà tre gồm: nứa, vầu, mai trúc, luồng, giang... đâu đâu cũng có luỹ tre xanh rì rào ẩn hiện. Rặng tre xanh là chiến luỹ bảo vệ làng mạc, xóm thôn, đồng thời ôm vào lòng mình tình thân thương của bà con chòm xóm từ đời này qua đời khác, che mưa che bão cho con người.

Ta có thể thấy, tre gắn bó thân thiết với con người trong mọi lĩnh vực của đời sống, từ những vật dụng trong gia đình, tre đã đi vào thơ ca như một hình tượng bất hủ, tre còn dùng làm thuốc chữa bệnh cho người. Không những thế, tre lại cùng ta đánh giặc gìn giữ độc lập chủ quyền, làm rạng danh cho non sông, đất nước.

Trong lịch sử dân tộc, Thánh Gióng là một hình tượng tiêu biểu, đại diện cho khí phách Việt Nam. Mới 3 tuổi đã biết đánh giặc, khi gậy sắt gẫy, Gióng đã tự lấy tre làm vũ khí để tiêu diệt quân thù. Và không biết tự bao giờ, cây tre và con người Việt Nam đã trở thành đôi bạn chiến đấu thân tín, keo sơn. Tre vốn cùng ta làm ăn lại cùng ta đánh giặc. Buổi đầu không một tấc sắt trong tay, tre là vũ khí, từ chiếc gậy tầm vông cho đến mũi chông nhọn sắc đã làm nên thành đồng tổ quốc và đi vào trong câu hát lời ca:

"Hỡi chị em ơi, thù kia sâu sắc bao nhiêu thì vót cho sắc thật nhiều chông tre. Hố chông đào sẵn bốn bề, tao đố thằng giặc dám về làng tao."

"Này chị em ơi, gió đưa cành trúc la đà, rủ nhau đến gốc tre già vót chông. Trăng lên sáng cả cánh đồng, nửa đêm làng xóm vót chông rửa thù."

Gậy tre, chông tre kiên cường chống lại sắt thép của quân thù. Tre xung phong vào xe tăng đại bác, tre còn làm hầm ngụy trang và giữ bí mật... Tre bao bọc, che chở cho nguời con Việt trong những đêm dài hành quân ra trận. Rừng là nhà, nhà ngụy trang bằng tre nứa, đất làm giường, nứa tre làm gối, tre đã cùng người lập nên những chiến công vang dội, hiển hách.

Những hiện vật thể hiện mối quan hệ giữa tre và con người Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc còn được lưu giữ rất nhiều trong Bảo tàng Việt Nam. Nào tầm vông, giáo mác, chông tre, những chiếc gùi tre đan xinh xắn, những ống tre tích nước, đựng nước... Tre đã cùng ta vượt bao gian khổ để đạt tới một tương lai sáng lạng với cuộc sống ấm no, giàu mạnh.

Hình ảnh cây đa, bến nước cùng những khóm tre xào xạc là những hình ảnh quá đỗi thân thuộc với người dân ở mọi miền quê Việt Nam. Cây tre không những bảo vệ, bao bọc xóm làng mà còn trở thành nguyên liệu để làm ra những vật dụng thiết yếu cho cuộc sống, gắn bó thân thiết với mỗi con người từ khi sinh ra cho đến lúc qua đời. Ngay từ thủa ấu thơ ta đã được nằm trong chiếc nôi tre êm đềm với tiếng ru à ơi của mẹ. Và nó sẽ mãi là hình ảnh không bao giờ phai mờ. Rồi khi lớn lên, tre lại gắn bó với trẻ trong suốt thời niên thiếu qua những vật dụng hàng ngày hay qua những trò chơi con trẻ. Cũng có lúc tre lại được tô khắc, trang điểm theo những ý tưởng độc đáo của người thợ để tạo ra những sản phẩm mang giá trị thẩm mỹ cao.

Tre gắn bó với con người là như thế. Ngược lên những phiên chợ vùng cao, ta sẽ bắt gặp các mẹ, các chị, những chàng trai, cô gái gùi trên lưng mình những sản phẩm của gia đình. Họ mang đến chợ để trao đổi buôn bán, rồi lại gùi những thứ cần thiết về nhà. ở đây, tre có tác dụng như dụng cụ chuyên chở làm giảm bớt sức lao động cho con người. Tre nứa không chỉ gắn bó với đồng bào qua những sản phẩm như gùi, rổ, rá, thúng mủng... mà tre còn được sử dụng để đan những kỷ vật trong đám cưới hay làm những nhạc cụ góp vui trong ngày lễ hội, cho trai, gái gây dựng một nền tảng mới, đó chính là nền tảng của sự giàu mạnh, hạnh phúc.

Tre gắn bó với con người từ trên cạn cho đến dưới nước. Những chiếc thuyền nan cùng người lái đò cần mẫn trở khách qua sông, người dân vạn chài giăng lưới để cải thiện cuộc sống hàng ngày. Không những thế, tre còn là nguyên liệu để làm nhà, dựng cửa. Xưa kia, tre được sử dụng trong không gian kiến trúc nhà ở có phần đa dạng, phong phú hơn. Nhưng ngày nay, khi về các vùng quê Việt Nam đâu đó ta vẫn gặp những chiếc cổng tre sớm chiều khép mở hay những phên liếp trước cửa nhà để che chắn nắng mưa cho ngôi nhà của người Việt. ở đồng bào các dân tộc ít người, họ nhà tre được sử dụng trong các phần kiến trúc, từ hàng rào phân định ranh giới cho đến mái nhà, cầu thang, bậc cửa, sàn nhà... tất thảy đều có sự hiện diện của tre.

Xưa kia, tuỳ theo từng giai cấp mà tre được sử dụng trong không gian kiến trúc nhà của mỗi gia đình lại có phần khác nhau. Nhưng ngày nay, kiến trúc ngôi nhà phụ thuộc vào chính quan điểm thẩm mỹ của người sử dụng. Sống dưới ngôi nhà tre, họ cảm nhận được sự mát mẻ của thiên nhiên cùng sự bình yên hạnh phúc. Bên cạnh đó, tre còn tham gia vào việc chế tác những nông cụ truyền thống như cày, cuốc, nơm... Tuy cấu tạo của các nông cụ truyền thống rất đơn giản nhưng người nông dân cảm thấy rất thuận tiện và họ đã gửi gắm vào trong mỗi vật dụng của mình ước nguyện về mùa màng bội thu, no đủ.

Nếu như phiên chợ vùng cao giúp ta nhận biết được phần nào sự gắn kết chặt chẽ giữa cây tre với đời sống của đồng bào qua các vật dụng bằng tre nứa thì phiên chợ miền xuôi cũng vậy, rổ, rá, thúng, mủng, sàng... được bày bán khắp nơi và được sử dụng rộng rãi để chứa đựng hàng hóa, vật dụng. Cây tre hữu dụng và thân thiết với con người Việt Nam đến mức từ những vật dụng nhỏ nhất như cái tăm, đôi đũa cũng làm bằng tre. Trong mỗi bữa ăn ấm cúng của gia dình không thể thiếu bóng dáng của tre bởi tre đã trở thành người bạn gần gũi và thân thiết với mỗi người dân Việt Nam.

Trong chiến tranh, tre không chỉ đơn thuần là vũ khí đánh giặc mà tre luôn sát cánh cùng người con Việt Nam, tre cung cấp lương thực trong những ngày đói rét. Cái hương vị đăng đắng, ngọt ngào của những bát măng rừng mãi là âm hưởng không thể nào quên trong trái tim của những người lính đã từng đi qua chiến tranh. Trong thời đại ngày nay, măng cũng luôn xuất hiện trong bữa ăn của các gia đình Việt Nam. Ta có thể gặp măng nấu canh, măng xào, măng luộc, măng nước, đặc biệt hơn cả măng đã được chế biến và xử lý để trở thành món ăn ưa thích của người nước ngoài, là nỗi nhớ, là món quà của người Việt Nam xa quê. Tre gắn bó với con người Việt Nam như thế.

Lá tre, nước tre, tinh tre, mỗi loại đều có tính năng riêng nhưng thông thường, lá tre được sử dụng phổ biến hơn cả. Trong một bài thuốc chữa cảm dân gian, cái hương vị ngọt ngọt, man mát của lá tre là một hương vị không thể thiểu trong các nồi xông. Nó đã góp phần giúp cho người bệnh cảm thấy nhẹ nhàng, sảng khoái hơn.
ở đâu tre cũng xanh tươi cho dù đất sỏi, đất vôi bạc màu. Tre đã trở thành biểu tượng để nói về con người Việt Nam với khí phách hiên ngang và cho dù ở bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào cũng đều có thể vượt qua.

Trong những câu ca dao, dân ca, tục ngữ, người dân Việt Nam hay lấy hình tượng tre để nói về sự kế tục giữa các thế hệ: tre già thì măng mọc. Các em như những lớp măng non luôn vươn lên trong sự bao bọc, dẫn dắt của thế hệ đi trước. Rồi đây, các em sẽ lớn lên, vươn cao hơn, sẽ trở thành những người công dân có ích để xây dựng đất nước ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.

 
1958

"Mobilis in Mobile" ― Jules Verne


   
Cô Cô and HTA reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cadjc
(@cadjc)
Công dân
Được ưa thích
Tài sản: 311.37
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1099
 
Ngoài Tùy bút Tre Việt Nam thì nhà văn Thép Mới cũng viết thêm 1 tùy bút nữa lấy tên là Cây tre Việt Năm, nhiều đoạn văn trong tùy bút này đã đưa vào SGK.
 
 
Cây tre Việt Nam - nhà văn Thép Mới
 
 
Cây tre là người bạn thân của nông thôn Việt Nam, bạn thân của nhân dân Việt Nam.
 
Nước Việt Nam xanh muôn ngàn cây lá khác nhau. Cây nào cũng đẹp, cây nào cũng quý, nhưng thân thuộc nhất vẫn là cây tre nứa. Tre Đồng Nai, nứa Việt Bắc, tre ngút ngàn Điện Biên Phủ, luỹ tre thân mật làng tôi… đâu đâu ta cũng có nứa tre làm bạn.
 
Tre, nứa, trúc, mai, vầu mấy chục loại khác nhau, nhưng cùng một mầm non măng mọc thẳng. Vào đâu tre cũng sống, ở đâu tre cũng xanh tốt. Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn. Rồi tre lớn lên, cứng cáp, dẻo dai, vững chắc. Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người.
Nhà thơ có lần ca ngợi:
 
Bóng tre trùm mát rượi.
 
Bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thôn. Dưới bóng tre của ngàn xưa, thấp thoáng mái đình mái chùa cổ kính. Dưới bóng tre xanh, ta gìn giữ một nền văn hoá lâu đời. Dưới bóng tre xanh, đã từ lâu đời, người dân cày Việt Nam dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang. Tre ăn ở với người, đời đời, kiếp kiếp. Tre, nứa, mai, vầu giúp người trăm nghìn công việc khác nhau. Tre là cánh tay của người nông dân:
 
Cánh đồng ta năm đôi ba vụ
Tre với người vất vả quanh năm.
 
Tre với người như thế đã mấy nghìn năm. Một thế kỷ “văn minh”, “khai hoá” của thực dân cũng không làm ra được một tấc sắt. Tre vẫn phải còn vất vả mãi với người. Cối xay tre nặng nề quay, từ nghìn đời nay, xay nắm thóc.
 
Trong mỗi gia đình nông dân Việt Nam, tre là người nhà, tre khăng khít với đời sống hàng ngày.
Giang chẻ lạt, buộc mềm, khít chặt như những mối tình quê cái thuở ban đầu[6] thường nỉ non dưới bóng tre, bóng nứa:
 
Lạt này gói bánh chưng xanh
Cho mai lấy trúc, cho anh lấy nàng…
 
Tre còn là nguồn vui duy nhất của tuổi thơ. Các em bé còn có đồ chơi gì nữa ngoài mấy que chuyền đánh chắt bằng tre.
 
Tuổi già hút thuốc làm vui. Với chiếc điếu cày tre là khoan khoái. Nhớ lại vụ mùa trước, nghĩ đến những mùa sau, hay nghĩ đến một ngày mai sẽ khác…
 
Suốt một đời người, từ thuở lọt lòng trong chiếc nôi tre, đến khi nhắm mắt xuôi tay, nằm trên giường tre, tre với mình, sống có nhau, chết có nhau, chung thuỷ.
 
Như tre mọc thẳng, con người không chịu khuất.
 
Người xưa có câu: “Trúc dẫu cháy, đốt ngay vẫn thẳng”. Tre là thẳng thắn, bất khuất! Ta kháng chiến, tre lại là đồng chí chiến đấu của ta. Tre vốn cùng ta làm ăn, lại vì ta mà cùng ta đánh giặc.
 
Buổi đầu, không một tấc sắt trong tay, tre là tất cả, tre là vũ khí. Muôn ngàn đời biết ơn chiếc gậy tầm vông đã dựng lên thành đồng Tổ quốc! Và sông Hồng bất khuất có cái chông tre.
 
Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù. Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ con người. Tre, anh hùng lao động! Tre, anh hùng chiến đấu!
 
Nhạc của trúc, nhạc của tre là khúc nhạc của đồng quê. Nhớ một buổi trưa nào, nồm nam cơn gió thổi, khóm tre làng rung lên man mác khúc nhạc đồng quê.
 
Diều bay, diều lá tre bay lưng trời…
Sáo tre, sáo trúc vang lưng trời…
Gió đưa tiếng sáo, gió nâng cánh diều
 
Trời cao lồng lộng, đồng ruộng mênh mông hãy lắng nghe tiếng hát giữa trời cao của trúc, của tre…
 
“Tre già măng mọc”. Măng mọc trên phù hiệu ở ngực thiếu nhi Việt Nam, lứa măng non của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Các em, các em rồi đây lớn lên, sẽ quen dần với sắt, thép và xi măng cốt sắt.
 
Nhưng, nứa, tre sẽ còn mãi với các em, còn mãi với dân tộc Việt Nam, chia bùi sẻ ngọt của những ngày mai tươi hát, còn mãi với chúng ta, vui hạnh phúc, hoà bình.
 
Ngày mai, trên đất nước này, sắt, thép có thể nhiều hơn tre, nứa. Nhưng, trên đường trường ta dấn bước, tre xanh vẫn là bóng mát. Tre vẫn mang khúc nhạc tâm tình. Tre sẽ càng tươi những cổng chào thắng lợi. Những chiếc đu tre vẫn dướn lên bay bổng. Tiếng sáo diều tre cao vút mãi.
 
Cây tre Việt Nam! Cây tre xanh, nhũn nhặn, ngay thẳng, thuỷ chung, can đảm. Cây tre mang những đức tính của người hiền là tượng trưng cao quý của dân tộc Việt Nam.

"Mobilis in Mobile" ― Jules Verne


   
HTA and Salut reacted
Trả lờiTrích dẫn
Trinhhunghb
(@trinhhunghb)
Trưởng thành
Được ưa thích
Trung lưu
Tài sản: 10395.44
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 2229
 

Đăng bởi: @duyragon

làng giờ lên phố hết cả, về quê cũng không còn thấy yên bình như xưa, không biết có phải do đã lớn rồi nên không còn cảm xúc như hồi nhỏ

Em vẫn ở. Làng cụ ạ có đình có lũy tre có giếng nước

 


   
HTA reacted
Trả lờiTrích dẫn
Chia sẻ: