Nhà em mọi người ai cũng thích ăn đồ nếp, đồ ngọt, nên năm nào em cũng mua nguyên liệu về làm, thường làm nhiều một chút để ăn đôi ba ngày. Nhưng cũng vì những "nỗi lo thời đại" về tiểu đường, béo phì, huyết áp,... mà một năm cũng chỉ dám "thả miệng" một dịp này thôi
Chiều qua, đi làm về, rẽ vào chợ một vòng là đủ đồ nghề, tranh thủ buổi tối ra sản phẩm cây nhà lá vườn. Đúng là người làm sao của chiêm bao làm vậy, bánh đơn giản theo khẩu vị trong nhà, ko màu mè, cầu kỳ, và phần lớn là bánh chay, chỉ có chút ít bánh trôi là của bọn trẻ nghịch chơi.
Cảm ơn mợ đã mở mang rất nhiều kiến thức về tập tục ngày lễ bánh trôi - bánh chay.
Mợ thật là khéo tay. Nhà mợ chắc phải kha khá người nên mới làm nhiều bánh như vậy.
Mợ cho hỏi sao cái bánh chay nhà mợ lại bị lõm ở giữa vậy ? Em thấy một số chỗ khác làm bánh không có vết lõm này.
Để ăn được miếng bánh thôi mà cũng vất vả phết đấy mợ ạ .
Để mua được những suất bánh trôi, bánh chay ở quán chè này, nhiều người đã dậy từ 5 giờ sáng, xếp hàng cả tiếng đồng hồ.
Hơn 5 giờ sáng, trời còn chưa sáng hẳn, nhiều người bất ngờ khi trước cửa một quán chè trên phố Ngô Thì Nhậm (Hai Bà Trưng, Hà Nội), dòng người nối đuôi nhau đứng xếp thành hàng dài để chờ mua bánh trôi, bánh chay của quán này.
Còn đây thực sự là "siêu phẩm". Các mợ này không những khéo tay mà còn là những người phụ nữ đảm đang.
GD&TĐ - Tết Hàn thực năm nay, hình ảnh bánh trôi bánh chay được chị em chia sẻ vô cùng rực rỡ, đẹp mắt khiến ai nấy cũng phải trầm trồ, kinh ngạc.
Tết Hàn thực (ngày 3/3 Âm lịch) hàng năm, nhiều gia đình Việt Nam đều bận rộn chuẩn bị những đĩa bánh trôi, bánh chay dâng lên ông bà tổ tiên, một lòng hướng về nguồn cội và tưởng nhớ công lao của những người đã khuất.
Vài tấm hình đại diện. CCCM xem đầy đủ thì vào link dưới nhé.
Để ăn được miếng bánh thôi mà cũng vất vả phết đấy mợ ạ .
Để mua được những suất bánh trôi, bánh chay ở quán chè này, nhiều người đã dậy từ 5 giờ sáng, xếp hàng cả tiếng đồng hồ.
Hơn 5 giờ sáng, trời còn chưa sáng hẳn, nhiều người bất ngờ khi trước cửa một quán chè trên phố Ngô Thì Nhậm (Hai Bà Trưng, Hà Nội), dòng người nối đuôi nhau đứng xếp thành hàng dài để chờ mua bánh trôi, bánh chay của quán này.
Còn đây thực sự là "siêu phẩm". Các mợ này không những khéo tay mà còn là những người phụ nữ đảm đang.
GD&TĐ - Tết Hàn thực năm nay, hình ảnh bánh trôi bánh chay được chị em chia sẻ vô cùng rực rỡ, đẹp mắt khiến ai nấy cũng phải trầm trồ, kinh ngạc.
Tết Hàn thực (ngày 3/3 Âm lịch) hàng năm, nhiều gia đình Việt Nam đều bận rộn chuẩn bị những đĩa bánh trôi, bánh chay dâng lên ông bà tổ tiên, một lòng hướng về nguồn cội và tưởng nhớ công lao của những người đã khuất.
Vài tấm hình đại diện. CCCM xem đầy đủ thì vào link dưới nhé.
Để làm thế một trong nhiều cách là dùng lưng cái thìa nhỏ ấn vào đĩa vừng trắng đã rang, sau đó lăn nhẹ lên từng cái bánh trôi trong đĩa, đảm bảo đều tăm tắp.
Nhà em mọi người ai cũng thích ăn đồ nếp, đồ ngọt, nên năm nào em cũng mua nguyên liệu về làm, thường làm nhiều một chút để ăn đôi ba ngày. Nhưng cũng vì những "nỗi lo thời đại" về tiểu đường, béo phì, huyết áp,... mà một năm cũng chỉ dám "thả miệng" một dịp này thôi
Chiều qua, đi làm về, rẽ vào chợ một vòng là đủ đồ nghề, tranh thủ buổi tối ra sản phẩm cây nhà lá vườn. Đúng là người làm sao của chiêm bao làm vậy, bánh đơn giản theo khẩu vị trong nhà, ko màu mè, cầu kỳ, và phần lớn là bánh chay, chỉ có chút ít bánh trôi là của bọn trẻ nghịch chơi.
Cảm ơn mợ đã mở mang rất nhiều kiến thức về tập tục ngày lễ bánh trôi - bánh chay.
Mợ thật là khéo tay. Nhà mợ chắc phải kha khá người nên mới làm nhiều bánh như vậy.
Mợ cho hỏi sao cái bánh chay nhà mợ lại bị lõm ở giữa vậy ? Em thấy một số chỗ khác làm bánh không có vết lõm này.
Nhà em 3 thế hệ, có 6 người ạ, bánh này chủ yếu là Ông Bà và em tiêu thụ
Bánh chay ấn lõm ở giữa là em vẫn cứ theo cách làm truyền thống từ trước đến giờ của các bà các mẹ. Có thể ấn bẹt viên bánh trước khi luộc, nhưng thường là để viên tròn, luộc xong vớt ra bát mới dùng ngón tay hoặc thìa nhỏ ấn bẹt xuống. Tại sao lại làm thế thì em cũng ko rõ. Nhưng theo em thì có thể là để phân biệt với viên bánh trôi, về mặt cảm quan thì bát bánh chay thường có 3 viên, ấn bẹt xuống lộ ra một chút nhân đỗ vàng, tạo hình giống như một bông hoa, chan nước đường, rắc chút đỗ xanh vỡ đồ chín như hoa cau, chút vừng, trông bát bánh mềm mại và đẹp mắt hơn. Khi ăn bánh chay, thường lấy thìa nhỏ xắn từng miếng, viên bánh bẹt chút cũng dễ ăn hơn.
Coóng phù - món ăn nóng hổi ngày đông lạnh của người xứ Lạng
Đến Lạng Sơn vào ngày lạnh, đừng quên ghé qua chợ Kỳ Lừa để nhâm nhi một bát coóng phù nóng hổi còn nguyên vị khói thơm. Thức quà giản dị nhưng nồng ấm của xứ Lạng cũng đủ để xua đi cái lạnh giá vùng núi miền cao.
Bột nếp pha thêm gấc chín để tạo màu hấp dẫn cho coóng phù.
Có cái tên khá lạ tai nhưng coóng phù khá giống với món bánh trôi nước của người miền xuôi. Loại bánh này có nguồn gốc từ cộng đồng người Tày tại Lạng Sơn. Cách làm coóng phù cũng tương tự như bánh trôi. Người ta dùng gạo nếp xay thành bột nước, nhào cho dẻo. Đặc biệt, bột càng lọc kỹ, bánh càng dẻo dai, không vỡ nát lúc sôi lửa.
Công đoạn nặn bánh đòi hỏi sự khéo léo của người làm. Từng viên tròn đều tăm tắp, to cỡ viên bánh trôi. Mỗi viên được ấn dẹt phần đầu, chấm thêm chút vừng lên trên, rồi đặt ngay ngắn trong khay. Nếu như nhân bánh trôi của người dưới xuôi sẽ dùng đường phên đỏ, thì bên trong mỗi viên coóng phù là đỗ xanh xay nhuyễn trộn cùng đường cát tinh khiết. Ngoài những viên coóng phù màu trắng, người ta còn trộn thêm gấc chín để tạo sắc đỏ cam hấp dẫn.
2x" data-adbro-processed="true" data-ll-status="loaded" />Từng viên nặn đều tăm tắp, được xếp ngay ngắn trên khay
Khi có khách vào ăn, người bán mới bắt đầu thả những viên bánh vào nồi nước đường mật. Lửa được giữ ở mức liu riu cho tới khi nước sủi tăm, bánh nổi lên trên, tỏa hương thơm của gừng và nếp mới, cũng là lúc coóng phù chín tới. Người bán múc từng viên đỏ trắng xen kẽ ra bát, chan thêm nước đường, chút dừa nạo rắc lên, kèm theo lạc rang và tinh dầu chuối là thực khách có thể thưởng thức.
Bát coóng phù ấm nồng ngày đông xứ Lạng
Lẫn trong màu nước sệt quánh của mật đường là những viên coóng phù xinh xắn cam đỏ - trắng xen nhau, nổi bật cùng chút lạc vàng ruộm, trắng mởn của dừa. Miếng coóng phù dẻo dai đượm vị, hòa cùng chút ngọt mát của mật, hương thơm ấm xực từ gừng tươi, lẫn nhân đậu xanh béo ngậy, quyện đường, tạo nên sức hút kỳ lạ. Miếng bánh trôi xuống cổ, vị nồng ấm cũng lan tỏa khắp cơ thể, khiến cái rét sắc của vùng miền núi như trôi tuột từ khi nào.
Ngoài khu vực chợ đêm Kỳ Lừa, lang thang khắp chốn trong thành phố Lạng Sơn, người ta lại thấy thấp thoáng biển bán coóng phù nằm rải rác. Sẽ thật đáng tiếc và thiếu sót nếu có dịp về với xứ Lạng mà lỡ mất thứ quà chỉ xuất hiện trong ngày đông.
Đến Cao Bằng vào những ngày này, du khách phương xa có thể thưởng thức một bát coóng phù nóng để cảm nhận mùi thơm của bột nếp, vị ngọt của nước đường nấu, vị nóng cay của gừng làm tan đi cái lạnh của mùa đông giá lạnh.
Bánh trôi là một món ẩm thực quen thuộc với mọi người, nhưng ở Cao Bằng người ta gọi là coóng phù (còn có tên khác là phù noòng) theo tiếng Tày. Cách thức làm bánh và nguyên liệu khác với cách làm bánh trôi thông thường.
Nặn bột thành những viên bánh.
Gạo nếp ngâm thêm một ít gạo tẻ, sau đó mang gạo đi xát thành bột. Bột xát xong được đổ vào trong túi buộc chặt và treo lên để nước chảy xuống hết, bột làm bánh phải có độ dẻo vừa đủ. Nhân bánh là lạc rang giã nhỏ, có thể trộn thêm đường và hạt vừng. Người làm bánh nặn bột thành những viên bột nhỏ bằng đầu ngón tay cái, tiếp đó cho nhân bánh vào giữa rồi nặn cho bột tròn đều bao kín lấy nhân bánh. Những viên coóng phù thường có màu trắng tinh, nhiều người trộn bột với gấc hoặc ngâm gạo với lá cẩm để tạo thêm màu sắc mới lạ, vị và mùi thơm khác nhau.
Sau khi nặn xong, thả bánh vào nồi nước sôi, chờ khoảng 5 phút khi bánh nổi thì dùng chiếc muôi có lỗ nhỏ vớt bánh ra để bánh ráo hết nước. Khi có người ăn thì người làm bánh mới thả bánh để không bị nhừ khi ăn. Bánh vớt ra chan thêm nước đường nóng là ăn được ngay. Nước đường nấu từ đường trắng hoặc đường đỏ, giã thêm gừng tươi nấu cùng.
Những viên bánh màu trắng và màu đỏ của vị gấc.
Hiện nay, vào ngày Đông chí, các gia đình đều mua bánh coóng phù về để thắp hương tổ tiên. Các cửa hàng bán bánh coóng phù chỉ bắt đầu bán từ chiều muộn cho đến nửa đêm. Buổi tối mùa đông tại miền núi, cái lạnh như cắt da cắt thịt, nếu được thưởng thức một bát coóng phù nóng hổi, thơm lừng sẽ xua tan cái lạnh. Bà Vân, tổ 14, phường Hợp Giang (Thành phố), chủ một quán bánh coóng phù cho biết: Với kinh nghiệm gần 10 năm nghề làm bánh coóng phù, điều quan trọng nhất khi làm bánh là phải chọn được gạo ngon. Để bánh không bị bở mà dẻo và dai dù để qua đêm phải nhào bột thật kĩ rồi mới nặn bánh.
Bát bánh coóng phù chan nước đường nóng hổi hấp dẫn.
Với người Cao Bằng, bánh coóng phù không thể thiếu trong mùa đông lạnh giá. Bát bánh coóng phù nóng bỏng chan với nước đường thơm mùi gừng, có thể rắc thêm ít lạc rang giã nhỏ, nước cốt dừa cho thơm, như thế mới cảm nhận được sự độc đáo, vị ngon của bánh coóng phù. Với những người con của Cao bằng, coóng phù là món ăn làm ấm lòng người giữa tiết trời miền núi se lạnh khi mùa đông về.
Bát bánh thắng dền dân dã ấm bụng, ngọt ngào cùng dăm ba câu chuyện vui vẻ, tiếng cười nói bên bếp lửa bập bùng đã xua tan cái lạnh se sắt của Hà Giang ngày đầu thu.
Bát bánh thắng dền dân dã ấm bụng, ngọt ngào cùng dăm ba câu chuyện vui vẻ, tiếng cười nói bên bếp lửa bập bùng đã xua tan cái lạnh se sắt của Hà Giang ngày đầu thu, sưởi ấm tình người, tình đời giữa sương lạnh cao nguyên đá.
Bát bánh thắng dền thơm ngon
Thắng dền được làm từ gạo nếp nương dẻo thơm. Gạo được ngâm qua đêm rồi đem xay thành bột nước, xong cho bột vào túi vải, treo lên cao cho ráo nước, đến khi bột đặc mịn, không dính tay thì đem nặn thành bánh.
Thắng dền có thể làm chay hoặc cho thêm nhân đậu xanh, đậu đỏ. Mỗi chiếc bánh thắng dền được nặn to như đầu ngón tay cái, hạt nào cũng tròn xoe và đều tăm tắp. Rồi đem luộc, đến khi thắng dền nổi lên là chín, vớt ra rồi chan nước dùng xâm xấp miệng bát.
Những viên bánh thắng dền nhỏ bằng đầu ngón tay đều tăm tắp. Ảnh. Đỗ Thảo
Nước dùng thắng dền là yếu tố quyết định vị ngon và khẳng định sự khéo léo của người làm bánh. Mỗi người phụ nữ giữ cho riêng mình một cách pha chế nước dùng. Nguyên liệu chung là nước đường, nước dừa và gừng tươi, thêm chút lạc và vừng rang, nhưng thắng dền ở mỗi bản lại có vị riêng, nhưng vị nào cũng nồng ấm và ngọt ngào níu lòng.
Điều đặc biệt là ăn đến đâu mới luộc thắng dền tới đó, nên bát thắng dền luôn nóng hổi, xoa tan mọi lạnh giá của vùng cao. Cũng vì lẽ đó, cả nhà, họ hàng thường quây quần bên bếp lửa, vừa nặn bánh, vừa đợi bánh chín vừa ăn, rất vui vẻ và ấm cúng.
Thoạt nhìn, bánh thắng dền khá giống với bánh trôi tàu của người Hà Nội
Thoạt nhìn, bát thắng dền khá giống bánh trôi tàu ở Hà Nội. Mùi thơm của gạo, của gừng cũng gợi chút thân quen. Nhưng khi thưởng thức mới thấm được nét khác biệt của loại bánh này.
Những viên thắng dền từ từ ngấm hết vị ngọt ngào của đường và nước dừa, thâm thấm vị cay se của gừng tươi, vị bùi của gạo xen cùng lạc vừng, vừa thơm vừa ngậy. Càng ăn, càng thấy ngọt mà không ngấy, thanh mà không chán.
Thứ bánh trắng trắng, tròn tròn, quen quen mà là lạ, giản dị mà tinh khiết, nóng hổi chào đón, quyến rũ. Bát thắng dền nhỏ mà đượm hơi ấm của tình người, của những điều hồn hậu, dung dị nơi miền cao nguyên đá, ấm lòng người đến say mê.
Sủi dìn(tiếng Trung:湯圓;bính âm:tāngyuán) hay còn gọi làChè thang viên,bánh trôi tàu- là mónbánh trôicó nguồn gốc từTrung Quốc. Sủi dìn làm bằng bộtgạo nếp, nhânđậu xanhhayvừngđen. Bên ngoài lăn vừng đen & nấu trong nướcgừngnóng, rắc thêm một vài sợidừanạo. Sủi dìn của người Hoa có rất nhiều loại nhân, ngon nhất là nhân vừng đen, hạt sen nấu vớitáo tàukhô.
Món ăn này hợp với khí hậu lạnh củamùa đông, thường được bán kèm vớichí mà phùvàlục tàu xá.
Món ăn này được du nhập vào Việt Nam qua các tỉnh phía bắc theo chân người Hoa. Được thay đổi để phù hợp với ẩm thực của từng vùng miền.
Nhìn qua, sủi dìn gần giống bánh chay truyền thống của Việt Nam, bởi cách làm và một số nguyên liệu giống nhau, nhưng món này có những nét riêng với nguồn gốc du nhập từ Trung Quốc. Sủi dìn làm từ bột nếp, nhưng nhân bằng vừng đen rang chín cho dậy mùi thơm, sau đó giã nhuyễn cùng dừa nạo sao cho vừa thơm, vừa béo ngậy và khi nặn cùng với vỏ bột nếp có độ giòn và không dễ bị nát. Nước làm sủi dìn có vị đặc trưng riêng, bởi dậy mùi cay nồng của gừng tươi giã nhỏ nấu với nước đường mía tạo ra màu vàng cánh gián. Có thể nói, đây là món ăn có sự kết hợp hài hòa của nước đường sóng sánh, dẻo của bột nếp, thơm mùi gừng, bùi của lạc rang và vừng đen….
Chè trôi nước rất nổi tiếng ở miền Nam Việt Nam. Đây là loại chè viên tròn làm bằng bột nếp trắng, dẻo bên trong có nhân đậu xanh, ăn cùng với nước cốt dừa có vị béo. Chè trôi nước kiểu miền Nam có nhiều đặc điểm giống bánh chay của miền Bắc về nguyên liệu, hượng vị. Nhưng bánh trôi nước giữ nguyên hình dạng viên tròn, khác với bánh chay truyền thống là sau khi nặn xong bị ấn dẹt ở giữa.
Tên gọi chè trôi nước có lẽ xuất phát từ việc các viên chè được luộc trong nước sôi, khi chín sẽ nổi bồng bềnh trên mặt nước. Bên cạnh các viên chè trôi nước có các viên chè con gọi là chè ỷ là một phần không thể thiếu được trong món này.
Chén chè với viên to viên nhỏ, có nhân không nhân, vị ngọt đặc sắc, không chỉ nhìn đẹp mắt mà khi ăn còn cảm nhận được mùi nếp ngây ngây. Vị béo và ngọt bùi hoà hợp với nhau cùng với vị cay ấm của gừng trong nước đường và vị thơm nồng của mè, đậu phộng phía trên.
Chè trôi nước vốn được xem như món ăn miền Nam thuần Việt nhưng có người lại cho rằng xuất xứ của chè trôi nước là từ một loại bánh trôi Tàu hay từ món chè ỷ được nấu vào Tết Đông chí hàng năm của người Triều Châu khi họ sang sống chung với người dân miền Tây thế kỷ 18.
Phoóng dăm hay còn gọi là coóng dăm là một món ăn có từ lâu đời của người dân tộc Tày, Nùng xứ Lạng. Từ những nguyên liệu bình dị như gạo nếp, thịt lợn…, người dân đã sáng tạo ra một món ăn độc đáo, mang hương vị rất riêng. Đây cũng là món ăn phổ biến và rất được ưa chuộng trong mùa đông Xứ Lạng.
Cuối tháng 10, vào những ngày thời tiết se se lạnh, dạo quanh những tuyến phố như Lê Lợi, Bà Triệu… thành phố Lạng Sơn không khó để bắt gặp hình ảnh những quán bán phoóng dăm nườm mượp khách hàng.
Bà Ma Thị Thúy thực hiện công đoạn tạo hình phoóng dăm
Để tìm hiểu về món ăn này, chúng tôi đã ghé thăm quán Ngọt trên đường Bà Triệu, thành phố Lạng Sơn. Trong lúc đang tất bật chuẩn bị các nguyên liệu, bà Ma Thị Thúy, đầu bếp tại quán chia sẻ: Ngay từ khi còn nhỏ, tôi đã được mẹ dạy cách làm món phoóng dăm truyền thống của dân tộc Tày, Nùng. Nguyên liệu để làm món phoóng dăm rất mộc mạc, bình dị nhưng để tạo ra thành phẩm thơm ngon phải trải qua rất nhiều công đoạn cầu kì và đòi hỏi sự khéo léo của người làm. Thông thường, quán chủ yếu kinh doanh các món chè, tuy nhiên, khi thời tiết bắt đầu chuyển mình sang đông, quán chúng tôi làm thêm phoóng dăm để phục vụ nhu cầu của khách hàng. Trung bình vào những ngày đông giá rét, quán bán ra khoảng 50 bát phoóng dăm/ngày, với giá 30 nghìn đồng/bát.
Cũng có hình tròn tựa như coóng phù và được làm từ bột gạo nếp nhưng phoóng dăm lại là món ăn mặn và công đoạn chế biến có phần cầu kỳ hơn. Nguyên liệu để làm phoóng dăm gồm có: bột gạo nếp, thịt lợn, mộc nhĩ, nấm hương… Muốn món ăn thơm ngon, giữ được hương vị riêng biệt, khâu chọn lựa nguyên liệu rất quan trọng.
Theo đó, gạo để làm bột bánh phải là gạo nếp nương Tràng Định. Loại gạo này có hạt to đều, bóng mẩy và có độ dẻo cao, đậm đà hương vị. Thông thường, bột bánh sẽ được sơ chế theo 2 cách là sát khô và sát nước. Trước đây, đa phần người dân đem gạo sát thành bột nước và treo bột lên cao bằng vải xô để tách phần bột và phần nước. Tuy nhiên, hiện nay, bột để làm vỏ phoóng dăm thường được sát khô. Theo bà Thúy, việc sát gạo khô sẽ giúp bột bánh thơm ngon hơn, loại bỏ được vị chua thường gặp ở bột bước do quá trình lên men trong công đoạn sơ chế.
Nhân của phoóng dăm thường là nhân thịt. Người làm thường lựa chọn phần thịt nạc vai để nhân có độ mềm và tỉ lệ mỡ vừa phải. Sau khi rửa sạch, say nhỏ, thịt lợn được mang lên bếp xào khô và bỏ thêm các loại gia vị như: mộc nhĩ, nấm hương, miến dong, hạt tiêu… Để các loại nguyên liệu hòa quyện vào nhau, người làm đảo đều nhân trên bếp lửa trong khoảng từ 15 đến 20 phút đến khi thịt se lại, ngậy mùi thơm.
Điều đặc biệt được xem là “linh hồn” của món ăn chính là canh xương. Không sử dụng xương ống, canh của phoóng dăm thường dùng xương sườn để tạo hương vị ngọt thanh, hạn chế độ ngậy, béo. Sau khi lựa chọn được xương sườn và trải qua nhiều bước làm sạch, tẩm ướp, phần xương sườn tiếp tục được đem lên bếp ninh trong khoảng 40 phút và nêm nếm gia vị cho vừa phải.
Phoóng dăm thành phẩm với màu sắc bắt mắt và hương vị thơm ngon
Sau khi đã hoàn thành các công đoạn sơ chế nguyên liệu, người làm bánh nặn phần bột thành hình vỏ sò, cho nhân thịt vào giữa và vo tròn lại. Tiếp đó, các viên phoóng dăm được thả vào nồi nước sôi trong khoảng 15 phút đến khi nổi lên trên mặt nước thì vớt ra. Công đoạn cuối cùng là thả các viên phoóng dăm đã chín vào nồi canh xương trong khoảng 2 đến 3 phút để ngấm đều gia vị và vớt ra bát, chan thêm nước canh.
Để tạo cho món ăn thêm thanh đạm, hấp dẫn, có hương vị riêng, người ta thường ăn kèm phoóng dăm với rau cải cúc chần chín và cho thêm một chút măng ớt – một đặc sản nổi tiếng của Lạng Sơn. Trong những ngày mùa đông lạnh giá, ngồi ăn một bát phoóng dăm nóng hổi với nước canh xương thanh ngọt, vỏ bánh mềm dẻo, nhân thịt đậm đà cùng với vị chua cay của măng ớt đã trở thành một trải nghiệm rất thú vị của đông đảo thực khách trong và ngoài tỉnh.
Chị Hoàng Thanh Hằng, phường Phú Đô, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội chia sẻ: Mùa đông năm ngoái, tôi có dịp đến Lạng Sơn du lịch. Tôi đã được thử món phoóng dăm độc đáo và ngay lập tức bị chinh phục bởi hương vị vô cùng thơm ngon. Trong một ngày mùa đông giá rét đặc trưng của xứ Lạng được thưởng thức món phoóng dăm nóng hổi đã trở thành một trải nghiệm rất ấn tượng trong chuyến đi của tôi.
Chia sẻ về ý nghĩa của món ăn này, ông Hoàng Văn Páo, Chủ tịch Hội Di sản Văn hóa tỉnh Lạng Sơn cho biết: Phoóng dăm có nguồn gốc từ cộng đồng người Tày, Nùng tại Lạng Sơn. Trước đây, món ăn này thường được làm vào ngày đông chí và uống cùng với lẩu tông (rượu nếp ủ). Tuy nhiên, ngày nay, để đáp ứng nhu cầu của người dân, phoóng dăm được làm nhiều hơn vào mùa đông và trở thành một món ăn không thể thiếu trong những ngày đông Xứ Lạng.
Với đặc điểm chỉ xuất hiện vào mùa đông, phoóng dăm đã trở thành một món ăn hấp dẫn, chứa đựng nét văn hóa rất riêng của ẩm thực của Xứ Lạng. Với hương vị thơm ngon, phoóng dăm đã chinh phục khẩu vị của rất nhiều thực khách, đặc biệt là những thực khách ngoài tỉnh đến thăm Lạng Sơn. Qua đó, góp phần quảng bá ẩm thực Xứ Lạng, tạo nên những ấn tượng khó quên với du khách.
Người miền Bắc tìm thấy hương vị truyền thống trong từng viên bánh trôi, bánh chay, thưởng thức chúng theo cách riêng biệt - ăn nguội vào ngày Tết Hàn thực. Trái ngược lại, bánh ngào xứ Nghệ lại đem đến cảm giác nóng hổi, ấm áp, qua đó trở thành món quà tinh thần không thể thiếu trong những ngày giá rét và là tâm điểm của những bữa cỗ truyền thống mỗi dịp Tết Nguyên đán. Không chỉ vậy, bát bánh ngào thơm phức là nét đẹp không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Gia tiên, như một lời tri ân và kỷ niệm.
Khi cái se lạnh ôm trọn khắp xóm làng, hình ảnh các mẹ các chị cặm cụi trong gian bếp bé xíu ấm áp là lúc hương thơm của bánh ngào ngập mật thoảng qua. Viên bánh tròn nhỏ ngập trong bát mật sóng sánh, thơm hương gừng tạo nên món ngon đặc trưng của mảnh đất miền Trung.
Tên của loại bánh này có nguồn gốc từ động từ "ngào" - một cử chỉ nhào nặn khi làm bánh, là sự kết hợp tinh tế của bột nếp mịn và mật mía thơm nồng.
Để làm bánh ngào, cần cẩn thận từ việc chọn đúng loại nếp thơm mới có độ dẻo hoàn hảo. Gạo nếp sau khi xay sẽ đem trộn với nước. Nước để nhào phải vừa đủ để bột không quá khô hay quá ẩm, khi nặn bánh, chỉ nhấn nhẹ vừa đủ để bánh không quá dẻo, nhưng cũng đủ chặt để giữ hình dáng.
Bánh sau khi đã được nặn thành hình sẽ được mang đi luộc, từng viên bánh được đặt vào nồi chờ nổi lên thì vớt ra rồi đem ngào với mật. Mật để nấu bánh có màu vàng đỏ, đậm và sánh nhuyễn. Hương thơm của mật mía cùng với hương vị của bột nếp, gừng và một chút dầu ăn, tạo nên một “bữa tiệc” không thể chối từ.
Cuối cùng, khi bánh đã ngấm mật, thả vào mấy sợi gừng tươi để cho hương thơm thấm đẫm vào từng hạt bột rồi đun thêm tầm 3 đến 5 phút. Nồi bánh lúc đó dậy lên hương thơm ngọt của mật mía, thoảng qua vị cay nồng của gừng. Bánh ngào ngon nhất là khi ăn nóng, múc vài viên bánh tròn trắng ra bát rồi xì xụp trong tiết trời se lạnh. Cảm giác đầu tiên khi cắn miếng bánh ấm nóng là mùi thơm ngòn ngọt quyện cùng vị bùi của nhân, dẻo thơm của nếp và vị thanh đậm của nước mật. Mỗi dịp đầu xuân, khi hơi lạnh của mùa xuân vẫn đang e ấp trên cành lá, việc được quây quần bên nhau, cùng nhâm nhi bát bánh ngào nóng hổi, đượm vị ngọt ngào của mật mía, quả là không gì ấm lòng bằng.
Nguyên liệu chủ yếu làm bánh trôi, bánh chay là đều là những sản vật đơn giản, thường ngày, đặc trưng của nền văn hóa lúa nước, gồm bột nếp, đường phên và đỗ xanh, có thể thêm vừng, dừa nạo, hương bưởi,… để tạo thêm hương vị cho món bánh.