Tháng 7 Âm lịch, trong văn hóa truyền thống của người Việt Nam, thường được gọi là "tháng cô hồn" và được coi là một tháng có nhiều điều phải kiêng kị. Tên gọi này xuất phát từ quan niệm dân gian và tín ngưỡng tôn giáo, đặc biệt là trong Phật giáo và Đạo giáo.
Trong tháng 7 Âm lịch, có một ngày đặc biệt là ngày rằm tháng Bảy (rằm Tháng Bảy), được gọi là lễ Vu Lan hoặc lễ Xá tội vong nhân, hay Tết Trung nguyên, người ta thường tổ chức cúng tế với khá nhiều hình thức trên chùa, tại nhà, ngoài đường ngõ phố.
Theo truyền thuyết, vào ngày này, cửa địa ngục mở ra, và các linh hồn của những người đã khuất có thể trở về thế giới trần gian để tìm kiếm sự giải thoát và sự cứu giúp từ người sống. Đây là lý do mà tháng này được coi là thời điểm mà các vong hồn có thể lang thang và cần được cúng bái, tưởng nhớ.
Lý do gọi là "tháng cô hồn" là vì các vong hồn, đặc biệt là những linh hồn không có người thờ cúng hoặc có số phận không tốt, sẽ phải lang thang vô định trong thời gian này. Để tránh gặp phải những điều không may mắn và để giúp các linh hồn, người dân thường tổ chức các nghi lễ cúng bái, làm lễ tế, và thực hiện các hoạt động để xoa dịu và giúp đỡ các linh hồn.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Sáng tai họ, điếc tai cày
Sáng tai họ, điếc tai cày
(Trích dịch bài nghiên cứu của GS. Nguyễn Văn Huyên về lễ xá tội vong nhân của người Việt, đăng bằng tiếng Pháp trên tạp chí Indochine năm 1941)
Sự đầu thai của các linh hồn và lễ xá tội vong nhân của người Việt
(…) Nhưng trong thế giới huyền bí, có những hồn bị bỏ rơi phải lưu lạc, hay chẳng có thân thích và bạn bè. Đấy là hồn của những người bất hạnh chết vì tai nạn hoặc nghèo khổ trên các nẻo đường, mà xác không được mai táng, và chẳng có ai trông nom. Những hồn này lang thang theo sau các đám mây đen, những màn mưa phùn lâm tâm, hay nằm trên các cành cây. Đấy còn là hồn của những người chết đuối ở sông ngòi, ở biển, lởn vởn những nơi họ đã chết, để đợi có kẻ khác chết thay. (…) Để làm nguôi ngoai tất cả những linh hồn khốn khổ đó, thỉnh thoảng, nhất là vao ngày mồng một và ngày rằm, người ta cúng hương và giấy vàng, giấy bạc.
Nhưng cái chết không phải là một sự kết thúc hẳn: nó chỉ là điểm cuối cùng của một thời kỳ nằm trong chuỗi dài vô tận của những kiếp luân hồi đạo Phật. Sự có mặt của chúng ta trên thế gian này chỉ là một chặng của vòng quay muôn thuở sự sinh ra đời, sự sống với chuỗi dài sướng và khổ của nó, sự già nua, cái chết, và sự trở lại cuộc đời trên mặt đất sau một thời gian hoặc ngắn hoặc dài ở trong những đáy sâu thẳm của tối tăm.
(…)
Rằm tháng Bảy: Đó là ngày lễ của người đã chết, một ngày lễ dân gian lớn theo tín ngưỡng Phật giáo. Vừa lúc mặt trời lặn, các cửa địa ngục mở toang, và hồn những kẻ bị đày đọa ùa ra các nẻo đường, trần trụi và đói khát. Nếu muốn cung ứng cho các nhu cầu cấp thiết nhất của họ, thì vào ngày đó người ta phải bày lên bàn thờ họ những đĩa thức ăn, người ta cúng hồn quần áo, đồ đạc, những thoi vàng và bạc bằng giấy.
Ngoài ra, muốn được các thần thương xót, tối hôm đó, sau khi cúng gia tiên, người ta cúng cho tất cả các hồn bị bỏ rơi một mâm cơm. Vì thế, ta thấy ở các phố, lúc sẩm tối, ai cũng đặt trước nhà mình những bàn đầy những bát cơm, bát cháo, bánh, hoa quả, quần áo cắt bằng giấy nhiều màu, rất nhiều vàng mã.
Rằm tháng Bảy ngày nay trở thành ngày từ thiện lớn: người giàu cho người nghèo và những người hành khất rất hào phóng; các hội từ thiện đi quyên để chia của bố thí trong các nhà tế bần và bệnh viện.
Ở các chùa lớn, người ta làm lễ bằng những khoản quyên góp của các thiện nam tín nữ. Hôm đó, người ta dựng một đàn lớn bằng gỗ hoặc tre dài từ bàn thờ Phật đến tận giữa sân chính của chùa. Khoảng cuối buổi chiều, trên chiếc bàn lớn này chồng đủ thứ kẹo, bánh, hoa quả mà tín đồ mang đến hay do nhà chùa mua.
Mọi người vứt lung tung vào đấy rất nhiều đồ vàng mã như tiền, quần áo, mũ, giày,…
Trời sẩm tối, chùa đã đầy người đứng đợi lúc giải thoát cho linh hồn những người thân thích của mình. Người ta đốt rất nhiều hương, và thắp hết cây nến lên. Hòa thượng chủ trì nhà chùa, theo sau là tất cả các sư sãi trong chùa, đôi khi có những sư các chùa nhỏ quanh vùng đến nhập hội, đứng trước đàn này. Hòa thượng tụng kinh và niệm thần chú để cho những đồ cúng hiện có ở trên đàn tăng lên thật nhiều.
Lễ này kéo dài đến rất khuya. Cuối cùng, sau khi đã giải thoát linh hồn của những kẻ bị đày ở địa ngục, hòa thượng cúng hồn một mâm cơm bố thí và đọc cho tín đồ nghe những lời răn của Phật để khuyến khích họ làm điều thiện nếu muốn chuẩn bị vào cõi Niết bàn.
Hôm đó, từ những người quyền quý nhất đến kẻ nghèo khó nhất, ai cũng mong cho cha mẹ và người thân của mình đã khuất được nhập Niết bàn mà được dân chúng quan niệm là cõi thiên đường. (…)
Đấy là tóm tắt trong vài dòng ngày lễ lớn xá tội vong nhân của người Việt Nam. Như ta thấy, nó có một tầm luân lý lớn. Nó hướng tới khuyến khích mọi người ăn ở tốt trong cuộc đời ngắn ngủi trên trái đất của mình, và an ủi tất cả các hồn trong cuộc đấu tranh gay go giành sự sống. Tất cả trong cái xứ sở có thiên nhiên nghiệt ngã này, nhất là những thời kỳ khắc nghiệt này của mùa hè, đều phải nâng cách quan niệm của mình mọi khổ ải trên thế gian này lên quy mô những chuỗi luân hồi dài vô tận, nhằm khiến linh hồn phải hoàn thiện, phải làm tinh tế bản thể của mình bằng cách thực hành những đức nhân từ và từ bỏ cuộc đời phàm tục. Điều quan trọng chẳng phải là kết quả ngay trước mắt: cái ta phải nhằm trong mọi hành vi của đời mình, đấy là trạng thái tận thiện tận mỹ cuối cùng chỉ có thể đạt tới bằng một nỗ lực lâu dài và kiên nhẫn cả về thể chất cũng như tinh thần và trí tuệ.
Nguyễn Văn Huyên toàn tập, Văn hóa và Giáo dục Việt Nam, tập 2,
NXB Giáo dục, 2001, tr. 989-997.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Những kiêng kị trong dân gian trong tháng cô hồn
Trong tháng cô hồn (tháng 7 âm lịch), theo quan niệm dân gian, có nhiều kiêng kị để tránh những điều không may mắn và xui xẻo. Những kiêng kị này xuất phát từ tín ngưỡng và truyền thống nhằm bảo vệ sự an lành và hòa thuận trong cuộc sống. Dưới đây là một số kiêng kị phổ biến trong tháng cô hồn:
- Kiêng kỵ khởi công, xây dựng, sửa chữa:
- Khởi công xây dựng: Người dân thường kiêng không bắt đầu xây dựng nhà cửa, công trình mới trong tháng này. Quan niệm cho rằng, các vong hồn sẽ gây khó khăn hoặc trở ngại trong quá trình xây dựng.
- Sửa chữa lớn: Cũng nên tránh thực hiện các công việc sửa chữa lớn trong nhà như đục đẽo, khoan đục, vì điều này có thể mang lại điều không may mắn.
- Kiêng kỵ cưới hỏi, tổ chức lễ hội:
- Cưới hỏi: Nhiều gia đình chọn không tổ chức đám cưới hoặc lễ hội trong tháng cô hồn vì tin rằng việc này có thể mang lại xui xẻo hoặc không may mắn cho đôi uyên ương.
- Lễ hội: Các hoạt động vui chơi, lễ hội lớn cũng thường bị hạn chế để tránh ảnh hưởng xấu.
- Kiêng kỵ đi xa:
- Đi du lịch: Nhiều người tin rằng việc đi xa trong tháng cô hồn có thể gặp rủi ro hoặc gặp phải tai họa. Do đó, việc đi du lịch hoặc di chuyển đường dài được hạn chế.
- Kiêng kỵ mua sắm đồ mới:
- Sắm đồ mới: Việc mua sắm đồ mới, đặc biệt là đồ đạc lớn như xe cộ, đồ gia dụng, được kiêng kỵ. Quan niệm cho rằng, việc này có thể mang lại điều không may mắn hoặc gánh nợ nần.
- Kiêng kỵ để cửa mở vào ban đêm:
- Cửa mở: Để cửa mở vào ban đêm được coi là không tốt, vì có thể để các vong hồn hoặc khí xấu vào nhà, gây ảnh hưởng đến an lành của gia đình.
- Kiêng kỵ mặc đồ tối màu:
- Trang phục: Một số người kiêng không mặc đồ tối màu, đặc biệt là màu đen hoặc xám, trong tháng cô hồn vì cho rằng màu sắc này liên quan đến sự tang tóc và có thể mang lại điềm xấu.
- Kiêng kỵ làm ồn ào hoặc xô xát:
- Tranh cãi, cãi vã: Trong tháng cô hồn, việc tranh cãi, xô xát hoặc làm ồn ào cũng được kiêng kị, vì có thể thu hút năng lượng tiêu cực và ảnh hưởng xấu đến hòa khí trong gia đình.
- Kiêng kỵ làm việc không cần thiết vào ban đêm:
- Làm việc khuya: Làm việc hoặc ra ngoài vào ban đêm cũng được khuyên nên tránh, vì ban đêm là thời điểm các vong hồn dễ xuất hiện và có thể gây ra những điều không may mắn.
Những kiêng kị này chủ yếu là các phong tục tập quán và quan niệm dân gian, và mức độ tuân thủ có thể khác nhau tùy thuộc vào từng gia đình và vùng miền. Những điều kiêng kị này thường nhằm giúp mọi người cảm thấy an tâm hơn vì giúp tránh/hạn chế được những rủi ro trong thời điểm mà các vong hồn được cho là đang lang thang.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô,
Não người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng.
Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Ngọn đường lê lác đác sương sa,
Lòng nào là chẳng thiết tha,
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Có khôn thiêng phảng phất u minh,
Thương thay thập loại chúng sinh,
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người.
Hương khói đã không nơi nương tựa,
Hồn mồ côi lần lữa đêm đen,
Còn chi ai quí ai hèn,
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu?
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tĩnh bình rưới hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi,
Giải oan, cứu khổ, hồn về tây phương.
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh,
Chí những lăm cướp gánh non sông,
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau.
Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở
Khôn đem mình làm đứa sất phu,
Lớn sang giàu nặng oán thù,
Máu tươi lai láng, xương khô rã rời.
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ không đầu than khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan!
Cũng có kẻ màn lan trướng huệ,
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới cầu nước chảy
Phận đã đành trâm gãy bình rơi,
Khi sao đông đúc vui cười,
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Đau đớn nhẽ không hương không khói,
Luống ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo, một đêm một rầu.
Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay,
Kinh luân găm một túi đầy,
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh,
Nghìn vàng khôn đổi được mình
Lầu ca, viện hát, tan tành còn đâu?
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
Cô hồn thất thểu dọc ngang,
Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hoá sinh.
Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung.
Gió mưa sấm sét đùng đùng,
Dãi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc,
Bãi sa trường thịt nát máu rơi,
Bơ vơ góc bể chân trời,
Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao?
Trời thăm thẳm mưa gào gió thét,
Khí âm huyền mờ mịt trước sau,
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?
Cũng có kẻ tính đường trí phú,
Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn,
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ,
Của phù du dẫu có như không,
Sống thời tiền chảy bạc ròng,
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quãng đồng chiêm,
Nén hương giọt nước, biết tìm vào đâu?
Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý
Dấn mình vào thành thị lân la,
Mấy thu lìa cửa lìa nhà,
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân?
Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng,
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng,
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng,
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng.
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang,
Cô hồn nhờ gửi tha phương,
Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng.
Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
Gặp cơn giông tố giữa dòng,
Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê.
Cũng có kẻ đi về buôn bán,
Đòn gánh tre chín dạn hai vai,
Gặp cơn mưa nắng giữa trời,
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?
Cũng có kẻ mắc vào khoá lính,
Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,
Nước khe cơm ống gian nan,
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.
Buổi chiến trận mạng người như rác,
Phận đã đành đạn lạc tên rơi.
Lập loè ngọn lửa ma trơi,
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.
Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp,
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,
Ngẩn ngơ khi trở về già,
Đâu chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất,
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi,
Thương thay cũng một kiếp người,
Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan!
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh.
Nắm xương chôn rấp góc thành,
Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi?
Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé,
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha.
Lấy ai bồng bế vào ra,
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối,
Cũng có người sẩy cối sa cây,
Có người leo giếng đứt dây,
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thuỷ quái
Người thì sa nanh sói ngà voi,
Có người hay đẻ không nuôi,
Có người sa sẩy, có người khốn thương.
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách tán biết đâu bây giờ?
Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi,
Hoặc là nương ngọn suối chân mây,
Hoặc là bụi cỏ bóng cây,
Hoặc nơi quán nọ cầu này bơ vơ.
Hoặc là nương thần từ, Phật tự
Hoặc là nơi đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không,
Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre.
Sống đã chịu nhiều bề thảm thiết,
Gan héo khô dạ rét căm căm,
Dãi dầu trong mấy mươi năm,
Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương.
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn,
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra,
Lôi thôi bồng trẻ dắt già,
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ,
Phóng hào quang cứu khổ độ u,
Rắp hoà tứ hải quần chu,
Não phiền rũ sạch, oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại,
Chuyển pháp luân tam giới thập phương,
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương,
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh,
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao,
Mười loài là những loài nào?
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như hình bào ảnh,
Có chữ rằng: “Vạn cảnh giai không”
Ai ơi lấy Phật làm lòng,
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo,
Của có chi bát cháo nén nhang,
Gọi là manh áo thoi vàng,
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại,
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu.
Phép thiêng biến ít thành nhiều,
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sình.
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không.
Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Tục cúng chúng sinh
Cúng chúng sinh hay còn gọi là cúng cô hồn. Việc cúng chúng sinh, cúng cô hồn nhằm mục đích giúp cho các linh hồn, ma quỷ không có nơi lương tựa, đi lang thang ở chốn trần gian được ăn uống đầy đủ và giúp họ về trời và đầu thai.
"Khi con người chết đi, có những người trở về thế giới tổ tiên, sau đó được con cháu thờ cúng hàng năm. Tuy nhiên, cũng có những người gặp tai nạn mà qua đời, chết bất đắc kỳ tử, chết đường chết chợ, không được con cháu chăm sóc nên phải bơ vơ. Người Việt cổ quan niệm, tháng 7 là tháng mà trời đất, âm dương có thể gặp gỡ nhau, nên phải làm lễ cúng chúng sinh cho những linh hồn không có nơi nương tựa"
Sáng tai họ, điếc tai cày
Cháo thí lá đa
Tục có câu: Cướp cháo lá đa là để chỉ người vô hậu, sau chết không ai cúng tế, sẽ trở thành ma đói phải ăn loại cháo thí.
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa
Loại cháo này nấu bằng gạo hay cơm nắm thành từng nắm nhỏ. Cháo cúng tại đình chùa, cầu quán thì được múc ra những bồ đài cuốn bằng lá đa, lá mít cắm hai bên đường trước lễ đài. Có khi còn cả nồi cháo đại để khi cúng xong, những người nghèo, những mục đồng, trẻ con trong làng… xô nhau cướp cháo trên những chiếc lá đa để húp sụp soạt tại chỗ, hoặc đổ vào cái bát, cái liễn mang về. Tục này gọi là: “cướp cháo”. Ở miền Nam người rải muối gạo thay cháo để dân gian tiện hơn và bọn trẻ đến ngày thường chầu chực để “giựt cô hồn”.
Hình thức cúng này thướng vào những ngày sóc, vọng (mồng một, ngày rằm), nhất là vào rằm tháng Bảy.
Hình số 640 - Vãi cháo cúng chúng sinh - Sách Kỹ thuật người An Nam của Henri Oger
Sách Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính viết:
"Am chúng sinh
Mỗi làng, đầu làng hoặc cuối làng, có một khu đất rộng để làm chỗ tha ma mộ địa, trong làng có ông già bà cả hoặc người nào mất thì cứ đem tại đó mà chôn.
Mỗi chỗ tha ma mộ địa có lập một cái am năm ba gian, hoặc xây bệ lộ thiên, đề 3 chữ «hàn lâm sở», để thờ chung cả những mồ mả vô chủ, gọi là am chúng sinh. Mỗi cửa am có một bà đồng ở sớm tối đèn hương thờ phụng. Về ba tháng hè thì cứ ngày rằm, ngày mồng một nấu cháo cúng, đổ vào lá đa cuộn tròn lại, cắm hai bên dọc đường gọi là cúng các quan, hoặc gọi là cúng bách linh. Cho nên tục có câu rằng: cướp cháo thí lá đa, là nói những người vô hậu.
Bà đồng ở đó thường bày một cái nong ra cạnh đường đi; đốt vài nén hương để quyên giáo, kẻ qua lại ai cũng cúng một vài đồng kẽm. Bà đồng thì ngồi trong am đánh trống kể kệ, hoặc là họp năm ba bà vãi chèo đò.
Nhiều nơi mỗi năm về tháng bảy, hoặc công làng, hoặc riêng một hội thiện, thiết đại tràng tại cửa am để làm chay, cúng hai, ba ngày hoặc năm, bảy ngày."
Tục cúng chúng sinh và việc cúng cháo thí lá đa không chỉ là những hoạt động tâm linh mà còn chứa đựng nhiều giá trị nhân văn. Một trong những mục tiêu chính của việc cúng chúng sinh là giúp đỡ các vong hồn không có nơi nương tựa, những linh hồn không có người thờ cúng, thể hiện lòng từ bi và sự quan tâm, chia sẻ, giúp các vong linh thập loại chúng sinh bất hạnh được an lành và giảm bớt khổ đau, với niềm mong ước hòa bình, an lạc trên tất cả các “cảnh giới”…
Sáng tai họ, điếc tai cày
Chèo đò kể hạnh
Chèo đò kể hạnh cũng được thực hiện như là một hình thức cúng chúng sinh ở Bắc bộ, thường được thực hiện bởi các bà, các vãi. Sau khi chiếu được trải xuống sân đình và lễ vật được bày ra đó, các cụ bà, các vãi đứng dậy vừa làm động tác chèo đò, vừa đọc các bài kệ để mời các chúng sinh (các cô hồn ngạ quỷ) về thụ hưởng lễ vật và nghe những lời răn dạy theo triết lý nhà Phật. Các cụ bà nghe hát, chắp tay thành kính và xướng lại lời hát như lối hát-hò. Vì là nghi lễ dân gian nên hành động chèo đò sẽ ko có ý nghĩa cố định, có thể là chèo đò chở lễ vật đến với chúng sinh, chèo đò chở ngạ quỷ đến thụ hưởng lễ vật, chèo đò chở cô hồn đi siêu thoát sau khi hưởng lễ vật....
"Bà đồng ở đó [Am chúng sinh] thường bày một cái nong ra cạnh đường đi; đốt vài nén hương để quyên giáo, kẻ qua lại ai cũng cúng một vài đồng kẽm. Bà đồng thì ngồi trong am đánh trống kể kệ, hoặc là họp năm ba bà vãi chèo đò." (Việt Nam phong tục - Phan Kế Bính)
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, chèo đò kể hạnh là một hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian, là cầu nối giữa quá khứ với hiện tại, giúp cho thế hệ trẻ hôm nay hiểu được công lao tổ tiên, thêm tự hào về truyền thống quê hương, đất nước của mình.
Chèo đò kể hạnh được bắt đầu từ thời Trần, với văn kể hạnh về Phật giáo Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông khởi xướng. Kể hạnh lúc đầu là một loại văn học truyền miệng để duy trì những tài liệu lịch sử về các vị tổ sư Phật Giáo. Kể là kể chuyện, hạnh là hành trạng các vị tổ sư. Sau này, chèo đò kể hạnh được sử dụng như một hình thức dạy dỗ con cháu với nội dung phong phú hơn.
GS Trần Lâm Biền, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, cho biết thêm, nổi bật nhất trong các chiếu chèo ở các ngôi chùa là gắn với tích Tôn giả Mục Kiền Liên cứu mẹ là bà Thanh Đề. Thông qua câu chuyện này giáo dục Phật tử mọi thế hệ từ nhỏ đến già là phải biết tôn trọng tứ thân phụ mẫu, phải biết quý trọng tổ tiên và từ đó biết quý trọng trật tự gia đình, từ đó đi đến trật tự làng xóm và trật tự của đất nước. Dẫn từ yêu quý bố mẹ đến yêu quý non sông đất nước. Có khi người ta kể hạnh về bà chúa Ba, Quan Âm, Quan Âm Thị Kính…
Mặc dù chèo đò kể hạnh chỉ chiếm một vị trí khiêm nhường nơi góc sân đình, chùa, với dụng cụ chỉ là một manh chiếu, mái chèo, nhưng hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian này vẫn tồn tại cùng năm tháng. Sở dĩ nét văn hóa có một không hai này có sức sống mãnh liệt vượt thời gian là bởi nó là sản phẩm của nhân dân, được nhân dân sáng tác và đón nhận.
Sáng tai họ, điếc tai cày