Trước tình thế phát triển thuận lợi, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định tập trung lực lượng nhanh chóng tiêu diệt Sở Chỉ huy Sư đoàn 23 và các mục tiêu còn lại trong thị xã; đồng thời tiêu diệt các căn cứ Bản Đôn, Chư Nga, Buôn Hồ, ngăn chặn quân tiếp viện từ bên
ngoài, bố trí lực lượng sẵn sàng đánh quân địch phản kích.
6 giờ sáng ngày 11-3-1975, được hỏa lực pháo binh chi viện, các đơn vị binh chủng hợp thành của ta từ ba hướng mở trận công kích vào Sở Chỉ huy Sư đoàn 23. Trong cơn tuyệt vọng, địch vẫn cố dồn sức chống đỡ. Máy bay địch ném bom bừa bãi xuống đường phố. Xe tăng địch liều mạng xông ra bịt các ngả đường. Nhưng tất cả các hành động tuyệt vọng đó đều không cứu vãn được tình thế.
11 giờ ngày 11-3-1975, Sở Chỉ huy Sư đoàn 23 quân đội Sài Gòn bị tiêu diệt. Hơn 1.000 quân bị bắt sống, trong đó có Đại tá Vũ Thế Quang, Sư đoàn phó Sư đoàn 23 và Đại tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh trường Đăk Lăk.
Sau 32 giờ chiến đấu liên tục, anh dũng, quân Giải phóng đã tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch, giải phóng hoàn toàn thị xã Buôn Mê Thuột.
Quân Giải phóng đánh chiếm Sở chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy trong trận Buôn Ma Thuột, tháng 3-1975
Sáng tai họ, điếc tai cày
Trận Buôn Mê Thuột là "một đòn điểm trúng huyệt", gây phản ứng dây chuyền về quân sự và quân đội Sài Gòn từ trung ương đến cơ sở, tác động tới cả nước Mỹ. Thế bố trí lực lượng và toàn bộ hệ thống phòng thủ của quân đội Sài Gòn bị rung động. Hai ngày sau trận Buôn Mê Thuột, ngày 12-3-1975, những người Mỹ ở Plâycu và Kon Tum bắt đầu di tản. Nguyễn Văn Thiệu và những người cầm đầu chính quyền và quân đội Sài Gòn oán trách và buộc tội Mỹ "đã có cơ hội để giúp chúng ta, nhưng họ không làm, họ đã phản bội chúng ta". Ở Washington, "khi tin Buôn Mê Thuột thất thủ được xác nhận, Kissinger đang bay giữa Cairo và TeL Aviv. Ông choáng váng và lo sợ".
Sáng ngày 11-3-1975, khi quân ta đã cơ bản làm chủ thị xã Buôn Mê Thuột, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp bàn về phương hướng phát triển của chiến dịch.
Từ diễn biến thực tế trên chiến trường, Hội nghị nhận thấy khả năng giành thắng lợi lớn hơn, nhanh hơn dự kiến ban đầu. Đặc điểm nổi bật của tình hình lúc này là tinh thần địch sa sút nhanh chóng, khả năng chiến đấu hạn chế, trong khi đó lực lượng quân Giải phóng còn rất sung sức, khả năng bảo đảm hậu cần tốt, thời tiết thuận lợi.
Với tinh thần hết sức thận trọng, Hội nghị nhận định cuộc tiến công chiến lược có thể đã bắt đầu. Cục diện chiến trường đang chuyển biến mau lẹ. Sau chiến thắng Đức Lập, Buôn Mê Thuột, vấn đề quan trọng mới được đặt ra là có khả năng giải phóng Tây Nguyên sớm hơn dự kiến.
Cùng với chiến trường chính Tây Nguyên, các chiến trường phối hợp đang phát triển thuận lợi. Ở Trị Thiên, quân Giải phóng bí mật vượt qua tuyến phòng thủ vòng ngoài dày đặc của địch, liên tiếp tiến công các vị trí quân sự và hệ thống kìm kẹp của chúng.
Quân và dân Khu V tiêu diệt quận lỵ Tiên Phước, uy hiếp Quảng Tín, Quảng Ngãi. Ở chiến trường Nam bộ, quân và dân ta phối hợp chặt chẽ ba mũi giáp công, diệt nhiều đồn bốt, giải phóng nhiều địa bàn rộng lớn. Cùng với những hoạt động quân sự, phong trào đấu tranh chính trị và nổi dậy của quần chúng phát triển mạnh mẽ. Tinh thần cách mạng của quân và dân Nam bộ lên cao.
Trước tình hình đó, Hội nghị Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đề ra chủ trương nhanh chóng nắm bắt thời cơ, giành thắng lợi to lớn hơn nữa. Trong sử dụng lực lượng phát triển tiến công phải linh hoạt, tập trung, khẩn trương và mạnh dạn. Hướng tiến công tiếp theo có thể là Huế, Đà Nẵng, và khi có thời cơ đánh mạnh vào Sài Gòn. Trước mắt, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chủ trương củng cố vùng mới giải phóng, sẵn sàng đánh địch phản kích; đồng thời mở rộng tiến công ra xung quanh thị xã Buôn Mê Thuột, giải phóng hoàn toàn tỉnh Đắk Lắk; bao vây cô lập Plâycu, Kon Tum, nhanh chóng phát triển về hướng Cheo Reo.
Tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương là kiên quyết thực hiện kế hoạch ban đầu, nhưng khẩn trương và mạnh bạo hơn.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Ngày 12-3-1975, Ủy ban Quân quản tỉnh Đắk Lắk được thành lập, do Đại tá Y Blốc làm Chủ tịch, động viên và tổ chức nhân dân ổn định đời sống, sản xuất, giữ gìn trật tự, trị an, sẵn sàng chiến đấu.
Đúng như dự kiến của Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên, địch tập trung lực lượng hòng tái chiếm Buôn Mê Thuột. Từ ngày 12 đến ngày 18-3-1975, quân ta đã đập tan hoàn toàn cuộc phản kích của địch, tiêu diệt toàn bộ Sư đoàn 23, một sư đoàn được quân đội Sài Gòn suy tôn là "Nam bình, Bắc phạt, Cao nguyên trấn".
Trước những đòn "choáng váng và hãi hùng", ngày 13-3-1975, Nguyễn Văn Thiệu vội vã triệu tập cuộc họp của "Hội đồng an ninh quốc gia" bàn biện pháp đối phó. Thiệu hoảng hốt trước sức tấn công của quân Giải phóng, Nguyễn Văn Thiệu vạch ra một kế hoạch "co
cụm để bảo toàn lực lượng", dự kiến bỏ Plâycu, Kon Tum và ở phía Bắc, bỏ Quảng Trị, Huế, rút Quân đoàn 2 về giữ vùng ven biển miền Trung.
Ngày 14-3-1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Viên và Tư lệnh Quân đoàn 2 Phạm Văn Phú họp kín tại Nha Trang quyết định kế hoạch rút bỏ Plâycu và Kon Tum theo Đường số 7.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Chiều ngày 15-3-1975, cơ quan đại diện Bộ Tổng tư lệnh tại mặt trận thông báo cho Bộ Tư lệnh chiến dịch "khả năng địch rút chạy khỏi Kon Tum và Plâycu". Lúc này, quân Giải phóng đang đánh địch phản kích vào thị xã Buôn Mê Thuột. Bộ Tư lệnh chiến dịch theo chỉ thị của Đại tướng Văn Tiến Dũng đã gấp rút triển khai ngay kế hoạch ngăn chặn, không cho chúng rút chạy và tổ chức lực lượng truy kích tiêu diệt địch.
Ngày 16-3, địch rút bỏ Kon Tum và 17-3, rút bỏ Plâycu, theo Đường số 7 chạy về hướng ven biển. Đêm 16-3-1975, Sư đoàn 320 đốt kho nứa khô, dép cao su làm đuốc, vừa sử dụng cơ giới, vừa chạy bộ, nhanh chóng triển khai đội hình chiến đấu trên một địa bàn kéo dài hơn 70km từ Chư Pao - Đạt Lý đến phía Đông Đường 14. Đơn vị đứng gần nhất chỉ có 1 tiểu đoàn ở cách Đường 7 tới gần 60km. Đêm 16-3-1975, đơn vị đi đầu của ta đã đến chặn địch cách Cheo Reo 4km về phía Đông.
Trong thế thất bại không được chuẩn bị và tinh thần hoảng hốt, lo sợ bị tiêu diệt, cuộc rút lui của quân đội Sài Gòn nhanh chóng biến thành cuộc tháo chạy hỗn loạn mà họ gọi là "tùy nghi di tản". Lực lượng quân địa phương của địch và một bộ phận dân chúng ở hai thị xã Plâycu và Kon Tum cũng hoảng hốt chạy theo. Sĩ quan, binh lính Sài Gòn tranh nhau lên xe rút chạy theo đường số 7.
13 giờ ngày 18-3-1975, Phạm Văn Phú ra lệnh "mở đường máu mà tháo thân, mạnh đơn vị nào đơn vị ấy chạy, xe không đi nổi thì phá xe, tìm đường, bỏ qua mọi tình huống mà chạy cho thoát, lấy Củng Sơn làm tụ điểm".
Ngày 18-3-1975, quân Giải phóng chiếm Cheo Reo. Ngày 21-3-1975, ta bao vây, tiêu diệt cụm quân địch ở Phú Túc.
Phối hợp với các cánh quân đang truy kích địch từ phía Tây xuống, Bộ Tư lệnh Quân khu V lệnh cho bộ đội địa phương tỉnh Phú Yên phối hợp với Sư đoàn 320 truy kích và chặn đánh địch.
Lực lượng vũ trang Phú Yên đánh chiếm cầu Sơn Hòa ở phía Đông Củng Sơn, đánh chiếm và kiểm soát đường 5, chặn đường rút chạy của chúng.
Ngày 24-3-1975, quân ta tiêu diệt "tụ điểm" cuối cùng của cánh quân địch rút chạy ở Củng Sơn.
Ngụy quân tháo chạy hỗn loạn trên Đường số 7
Sáng tai họ, điếc tai cày
Như vậy, sau 8 ngày đêm thần tốc (từ 17 đến 24-3-1975), cuộc truy kích địch tháo chạy đã thắng lợi giòn giã. Đại bộ phận cánh quân rút chạy của địch bị tiêu diệt, chỉ một bộ phận nhỏ gồm 11 xe chạy thoát về Tuy Hòa (Phú Yên). Ta bắt sống hơn 8.000 quân, thu và phá hủy 14.000 xe quân sự.
Phối hợp với cuộc truy kích, tiêu diệt địch, ngày 17-3-1975, quân và dân ta giải phóng thị xã Plâycu và thị xã Kon Tum.
Ngày 25-3-1975, toàn bộ Tây Nguyên với hơn 60 vạn đồng bào các dân tộc hoàn toàn được giải phóng.
Ngay sau khi Tây Nguyên được giải phóng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã gửi điện "Nhiệt liệt khen ngợi chiến công đầu vẻ vang của các cấp Đảng bộ, đồng bào các dân tộc và các cán bộ, chiến sỹ các lực lượng vũ trang Tây Nguyên anh hùng. Cả nước chào mừng thắng lợi có ý nghĩa chiến lược quan trọng của Tây Nguyên".
Sáng tai họ, điếc tai cày
Chiến thắng Tây Nguyên có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nhật báo "Le Monde" số ra ngày 21-3-1975 viết:
"Il aura suffi d'une bataille - celle de Ban-Me-Thuot - pour que de grands pans de l'édifice mis en place par le régime du président Thieu s'écroulent sans gloire. Des commandos infiltrés dans cette ville, une attaque de l'aéroport, une percée de chars... Le chef de l'État dépêche de gros renforts : en vain. Ban-Me-Thuot ne sera pas reconquis. Il pouvait s'agir d'un épisode : la perte d'une capitale de province ne provoque pas forcément la débandade sur des fronts situés à plusieurs centaines de kilomètres. En fait, la bataille de Ban-Me-Thuot a pris l'allure d'un tournant dans un conflit vieux maintenant de trente ans."
"Chỉ cần một trận đánh - trận Ban Mê Thuột - là phần lớn công trình do chế độ Tổng thống Thiệu xây dựng đã sụp đổ một cách nhục nhã. Quân giải phóng xâm nhập thành phố, tấn công sân bay, đột phá bằng xe tăng... Người đứng đầu VNCH đã gửi quân tiếp viện ồ ạt: nhưng vô ích. Ban Mê Thuột sẽ không thể bị chiếm lại. Sự thất thủ của một tỉnh không nhất thiết phải đưa tới sự tẩu tán hỗn loạn tại các mặt trận khác cách đó hàng trăm cây số. Nhưng trên thực tế, trận đánh Ban Mê Thuột có vẻ như là bước ngoặt trong cuộc tranh chấp kéo dài từ 30 năm qua".
Với thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên, "cuộc Tống tiến công chiến lược của ta đã bắt đầu... Cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt".
Sáng tai họ, điếc tai cày
Chiến dịch Thừa Thiên - Huế và cuộc tiến công, nổi dậy của các tỉnh Trung bộ
Thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên đã tạo ra một bước ngoặt mới trong quá trình phát triển của cục diện quân sự và chính trị ở miền Nam. Với việc rút bỏ hoàn toàn Tây Nguyên, hệ thống bố trí chiến lược của Mỹ - Thiệu đứng trước nguy cơ bị chia cắt làm đôi. Tuyến phòng ngự của địch dọc theo biển miền Trung bị uy hiếp trực tiếp. Hệ thống chính quyền và quân đội Sài Gòn suy yếu nhanh chóng và đang đứng bên bờ của sự sụp đổ.
Trong lúc đó, Quốc hội Mỹ cử một phái đoàn do Thượng nghị sĩ Dewey F. Bartlett và dân biểu John J. Flynt dẫn đầu sang Sài Gòn để xem xét tại chỗ liệu có nên bổ sung viện trợ cho chính quyền Thiệu hay không. Abzug, một thành viên của phái đoàn đã phát biểu: "Không thể đồng ý rằng không có hy vọng để thương thuyết tại Nam Việt Nam, nhưng với Tổng thống Thiệu còn tại vị thì không thể có thương lượng được... tiếp tục đề nghị 3 năm viện trợ là điên rồ". Trong khi đó thành viên khác là Fenwick cho biết: "Đã nói với Tổng thống Ford: chúng ta nên ngưng đổ tiền vào một cái giếng không đáy". Như vậy, khả năng Mỹ tiếp tục viện trợ cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu là không thể.
Trên đà thắng lợi của mặt trận Tây Nguyên, quân và dân ta trên khắp chiến trường miền Nam đồng loạt nổ súng tiến công địch.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Tại Trị - Thiên, ngày 5-3-1975, các lực lượng vũ trang bắt đầu nổ súng tiến công địch trên 5 khu vực là Nam Quảng Trị, Phong - Quảng (Phong Điền và Quảng Điền), đồng bằng phía Nam Huế, vùng ven đô và thành phố (Huế), trục giao thông từ Truồi đến đèo Hải Vân, hướng chủ yếu là Đường 14.
Tại Khu V, ngày 16-3-1975, Hội nghị Thường vụ Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu hạ quyết tâm giải phóng hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định, giành đại bộ phận nông thôn đồng bằng.
Tại Nam Bộ, từ ngày 10-3-1975, toàn chiến trường đồng loạt tiến công và nổi dậy. Từ Khu VI đến Cà Mau, kể cả vùng ven các đô thị, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích phối hợp với phong trào nổi dậy của quần chúng nhân dân giành thắng lợi giòn giã. Ở khu vực Sài Gòn - Gia Định, lực lượng của thành đội và các đội đặc công, biệt động bắt đầu hoạt động mạnh, ở đồng bằng sông Cửu Long, quân và dân ta sôi nổi đánh phá kế hoạch "bình định" của địch, đạt nhiều kết quả.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Ngày 18-3-1975, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương bàn về khả năng và chiều hướng phát triển của cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam.
Hội nghị nhận thấy, sau thắng lợi ở Buôn Mê Thuột, tình hình chuyển hướng rất nhanh chóng, hết sức có lợi cho ta. Tương quan lực lượng giữa ta và địch đã thay đổi. Quân đội Sài Gòn đã suy yếu rõ rệt. Mỹ không còn khả năng trở lại can thiệp vào miền Nam nước ta.
Trên cơ sở phân tích sâu sắc những diễn biến trên chiến trường và thái độ của Mỹ - Thiệu, Bộ Chính trị khẳng định: "Thời cơ đang hết sức thuận lợi đối với chúng ta. Ta cần động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân nắm vững thời cơ mạnh bạo tiến lên. Nếu trù trừ do dự sẽ là một sai lầm không thể tha thứ được". Trung ương hạ quyết tâm chuyển cuộc tiến công chiến lược thành cuộc Tổng tiến công chiến lược hoàn thành kế hoạch hai năm (1975-1976) ngay trong năm I975. Phương châm tác chiến chiến lược là "táo bạo, bất ngờ, kịp thời, chắc thắng”.
Hội nghị Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương ngày 18-3-1975 đã quyết định rất kịp thời, khẩn trương chuyển hẳn sang phương án thời cơ, tạo nên sự chuyến biến sôi động trên toàn miền Nam với sự huy động tối đa tinh thần và lực lượng của quân và dân cả nước cho sự nghiệp giải phóng miền Nam.
Ngay sau khi Hội nghị Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh chỉ thị cho các binh đoàn chủ lực khẩn trương triển khai kế hoạch thời cơ, giải phóng miền Nam trong năm 1975.
Tại Hội nghị này, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở chiến dịch Trị - Thiên và chỉ thị cho quân và dân Trị - Thiên ''Phải đánh mạnh, tích cực tiêu diệt địch, không cho chúng rút an toàn".
Sáng tai họ, điếc tai cày
Tại chiến trường, sau khi phát hiện địch rút bỏ Quảng Trị, ngày 17-3-1975, Thường vụ Khu ủy và Quân khu ủy Trị - Thiên họp hạ quyết tâm: Kiên quyết, táo bạo dùng toàn bộ lực lượng vũ trang và bất ngờ tiến công tuyến tiếp xúc Quáng Trị để chủ động và bất ngờ tiến công địch trên toàn tuyến. Các đơn vị đang củng cố ở vùng giáp ranh nhanh chóng tiến về đồng bằng, cắt Đường số 1 ở Huế (cầu An Lỗ), phát động quần chúng nổi dậy. Quân đoàn 2 cũng kịp thời đưa một bộ phận lực lượng ra cắt Đường 1, đánh chiếm Phú Vang, Phong Điền, La Sơn, uy hiếp sân bay Phú Bài.
Đúng như nhận định của ta, đêm 18-3-1975, địch bỏ Quảng Trị chạy về Huế và Đà Nẵng. Chớp thời cơ quân và dân ta nhanh chóng chuyển sang tiến công. Ngày 19-3-1975, ta giải phóng thị xã và toàn bộ tỉnh Quảng Trị. Tuyến phòng thủ phía Bắc của địch bị phá vỡ một mảng lớn. Địch co về giữ phòng tuyến sông Mỹ Chánh. Trước sự chuyển biến nhanh chóng của tình hình, thực hiện chỉ thị của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh, Quân khu Trị - Thiên và Quân đoàn 2 kịp thời dốc toàn lực lượng cắt Đường số 1, không cho địch rút về co cụm ở Đà Nẵng, đồng thời đánh chặn, chia cắt, tiêu diệt toàn bộ Sư đoàn 1 quân đội Sài Gòn và các lực lượng khác, giải phóng Thừa Thiên - Huế, chiếm lĩnh đèo Hải Vân.
Lúc này quân địch ở Huế đang lâm vào tình trạng bị bao vây, bị tiến công từ ba phía: Bắc, Tây và Nam. Ngày 20-3-1975, Ngô Quang Trường, Tư lệnh Quân đoàn 1 và Quân khu 1 quân đội Sài Gòn nhận được lệnh của Nguyễn Văn Thiệu rút quân khỏi Huế và "được tự ý triển khai lực lượng để phòng thủ Đà Nẵng". Tại Huế, lúc này có khoảng 5 vạn quân, trong đó có gần 3 vạn chủ lực, nhưng không còn ý chí chiến đấu. Sĩ quan, binh lính, nhân viên, quan chức chính quyền kéo theo cả gia đình đua nhau tháo chạy. Trong tình thế tuyệt vọng, Nguyễn Văn Thiệu ra sức nài nỉ, cầu cứu Mỹ. Nhung chính quyền Mỹ không còn sự lựa chọn nào khác là làm ngơ, đưa ra những lời lẽ chung chung đối với "người bạn đồng minh truyền thống" của họ. Vào đúng thời điểm nguy kịch nhất, Nguyễn Văn Thiệu nhận được bức thư cuối cùng của người đứng đầu Nhà Trắng đề ngày 22-3-1975:
"Ngài Tổng thống Thiệu thân mến,
Cuộc tiến công của quân Bắc Việt hiện nay đối với đất nước ngài là một điều vô cùng phiền phức và là nỗi đau khổ của mọi người.
Đối với Hoa Kỳ, vấn đề cũng không kém phần nguy ngập... Người Mỹ cũng bị thử thách khi họ quyết tâm giúp đỡ một người bạn đang bị các lực lượng vũ trang hiện đại tấn công... Riêng tôi, tôi quyết định rằng người Mỹ sẽ bảo vệ Việt Nam trong giờ phút quyết định này. Tôi vẫn theo dõi những diễn biến một cách sát sao và bàn bạc khẩn cấp với các cố vấn của tôi về những việc làm mà hoàn cảnh đòi hỏi và pháp luật cho phép.
Ký tên: Gerald R. Ford"
Mặc dù chán nản và tuyệt vọng, Thiệu vẫn tiếp tục kêu cứu bằng một bức thư với lời lẽ thống thiết:
“... Thưa Ngài Tổng thống,
Một lần nữa tôi xin khẩn cầu Ngài, khẩn cầu chữ Tín trong chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ, và đặc biệt khẩn cầu lương tâm của nước Mỹ... Tôi xin đa tạ quyết tâm thực hiện trọn vẹn lời hứa đó bằng hành động cụ thể của Ngài...".
Sáng tai họ, điếc tai cày
Ngày 22-3-1975, quân Giải phóng đã cắt đứt đoạn Đường số 1 từ Huế vào Đà Nẵng, đánh thiệt hại nặng Sư đoàn 1, bao vây Huế. Hàng trăm xe cơ giới của địch đang trên đường rút chạy bị ùn lại. Pháo tầm xa của ta bắt đầu bắn phá sân bay Phú Bài. Quân địch không còn đường nào khác là rút chạy ra cửa Thuận An và cửa Tư Hiền.
Nhận được mệnh lệnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tư lệnh Quân đoàn 2 Nguyên Hữu An lập tức điều ngay Trung đoàn 1 thuộc Sư đoàn 324 cấp tốc hành quân ra chặn địch ờ cửa Thuận An và cửa Tư Hiền. Sự xuất hiện của quân chủ lực ta ở đây có tác dụng rất lớn về chiến thuật và về tâm lý đối với binh sĩ Sài Gòn. Hàng chục nghìn sĩ quan, binh lính với hàng trăm xe tăng, xe bọc thép nhanh chóng bị tiêu diệt và tan rã. Cảnh thảm bại trên Đường số 7 ở Tây Nguyên, một lần nữa lại diễn ra trên đường từ Huế xuống cửa Thuận An. Thành phố Huế trở nên hỗn loạn. Tàn quân địch chạy loạn ra sức cướp phá của nhân dân. Sự tan rã của chính quyền và quân đội Sài Gòn ở Thừa Thiên - Huế không gì cứu vãn nổi.
Thực hiện chỉ thị của Bộ Tổng Tư lệnh, các lực lượng vũ trang Quân khu Trị - Thiên và bộ đội Quân đoàn 2 từ ba hướng đồng loạt tiến công, vượt qua các tuyến phòng thủ của địch, hình thành nhiều mũi bao vây thành phố Huế. Đêm 24-3-1975, pháo binh quân Giải phóng bắn mạnh vào Sở Chi huy tiền phương Quân đoàn 1 quân đội Sài Gòn ở Mang Cá, bắn chặn mãnh liệt cửa Thuận An và cửa Tư Hiền. Sáng 25-3-1975, quân ta tiến công khu cảng Tân Mỹ - Thuận An, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng địch rút chạy đang dồn tắc ở đây. Các mũi tiến công khác của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương tiến vào thành phố.
Phối hợp với đòn tiến công quân sự, đêm 23-3-1975, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời thành phố Huế kêu gọi nhân dân nổi dậy giành chính quyền, giải phóng quê hương. Nhân dân các quận nội, ngoại thành hăng hái dẫn đường cho bộ đội, cùng bộ đội truy quét tàn binh địch, kêu gọi binh lính địch bỏ súng trở về với gia đình, giúp bộ đội chiếm giữ và bảo vệ các cơ sờ kinh tế, văn hóa...
Đúng 13 giờ ngày 25-3-1975, thành phố Huế hoàn toàn được giải phóng. Lá cờ cách mạng phấp phới tung bay trên đỉnh Phu Văn Lâu.
Bộ máy chính quyền cấp tỉnh của địch đầu hàng tạo điều kiện cho quân và dân Thừa Thiên - Huế kết hợp tiến công và nổi dậy giải phóng toàn tỉnh. Hơn nửa triệu đồng bào nổi dậy phá vỡ ách kìm kẹp, giành quyền làm chủ, phối hợp với bộ đội chủ lực đánh chiếm các quận lỵ, đập tan bộ máy chính quyền các cấp. Toàn bộ binh sĩ và nhân viên chính quyền địch bị bắt và ra trình diện cách mạng. Sáng ngày 26-3-1975, toàn bộ Thừa Thiên - Huế được giải phóng.
Chiến dịch Thừa Thiên - Huế kết thúc thắng lợi.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Ngay sau khi giải phóng thành phố Huế, Khu ủy Trị - Thiên đề ra nhiệm vụ trước mắt của quân và dân toàn khu là nhanh chóng ổn định tình hình, xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng các cấp; đồng thời xác định vị trí mới của Trị - Thiên sau khi được giải phóng là hậu phương trực tiếp, có nhiệm vụ động viên lực lượng, góp sức cùng cả nước đẩy mạnh cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Việc giải phóng thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược và chính trị rất lớn. Chiến công đó làm cho nhân dân cả nước nức lòng phấn khởi, làm cho địch suy yếu thêm một bước mới hết sức nghiêm trọng.
Trị - Thiên - Huế được giải phóng đã tạo thêm một địa bàn chiến lược quan trọng, tạo ra thế trận mới để ta tiến đánh Đà Nẵng từ phía Bắc. Âm mưu co cụm Huế và sau đó là rút bỏ Huế để bảo toàn lực lượng của địch hoàn toàn thất bại. Một lực lượng lớn quân đội và phương tiện chiến tranh của chúng bị tiêu diệt và tan rã, gây ra sự hoảng loạn trong toàn bộ bộ máy chính quyền và quân đội Sài Gòn ở miền Nam. Lời thề huênh hoang của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu "Giữ Huế bằng mọi giá" và của Tướng Ngô Quang Trưởng "Tôi sẽ chết với cố đô xưa, Việt cộng phải bước qua xác tôi mới bước vào được Huế" càng làm cho tinh thần của sỹ quan và binh lính chế độ Sài Gòn suy sụp.
Phối hợp với quân và dân Trị - Thiên ở phía Bắc, quân và dân các tỉnh Khu V tích cực tiến công và nổi dậy giải phóng nhiều vùng, tạo thế bao vây, tiến công địch ở Đà Nẵng từ phía Nam.
Tại Tam Kỳ, từ ngày 21-3-1975, bộ đội Khu V tiến công tiêu diệt Sư đoàn 2 địch, phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương và quần chúng nhân dân tiến đánh chiếm các mục tiêu trong thị xã. 10h30 phút ngày 24-3-1975, thị xã Tam Kỳ hoàn toàn giải phóng.
Ở phía Nam thị xã, quân ta đánh chiếm cầu Bà Bầu, giải phóng quận lỵ Lý Tín, cắt đường rút chạy về phía nam của địch, uy hiếp căn cứ quân sự Chu Lai. Ở phía Bắc thị xã, quân Giải phóng đánh chiếm Chiêu Đàn, Tuần Dưỡng, áp sát phía Nam Đà Nẵng, tạo điều kiện cho quân và dân địa phương nổi dậy giải phóng các xã ven biển phía Đông Đường số 1.
Tại Quảng Ngãi, thực hiện đợt hai chiến dịch Xuân Hè, quân và dân ta đồng loạt tiến công và nổi dậy, giải phóng toàn bộ miền núi và đại bộ phận nông thôn đồng bằng, chiếm một số đoạn trên Đường số 1, chia cắt lực lượng địch giữa Quảng Ngãi với Đà Nẵng. Trên đà thắng lợi, quân và dân Quảng Ngãi tiếp tục đánh chiếm và giải phóng phần còn lại trong tỉnh. 23 giờ 30 phút ngày 24-3-1975, thị xã Quảng Ngãi được giải phóng. Ngày 25-3-1975, toàn tỉnh Quàng Ngãi hoàn toàn giải phóng. Ngày 26-3-1975, toàn bộ quân địch ở căn cứ Chu Lai rút chạy.
Sau 5 ngày đêm tiến công và nổi dậy, quân và dân Khu V đã tiêu diệt và làm tan rã một nửa lực lượng chủ lực cơ động của địch trên địa bàn, gồm toàn bộ Sư đoàn 2, hai liên đoàn biệt động cùng nhiều đơn vị binh chủng khác và hai phần ba quân địa phương, thu và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, giải phóng hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi. Tuyến phòng thủ của địch ở đồng bằng ven biển miền Trung bị phá vỡ.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Cán bộ, nhân dân và lực lượng giao thông Trị - Thiên mở đường mới phục vụ chiến dịch. Ảnh: Đỗ Tráng/TTXVN
Quân giải phóng tiến vào cửa Ngọ Môn (Huế), sáng 26/3/1975. Ảnh: Ngọc Đản/TTXVN
Xe tăng địch ở thành phố Huế bị Quân Giải phóng và tự vệ đánh chiếm. Ảnh: Nguyễn Đán/TTXVN
Xe thiết giáp cùng nhiều khí tài chiến đấu của địch bỏ lại bữa bãi ở Huế trong lúc tháo chạy. Ảnh tư liệu TTXVN.
Sáng tai họ, điếc tai cày
Tiến công giải phóng Đà Nẵng và các tỉnh Nam Trung Bộ
Đà Nẵng - thành phố và là căn cứ quân sự lớn thứ hai của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam bị bao vây và cô lập từ ba phía Bắc, Nam và Tây sau khi Tây Nguyên, Thừa Thiên - Huế và các tỉnh Trung Trung Bộ được giải phóng.
Ngày 24-3-1975, Hội nghị Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương phân tích những diễn biến trên chiến trường từ sau Hội nghị ngày 18-3-1975 và đề ra những chủ trương mới.
Hội nghị nhận định: Hiện tại, địch đang co cụm về Đà Nẵng và kêu gọi "tử thủ" hòng ngăn chặn, làm chậm bước tiến của quân ta, tranh thủ thời gian củng cố các tuyến phía Nam, trông chờ sự can thiệp của Mỹ. Lực lượng địch đang có mặt tại Đà Nẵng lên tới gần 10 vạn quân, trong đó có 15 tiểu đoàn chủ lực thuộc Sư đoàn 3 bộ binh, Sư đoàn thủy quân lục chiến và tàn quân của các sư đoàn 1, 2 của Liên đoàn biệt động quân, cùng với hàng chục tiểu đoàn bảo an, hàng trăm trung đội dân vệ, phòng vệ dân sự và 5.000 cảnh sát; Sư đoàn 1 không quân với 373 máy bay các loại, 7 tiểu đoàn pháo binh, Thiết đoàn 11 kỵ binh, một lực lượng hải quân đóng ở quân cảng Đà Nẵng và vùng biển phụ cận, cùng nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại. Nếu để lực lượng này chạy thoát được vào phía Nam thì cuộc Tổng tiến công của ta ở chiến trường trọng điểm sẽ gặp khó khăn. Vì vậy, nhiệm vụ trước mắt là phải nhanh chóng đánh chiếm Đà Nẵng, tiêu diệt sinh lực địch, tạo bước phát triển thuận lợi cho thắng lợi cuối cùng.
Sáng tai họ, điếc tai cày














